Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong lịch sử xã hội loài người, đặc biệt từ khi có giai cấp đến nay vấn đề phân biệt giàu nghèo đã xuất hiện và tồn tại như một thách thức lớn đối với sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia.
Trong nền kinh tế thị trường, quy luật cạnh tranh đã thúc đẩy nhanh hơn quá trình phát triển không đồng đều, làm sâu sắc thêm sự phân hoá giữa các quốc gia, các châu lục và ngay cả các tầng lớp dân cư, và các vùng trong cùng một quốc gia.
Do đó, xoá
81 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1332 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp phát triển kết cấu hạ tầng nhằm xoá đói giảm nghèo cho các vùng dân tộc ít người từ nay đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đói và giảm nghèo luôn là một trong những chính sách cơ bản và là một bộ phận quan trọng của mục tiêu phát triển ở Việt Nam. Trong thời gian qua, Chính phủ Việt Nam đã dành sự quan tâm lớn đến công tác xoá đói, giảm nghèo. Đặc biệt là cho đồng bào các dân tộc ít người. Nhiều chương trình, dự án lớn của Chính phủ đã được triển khai với mục tiêu xoá đói, giảm nghèo trên phạm vi cả nước cũng như cho các vùng dân tộc ít người, như việc đưa Chương trình Hỗ trợ đồng bào các dân tộc đặc biệt khó khăn vào danh mục 15 Chương trình Mục tiêu Quốc gia năm 1996, sau chuyển thành Dự án Hỗ trợ các dân tộc đặc biệt khó khăn, thuộc Chương trình Mục tiêu Quốc gia về Xoá đói, Giảm nghèo giai đoạn 1998 – 2000 và nay là Chính sách Hỗ trợ Dân tộc Thiểu số Đặc biệt Khó khăn. Đặc biệt mới đây ngày 21/05/2002, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược Toàn diện về Tăng trưởng và Xoá đói, Giảm nghèo nhằm cụ thể hoá và thực hiện các mục tiêu, cơ chế chính sách, giải pháp chung của Chiến lược Phát triển Kinh tế - Xã hội 10 năm 2001 - 2010 của đất nước. Những nỗ lực của Chính phủ bước đầu đã mang lại những kết quả đáng khích lệ, được cộng đồng quốc tế thừa nhận (tỷ lệ hộ nghèo đã giảm xuống còn khoảng 13%, trung bình mỗi năm giảm được 2%, với các vùng dân tộc ít người thì tỷ lệ này tuy không được như vậy nhưng cũng đã dành được những kết quả hết sức khả quan).
Mặc dù vậy, tỷ lệ nghèo đói ở các vùng dân tộc ít người ở Việt Nam vẫn còn rất cao, đời sống của đồng bào còn vô cùng khó khăn và thiếu thốn. Vì thế, vấn đề xoá đói giảm nghèo cho các vùng dân tộc ít người vẫn là thách thức hết sức to lớn đối với công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Các chương trình, dự án của Đảng và Nhà nước hướng và mục tiêu xoá đói, giảm nghèo cho các vùng dân tộc ít người tuy đã đạt được một số kết quả khả quan nhưng những kết quả đạt được vẫn còn nhiều hạn chế, tốc độ giảm nghèo còn chậm. Hơn nữa những kết quả này còn thiếu vững chắc, tình trạng tái nghèo còn xuất hiện phổ biến, thêm vào đó khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng dân tộc ít người và các vùng khác trong cả nước có xu hướng ngày một nới rộng ra.
Mặt khác, đối với các dân tộc ít người, vấn đề đói nghèo đối với họ đã trở thành một vấn đề vô cùng nan giải, nó như một căn bệnh cố hữu bám chặt lấy cuộc sống của họ, hơn nữa do điều kiện tự nhiên về địa hình, thời tiết khí hậu không thuận lợi, phương thức canh tác lạc hậu, trình độ nhận thức thấp nên việc xoá đói, giảm nghèo cho các dân tộc ít người đặc biệt khó khăn là việc vô cùng khó khăn, phức tạp không chỉ một sớm, một chiều mà phải làm thường xuyên, liên tục, nó đòi hỏi phải có những chương trình, dự án, những chính sách đồng bộ, phù hợp để giúp đỡ người nghèo về phương tiện, kỹ thuật, về vốn, về cây con và phương thức sản xuất để họ có thể phát triển sản xuất, nâng cao đời sống, tự thoát ra khỏi tình trạng đói nghèo.
Chính vì vậy, bằng kiến thức và sự hiểu biết của mình cùng với sự giúp đỡ, hướng dẫn của các Thầy cô giáo, Ths. Vũ Cương và Ths. Bùi Thị Lan tôi đã mạnh dạn chọn nghiên cứu đề tài “Một số giải pháp phát triển kết cấu hạ tầng nhằm xoá đói giảm nghèo cho các vùng dân tộc ít người từ nay đến năm 2010” làm luận văn tốt nghiệp. Tuy nhiên, do kiến thức và thời gian hạn chế, thông tin và nhận thức chưa đầy đủ nên đề tài của tôi còn rất nhiều khiếm khuyết. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô và bạn bè để tôi có thể hoàn thiện bài viết được tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Thạc sỹ Vũ Cương, Thạc sỹ Bùi Thị Lan, Thạc sỹ Đặng Thị Thu Hoài chuyên viên nghiên cứu Ban Khoa học Quản lý thuộc viện Nghiên cứu và Quản lý Kinh tế Trung ương đã góp ý, giúp tôi hoàn thiện đề tài.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở phân tích những vấn đề cơ bản về nghèo đói - bản chất và sự tồn tại khách quan của nó trong nền kinh tế thị trường, thực trạng đói nghèo và thực trạng kết cấu hạ tầng của các vùng dân tộc ít người, tình hình thực hiện một số chương trình, dự án của Đảng và Nhà nước có liên quan đến việc phát triển kết cấu hạ tầng nhằm xoá đói, giảm nghèo cho các dân tộc ít người đặc biệt khó khăn trong thời gian qua, đề tài đã đưa ra một số kiến nghị và giải pháp để phát triển cơ sở hạ tầng nhằm xoá đói giảm nghèo cho vùng dân tộc ít người ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài lấy vấn đề là các giải pháp phát triển kết cấu hạ tầng nhằm nâng cao chất lượng của các chương trình xoá đói giảm nghèo ở vùng dân tộc ít người nước ta làm đối tượng nghiên cứu. Giới hạn phạm vi nghiên cứu là thời gian chuyển đổi kinh tế gần đây (1993 - nay). Đề tài có sử dụng nhiều tài liệu trong nước cũng như các tài liệu trong các cuộc hội thảo với nước ngoài có chắt lọc.
4. Nội dung của luận văn
Nội dung chính của luận văn được chia làm 3 chương riêng biệt với nội dung cụ thể như sau:
Chương I: Lý luận chung về đói nghèo, cơ sở hạ tầng và sự cần thiết phải xoá đói, giảm nghèo cho các vùng dân tộc ít người ở Việt Nam.
Chương II: Thực trạng nghèo đói và kết cấu hạ tầng tại các vùng dân tộc ít người ở Việt Nam giai đoạn 1993 – 2002.
Chương III: Một số giải pháp phát triển kết cấu hạ tầng nhằm xoá đói, giảm nghèo cho các vùng dân tộc ít người ở nước ta, từ nay đến năm 2010.
Chương I: Lý luận chung về đói nghèo và cơ sở hạ tầng
I. Lý luận chung về đói nghèo
Mọi dân tộc trên thế giới, có thể rất khác nhau về khuynh hướng chính trị nhưng đều có cùng một mục tiêu là làm thế nào để quốc gia mình, dân tộc mình giàu lên. ý muốn chủ quan của các chính phủ thường là vậy nhưng trên thực tế kết quả thực hiện lại rất khác nhau. Và trong thế giới hiện đại đang có một trào lưu chung, rất tiến bộ là càng đi sâu đánh giá mức độ phát triển của một nền kinh tế nào đó, càng không thể không quan tâm đến các vấn đề xã hội, nghĩa là đánh giá mức độ bình đẳng trong phân phối (bằng một hệ thống các chỉ số, hệ số khác nhau) để làm rõ hố ngăn cách giữa lớp người giàu và lớp người nghèo.
Ngày nay nghèo đói và tấn công chống nghèo đói là một vấn đề toàn cầu. Thực tế ở một số nước cho thấy, kinh tế càng phát triển nhanh bao nhiêu, năng suất lao động càng cao bao nhiêu thì tình trạng nghèo đói của một bộ phận dân cư lại càng bức xúc. Tính chất thời sự của vấn đề nghèo đói không chỉ hiện diện ở các thước đo đơn thuần, mà nếu có tích cóp qua năm tháng, sẽ dẫn đến những xung đột xã hội thực sự và cao hơn nữa là xung đột giai cấp, xung đột sắc tộc. Hậu quả không lường của những mâu thuẫn ấy có thể làm tiêu tan toàn bộ thành quả kinh tế đã đạt được.
Tuy nhiên thế nào là nghèo đói thì hiện nay lại đang có rất nhiều cách tiếp cận và nhiều định nghĩa khác nhau. Trong phạm vi luận văn tôi chỉ xin đưa ra đây một số khái niệm có tính chất khái quát và bao trùm hơn cả.
1. Một số định nghĩa về đói nghèo
Trong đời sống thực tiễn cũng như trong nghiên cứu các vấn đề kinh tế - xã hội chúng ta thường gặp một số khái niệm như “đói nghèo” hoặc “nghèo khổ”, “giàu nghèo” và “phân hoá giàu nghèo”. Vậy “đói nghèo” là gì ?.
Trước hết trong nghiên cứu vấn đề đói nghèo có một khái niệm cần được sáng tỏ đầu tiên đó là khái niệm về “nhu cầu tối thiểu”. ở đây nhu cầu tối thiểu được hiểu là việc đảm bảo ở mức độ tối thiểu 3 nhu cầu thiết yếu của cuộc sống con người bao gồm: ăn - mặc, ở và nhu cầu sinh hoạt hàng ngày gồm văn hoá, y tế, đi lại, giao tiếp,….
Việc thoả mãn những nhu cầu tối thiểu trong đời sống sinh hoạt của mỗi thành viên trong xã hội ở những mức độ khác nhau do mức thu nhập của họ quyết định. Những người có mức thu nhập được xếp hạng cao trong xã hội sẽ được thoả mãn đầy đủ mọi sinh hoạt xã hội của bản thân thì gọi là những người giàu. Những người có mức thu nhập thấp, không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu tối thiểu của đời sống sinh hoạt xã hội thì gọi là những người nghèo. Giữa giàu và nghèo có một khoảng cách chênh lệch về thu nhập được gọi là “ranh giới giàu nghèo”.
Định nghĩa về đói nghèo có rất nhiều, điển hình như định nghĩa của Robert Mc Namara, Chủ tịch Ngân hàng Thế giới: “Nghèo khổ cùng cực là một điều kiện sống bị hạn chế bởi suy dinh dưỡng, mù chữ, bệnh tật, ô nhiễm môi trường, tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh cao và tuổi thọ thấp, còn tệ hại hơn với bất cứ định nghĩa nào khả dĩ chấp nhận được về một cuộc sống bình dị nhất của con người”. Định nghĩa này vẫn luôn là lời mô tả đầy sức thuyết phục về thực trạng cay đắng của cuộc sống mà một bộ phận dân số trên thế giới phải trải qua. Hay còn có một định nghĩa nữa về đói nghèo của ESCAP trong các hội nghị bàn về xoá đói giảm nghèo trong khu vực Châu á Thái Bình Dương ở Băng Cốc tháng 9/1993: Đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của từng địa phương”.
Như vậy đói nghèo là một khái niệm mang tính chất tương đối, nhưng cho dù ở bất cứ mức độ như thế nào đi nữa nó cũng bao gồm 2 mức độ là đói và nghèo. Theo cách hiểu thông thường thì nghèo có nghĩa là túng thiếu. Trên thế giới cũng có nhiều khái niệm về nghèo, nhưng phổ biến hơn cả là nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. “Nghèo khổ tuyệt đối” hay còn gọi là nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thoả mản các nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống. Còn “nghèo tương đối” là tình trạng của một bộ phận dân cư sống dưới mức trung bình của cộng đồng tại địa phương.
Thông thường nghèo đói đi đôi với thiếu đói, được hiểu là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức tối thiểu, chưa đủ khả năng đảm bảo có lương thực cần thiết để tồn tại. Trong bộ phận này có những người “đói gay gắt”- bộ phận thiếu thốn và cực khổ nhất và ta có định nghĩa: “đói gay gắt là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức tối thiểu, đói ăn, chịu dứt bữa từ trên ba tháng trở lên”.
Cá nhân nghèo lại thường nằm trong các hộ nghèo (các gia đình nghèo). Do đó để vấn đề nghiên cứu được sáng tỏ cần phải hiểu thế nào là hộ và hộ nghèo. Hộ là tất cả những người cùng sống trong một mái nhà bao gồm những người cùng chung huyết thống, cùng ăn chung và cùng có chung ngân quỹ. Hộ nông dân là một đơn vị cơ bản của xã hội có liên quan tới sản xuất, tái sản xuất, tiêu dùng và các hoạt động kinh tế - xã hội khác. Chức năng kinh tế của hộ như: sản xuất lương thực, thực phẩm, nghề phụ... được xem gắn liền với môi trường sản xuất. Trong một môi trường sản xuất như nhau nhưng các hộ lại có những khả năng tổ chức thực hiện những chức năng kinh tế khác nhau. Do đó sẽ làm ảnh hưởng tới thu nhập của từng hộ. Từ đó ta có khái niệm hộ nghèo: “Hộ nghèo là những hộ có thu nhập bình quân tính theo đầu người nằm dưới giới hạn nghèo đói”. Giới hạn nghèo đói được thể hiện ở mức thu nhập bình quân đầu người.
Như vậy, các định nghĩa về đói nghèo phổ biến hiện nay đều mang tính tương đối, việc tiếp cận các định nghĩa đó cần phải có cách tiếp cận khách quan, một các nhìn tổng thể và quan điểm lịch sử cụ thể để xem xét nó trong hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của đất nước để áp dụng sao cho phù hợp mà mục đích cuối cùng là xem xét bản chất cốt lõi của nghèo đói nhằm tìm ra được các giải pháp hữu ích, thích hợp cho Chiến lược Xoá đói Giảm nghèo Quốc gia hiện nay. Tuy nhiên trước tiên chúng ta cần phải xác định được chuẩn nghèo đối để làm cơ sở xác định nghèo đói của các vùng và các dân tộc.
