Một số giải pháp phát triển hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương (VietcomBank) Việt Nam

LỜI NÓI ĐẦU Trong xu thế phát triển của kinh tế thế giới, thẻ tín dụng đã khẳng định được tầm quan trọng của nó dựa vào những tính năng vượt trội trong thanh toán. Đó là sự an toàn, chính xác, hiệu quả, nhanh chóng và tiết kiệm. Trong sự cạnh tranh gắt gao của thị trường tài chính trong nước và quốc tế, định hướng phát triển dịch vụ Ngân hàng bán lẻ, mà trọng tâm là thẻ, của các NHTM được quan tâm một cách đặc biệt bởi nó không những mang lại nguồn thu nhập bền vững và ổn định, mà nó còn thể h

doc75 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1428 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp phát triển hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương (VietcomBank) Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iện tầm cỡ, sự phát triển của ngân hàng. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là ngân hàng đầu tiên trong nước thực hiện thanh toán thẻ quốc tế (năm 1990) cho các tổ chức quốc tế cũng như các ngân hàng nước ngoài. Ngân hàng Ngoại thương cũng là ngân hàng đầu tiên ở