Theo đánh giá chung của nhiều nước, hộ có mức thu nhập thấp hơn 1/3 mức trung bình xã hội là hộ nghèo, tức là sống dưới mức 420USD/năm hay 35USD/tháng theo quy định của Ngân hàng Thế giới. Tuy nhiên trong từng nước khác nhau, trong từng thời kỳ khác nhau cũng có những chuẩn nghèo đói khác nhau, do đó nghiên cứu về các chuẩn nghèo có thể giúp chúng ta đưa ra được những chuẩn nghèo phù hợp với tình hình thực tế của đất nước và của các vùng dân tộc ít người.
2. Phương pháp xác định đói nghèo
Cho đến nay dường như đã đi đến một cách tiếp cận tương đối thống nhất về đánh giá mức độ nghèo đói, đó là định ra một tiêu chuẩn hay một điều kiện chung nào đó, mà hễ ai có thu nhập hay chi tiêu năm dưới chuẩn chung ấy sẽ không thể có được một cuộc sống tối thiểu hay đạt được những nhu cầu thiết yếu tối thiểu cho sự tồn tại cuộc sống, nghĩa là sống dưới mức nghèo khổ. Cũng trên cơ sở mức chung đó mà xác định chuẩn nghèo đói và phân biệt người nghèo hay không nghèo.
ở đây cần phân biệt rõ mức sống tối thiểu và mức thu nhập tối thiểu. Mức thu nhập tối thiểu hoàn toàn không có nghĩa là khả năng nhận được những thứ cần thiết tối thiểu cho cơ thể sống của con người. Trong khi đó mức sống tối thiểu lại bao hàm tất cả những chi phí để tái sản xuất sức lao động gồm năng lượng cần thiết cho cơ thể, giáo dục, nghỉ ngơi, giải trí và các hoạt động văn hoá khác, nghĩa là bao gồm chi phí cho lương thực, thực phẩm và cả những chi phí phi lương thực.
Chính vì vậy mà khái niệm về mức sống tối thiểu không phải là một khái niệm tĩnh mà là động, một khái niệm tương đối và rất phong phú cả về nội dung và hình thức, không chỉ tuỳ theo sự khác nhau về môi trường văn hoá, mà còn phụ thuộc vào sự thay đổi về đời sống vật chất cùng với quá trình tăng trưởng kinh tế.
Trong những năm gần đây các tổ chức trong và ngoài nước đang sử dụng các phương pháp như phương pháp của WB, của ILO để xác định chuẩn nghèo đói, tuy nhiên do số liệu được sử dụng trong đề tài chủ yếu được tính toán trên cơ sở phương pháp xác định đói nghèo và chuẩn nghèo đói của Bộ Lao động và Thương binh Xã hội Việt Nam, nên bài viết xin được đi sâu phân tích phương pháp này. Đây cũng chính là phương pháp được áp dụng để xác định chuẩn đói nghèo của Chương trình Xoá đói giảm nghèo Quốc gia.
Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (LĐTBXH) đồng tình với quan điểm về nghèo đói của Hội nghị Chống Nghèo đói Khu vực châu á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng cốc - Thái Lan, tháng 9/1993, theo đó nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn nhu cầu cơ bản của con người mà nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận, tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của địa phương. Cụ thể như sau:
2.1. Lý do Bộ LĐTBXH đưa ra chỉ tiêu xác định chuẩn nghèo đói
Bộ Lao Động Thương Binh và Xã hội là một trong những cơ quan được Nhà nước giao nhiệm vụ chủ quản và tổ chức thực hiện các chương trình xoá đói, giảm nghèo trên cả nước (thông qua Văn phòng Xoá đói Giảm nghèo, Vụ Bảo trợ Lao động và Xã hội thuộc Bộ LĐTBXH). Chính vì vậy việc xác định chuẩn đói nghèo đối với Bộ LĐTBXH là một việc hết sức thiết thực và cần thiết nhằm:
- Xác định rõ ai là người nghèo, xã nghèo, thôn nghèo, huyện nghèo để lập được một danh sách cụ thể về hộ, xã, huyện nghèo.
- Làm cơ sở xây dựng chính sách, giải pháp xoá đói giảm nghèo.
- Làm căn cứ để xây dựng các báo cáo tình hình thực hiện các chương trình xoá đói, giảm nghèo.
2.2. Chuẩn nghèo đói của Bộ LĐTBXH
Cách xác định hộ nghèo đói của Bộ LĐTBXH được tiến hành theo phương pháp thống kê từ dưới lên. Phổ biến chuẩn nghèo đói theo phương pháp kết hợp kê khai và rà soát của Ban Xoá đói Giảm nghèo. Thôn, bản tự điều tra, rà soát, trình lên xã phường. Xã phường kiểm tra, xác định lại rồi báo cáo lên huyện. Huyện tổng hợp báo cáo lên Sở LĐTBXH, Bộ LĐTBXH tổng hợp các báo cáo từ các sở rồi trình lên Chính Phủ. Từ đó Bộ LĐTBXH đã đưa ra chuẩn đói nghèo áp dụng từ năm 1997 như sau:
- Hộ đói: là hộ có mức thu nhập bình quân đầu người/một tháng quy ra gạo dưới 13kg tương đương 45.000 VND/tháng (giá năm 1997 tính cho một vùng).
- Hộ nghèo: là hộ gia đình có mức thu nhập tuỳ theo từng vùng
+ Vùng nông thôn, miền núi, hải đảo dưới 15 kg (tương đương 55.000đ/người/tháng).
+ Vùng nông thôn đồng bằng, trung du dưới 20kg (tương đương 70.000đ/người/tháng).
+ Vùng thành thị dưới 25kg (tương đương 90.000đ/người/tháng).
- Xã nghèo: Là xã có tỷ lệ hộ nghèo đói từ 40% trở lên, thiếu cơ sở hạ tầng (đường giao thông, trường học, trạm y tế, điện sinh hoạt, nước sinh hoạt, thuỷ lợi nhỏ và chợ).
Trước những thành tích của công cuộc giảm nghèo cũng như nhờ những tác động tích cực mà tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối nhanh và ổn định trong những năm qua mang lại, nhìn chung đời sống của nhân dân cả nước (kể cả đồng bào các dân tộc ít người) đã được nâng lên một cách đáng kể. Do đó để phù hợp hơn với tình hình mới và nhằm phục vụ Chương trình quốc gia Xoá đói Giảm nghèo từ năm 2001 Bộ Lao động Thương binh Xã hội đã công bố mức chuẩn nghèo mới để áp dụng cho thời kỳ 2001 - 2005, theo đó không tách riêng hộ đói và hộ nghèo do đã cơ bản xoá được hộ đói. Chuẩn nghèo quốc gia mới được xác định ở mức độ khác nhau tuỳ theo từng vùng, cụ thể bình quân thu nhập người/tháng.
- Hộ nghèo:
- 80.000đồng đồng/tháng ở các vùng hải đảo và vùng núi nông thôn.
- 100.000 đồng/tháng ở các vùng đồng bằng nông thôn.
- 150.000 đồng/ tháng ở khu vực thành thị.
- Vùng nghèo: Là những vùng thuộc khu vực III – khu vực có những đặc điểm sau:
+ Về địa bàn cư trú: Là các xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới cách thành phố, thị xã, khu công nghiệp, trung tâm thương mại, vùng sản xuất hàng hoá bước đầu phát triển nhà ga, bến cảng, quốc lộ, tỉnh lộ trên 10km.
+ Về cơ sở hạ tầng: Giao thông rất khó khăn, không có đường ô tô vào xã, các công trình điện, thuỷ lợi, nước sạch, trường học, bệnh xá, các dịch vụ khác rất thấp kém hoặc không có.
+ Về các yếu tố xã hội: Dân trí quá thấp; tỷ lệ mù chữ, thất học trên 50%, bệnh tật nhiều, tập tục lạc hậu, không có thông tin.
+ Về điều kiện sản xuất: Điều kiện sản xuất rất khó khăn, thiếu thốn. Số hộ không có đất và thiếu đất sản xuất trên 20% số hộ của xã. Số hộ có người làm thuê trên 20% số hộ của xã.
+ Về đời sống: Số hộ đói nghèo trên 30% số hộ của xã. Đời sống còn nhiều khó khăn; còn tình trạng đói giáp hạt.
Mặc dù phương pháp xác định nghèo đói của BLĐTBXH đang được áp dụng phổ biến ở nước ta hiện nay, nhưng không phải vì thế mà phương pháp này không tỏ ra bất cập, thiếu phù hợp với tình hình nước ta. Việc xác định đói nghèo theo phương pháp báo cáo từ dưới địa phương lên, từ thôn, xã lên tỉnh huyện rồi lên trung ương có độ chính xác không cao, hơn nữa tại mỗi địa phương thì cách thức và thước đo được sử dụng để xác định hộ đói nghèo cũng hết sức khác nhau, do đó con số tổng hợp được từ báo cáo của họ không có tính nhất quán và tổng hợp cao. Vì vậy phương pháp này chỉ có thể cho ta một con số vô cùng tương đối, thiếu thực tế. Hơn nữa mức đói nghèo theo phương pháp này không phù hợp với xu hướng phát triển và hội nhập của Việt Nam vì nó chưa tiếp cận được đến ngưỡng nghèo chung của thế giới. Vấn đề đặt ra ở đây là chúng ta phải đưa ra một phương pháp xác định mới thống nhất cả về mặt thước đo và cách tính toán trên cả nước, và phải dần dần tiến sát tới ngưỡng nghèo chung của thế giới có như vậy chúng ta mới xác định được nghèo đói một cách chính xác và có thể so sánh quốc tế.
Tuy vậy, trong lúc chưa có được sự thống nhất về phương pháp đánh giá, để phục vụ cho chương trình xoá đói giảm nghèo của Chính phủ, trước mắt chúng ta có thể vận dụng chuẩn nghèo của Bộ LĐTBXH mới ban hành (áp dụng từ năm 2001) theo phương pháp phỏng vấn trực tiếp chứ không phải dựa vào hộ gia đình tự kê khai.
II. lý luận chung về kết cấu hạ tầng
1. Quan niệm và phân loại cơ sở hạ tầng
1.1. Quan niệm về cơ sở hạ tầng (CSHT)
CSHT là một thuật ngữ khoa học ngày càng được sử dụng nhiều trong các công trình nghiên cứu và các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Vậy CSHT là gì?. Hiện nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về CSHT nhưng theo nghĩa chung nhất thì CSHT được hiểu là tổng thể các công trình và nội dung hoạt động có chức năng đảm bảo những điều kiện bên ngoài cho khu vực sản xuất và sinh hoạt của dân cư.
CSHT là một phạm trù rộng, bao gồm các phân hệ như: Phân hệ kỹ thuật (gồm Giao thông, năng lượng, bưu chính viễn thông, …), phân hệ tài chính (Hệ thống tài chính - tín dụng), phân hệ thiết chế (Hệ thống quản lý nhà nước và pháp luật), phân hệ xã hội (Giáo dục, y tế, khoa học kỹ thuật, văn hoá,…).
Như vậy, CSHT bao hàm gần như toàn bộ khu vực dịch vụ. Tuy nhiên nó không đồng nghĩa với các phạm trù "Khu vực dịch vụ" hay "Môi trường kinh tế"…
Trong khu vực CSHT thì phân hệ CSHT kỹ thuật có vị trí và vai trò quan trọng nhất. CSHT kỹ thuật ở đây được dùng để chỉ toàn bộ các lĩnh vực hạ tầng có ý nghĩa tạo điều kiện về mặt kỹ thuật cho sản xuất và đời ssống xã hội. Phân hệ này bao gồm các công trình như: Đường giao thông, hệ thống năng lượng và thông tin liên lạc, cấp thoát nước…, các bộ phận của CSHT kỹ thuật đều có điểm chung về mặt chức năng và thống nhất về bản chất kinh tế.
Khi lực lượng sản xuất chưa phát triển, quá trình tiến hành cá hoạt động kinh tế chỉ là sự kết hợp đơn giản giữa 3 yếu tố là: Lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động, chưa có sự tham gia của CSHT. Khi lực lượng sản xuất đã phát triển đến trình độ cao thì CSHT đóng vai trò quyết định đến hiệu quả của hoạt động kinh tế, đặc biệt là CSHT kỹ thuật và CSHT xã hội. CSHT được phát triển mạnh mẽ gắn liền với cuộc cách mạng công nghiệp từ thế kỷ 18 đến thế kỷ 19 và chính sự phát triển mạnh mẽ đó đã thúc đẩy sự phát triển của CSHT xã hội từ cuối thể kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Hiện nay chúng ta đang tiến hành phát triển CSHT ở giai đoạn III, giai đoạn vừa phát triển CSHT kỹ thuật vừa phát triển CSHT xã hội. Trong điều kiện hiện tại, khi khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, đời sống con người ngày càng được nâng cao thì một điều tất yếu là CSHT phải được phát triển hơn nữa.
1.2. Phân loại cơ sở hạ tầng:
Dựa vào chức năng, đặc điểm và tính chất phục vụ của CSHT, người ta chia CSHT thành 3 nhóm: CSHT kỹ thuật, CSHT xã hội, CSHT môi trường.
¯ Cơ sở hạ tầng kỹ thuật (CSHTKT):
Xét về mặt cơ cấu, CSHT kỹ thuật bao gồm nhiều bộ phận hợp thành và mỗi bộ phận có tính độc lập tương đối về chức năng, đặc điểm và phương thức tổ chức quản lý và đầu tư. CSHT kỹ thuật có thể được chia thành 4 lĩnh vực chính là:
- Hệ thống giao thông vận tải bao gồm giao thông đường bộ, giao thông đường thuỷ, đường hàng không, hệ thống vận tải hành khách công cộng,…
- Hệ thống thuỷ lợi và cấp thoát nước bao gồm các nhà máy cấp thoát nước, hệ thống ống dẫn nước, trạm bơm,… phục vụ nhu cầu về nước và thoát nước cho đời sống sinh hoạt và sản xuất; Hệ thống trạm bơm, kênh mương tưới tiêu, hệ thống đê, kè,… phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và phòng chống lụt bão.
- Hệ thống điện bao gồm hệ thống lưới điện, nguồn điện và hệ thống chiếu sáng công cộng.
- Hệ thống bưu chính viễn thông bao gồm toàn bộ mạng lưới phân phát, chuyển phát thông tin, tem thư báo chí, vô tuyến truyền tin,… phục vụ nhu cầu giao tiếp và thông tin liên lạc.
Như vậy, CSHT kỹ thuật là các công trình cơ sở vật chất có chức năng tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế - xã hội phát triển một cách bình thường. Đây là những công trình được xây dựng nhằm đáp ứng nhu cầu về sử dụng hàng hoá công cộng.
¯ Cơ sở hạ tầng xã hội (CSHTXH):
Là toàn bộ các công trình vật chất đảm bảo cho việc ổn định đời sống, nâng cao trình độ dân trí, văn hoá tinh thần của dân cư, đồng thời cũng là điều kiện để tái sản xuất sức lao động và nâng cao trình độ lao động của xã hội. Hệ thống này bao gồm:
- Các cơ sở, công trình, thiết bị phục vụ cho giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học, ứng dụng và triển khai công nghệ...
- Các cơ sở y tế, bệnh viện, bảo hiểm xã hội,… và các công trình phục vụ cho hoạt động văn hoá xă hội, văn nghệ, thể dục, thể thao…
¯ Cơ sở hạ tầng môi trường (CSHTMT):
Là toàn bộ hệ thống các công trình vật chất kỹ thuật phục vụ cho việc bảo vệ, giữ gìn và cải tạo môi trường sinh thái, môi trường sống của con người. Hệ thống này bao gồm:
- Các công trình phòng chống thiên tai.
- Các công trình bảo vệ đất, rừng, biển và các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
- Hệ thống xử lý và tiêu thải nước sinh hoạt.
- Hệ thống xử lý chất thải công nghiệp.
Mặc dù 3 nhóm CSHT trên có những đặc điểm và công nghệ khác nhau nhưng giữa chúng có mối quan hệ biện chứng, chúng vừa bổ sung cho nhau, vừa tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển.
Sơ đồ phân loại CSHT
CSHT
CSHTKT
CSHTMT
CSHTXH
- Các công trình PCTT
- Các công trình bảo vệ rừng, biển, đất đai
- Hệ thống xử lý CTCN
- Hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt
- Cơ sở giáo dục
- Trạm ytế, bệnh viện
- Khu vui chơi giải trí
- GTVT
- Thuỷ lợi và cấp thoát nước
- Hệ thống điện
- BCVT
Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu có hạn của đề tài nên nội dung của luận văn chỉ tập trung vào kết cấu hạ tầng trong đó bao gồm CSHTKT (điện lưới và đường giao thông), CSHTXH (giáo dục và y tế).
2. Mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng với xoá đói, giảm nghèo
Cơ sở hạ tầng đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với công cuộc xoá đói, giảm nghèo ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, để có thể thấy rõ vai trò của Cơ sở hạ tầng đối với xoá đói giảm nghèo trước tiên chúng ta xem xét mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng với tăng trưởng và phát triển kinh tế.
2.1. Mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng với tăng trưởng, phát triển kinh tế.
Giữa cơ sở hạ tầng và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ biện chứng với nhau. Mối quan hệ này được thể hiện qua mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng đối với sản xuất:
¯ Quan hệ giữa kết cấu hạ tầng và sản xuất:
Giữa cơ sở hạ tầng và sản xuất có mối liên hệ mật thiết với nhau. Cơ sở hạ tầng phát triển sẽ là điều kiện tốt cho sản xuất phát triển, nâng cao tính hiệu quả của sản xuất.
- Điện và hệ thống thuỷ lợi có thể giúp tăng hiệu quả, tăng năng suất lao động trong sản xuất đặc biệt là trong sản xuất nông nghiệp, việc chủ động được nguồn nước là yếu tố vô cùng quan trọng có vai trò quyết định đối với năng suất cây trồng nông nghiệp và cây công nghiệp như: lúa, ngô, chè, cà phê…
- Hệ thống y tế, chăm sóc sức khoẻ là một nhân tố quan trọng trong việc nâng cao năng lực lao động cho người lao động trên cả hai mặt là thể lực và trí lực. Đây là một nhân tố mang tính chất quyết định đối với việc tăng năng suất lao động, nhất là tại những nước đang phát triển khi mà lao động vẫn là một lợi thế so sánh quan trọng trong trao đổi thương mại và chưa đủ điều kiện để tăng năng suất lao động bằng việc áp dụng những máy móc hiện đại, tiến bộ vào sản xuất.
Nhưng nếu Cơ sở hạ tầng vượt quá nhu cầu của sản xuất thì sẽ làm giảm tính hiệu quả do không phát huy hết tác dụng gây lãng phí vô ích. Ngược lại Cơ sở hạ tầng yếu kém không đáp ứng được yêu cầu của sản xuất thì tính hiệu quả của sản xuất cũng giảm. Và nếu sản xuất phát triển thì sẽ có thêm nguồn tích luỹ để đầu tư phát triển Cơ sở hạ tầng. Thực tế để đảm bảo tính hiệu quả thì phải xác định một tỷ lệ hợp lý giữa đầu tư cho Cơ sở hạ tầng và sản xuất.
Không những Cơ sở hạ tầng có mối quan hệ mật thiết với sản xuất mà giữa các bộ phận trong Cơ sở hạ tầng cũng có mối quan hệ mật thiết với nhau, nhất là mối quan hệ giữa Cơ sở hạ tầng kỹ thuật và Cơ sở hạ tầng xã hội. Và đây có thể coi là mối quan hệ giữa sản xuất và đời sống. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật phát triển là tiền đề để phát triển Cơ sở hạ tầng xã hội, Cơ sở hạ tầng phát triển sẽ thúc đẩy sự phát triển của cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Với chức năng phục vụ sản xuất và đời sống, Cơ sở hạ tầng đảm bảo các điều kiện vật chất cần thiết cho các lĩnh vực và các ngành khác hoạt động thường xuyên, liên tục và ngày càng phát triển. Đồng thời nó có vai trò quan trọng trong việc nâng cao đời sống dân cư. Để đảm bảo sự phát triển kinh tế xã hội một cách ổn định và đồng bộ thì phải đầu tư phát triển cả hai lĩnh vực Cơ sở hạ tầng kỹ thuật và Cơ sở hạ tầng xã hội.
Như vậy, từ các mối quan hệ của cơ sở hạ tầng ta có thể thấy Cơ sở hạ tầng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Vai trò đó được thể hiện qua các mặt sau:
Thứ nhất, Cơ sở hạ tầng là điều kiện để thu hút vốn cho hoạt động đầu tư đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài.
Điều kiện Cơ sở hạ tầng tốt sẽ góp phần quan trọng làm giảm chi phí đầu tư, giảm giá thành sản phẩm, tăng tỷ suất lợi nhuận của vốn đầu tư. Giúp các nhà đầu tư yên tâm hơn khi tiến hành hoạt động đầu tư của mình. Thực tế cho thấy, không phải ngẫu nhiên mà các nhà đầu tư lại chọn địa điểm đầu tư tại các thành phố lớn, các vùng trọng điểm mặc dù chi phí về đất đai và giá cả sinh hoạt khác có đắt hơn. Muốn thành công trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài thì chúng ta cần phải tạo ra môi trường đầu tư trong đó Cơ sở hạ tầng là một nhân tố quan trọng. ở đây có mối quan hệ tác động qua lại, xây dựng và tạo ra một Cơ sở hạ tầng tốt để thu hút vốn đầu tư nước ngoài đồng thời ta lại sử dụng vốn đầu tư nước ngoài để xây dựng hệ thống Cơ sở hạ tầng, tạo động lực cho các ngành sản xuất vật chất khác hoạt động có hiệu quả hơn.
Mặt khác, cơ sở hạ tầng xã hội phát triển sẽ nâng cao khả năng làm việc của người lao động, giúp họ có thể tìm được những công việc phù hợp với năng lực, có thu nhập ổn định, đủ đảm bảo cho cuộc sống. Hiện nay với tất cả các nước đang phát triển thì lao động vẫn còn là một lợi thế so sánh quan trọng trong việc thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài cũng như trong cạnh tranh xuất khẩu.
Chính vì vây đầu tư và phát triển CSHT là điều kiện quan trọng để thu hút vốn đầu tư đặc biệt là nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, đầu tư phát triển Cơ sở hạ tầng có tác động thúc đẩy tăng trưởng GDP.
Theo kết quả phân tích của Ngân hàng Thế giới, cứ đầu tư cho Cơ sở hạ tầng kỹ thuật tăng thêm 1% thì GDP cũng tăng tương ứng 1%.
Ta có công thức biểu diễn mối quan hệ giữa đầu tư phát triển Cơ sở hạ tầng và GDP:
Tốc độ tăng GDP (g)
=
Vốn đầu tư phát triển CSHTKT
ICOR
Trong đó ICOR là hệ số gia tăng vốn - đầu ra
Qua công thức trên chúng ta có thể nhận thấy một điều rằng tốc độ tăng trưởng GDP không chỉ phụ thuộc vào hệ số ICOR mà còn phụ thuộc lớn vào Vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng: Khi mà ICOR không đổi thì tốc độ tăng trưởng GDP chỉ phụ thuộc vào Vốn đầu tư phát triển CSHTKT, tức là khi tăng vốn đầu tư cho CSHTKT thì tốc độ tăng trưởng GDP cũng sẽ tăng và người lại nếu giảm đầu tư cho CSHTKT thì tốc độ tăng trưởng GDP cũng sẽ giảm một cách tương ứng.
Như vậy, trong trường hợp hệ số ICOR tăng tức là thời kỳ nền kinh tế bị suy thoái thì việc đầu tư vào Cơ sở hạ tầng kỹ thuật sẽ là công cụ, chính sách để kích thích sự phục hồi kinh tế.
Thứ ba, đầu tư Cơ sở hạ tầng là cơ sở để tạo và duy trì sự phát triển kinh tế một cách bền vững.
Đầu tư phát triển Cơ sở hạ tầng kỹ thuật có thể được sư dụng như một công cụ để ._.điều tiết tốc độ phát triển của các vùng, hướng tới mục tiêu phát triển đồng đều về trình độ kinh tế xã hội, trên cơ sở phát huy lợi thế của mỗi vùng. Khi hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá giữa các vùng.
Cơ sở hạ tầng phát triển cho phép chúng ta tạo ra được nhiều cơ sở sản xuất vật chất mới, tạo điều kiện cho việc giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các khu vực. Góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động đồng thời phân bổ nguồn lao động hợp lý. Hơn nữa, sự xuất hiện của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ mới cùng với việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật sẽ làm cho hoạt động sản xuất có hiệu quả hơn, mang lại nhiều lợi nhuận hơn và thu nhập cao hơn cho người lao động.
Đầu tư phát triển Cơ sở hạ tầng xã hội được sử dụng như là một sự đầu tư cho sự phát triển tương lai, chính vì thế nó đóng vai trò quyết định đến việc duy trì và tiếp tục phát triển kinh tế một cách ổn định và bền vững.
Thứ tư, đầu tư phát triển Cơ sở hạ tầng tạo ra sự thay đổi cơ bản trong cơ cấu kinh tế.
Cơ sở hạ tầng phát triển sẽ tạo điều kiện phát triển nhiều ngành nghề mới, đặc biệt là trong hoạt động sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Thực tế cho thấy nhờ tập trung đầu tư phát triển Cơ sở hạ tầng đặc biệt là Cơ sở hạ tầng nông thôn, kinh tế nông thôn đã có sự thay đổi một cách toàn diện. Cơ cấu nông nghiệp trong GDP ngày càng giảm, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP ngày càng tăng.
2.2. Mối quan hệ giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với xoá đói giảm nghèo
2.2.1. Xoá đói giảm nghèo dựa trên cơ sở tăng trưởng kinh tế trên diện rộng với chất lượng cao và bền vững.
Để có thể nhìn rõ sự tác động của tăng trưởng kinh tế đến vấn đề đói nghèo, ta có thể phân tích mô hình chữ U ngược của Kuznet.
Mô hình 1: Mô hình chữ U ngược của Kuznet.
Hệ số Gini
Thu nhập đầu người
Theo Kuznet, trong giai đoạn đầu, khi thu nhập đầu người còn thấp thì tình trạng bất bình đẳng chưa cao, thể hiện ở hệ số Gini vẫn còn thấp. Khi thu nhập trên đầu người tăng thì trong giai đoạn đầu, mức độ bất bình đẳng sẽ ngày càng cao và hệ số Gini bắt đầu tăng một cách tương ứng rồi đạt cực đại ở một điểm nào đó. Nhưng đến khi thu nhập bình quân đầu người đã đạt đến một mức nhất định thì hệ số Gini, và cùng với nó là sự bất bình đẳng sẽ giảm đi.
Tăng trưởng GDP vẫn là yếu tố chung cần thiết và quan trọng nhất cho mọi chiến lược. Song điều này không có ý nghĩa là tăng trưởng kinh tế lúc nào cũng có lợi cho người nghèo. Vấn đề giải quyết ở đây là các nước phải lựa chọn con đường phát triển như thế nào để hạn chế mức thấp nhất tỷ lệ nghèo đói. Muốn vậy phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển hay nói cách khác giữa tổng thu nhập xã hội và công bằng trong phân phối thu nhập đó. Nói cách khác, không phải đợi đến lúc có thu nhập cao mới quay sang giải quyết vấn đề đói nghèo, mà phải coi XĐGN cũng chính là một mục tiêu của phát triển kinh tế, được giải quyết song song, đồng thời tại mỗi bước tăng trưởng.
Như vậy, chúng ta có thể nói rằng tăng trưởng kinh tế đã tác động đến tận những vùng nghèo, từng hộ nghèo, từng người nghèo, nhưng cũng lại là một trong những nguyên nhân cơ bản khiến cho đói nghèo ngày càng trầm trọng hơn. Tuy nhiên, dù nói thế nào đi nữa thì tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững cũng vẫn là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của công cuộc xoá đói, giảm nghèo:
- Tăng trưởng với chất lượng cao là để giảm nhanh mức nghèo đói. Thực tế những năm vừa qua đã chứng minh rằng, nhờ kinh tế tăng trưởng cao Nhà nước có sức mạnh vật chất để hình thành và triển khai các chương trình hỗ trợ vật chất, tài chính và cho các xã khó khăn phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội cơ bản. Người nghèo và cộng đồng nghèo nhờ đó có cơ hội vươn lên thoát khỏi đói nghèo. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện quan trọng để xoá đói, giảm nghèo trên quy mô rộng; không có tăng trưởng mà chỉ thực hiện các chương trình tái phân phối hoặc các biện pháp giảm nghèo truyền thống thì tác dụng sẽ không lớn.
- Xoá đói giảm nghèo phải dựa trên cơ sở tăng trưởng kinh tế trên diện rộng với chất lượng cao và bền vững, tạo ra những cơ hội thuận lợi để người nghèo và cộng đồng nghèo tiếp cận được các cơ hội phát triển sản xuất, kinh doanh và hưởng thụ được từ thành quả tăng trưởng.
- Tăng trưởng trên diện rộng với chất lượng cao và bền vững, trước hết tập trung chuyển dịch cơ cấu và đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, phát triển ngành nghề, tạo cơ hội nhiều hơn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển nhằm tạo ra nhiều việc làm phi nông nghiệp, tăng thu nhập cho người nghèo.
2.2.2. Xoá đói giảm nghèo là yếu tố cơ bản bảo đảm công bằng xã hội và tăng trưởng bền vững:
- Xoá đói giảm nghèo không chỉ là nhiệm vụ trước mắt mà còn là nhiệm vụ lâu dài. Trước mắt là xoá hộ đói, giảm hộ nghèo; lâu dài là xoá sự nghèo, giảm khoảng cách giàu nghèo, phấn đấu xây dựng một xã hội giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
- Xoá đói, giảm nghèo không đơn giản là việc phân phối lại thu nhập một cách thụ động mà phải tạo động lực tăng trưởng tại chỗ, chủ động tự vươn lên thoát nghèo. Xoá đói, giảm nghèo không đơn thuần là sự trợ giúp một chiều của tăng trưởng kinh tế đối với các đối tượng có nhiều khó khăn mà còn là nhân tố quan trọng tạo ra một mặt bằng tương đối đồng đều cho sự phát triển, tạo thêm một lực lượng sản xuất dồi dào và đảm bảo sự ổn định cho giai đoạn “cất cánh”.
- Xoá đói, giảm nghèo là một trong những mục tiêu của tăng trưởng (cả trên góc độ xã hội và kinh tế), đồng thời cũng là một điều kiện cho tăng trưởng nhanh và bền vững.
Trên phương diện nào đó xét về ngắn hạn, khi phân phối một phần đáng kể trong thu nhập xã hội cho chương trình xoá đói, giảm nghèo thì nguồn lực dành cho tăng trưởng kinh tế có thể bị ảnh hưởng, song xét một cách toàn diện về dài hạn thì kết quả xoá đói, giảm nghèo lại tạo tiền đề cho tăng trưởng nhanh và bền vững. Tình hình cũng giống như việc thực hiện người cày có ruộng ở một số nước đã tạo ra sự phát triển vượt bậc của nông nghiệp. Nhiều nông dân nhờ đó đã thoát khỏi đói nghèo và có điều kiện tham gia thực hiện cách mạng xanh, tạo ra sự phát triển mới cho ngành nông nghiệp. Hơn nữa, xoá đói giảm nghèo không chỉ đơn thuần là giúp người nghèo vượt qua được khó khăn, đói nghèo mà còn giải quyết được những vấn đề về xã hội.
2.2.3. Xóa đói giảm nghèo được đặt thành một bộ phận của chiến lược10 năm, kế hoạch 5 năm và hàng năm về phát triển kinh tế - xã hội.
- Công tác xoá đói, giảm nghèo phải được quan tâm ngay từ khi xây dựng chủ trương, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn, trung hạn và hàng năm, coi đó là nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước đối với công tác xoá đói, giảm nghèo. Thông qua kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Nhà nước chủ động điều tiết hợp lý các nguồn lực của toàn xã hội vào mục tiêu và hoạt động xoá đói, giảm nghèo quốc gia. Nhà nước xây dựng các biện pháp thiết yếu như đầu tư hỗ trợ sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng, lập các quỹ cứu trợ xã hội,… để giúp đỡ, bảo vệ người nghèo. Duy trì liên tục sự trao đổi, phân phối mang tính thị trường, nhưng không loại những người nghèo ra khỏi những nguồn lực và lợi ích của sự thịnh vượng chung về kinh tế. Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy sự thiếu vắng vai trò của Nhà nước, đặc biệt có hại đối với người nghèo, công đồng các dân tộc nghèo, vì người nghèo không tự bảo vệ được các quyền của mình, hơn nữa trong thành quả chung của tăng trưởng kinh tế, Nhà nước có vai trò nòng cốt và có trách nhiệm thu hút sự tham gia tích cực của cộng đồng các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội.
Như vậy, CSHT đóng một vai trò rất quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế, từ đó tác động trực tiếp đến đói nghèo của cả nước. Đặc biệt là đói nghèo của các vùng dân tộc ít người, nơi mà cơ sở hạ tầng còn rất yếu và thiếu về số và chất lượng. Chính vì vậy phát triển cơ sở hạ tầng nhằm xoá đói, giảm nghèo cho các vùng này là một yêu cầu cấp thiết của thực tiễn, của lịch sử phát triển dân tộc.
3. Một số đặc điểm chung của các dân tộc ít người có liên quan đến việc xoá đói, giảm nghèo cho các vùng này
Trước tiên để xem xét đặc điểm chung của các dân tộc ít người chúng ta cần phải hiểu thế nào là dân tộc ít người. Theo quan niệm chung nhất hiện nay thì đồng bào dân tộc ít người được xác định là những người có quốc tịch và đang sinh sống tại Việt Nam, song có ngôn ngữ, đặc tính và các đặc thù văn hoá khác với người Kinh. Các dân tộc ít người thường được coi như là các nhóm đồng nhất, mặc dù trong thực tế 53 dân tộc ít người có sự đa dạng về khác nhau ngôn ngữ, cách làm nông nghiệp, quan hệ gốc rễ, lối sống và tín ngưỡng. Trong số 54 dân tộc thì dân tộc Kinh chiếm tới 86% dân số, các nhóm dân tộc ít người chiếm gần 14%. Đó là một tỷ phần dân số đáng kể. Với 10 triệu người thì dân số các dân tộc ít người tại Việt Nam đã lớn hơn dân số nước Lào. Tuy nhiên, nhìn chung thì các dân tộc ít người ở nước ta có một số đặc điểm chung sau:
3.1 đặc điểm về tự nhiên.
Hầu hết các dân tộc đặc biệt khó khăn đều cư trú phân tán ở các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, ven theo đường biên giới quốc gia. Một phần lớn (khoảng 75%) trong tổng số dân số của các nhóm dân tộc ít người sống ở các vùng miền núi, tập trung chủ yếu ở miền núi phía Bắc và một số ít ở Tây Nguyên. Số còn lại sống ở miền Nam và các khu đô thị. Nhìn chung, các dân tộc ít người thường cư trú tại các vùng có điều kiện tự nhiên rất khắc nghiệt, cơ sở hạ tầng yếu kém miền núi, đồng thời diện tích đất nông nghiệp có thể sử dụng lại vô cùng hạn chế, đất dốc, độ xói mòn cao, giữ ẩm kém, dẫn đến không thuận lợi trong canh tác nông nghiệp và do đó năng suất cây trồng rất thấp.
Như vậy có thể nói, do điều kiện địa lý, tự nhiên không thuận lợi mà các dân tộc ít người đã đương nhiên trở thành nhóm dân cư có nguy cơ đói nghèo cao nhất trong cả nước. Điều này cho thấy, nếu không xóa bỏ được ngăn cách bất lợi về mặt địa lý giữa các vùng dân tộc ít người với miền xuôi thì không thể nói đến xóa đói, giảm nghèo cho các vùng đó được. Do đó, xây dựng cơ sở hạ tầng, mà trước hết là hệ thống giao thông đường bộ và đưa điện về đến vùng sâu, vùng xa đã trở thành một trong những ưu tiên hàng đầu của Đảng và Nhà nước.
3.2. Đặc điểm về nhân khẩu học.
Một thực trạng đáng buồn hiện nay là đồng bào các dân tộc ít người đang bị rơi vào vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói đó là đã nghèo thì lại sinh nhiều con, và càng sinh nhiều con thì đời sống lại càng khó khăn, càng nghèo, và càng nghèo thì lại càng đẻ nhiều…. Vì thế các hộ gia đình dân tộc ít người thường có quy mô của hộ rất lớn, năm 1995 trong khi quy mô hộ của cả nước chỉ là 4,87 người; của dân tộc Kinh là 5,06 người thì quy mô trung bình của các hộ dân tộc ít người lên tới 5,83 người; tức là quy mô hộ trung bình của các dân tộc ít người gấp 1,20 lần quy mô hộ của cả nước và gấp 1,15 lần quy mô hộ của người Kinh. Cho đến năm 2001 quy mô hộ của các dân tộc ít người là 6,32 người trong khi của cả nước chỉ là 5,15 người; của người Kinh là 5,66 người (tức là gấp 1,23 cả nước; và gấp 1,10 dân tộc Kinh).
Số liệu chi tiết được thể hiện qua Bảng 1:
Bảng 1: Quy mô hộ gia đình theo dân tộc năm 1995 và 2001
Đơn vị: người,%
Dân tộc
Quy mô hộ
% dân số
1995
2001
Kinh
5.06
5.66
88,8
Hoa
6.38
5.86
2,0
Khmer
5.73
6.61
2,0
Các dân tộc Tây Nguyên
6.44
6.92
2,8
Các dân tộc miền núi phía Bắc
5.54
6.18
9,3
Cả nước.
4.87
5,15
100
Nguồn: Đẩy mạnh công tác phát triển đối với các dân tộc thiểu số –
Chiến lược thực hiện các mục tiêu phát triển của Việt Nam –
Báo cáo của nhóm hành động chống đói nghèo. Tháng 6/2002
Ghi chú:
1. Các dân tộc Tây Nguyên: Ba na, Ê đê, Gie Tiêng, Hre, Ma, Ra Giai, Xơ Đăng
2. Các dân tộc miền núi phía Bắc: Dao, H’Mông, Mường, Nùng, Tày. Thái. Sám Dìu, Dan Chay, Thổ.
Qua Bảng 1 chúng ta có thể nhận thấy các dân tộc ít người ở nước ta hiện nay có quy mô hộ tương đối lớn, đặc biệt là so với quy mô chung của cả nước. Năm 2001, Dân tộc có quy mô hộ lớn nhất là các dân tộc Tây Nguyên với 6,92 người trong một hộ (gấp 1,22 quy mô hộ người Kinh; và gấp tới 1,34 lần quy mô cả nước), tiếp theo là các dân tộc miền núi phía Bắc với quy mô là 6,18 người/hộ (gấp 1,09 quy mô hộ người Kinh; 1,20 quy mô cả nước).
Vì vậy, xét về đặc điểm nhân khẩu học thì các hộ dân tộc ít người ở Việt Nam đương nhiên là những người có nguy cơ bị tổn thương, và nghèo đói nhất. Với quy mô hộ gia đình lớn thì nhu cầu phát triển của các vùng dân tộc ít người là rất lớn do đó đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đầu tư phát triển cho các vùng này để xoá dần đói nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào.
3.3. Đặc điểm về kinh tế - xã hội.
Trình độ sản xuất của các đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn nhìn chung rất lạc hậu và mang nặng tính tự nhiên. Đời sống kinh tế rất khó khăn, thiếu thốn lương thực, quần áo, đói triền miên, một số bệnh như sốt rét, bướu cổ, suy dinh dưỡng, bệnh phong vẫn chiếm tỷ lệ cao. Có thể nói, công cụ sản xuất của đồng bào dân tộc ít người còn thô sơ vẫn phổ biến, việc đốt phá rừng làm nương rẫy vẫn diễn ra thường xuyên. Đồng bào dân tộc ít người vẫn chưa thoát khỏi tình trạng kinh tế tự cấp, tự túc, vùng thấp và trung du chưa có tác động mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật, các loại giống mới chậm đưa vào sản xuất. Vấn đề an toàn lương thực vẫn là nỗi lo lắng kinh niên của người dân vùng núi, vùng cao.
- Sự tồn tại nhiều phong tục tập quán lạc hậu, phi khoa học, bất lợi cho sức khoẻ và sự tiến bộ xã hội cũng là một trở ngại không nhỏ cho sự phát triển và công cuộc xoá đói, giảm nghèo của các dân tộc ít người. Sự bất đồng về ngôn ngữ, mặt bằng dân trí thấp của đồng bào dân tộc ít người cũng gây ra không ít khó khăn cho việc xoá đói, giảm nghèo. Điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến các chương trình dự án thực hiện trên địa bàn và đặc biệt là việc bảo vệ môi trường sinh thái đảm bảo cho sự phát triển lâu dài, bền vững.
- Do điều kiện thiếu đất và thiếu nước canh tác, nguồn tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt nên tình trạng di cư tự do của đồng bào dân tộc có chiều hướng ngày càng tăng, đặc biệt là lối sống du canh du cư. Điều này gây cản trở cho việc ổn định đời sống, ổn định sản xuất theo hướng thâm canh tăng vụ hay sản xuất hàng hoá ở các vùng đồng bào cư trú.
- Đội ngũ cán bộ cơ sở nhất là cán bộ khuyến nông - lâm vừa thiếu lại vừa yếu không đủ khả năng tiếp thu kiến thức khoa học kỹ thuật truyền đạt cho bà con sản xuất. Mặt khác các chính sách thu hút cán bộ hiện nay chưa thực sự vân động khuyến khích cán bộ công tác ở vùng sâu, vùng xa xôi hẻo lánh.
Như vậy, xét về điều kiện kinh tế - xã hội (nhóm nguyên nhân thứ hai), các dân tộc ít người cũng đã và đang là nhóm có nguy cơ bị tổn thương cao nhất. Do đó, không chỉ kết cấu hạ tầng kỹ thuật như điện, đường, mà cả những kết cấu hạ tầng xã hội như giáo dục (trường), và y tế (trạm) cũng trở thành những trợ giúp thiết yếu của nhà nước để giúp các vùng dân tộc ít người thoát khỏi cảnh đói nghèo kinh niên.
Tóm lại, xét từ mọi khía cạnh đồng bào các dân tộc ít người là những người có nguy cơ bị tổn thương và nghèo đói cao nhất cả nước. Chính vì thế việc phát triển cơ sở hạ tầng, hỗ trợ các đồng bào dân tộc ít người phát triển sản xuất, nâng cao dân trí, nâng cao đời sống sinh hoạt cho họ là một việc làm cần thiết vì nó không chỉ đem lại sự phát triển cho một bộ phận không nhỏ người dân Việt Nam, mà nó còn đem lại sự ổn định và công bằng cho đất nước.
Chương II: Thực trạng nghèo Đói và kết cấu hạ tầng
tại các vùng dân tộc ít người ở Việt Nam
giai đoạn 1993 – 2002.
I. Thực trạng đói, nghèo ở các vùng dân tộc ít người ở nước ta giai đoạn 1993 - 2002.
1. Tình hình đói nghèo ở các vùng dân tộc ít người của Việt Nam giai đoạn 1993 - 2002.
1.1. Tình hình nghèo đói theo dân tộc
Hiện nay, các dân tộc ít người ở nước tuy chỉ chiếm 13% tổng dân số nhưng lại chiếm tới 20% số người nghèo. Đặc biệt, một số đồng bào dân tộc ít người có thu nhập quá thấp nên rơi vào tình trạng nghèo đói và lạc hậu triền miên. ở một vài nơi, đồng bào dân tộc vẫn sống trong cảnh hoang sơ, một số hàng thiết yếu nhất như muối ăn, muối i- ốt, dầu hoả, thuốc chữa bệnh thông thường... còn thiếu thốn chưa nói đến các nhu cầu khác như điện, đài, báo chí. Cái vòng luẩn quẩn “do nghèo đói phải du canh du cư và vì di canh di cư càng thêm nghèo đói” cộng thêm các hủ tục lạc hậu về văn hoá, về lối sống cứ bám chặt số phận của một số đồng bào dân tộc miền núi, vùng cao, nhất là ở 6 tỉnh miền núi phía Bắc. Chẳng hạn như ở Lạng Sơn lương thực miền núi cần 500kg/người/năm mới được coi là đủ ăn. Nhưng hơn nửa số ấy lại không phải để ăn mà là để nấu rượu. Người dân ở đây thà chịu ăn cháo, chứ không bỏ rượu và càng nghèo thì lại càng uống nhiều rượu).
Những hoạt động xoá đói, giảm nghèo trong những năm gần đây đã đem lại kết quả khá khả quan: trong 4 năm (1992 -1995) tỷ lệ đói nghèo trên toàn quốc đã giảm bớt 8%, bình quân cả nước mỗi năm giảm 2%, mức lương thực bình quân đầu người đã tăng lên 361kg/người vào năm 1994 so với 238kg/người năm 1978 và tăng ở nhịp độ đều.
Tuy nhiên, tình trạng nghèo đói vẫn phổ biến trong cộng đồng các dân tộc ít người, chênh lệch về thu nhập giữa các dân tộc ít người và người Kinh vẫn còn là một khoảng cách rất lớn và đang có xu hướng ngày một tăng. Theo kết quả điều tra của Bộ LĐTBXH năm 1993 cho thấy, có tới 52% trong số người Kinh, 11% trong số người Hoa, 70% trong số người Khmer, 92% trong số người các dân tộc Tây Nguyên, 84% trong số người các dân tộc Miền núi phía Bắc (trong đó 50% trong số người Tày, 89% trong số người Dao, và 100% trong số người H’Mông), được coi là đói nghèo theo chuẩn năm 1993, trong khi tỷ kệ nghèo đói chung của cả nước là 55%. Như vậy có thể thấy rằng, chênh lệch về nghèo đói giữa các dân tộc ít người và dân tộc Kinh là khá lớn. Người Khmer tỷ lệ nghèo đói cao gấp 1,35 lần so với dân tộc Kinh (gấp 1,27 lần cả nước), tỷ lệ này ở các dân tộc Tây Nguyên là 1,77 (và 1,84), còn ở các dân tộc miền núi phía Bắc là 1,62 (và 1,68).
Có thể nói trong những năm 1993 - 2002 công tác xoá đói, giảm nghèo trên cả nước nói chung và xoá đói, giảm nghèo cho các dân tộc ít người nói riêng tuy đã thu được một số kết quả, nhưng những kết quả bước đầu đó không được như mong đợi. Sở dĩ có điều này có thể lý giải rằng đây là thời kỳ đầu của công cuộc xoá đói, giảm nghèo lâu dài của đất nước. Hơn nữa, đời sống nhân dân cả nước cũng còn nhiều khó khăn nên chúng ta chưa thể dồn một nguồn lực lớn cho công tác xoá đói, giảm nghèo. Nên mặc dù rất coi trọng việc xoá đói, giảm nghèo nhưng những năm này kết quả thu được là không đáng kể. Điều này được thể hiện cụ thể qua số liệu Bảng 2.
Bảng 2: Tỷ lệ đói nghèo của một số dân tộc năm 1995 và 2001
Đơn vị: %
Dân tộc
Tỷ lệ nghèo đói
% dân số
1995
2001
Kinh
38,8
16,8
83,8
Hoa
9,2
6,2
2,0
Khmer
62,2
49,2
2,0
Các dân tộc Tây Nguyên
91,4
90,4
2,8
Các dân tộc miền núi phía Bắc
77,4
66,4
9,3
Cả nước.
43,6
24,6
100
Nguồn: Đẩy mạnh công tác phát triển đối với các dân tộc thiểu số –
Chiến lược thực hiện các mục tiêu phát triển của Việt Nam –
Báo cáo của nhóm hành động chống đói nghèo. Tháng 6/2002
Ghi chú:
1. Các dân tộc Tây Nguyên: Ba na, Ê đê, Gie Tiêng, Hre, Ma, Ra Giai, Xơ Đăng
2. Các dân tộc miền núi phía Bắc: Dao, H’Mông, Mường, Nùng, Tày. Thái. Sám Dìu, Dan Chay, Thổ.
Qua bảng trên cho thấy, sự đói nghèo ở các nhóm dân tộc ít người đã giảm xuống nhưng vẫn còn ở mức khá cao. Trong 6 năm 1995 - 2001, tỷ lệ nghèo đói ở các dân tộc ít người từ 75% đã giảm xuống còn 68,4% nhưng vẫn còn rất cao. Trong cùng thời gian đó tỷ lệ nghèo đói của người Kinh đã giảm hẳn từ 31% xuống còn 17,2%. Do vậy, mặc dù tình hình của các dân tộc ít người thực sự đang được cải thiện nhưng với tốc độ còn chậm hơn nhiều so với người Kinh và bắt đầu có những dấu hiệu tụt hậu.
Biểu 1: Tỷ lệ nghèo đói theo dân tộc của Việt Nam năm 1995, 2001
Qua đồ thị trên cho thất tỷ lệ nghèo đói của các dân tộc năm 2001 đều đã giảm so với năm 1995, tốc độ giảm nhanh nhất là dân tộc Kinh (trung bình là 4,4%/năm), sau đó là các dân tộc miền núi phía Bắc (trung bình là 2,2%), chậm nhất là các dân tộc Tây Nguyên (trung bình chỉ là 0.2%/năm). Tuy nhiên chênh lệch về đói nghèo giữa các dân tộc chẳng những không được giảm bớt mà lại có xu hướng gia tăng. So với năm 1995 thì tỷ lệ nghèo đói năm 2001 của người Khmer đã giảm được 13% nhưng so với người Kinh thì tỷ lệ nghèo đói đã tăng từ 1,6 lần lên tới 2,93 lần; đối với các dân tộc miền núi phía Bắc các con số tương ứng là 11%; 1,99 lần tăng lên 3,95 lần. Đặc biệt là các dân tộc Tây Nguyên thì tỷ lệ nghèo đói chỉ giảm được 1% nhưng tỷ lệ nghèo đói so với dân tộc Kinh đã tăng từ 2,36 lần lên đến 5,38 lần. Không chỉ vậy, mức sống và thu nhập giữa miền núi và miền xuôi, giữa các dân tộc cũng có sự chênh lệch khá xa. Nếu lấy thu nhập của hộ người Kinh là 100 thì thu nhập của người H’Mông chỉ là 41, của người Mường chỉ là 59, của người Thái là 55, người Dao là 46, người Ê-đê là 72, người Xê-Đăng là 30 và người Khmer là 50. Như vậy, thu nhập bình quân của người dân tộc thiểu số chỉ bằng 1/2 thu nhập của người Kinh. Kết quả điều tra năm 2001 của Bộ LĐTBXH cho thấy, có tới 30% trong số người Kinh, 8% trong số người Hoa, 57% trong số người Khmer, 91% trong số người dân tộc Tây Nguyên, và 73% trong số người dân tộc miền núi phía Bắc được coi là nghèo.
Như vậy, có thể thấy rằng, mặc dù công tác xoá đói, giảm nghèo cho các dân tộc ít người ở nước ta tuy có thu được một số kết quả nhất định, nhưng những kết quả thu được còn thiếu tính bền vững và ổn định, chênh lệch giữa các dân tộc ít người và dân tộc Kinh không những không giảm mà còn ngày một tăng.
1.2. Nghèo đói theo vùng kinh tế của Việt Nam giai đoạn 1993 - 2002
Nhờ việc thực hiện có hiệu quả các dự án thành phần của chương trình 133, cũng như việc lồng ghép thành công với các chương trình, dự án khác (như chương trình 135, chương trình 127, chương trình dân số và kế hoạch hoá gia đình, chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, chương trình trợ cước, trợ giá…), trong giai đoạn 1996 - 2000 và đặc biệt là trong 3 năm thực hiện giai đoạn đầu của Chương trình Mục tiêu Quốc gia về Xoá đói, Giảm nghèo (1998 - 2000), tỷ lệ đói nghèo vùng dân tộc ít người đã giảm xuống một cách đáng kể. Tính đến tháng 12 năm 1997, tỷ lệ nghèo đói ở một số tỉnh miền núi phía Bắc, khu 4 cũ, Tây Nguyên còn rất cao như: Lai Châu 37%; Sơn La 36,5%; Hà Giang 34%; Cao Bằng 33%; Quảng Bình 36,5%; Kon Tum 50%; Gia Lai 35%.
Bảng 3: Tỷ lệ hộ nghèo theo các vùng kinh tế năm 1997
Đơn vị: người, %, lần
Vùng
Số hộ nghèo
(người)
Tỷ lệ
(%)
So với cả nước
(lần)
1. Miền núi phía Bắc.
641.400
25,42
1,49
2. Đồng bằng sông Hồng.
302.460
9,81
0,57
3. Bắc Trung Bộ.
554.926
27,84
1,63
4. Duyên hải Miền Trung.
358.260
22,44
1,31
5. Tây Nguyên.
180.400
27,84
1,63
6. Đông Nam Bộ.
103.700
5,50
0,32
7. Đồng bằng sông Cửu Long.
493.750
15,65
0,92
Cả nước
2.635.096
17,07
-
Nguồn: Vấn đề nghèo đói ở nông thôn trong quá trình phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường - TS Nguyễn Hữu Hải - 1998.
Qua số liệu bảng trên ta có thể nhận thấy tỷ lệ đói nghèo ở Miền núi phía Bắc, ở Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ, nơi tập trung phần các dân tộc ít người sinh sống, tỷ lệ đói nghèo rất cao, và cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ nghèo đói chung của cả nước. Cụ thể, ở Miền núi phía Bắc tỷ lệ nghèo đói cao gấp 1,49 lần so với cả nước, đặc biệt ở Tây Nguyên và Bắc Trung Bộ tỷ lệ này lên tới 1,63 lần. Điều này chứng tỏ rằng, nghèo đói ở nước ta tập trung chủ yếu vào đồng bào các dân tộc ít người ở những vùng sâu vùng xa, miền núi. Đặc biệt là một số dân tộc ít người, tỷ lệ nghèo đói có thể lên tới trên 90%, thậm chí có dân tộc như dân tộc Mông có thể còn lên đến 100%.
Mặc dù trong giai đoạn 1996 - 2000, các vùng dân tộc ít người tỷ lệ đói nghèo đã giảm một cách đáng kể, nhưng tỷ lệ đói nghèo còn cao và khoảng cách đói nghèo giữa người Kinh và các dân tộc ít người ở các địa bàn cụ thể đã tăng lên, điều này được thể hiện qua Bảng 4.
Bảng 4: Số hộ nghèo và tỷ lệ đói nghèo ở các vùng cuối năm 1999.
Đơn vị: hộ, %
Vùng
Số hộ đói nghèo
Tỷ lệ
(%)
Mức giảm so với 97 (%)
Miền núi phía Bắc. (1)
427.179
16,93
8,49
Đồng bằng sông Hồng.(2)
221.989
7,2
2,61
Bắc Trung Bộ.(3)
337460
16,93
10,91
Duyên hải miền Trung.(4)
261.351
16,37
6,07
Tây Nguyên.(5)
94.412
14,57
13,25
Đông Nam Bộ.(6)
82.017
4,35
1,15
Đồng bằng sông Cửu Long.(7)
410.144
13
2,65
Cả nước(8)
2.028.421
13,14
2.72
Nguồn: Bộ Lao động Thương binh và Xã hội.
Như vậy có thể khẳng định rằng, đói nghèo đã được giảm trên diện rộng, và đã giảm một cách đáng kể, tỷ lệ đói nghèo chung của cả nước đã giảm xuống còn 13,14%. Tuy nhiên, mỗi vùng có tốc độ giảm là khác nhau nhưng đặc biệt phải kể đến là sự giảm đói nghèo nhanh chóng ở miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên. So với năm 1997 tỷ lệ hộ đói nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc đã giảm 8,49%, ở Bắc Trung Bộ là 10,91%, và ở Tây Nguyên mức giảm còn lớn hơn với 13,25%.
Biểu 2: Tỷ lệ nghèo đói các vùng năm 1999 so với năm 1997
Trong hai năm 2001 - 2002, các chương trình hỗ trợ dân tộc ít người đặc biệt khó khăn cùng với các chính sách đầu tư phát triển khác đã góp phần phát triển sản xuất, ổn định đời sống của các dân tộc ít người, giúp họ từng bước hoà nhập với cộng đồng các dân tộc trong vùng. Đồng thời cũng trong hai năm này nguồn vốn của các chương trình, dự án đã được đầu tư đúng đối tượng là các hộ dân tộc ít người đặc biệt khó khăn đã phát huy được tác dụng và hiệu quả. Các hộ dân tộc ít người đặc biệt khó khăn được hỗ trợ vốn phát triển sản xuất đã sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này. Đồng bào vùng Nam bộ dùng vào việc đào kênh mương tưới tiêu, mua dụng cụ máy móc phát triển sản xuất; đồng bào miền Trung và Tây Nguyên chủ yếu dùng vào việc tăng gia chăn nuôi đại gia xúc như bò, dê, lợn...; các tỉnh miền Bắc chủ yếu dùng vào việc trồng cây ăn quả, phát triển sản xuất lúa nước, phát triển kinh tế vườn. Do đó, tỷ lệ đói nghèo giảm đáng kể, tình trạng di cư tự do cũng đã được hạn chế.
Bảng 5: Tỷ lệ hộ nghèo tại các vùng cuối năm 2001 so với năm 1999
đơn vị: %
Vùng
Tỷ lệ hộ nghèo
% giảm so với 1999
1. Miền núi phía Bắc.
24,18
1,24
2. Đồng bằng sông Hồng.
11,40
-5,90
3. Đông Nam Bộ.
10,81
-1,00
4. Bắc Trung Bộ.
28,60
-0,76
5. Duyên hải Miền Trung.
19,90
2,54
6. Tây Nguyên.
26,10
1.14
7. Đồng bằng sông Cửu Long.
12,32
3.33
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Như vậy, nhìn vào bảng số liệu trên ta có thể nhận thấy rằng, tỷ lệ hộ đói nghèo tại các vùng trên cả nước đang có xu hướng giảm xuống, đặc biệt là Duyên Hải miền Trung, Tây Nguyên, Đồng Bằng Sông Cửu Long và Miền núi phía Bắc, nơi có đông đảo đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống. Mặc dù bảng số liệu có cho thấy tỷ lệ đói nghèo ở một số vùng như Đông Nam Bộ và nhất là Đồng bằng sông Hồng có tăng lên, nhưng điều này không phải do sự tăng lên về số lượng các hộ nghèo, mà là do tiêu chí xác định hộ nghèo được nâng cao hơn trước, với chỉ tiêu thu nhập tối thiểu mới được áp dụng từ năm 2001 (như Chương I đã nêu).
Tuy nhiên, nhìn chung tỷ lệ đói nghèo ở các dân tộc thiểu số vẫn còn ở mức khá cao. Theo kết quả điều tra của Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia vừa công bố (thông tin được đăng trên Vnexpress.net ngày 19/2/2003) thì tỷ lệ đói nghèo của 10 dân tộc ít người nhất Việt Nam năm 2002 lên tới 80%. Nơi nghèo nhất là dân tộc H’rê ở xã Sơn Thượng (Sơn Hà - Quảng Ngãi) chiếm tới 95%, dân tộc Thái đen ở xã Chiềng Mai (Mai Sơn - Sơn La) chiếm tới 92%...
1.3. Tỷ lệ hộ đói nghèo qua các năm ở 3 vùng dân tộc ít người nghèo nhất giai đoạn 1996 - 2000
Từ những phần thực trạng ở trên có thể nhận thấy rằng các vùng dân tộc ít người đều có tỷ lệ nghèo đói ở mức cao, điều này được thể hiện qua số liệu của Bảng 6 sau.
Bảng 6: Tỷ lệ hộ đói nghèo qua các năm ở 3 vùng dân tộc ít người
nghèo nhất giai đoạn 1996 - 2000
đơn vị: %
Vùng
1996
1997
1998
1999
2000
1. Miền núi phía Bắc.
27,24
25,42
23,36
16,93
15,00
2. Bắc Trung Bộ.
30,08
27,84
24,62
20,25
17,00
3. Tây Nguyên.
29,45
27,84
25,65
14,57
13,00
Cả nước
19,23
17,70
15,66
13,14
11,00
Nguồn: Chiến lược Xoá đói, Giảm nghèo 2001 – 2010.
Nhìn lên bảng số liệu trên ta có thể nhận thấy rằng: Trong giai đoạn 1996 - 2000 tỷ lệ hộ đói nghèo tại các vùng dân tộc ít người ở Miền núi phía Bắc, ở Bắc Trung Bộ và ở Tây Nguyên đã giảm một cách liên tục đều đặn, đặc biệt là trong hai năm 1999 và 2000. Không những vậy khoảng cách đói nghèo của các vùng này so với cả nước cũng đang từng bước được thu hẹp. Nói chung trong giai đoạn 1999 - 2000, miền núi phía Bắc đã giảm được 12,24% số hộ đói nghèo (trung bình mỗi năm giảm được 2,49%), Bắc Trung Bộ đã giảm được 9,80% số hộ đói nghèo (trung bình mỗi năm giảm được 1,97%), và mạnh nhất là Tây Nguyên đã giảm được 14,48% số hộ đói nghèo (trung bình mỗi năm giảm được 2,98%) Đây là một kết quả hết sức đáng khích lệ cho công tác xoá đói, giảm nghèo nói chung và công tác xoá đói, giảm nghèo cho các dân tộc ít người nói riêng.
Qua phân tích những kết quả xoá đói giảm nghèo theo vùng và theo dân tộc ta có thể nhận thấy rằng, tuy kết quả xoá đói, giảm nghèo những năm gần đây đã có những thành tựu đáng kể đặc biệt là kết quả theo vùng, tuy nhiên ảnh hưởng của các thành tựu ấy lại chưa đến được với đồng bào các dân tộc ít người, có thể nhận thấy điều này một các rõ ràng qua các con số đói nghèo ở Tây Nguyên hay miền núi phía Bắc: Trong giai đoạn 1995 – 2001, trong khi tỷ lệ đói nghèo các dân tộc Tây Nguyên chỉ giảm được 0,1%/năm thì tỷ lệ nghèo đói theo vùng của Tây Nguyên cho thấy tỷ lệ nghèo đói đã giảm được 2,87%/năm; hay như miền núi phía Bắc tỷ lệ nghèo đói theo dân tộc cho thấy hàng năm đã giảm được 1,38%/năm trong khi số liệu theo vùng cho biết tỷ lệ này là 2,45%. Vì thế có thể nói rằng hiệu quả của các chương trình xoá đói, giảm nghèo chưa cao và chưa bền vững, đối tượng được hưởng thụ lợi ích của các chương trình, dự án xoá đói, giảm nghèo của Nhà nước chưa đúng mục tiêu đề ra. Điều này đặt ra câu hỏi lớn cho công cuộc xoá đói, giảm nghèo của chúng ra trong thời gian tới là làm sao đảm bảo đối tượng thụ hưởng lợi ích phải đúng._. thuế.
+ Kết hợp giữa tự nguyện và bắt buộc dưới hình thức phát hành công trái trong các lĩnh vực cơ sở hạ tầng chẳng hạn như công trái giáo dục và công trái y tế… Trong đó có quy định mức công trái tối thiểu đối với người mua, nhằm buộc người mua phải mua một lượng công trái trên mức nhất định nào đó.
- Huy động các nguồn vốn viện trợ không hoàn lại từ nước ngoài. Do đầu tư vào các vùng này thường có tỷ suất lợi nhuận thấp do đó chúng ta chỉ có thể huy động các nguồn vốn viện trợ không hoàn lại cho đầu tư chứ không thể huy động các nguồn vay nước ngoài. Để làm được điều này chúng ta cần tiếp tục mở rộng quan hệ giao lưu, trao đổi hợp tác với tất cả các quốc gia trên thế giới.
- Huy động đầu tư từ các thành phần kinh tế trong nền kinh tế dưới các chính sách ưu đãi đặc biệt về mặt tài chính (sử dụng lãi suất ưu đãi, thời hạn vay…), về mặt cơ sở hạ tầng như việc hỗ trợ về đất đai, đảm bảo cho thuê đất lâu lăm, về thuế suất như việc áp dụng các loại thuế suất ưu đãi đặc biệt cho các đối tượng đầu tư vào các vùng nghèo. Ngoài ra nên chăng chúng ta vẫn giành sự ưu đãi nhất định cho các doanh nghiệp đã, đang đầu từ vào các vùng nghèo khi họ tiến hành đầu tư phát triển tại các vùng khác trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
1.2.2. Giải pháp về mặt sử dụng vốn
Để đảm bảo hoạt động sử dụng vốn có tập trung, có trọng điểm theo tôi chúng ta phải đầu tư phát triển theo quy hoạch. Tức là các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt các dự án đầu tư chỉ phê duyệt những dự án đầu tư theo đúng quy hoạch, đúng mục tiêu phát triển tại mỗi vùng, kiên quyết không vì bất kỳ lý do nào đó mà phá vỡ các quy hoạch đã lập.
Ngoài việc đầu tư theo quy hoạch theo tôi một giải pháp quan trọng cần tiếp tục được thực hiện mạnh mẽ và tích cực hơn trong việc phát triển cơ sở hạ tầng tại các vùng đồng bào dân tộc ít người đó là sự tham gia trực tiếp của đồng bào trong việc quyết định lựa chọn các dự án, các hạng mục công trình. Hiện nay sự tham gia của nhân dân trong thôn bản mới chỉ hạn chế ở việc lập kế hoạch và xây dựng những công trình nhỏ trong thôn, còn trong các dự án và công trình lớn còn chưa có sự tham khảo ý kiến của nhân dân sở tại. Vì vậy chúng ta cần phải thực hiện một cách triệt để nguyên tắc dân chủ trong công tác phát triển hạ tầng cơ sở, đưa người dân tham gia tích cực hơn trong các kế hoạch và quyết định đầu tư trong vùng.
Tuy nhiên do hạn chế về học vấn và trình độ nên sự hiểu biết của đồng bào dân tộc ít người là vô cùng hạn chế vì vậy trước khi đưa người dân tham gia vào quá trình lập kế hoạch và các quyết định đầu tư cần đưa các thông tin về kế hoạch và dự án đến từng thôn bản, rồi đến từng người dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, các cán bộ thôn bản, tuyết đối tránh tình trạng lợi dụng sự kém hiểu biết của đồng bào để trục lợi cá nhân, gây mất lòng tin của đồng bào.
1.2.3. Giải pháp về quản lý sử dụng vốn
Giải pháp này chỉ xin đi sâu vào giải pháp quản lý việc sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước. Do hiện nay nguồn vốn từ ngân sách của Nhà nước khi về đến địa phương không những bị thất thoát một phần không nhỏ, mà gay vả khi về đến địa phương cũng lại bị địa phương bớt xén và đầu tư không đúng mục đích, họ thường chuyển nguồn vốn hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng của Nhà nước sang các dự án khác tuỳ theo tình hình cụ thể của địa phương mình, mặc dù việc chuyển hướng đầu tư này có mang lại những hiệu quả kinh tế xã hội nhất định, nhưng một lần nữa chúng ta lại cần phải nhắc đến việc phát triển theo quy hoạch chung của cả nước và quy hoạch cụ thể của từng vùng. Chính vì thế vấn đề đặt ra trong công tác quản lý vồn đầu tư hạ tầng cơ sở tại các địa phương bao gồm cả việc chống thất thoát và đảm bảo đầu tư đúng mục đích của cả nước, tuy không đi sâu nghiên cứu khía cạnh về vốn nhưng để hoạt động đầu tư có hiệu quả theo tôi giải pháp cần thiết và quan trọng hơn cả là việc tham gia của đồng bào trong việc quản lý và giám sát các dự án. Mặc dù trong văn bản tạm thời của Chiến lược Xóa đói giảm nghèo dành ưu tiên cao cho việc tham gia của các nhà chức trách địa phương trong giám sát và quản lý các công trình hạ tầng, nhưng việc thực hiện còn rất nhiều hạn chế, hơn nữa do trình độ của cán bộ thôn bản, thậm chí cấp xã huyện còn rất thấp, vì thế việc giao trách nhiệm quản lý và giám sát cho cán bộ địa phương còn gặp nhiều khó khăn. Vì thế để thực hiện được giải pháp này theo tôi cần làm tốt một số vấn đề sau:
- Sau khi đã có quyết định đầu tư thì nhân dân trong vùng phải biết, dự án đầu tư của tỉnh thì các huyện trong tỉnh phải biết, của huyện thì tất cả các xã trong huyện phải biết, của xã thì các thôn bản phải biết, của thôn bản thì dân trong thôn phải biết.
- Khi triển khai đầu tư các thông số kỹ thuật cơ bản đều phải được công bố rộng rãi cho nhân dân cùng biết để nhân dân cùng tham gia theo dõi quản lý và giám sát như: tổng vốn dầu tư, chiều dài đường, độ rộng bao nhiêu, dày bao nhiêu, số phòng học, số trạm y tế,…. Trong các công trình Nhà nước và nhân dân cùng làm cần làm rõ dân địa phương đóng góp cái gì, tài chính như thế nào, bao nhiêu, ngày công ra sao, và phần Nhà nước đóng góp là cái gì, tỷ lệ là bao nhiêu?.
- Ngoài ra để nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ thôn bản cần phải bồi dưỡng, tập huấn cho họ một cách thường xuyên liên tục…
Trên đây chỉ là những giải pháp chung cho việc phát triển cơ sở hạ tầng các vùng dân tộc ít người để cụ thể và chi tiết hơn tôi xin được tiếp tục đi vào các giải pháp riêng cho từng hạ tầng cơ sở.
2. Nhóm giải pháp riêng
2.1. Các giải pháp phát triển mạng lưới điện quốc gia cho các vùng dân tộc ít người
Điện lưới chưa phát triển đến từng xã là một trong những nguyên nhân chính gây nên năng suất thấp và kỹ thuật canh tác lạc hậu nhiều năm mà không hề có sự đổi mới. Chính vì vậy đưa được điện lưới quốc gia đến từng thôn bản sẽ tạo ra một bước tiến quan trọng trong việc cơ giới hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn cũng như các vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người. Để phát triển mạng lưới điện quốc gia, tôi xin đề xuất một số giải pháp sau:
2.1.1. Các giải pháp hỗ trợ
Do đặc điểm của các vùng dân tộc ít người là nghèo và thu nhập thấp, chính vì vậy bản thân các vùng này không có đủ điều kiện để có thể tự mình đưa được mạng lưới điện về vùng. Chính vì vậy Chính phủ nên hỗ trợ các vùng dân tộc ít người ở một số mặt sau:
ỉ Hỗ trợ, đầu tư xây dựng mạng lưới điện quốc gia đến tận các trung tâm cụm xã
Do đồng bào dân tộc ít người thường sinh sống dàn trải trên địa bàn rộng, dân cư thưa thớt chính vì thế vấn đề đặt ra cho phát triển điện lưới là nên đưa điện lưới đến tận hộ gia đình nhằm đảm bảo mục tiêu công bằng xã hội hay chỉ nên đưa điện lưới đến trung tâm cụm xã - nơi có nhiều điều kiện phát triển nhất trong vùng để đảm bảo hiệu quả đầu tư? Theo tôi việc đưa điện lưới quốc gia đến từng hộ, thậm chí là từng thôn bản sẽ là việc làm không thiết thực, gây lãng phí lớn và thực sự không cần thiết, vì thế chúng ta chỉ nên đưa điện lưới đến trung tâm cụm xã, những nơi có điều kiện phát triển , sau đó khi kinh tế - xã hội của vùng đã phát triển chúng ta mới tiếp tục triển khai phát triển điện lưới đến từng thôn bản, từng hộ gia đình, tất nhiên điều này sẽ đòi hỏi rất nhiều thời gian.
ỉ Hỗ trợ vốn hoặc cho vay tín dụng ưu đãi với lãi suất bằng không để nhân dân tự làm các công trình cấp điện tại chỗ.
Hiện nay, tại các vùng dân tộc ít người chúng ta nên phát triển mạng lưới điện dưới các hình thức thuỷ lợi nhỏ, các trạm phát điện sử dụng năng lượng mặt trời để tận dụng nguồn tài nguyên nước và tài nguyên nhiệt vô tận của vùng. Ngoài việc hộ trợ và xây dựng các nhà máy thuỷ điện lớn nên chăng Nhà nước cần có các biện pháp tư vấn, hướng dẫn kỹ thuật để người dân địa phương có khả năng tự xây dựng và lắp đặt các trạm phát điện (sử dụng năng lượng mặt trời hoặc năng lương gió), nhà máy thuỷ điện nhỏ để cung câp điện tại chỗ cho người dân.
ỉ Hỗ trợ kinh phí sửa chữa lớn cho các vùng khó khăn, cho các dân tộc đặc biệt khó khăn: Do các vùng khó khăn, các dân tộc ít người đặc biệt khó khăn không có đủ kinh phí để duy tu, bảo dưỡng cũng như sửa chữa lớn lên sẽ là cần thiết khi Chính phủ hỗ trợ một phần kinh phí cho hoạt động duy tu, bảo dưỡng và sữa chữa lớn, sửa chữa thường xuyên.
Tuy nhiên cần phải thấy rõ rằng, phát triển mạng lưới điện đến tận thôn bản sẽ không đem lại một kết quả tốt đẹp nào nếu đi kèm với nó không có các hình thức sản xuất, canh tác thích hợp, tiến bộ đem lại hiệu quả cao, vì đây là những vấn đề gắn bó mật thiết với nhau, điện là để phục vụ sản xuất và đời sống và sẽ là vô ích nếu đồng bào dân tộc ít người vẫn duy trì lối canh tác lạc hậu phi hiệu quả không cần sử dụng điện năng như trước đây, hay cũng sẽ thành vô ích nếu bà con không có kiến thức để phát triển sản xuất, ứng dụng khoa học kỹ thuật… Do đó, mọi biện pháp đều cần một sự đồng bộ của những giải pháp kèm theo, cho nên cùng với việc đưa điện lưới đến với đồng bào cần có các chính sách giúp bà con có thể nắm bắt kỹ thuật canh tác mới, hướng dẫn bà con sản xuất sao cho có hiệu quả.
2.1.2. Các giải pháp về nhân sự
ỉ Đào tạo, tập huấn cán bộ, nhân viên làm nhiệm vụ quản lý giám sát, vận hành và duy tu, bảo dưỡng hệ thống phân phối điện, đặc biệt nên đào tạo, tập huấn cho chính đồng bào dân tộc ít người để tự họ quản lý và bảo dưỡng hệ thống phân phối điện trong làng, bản của họ.
ỉ Ưu tiên đồng bào các dân tộc ít người tình nguyện làm việc tại các vùng xa xôi, hẻo lánh. Có chính sách ưu đãi hợp lí, tiền lương thoả đáng.
Thực hiện được những điều này không chỉ giúp cho công tác quản lý mạng lưới điện quốc tại các vùng dân tộc ít người trở lên dễ dàng, đỡ tốn kém hơn mà còn tạo ra công ăn việc làm cho người dân địa phương, giúp họ phần nào ổn định được cuộc sống và góp phần nâng dân chí địa phương.
2. Phát triển hệ thống đường giao thông
Hệ thống giao thông lạc hậu, kém phát triển là nguyên nhân quan trọng nhất gây nên sự cách biệt, chính vì vậy, nếu giải quyết tốt sẽ là cơ hội của người nghèo miền núi, của các dân tộc ít người vùng sâu, vùng xa thoát khỏi đói nghèo. Tuy nhiên vấn đề hiện nay là tiềm năng phát triển của các vùng dân tộc ít người không được như đồng bằng trong khi địa bàn thì rộng, địa hình quanh co, phức tạp do đó đầu tư phát triển giao thông các vùng này hiệu quả sẽ không cao, do đó có nên đầu tư phát triển giao thông đến tận thôn bản mặc dù hiệu quả kinh tế không cao hay không? Theo tôi, việc phát triển giao thông không chỉ đơn thuần vì mục đích kinh tế mà nó còn đảm bảo công bằng về mặt xã hội, hơn nữa giao thông phát triển sẽ là điều kiện thuận lợi cho đồng bào giao lưu, học hỏi kinh nghiệm sản xuất, mở rộng thị trường tiêu thụ, cho nên về lâu về dài phát triển giao thông là yếu tố cơ bản và quan trọng nhất trong các yếu tố cơ sở hạ tầng nhằm giúp đồng bào phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, thu ngắn khoảng cách với đồng bào Kinh. Vì thế phát triển giao thông miền núi, vùng sâu, vùng xa là cần thiết.
Để phát triển hệ thống giao thông tại các vùng dân tộc ít người, theo tôi cần thực hiện một số giải pháp sau:
ỉ Kết hợp hình thức Nhà nước và dân nhân cùng làm chủ yếu là bằng hình thức Nhà nước và nhân dân cùng góp vốn tất nhiên Nhà nước sẽ góp một khoản vốn lớn hơn, còn nhân dân thì tham gia lao động, thi công cũng như giám sát thi công công trình.
ỉ Nhà nước nên trợ giúp về phương tiện kỹ thuật và thuê lao động tại địa phương, góp phần giải quyết được công ăn việc làm cho những hộ nghèo hoặc trợ quỹ dưới hình thức Nhà nước cho không lương thực, dân đóng góp ngày công.
ỉ Cần có một cơ chế, chế độ, chính sách ưu đãi về vốn vay, thu phí giao thông… để các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tham gia xây dựng giao thông. Tức là cần có nhiều hình thức huy động nguồn lực năng động để đạt được mục tiêu đề ra.
ỉ Thường xuyên tiến hành duy trì và bảo dưỡng đường miền núi. Do địa hình dốc, phức tạp, độ xói mòn lớn, mưa gió bất thường nên đường thường xuyên hư hỏng nặng sau mùa mưa. Biện pháp tốt nhất là nên giao công việc này cho cơ quan địa phương phối hợp với cung, hạt giao thông và được Nhà nước giúp đỡ một phần kinh phí sửa chữa.
ỉ Về lâu dài cần có kế hoạch từng bước nâng cấp đường giao thông tại các vùng dân tộc ít người theo hướng nhựa hoá tỉnh lộ, đá hoá huyện lộ, cơ giới hoá xã lộ và mở rộng đường liên thôn, liên bản để xe ngựa và xe máy có thể đi lại dễ dàng.
Việc nâng cấp hệ thống giao thông sẽ đem lại rất nhiều lợi ích tuy không mang lại lợi ích nhanh chóng như đầu tư vào các lĩnh vực khác. Nhưng cái lợi lớn nhất là giải thoát thế bí cho kinh tế địa phương, tạo cơ hội cho dân tộc thiểu số tiếp cận với kinh tế thị trường, giao lưu buôn bán, trao đổi để cải thiện đời sống và từ đó có thể vươn lên xoá đói, giảm nghèo, xoá dần khoảng cách kinh tế - xã hội giữa miền núi và miền xuôi, giữa đồng bào dân tộc ít người và dân tộc Kinh.
3. Phát triển giáo dục
Phát triển giáo dục, nâng cao học vấn cho các dân tộc ít người sẽ giúp các vùng này có đủ cán bộ nhân lực có trình độ học vấn và nhận thứcphục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội và xoá đói, giảm nghèo. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra cho phát triển giáo dục các vùng này hiện nay là trong khi do nhận thức còn hạn chế, và chi phí cho giáo dục đối với người dân tộc còn cao (gồm cả chi phí trực tiếp cho giáo dục lẫn chi phí gián tiếp do mất đi lao động trẻ em) nên số học sinh đến trường ở các vùng này còn hạn chế thì chúng có nên xây dựng, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng giáo dục ở rộng khắp các thôn bản, làng xã hay không mặc dù chất lượng các cơ sở giáo dục lại không đảm bảo tiêu chuẩn, hơn nữa đội ngũ giáo viên cũng không có đủ để đảm bảo chất lượng cho công tác giảng dạy. Theo tôi đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư cho tương lai, sẽ không thể phát triển kinh tế - xã hội cho các vùng đồng bào dân tộc ít người nếu ở đó không có đội ngũ cán bộ có trình độ, có kỹ năng, người dân không có đủ trình độ học vấn và nhận thức để tiếp thu kỹ thuật tiên tiến và kinh nghiệm sản xuất. Cho dù hệ thống giao thông, thuỷ lợi có phát triển đến đâu nhưng nếu người dân nơi đó không biết cách khai thác, sử dụng có hiệu quả thì sẽ trở lên lãng phí và kém hiệu quả, Chính vì thế theo tôi để phát triển giáo dục có hiệu quả thì không cần phải xây dựng các trường học kiên cố cho tất cả các xã, tuỳ từng vùng với những điều kiện cụ thể chúng ta có thể phát triển các loại hình giáo dục cho phù hợp để tăng khả năng tiếp cận giáo dục cho người dân (sẽ được trình bày cụ thể trong phần sau).
Phát triển hệ thống giáo dục cần tập trung vào hai vấn đề sau:
- Giảm chi phí đi học cho các dân tộc ít người.
- Tạo ra những lợi ích thiết thực của việc đi học và làm cho nhân dân hiểu rõ điều này.
Để thực hiện được điều đó cần tập trung vào các giải pháp sau:
Thứ nhất, tăng mức độ sẵn có của giáo dục thông qua chương trình xây dựng trường học để giảm khoảng cách từ nhà đến trường.
Đa phần các con em các dân tộc ít người ở miền núi, vùng sâu, vùng xa đến trường học phải qua một chặng đường dài, phải trèo đèo, lội suối. Do đó, đây là một cản trở rất lớn cho khả năng tiếp cận giáo dục của người nghèo. Vì vậy, vấn đề xây dựng và phát triển mạng lưới giáo dục vẫn còn là một vấn đề cần được quan tâm, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa. Cùng trong nội dung của việc tăng mức độ sẵn có của giáo dục cho người nghèo, một nội dung không kém phần quan trọng là nâng cao mạng lưới cơ sở hạ tầng giáo dục. Hiện nay hầu hiết các trường học còn tạm bợ, tranh tre, nứa lá còn chiếm tỷ trọng khá cao. Bàn học cho thầy trò, bảng đen, đồ dùng dạy và học còn thiếu thốn và chưa đảm bảo các tiêu chuẩn tối thiểu. Điện nước phần lớn các trường học ở nông thôn còn chưa có.
Có thể tăng khả năng tiếp cận các cơ sở giáo dục cho đồng bào các dân tộc ít người bằng một số giải pháp sau:
+ Mở các nhóm xoá mù tại chòm, xóm, thôn, bản; người biết khá dạy người biết kém, người biết kém dạy người chưa biết ở bất kỳ nơi nào (ở nhà buổi tối, nhà nghỉ ở nương, trên đường đi chợ, đi làm,… ). Có chế độ khen thưởng, động viên, khuyến khích thích hợp và kịp thời đối với những người tình nguyện dạy đạt kết quả tốt dưới hình thức hỗ trợ một khoản tiền hoặc vật chất để.
+ Mở rộng loại hình lớp học bán trú dân nuôi thành một qui định đóng góp hợp lý của toàn dân (bằng ngô, lúa, lương thực, thực phẩm tự có).
Thứ hai, giảm chi phí đến trường cho mỗi thành viên đi học của các gia đình.
Khi cho con em mình đi học thì các gia đình phải gánh chịu 2 loại chi phí đó là chi phí trực tiếp cho giáo dục và cho phí cơ hội do việc mất đi lao động trẻ em. Do đó, để giải quyết vấn đề này cần loại bỏ các chi phí chính thức: Cụ thể là xoá bỏ học phí chính thức cho những học sinh thuộc diện dân tộc ít người đặc biết khó khăn. đồng thời cần phải kết hợp tác động với các biện pháp khác nữa như sau:
+ Tăng trợ cấp đi học để giảm yêu cầu đóng góp cho cha mẹ học sinh bằng việc trợ cấp giáo dục phải bao gồm cả trợ cấp đầu vào cho giáo dục đối với người nghèo. Trợ cấp đào tạo giáo viên, sách giáo khoa, các thiết bị trường học …
+ Tiến tới cung cấp miễn phí sách giáo khoa cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục tiểu học thay vì phải mất tiền như hiện nay.
+ Cần trích hợp lý một phần nhỏ kinh phí từ các chương trình, dự án trên địa bàn để hỗ trợ cho giáo dục và con em các dân tộc ít người. Cần phải thấy đầu tư cho giáo dục tốt chính là nâng cao hiệu quả thực hiện các chương trình dự án.
Đối với các vùng dân tộc ít người cần áp dụng những cải cách này sao cho người nghèo luôn được sự hỗ trợ cần thiết ứng với mức độ chi phí của mình để đảm bảo cho con em họ đến trường được. Các chính sách trợ giúp về giáo dục phải phân loại theo mức độ giáo dục vì các nguồn lực có hạn và mức độ cần thiết của mỗi cấp học với người nghèo trong giai đoạn hiện nay có khác nhau. Cụ thể là:
+ Đối với giáo dục tiểu học, con em các hộ dân tộc ít người đặc biệt khó khăn, ngoài việc được miễn học phí theo quy định của luật phổ cập giáo dục còn được miễn giảm các khoản tiền như đóng góp xây dựng trường, trợ giúp các dụng cụ học tập.
+ Đối với giáo dục phổ thông, con em các hộ dân tộc ít người đặc biệt khó khăn được miễn giảm học phí và các khoản đóng góp xây dựng trường.
Thứ ba, nâng cao chất lượng giáo dục cho đồng bào các dân tộc ít người:
Hiện nay, cơ sở hạ tầng trường học, đội ngũ giáo viên nhiều nơi, nhất là vùng sâu, vùng cao còn thiếu rất nhiều về mặt số lượng và chất lượng thấp. Chương trình giáo dục còn nhiều bất cập, nên khả năng tiếp cận của học sinh còn thấp. Đời sống vật chất và tinh thần của giáo viên nông thôn còn nhiều khó khăn, thiếu thốn làm chất lượng giảng dạy cũng kém sút hẳn so với các vùng khác.Vì nhiều lý do từ phía người cung cấp dịch vụ giáo dục cũng như từ bản thân người nghèo làm chất lượng của học sinh ở các vùng nghèo thấp hơn hẳn so các học sinh các vùng khác, đặc biệt là tình trạng bỏ học ở đây rất cao.
Để nâng cao chất lượng giáo dục cho đồng bào các dân tộc ít người cần thực hiện một số biện pháp sau:
+ Dần dần đào tạo, thay thế hệ thống giáo viên thôn bản bằng hệ thống giáo viên người dân tộc và có chế độ đãi ngộ để họ đủ sống, yên tâm để có thể bám trường, bám lớp giảng dạy.
+ Cải thiện đời sống cho các giáo viên và các trường miền núi (tài trợ một số trang thiết bị văn hoá thiết yếu như sách báo, tranh ảnh, vi deo, catssete…).
+ Tiếp tục phát triển chương trình dạy song ngữ (dạy học song song bằng hai thứ tiếng, tiếng tiến Kinh và tiếng dân tộc)
+ Mở rộng sự cộng tác, hợp tác giữa các đơn vị quân đội, đoàn thể nhân dân với nhà trường nhằm giúp đỡ, ủng hộ về vật chất, ngày công sửa trường lớp và đồ dùng, sách vở học tập.
4. Phát triển mạng lưới y tế
Về tình hình y tế miền núi, vùng dân tộc ít người hiện nay, cần lưu ý một số vấn đề sau đây:
- Sự kém hiểu biết của người dân miền núi về bảo về sức khoẻ và phòng bệnh dịch thường dẫn đến tình trạng phát bệnh đến giai đoạn trầm trọng, mãn tính nên rất khó chữa trị.
- Các bệnh nguy hiểm lại thường bắt nguồn từ những bệnh rất thông thường. Do một lý do nào đó coi thường hoặc ngại đi đến các cơ sở khám chữa bệnh, do không có thuốc… nên từ bệnh này đã chuyển sang bệnh khác khó chữa trị hơn.
- Các phương pháp chữa trị dân gian tỏ ra có hiệu quả, rẻ tiền và dễ kiếm ở địa phương. Song vẫn dễ xảy ra tình trạng một số bà con vùng sâu, vùng xa chữa bệnh bằng phương pháp lạc hậu hoặc bị lừa bịp phản khoa học của thầy mo, thầy cúng nên thường gây nguy hiểm đến tính mạng.
- Hệ thống trạm y tế dường như nặng nề hình thức, thiếu khả năng chuyên môn, thuốc thang và cán bộ để phục vụ trên địa bàn rộng nhưng phân tán.
Từ những vấn đề nêu trên, xin đề xuất một số biện pháp y tế miền núi có tính khả thi như sau:
ỉ Giáo dục, phổ biến các kiến thức y tế, bảo vệ sức khoẻ ban đầu cho bà mẹ, trẻ em để bước đầu có thể phát hiện, tự chữa các bệnh thông thường.
Đây là một vấn đề hết sức quan trọng và vô cùng cần thiết trong việc đảm bảo sức khoẻ cho đồng bào các dân tộc ít người. Đa phần các dân tộc ít người như đã nêu ở trên thường sinh sống ở các vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa. Chính vì vậy, trong khi mạng lưới y tế còn chưa về được đến từng thôn bản thì khả năng tiếp được các cơ sở y tế là rất khó khăn và họ phải vượt qua một chặng đường dài mới có thể đến được các cơ sở y tế. Hơn nữa trong thôn, bản của họ vẫn còn tồn tại thầy mo, thầy cúng chữa bệnh bằng các phương pháp phi khoa học kém hiệu quả, thậm chí còn gây nguy hiểm đến tính mạng cho người bệnh. Do đó, giáo dục, phổ biến các kiến thức y tế, bảo vệ sức khoẻ ban đầu cho bà mẹ, trẻ em để họ có đủ nhận thức để tự nhận biết và tự chữa được các bệnh thông thường không những giúp đồng bào dân tộc ít người có thể tự đảm bảo được sức khoẻ mà còn giúp họ thoát khỏi những thủ tục mê tín dị đoan, phi khoa học.
ỉ Nâng cao khả năng tiếp cận các cơ sở, dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ công cộng.
Để nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ công cộng cần thực hiện một số biện pháp sau:
+ Phổ biến rộng khắp mạng lưới y tế viên cộng đồng gồm các giáo viên phổ thông, người có trình độ học vấn, các cán bộ đoàn thể … kết hợp công tác chuyên trách với công tác y tế cộng đồng.
+ Tập hợp, tổ chức các bà lang, ông lang có uy tín ở địa phương cùng hợp tác chữa bệnh. Khuyến khích chữa bệnh bằng thuốc nam, thuốc lá. Xây dựng vườn thuốc thôn bản.
+ Kết hợp với sự giúp đỡ về y tế của lực lượng y tế bộ đội biên phòng các đồn biên phòng vùng sâu, vùng xa.
+ Tổ chức các đợt khám chữa bệnh lưu động, miễn phí, định kỳ xuống các thôn bản. Phát hiện kịp thời để đưa các bệnh nhân nặng về tuyến y tế huyện, tỉnh.
ỉ Giảm chi phí y tế cho đồng bào các dân tộc ít người:
Để giảm chi phí cho người nghèo cần đưa ra các giải pháp chính là:
+ Cần phải thiết lập một cơ chế và xây dựng một hệ thống y tế trợ cấp cho các hộ dân tộc ít người, áp dụng các loại giá khác nhau cho việc sử dụng các dịch vụ y tế khám và chữa bệnh cho các nhóm người có mức thu nhập khác nhau. Kể cả áp dụng các chính sách miễn phí cho những người đặc biệt khó khăn. Để thực hiện được điều này cần bán thẻ bảo hiểm y tế với giá thấp hoặc cấp miễn phí cho các hộ nghèo, đồng thời phối hợp với các chương trình xã hội khác để chăm lo sức khoẻ người nghèo.
+ Cấp thuốc nhân đạo cho các trường hợp quá khó khăn và các đối tượng thuộc chính sách xã hội.
Vấn đề đặt ra làm sao có thể xác định chính xác đối tượng nào là nghèo cần được miễn giảm và trợ cấp các dịch vụ y tế. Để giải quyết điều này, biện pháp quan trọng là: Củng cố hệ thống chứng nhận miễn phí dựa trên cơ sở khảo sát chính xác mức thu nhập, số nhân khẩu trong gia đình kết hợp với công tác giảm chi phí tại các cơ sở y tế thường được người nghèo sử dụng.
ỉ Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ của hệ thống dịch vụ y tế cơ sở.
Để nâng cao chất lượng dịch vụ y tế cho người nghèo, có nhiều biện pháp, trong đó đặc biệt là phải tăng kinh phí đào tạo và cung cấp đầy đủ thuốc men chữa bệnh vừa túi tiền, cần thiết phải quy hoạch đội ngũ nhân viên y tế xã và các vùng đói nghèo, trong đó đưa lương của nhân viên y tế xã vào ngân sách của nhà nước là một yếu tố quan trọng.
Kết luận
Qua lịch sử phát triển chúng ta có thể nhận thấy rằng đói nghèo luôn luôn là một vấn đề nổi cộm ở bất kỳ một quốc gia nào từ phát triển đến đang phát triển, mặc dù ở những nước đang phát triển nó tỏ ro nghiêm trọng và phức tạp hơn những tất cả người nghèo ở các nước đều có chung một đặc điểm là họ luô phải chấp nhận những thiệt thòi so với xã hội. Chính vì thế mà bất kỳ quốc gia nào muốn tăng trưởng và phát triển một cách bền vững và đưa thành tựu của phát triển đến với mọi người dân đều luôn đặc biệt quan tâm đến công tác xoá đói, giảm nghèo.
Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta luôn dành một sự quan tâm đặc biệt cho công tác xoá đói, giảm nghèo mà đặc biệt là cho đồng bào các dân tộc ít người. Nhiều chương trình, dự án đã được phê duyệt và triển khai trên phạm vi cả nước và bước đầu đã đem lại hiệu quả nhất định, nhất là những chương trình, dự án hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng cho các xã nghèo đặc biệt khó khăn. Thực tế triển khai các chương trình hỗ trợ cơ sở hạ tầng cho các xã đặc biệt khó khăn trong thời gian qua đã chứng minh một điều rằng: cơ sở hạ tầng phát triển là điều kiện quan trọng để các vùng nghèo có điều kiện phát triển sản xuất kinh tế - xã hội, là một nhân tố quan trọng trong công cuộc xoá đói, giảm nghèo cho các vùng đó. Nhưng nó cũng đặt ra cho chúng ta nhiều câu hỏi mà trước tiên là làm sao để phát triển cơ sở hạ tầng các vùng nghèo có hiệu quả, chúng ta nên đảm bảo về mặt công bằng xoá đói, giảm nghèo hay đảm bảo hiệu quả về mặt kinh tế? Làm sao để cộng đồng người nghèo nhận được nhiều hơn lợi ích từ các hoạt động đó? Chính vì vậy với việc lựa chọn đề tài này tôi hi vọng phần nào có thể giúp được các cơ quan hoạch định, cũng như các cơ quan tổ chức thực hiện ở trung ương và địa phương tìm được câu trả lời phù hợp cho riêng mình, để góp phần đẩy nhanh công tác xoá đói, giảm nghèo đặc biệt là cho đồng bào các dân tộc ít người, đưa đất nước ngày càng phát triển nhanh và bền vững.
Tuy nhiên, do nhiều hạn chế về nhận thức, lý luận và thu thập thông tin vì thế đề tài của tôi không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy tôi rất mong nhận được các ý kiến góp ý và nhận xét của các thầy cô giáo và các bạn trong khoa để tôi có thể hoàn thiện hơn bài viết của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Danh mục tài liệu tham khảo
“Việt Nam tấn công đói nghèo” Báo cáo của nhóm công tác các chuyên gia Chính phủ – Nhà tài trợ – Tổ chức phi chính phủ., 1999.
Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói, giảm nghèo. NXB Bản Đồ, Hà Nội, tháng 05 năm 2002.
Xoá đói, giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số nước ta hiện nay. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002.
Vấn đề nghèo ở Việt Nam. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996.
Các đề xuất của người nghèo về chính sách (Tập I, II, III). Tổng hợp của nhóm Hành động Chống Đói nghèo, 2002.
Thông tin kinh tế - xã hội (số 3, 5, 6, 11, năm 2002; số 2,3 năm 2003).
Tạp chí Kinh tế Phát triển số 3, 5 – 2002.
“Đổi mới chính sách xã hội luận cứ và giải pháp” GS Phạm Xuân Nam, NXB Chính trị Quốc gia, 1997.
Văn kiện Đại hội Đảng VIII, NXB. CTQG, Hà Nội, 1996.
“Kinh tế thị trường và sự phân hoá giàu – nghèo ở vùng dân tộc và miền núi phía Bắc nước ta hiện nay. NXB. CTQG. HN. 1999.
“Kết quả điều tra kinh tế - xã hội hộ gia đình 1994 – 1997, NXB Thống kê, Hà Nội, 1999.
“Thống kê kinh tế - xã hội 631 tỉnh và thành phố”. NXB Thống kê, Hà Nội, 2002.
“Tác động kinh tế của Nhà nước nhằm góp phần xoá đói, giảm nghèo trong quá trình đẩy mạnh CNH – HĐH ở nông thôn đồng bằng Bắc bộ”. Đề tài cấp bộ Khoa Quản lý kinh tế, Học viện CTQG – HCM. Hà Nội. 1997.
“Định hướng chiến lược việc làm và xoá đói, giảm nghèo trong chiến lược phát triển nông thôn Việt Nam đến năm 2000”. Hội thảo: Toạ đàm về chuyển đổi nông nghiệp nông thôn Việt Nam, Bộ LĐTB-XH , 1999.
“Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa”. Tài liệu phục vụ Hội nghị toàn quốc Triển khai Chương trình 135. Hà Nội, 1999.
“Mười cuộc điều tra lớn”. NXB Thống kê Hà Nội. 2000.
“Một số vấn đề chính sách bảo đảm xã hội”. Bộ LĐTB – XH, Hà Nội 1995.
“Dự thảo chiến lược xoá đói, giảm nghèo giai đoạn 2001 – 2010, Bộ LĐTB - XH.
“Báo cáo tình hình đói nghèo Việt Nam”. Nguyễn Hữu Hải – Vụ trưởng Vụ Bảo trợ Xã hội. Hội thảo chuẩn đói nghèo tại Việt Nam. 2002.
“Kết quả điều tra cơ bản lao động và một số vấn đề xã hội ở vùng miền núi phía Bắc”. NXB Thống kê. Hà Nội. 2002.
“Dân số và phát triển ở các xã điển hình trong 50 năm qua”. NXB KHXH: GS.TS Đặng Thu. 1996.
Danh mục các bảng và biểu
I. bảng
Bảng 1: Quy mô hộ gia đình theo dân tộc năm 1995 và 2001 20
Bảng 2: Tỷ lệ đói nghèo của một số dân tộc năm 1995 và 2001 24
Bảng 3: Tỷ lệ hộ nghèo theo các vùng kinh tế năm 1997 26
Bảng 4: Số hộ nghèo và tỷ lệ đói nghèo ở các vùng cuối năm 1999. 27
Bảng 5: Tỷ lệ hộ nghèo tại các vùng cuối năm 2001 so với năm 1999 28
Bảng 6: Tỷ lệ hộ đói nghèo qua các năm ở 3 vùng dân tộc ít người
nghèo nhất giai đoạn 1996 – 2000 29
Bảng 7: Số xã nghèo và thiếu cơ sở hạ tầng phân theo vùng của Việt Nam năm 2001 32
Bảng 8: Tình trạng sử dụng điện của xã phân theo vùng năm 2000 34
Bảng 9: Trình độ văn hoá của một số dân tộc ít người tại miền núi phía Bắc năm 2001 36
Bảng 10: Tỷ lệ lao động theo trình độ chuyên môn kỹ thuật của một số dân tộc tại Miền núi phía Bắc năm 2001. 37
Bảng 11: Tình hình cán bộ y tế và trạm xá theo vùng năm 2001 39
Bảng 12: Tỷ lệ trẻ em chết yểu và suy dinh dưỡng của các vùng năm 2001 40
Bảng 13: Tỷ lệ trẻ em miễn dịch uốn ván và phụ nữ được thực hiện các biện pháp tránh thai phân theo vùng của Việt Nam năm 2001 41
II. Biểu
Biểu 1: Tỷ lệ nghèo đói theo dân tộc năm 1995, 2001 25
Biểu 2: Tỷ lệ nghèo đói các vùng năm 1999 so với năm 1997 28
Biểu 3: Số xã nghèo và thiếu cơ sở hạ tầng phân theo vùng của Việt Nam năm 2001 33
Biểu 4: Tỷ lệ trẻ em chết yểu và suy dinh dưỡng theo vùng năm 2001 40
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan, luận văn này là do tôi tự tìm hiểu và nghiên cứu độc lập, không có sự sao chép các bài viết và đề tài nghiên cứu của các cơ quan, tổ chức và các cá nhân khác. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Sinh viên
Nguyễn Đức Tú
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37057.doc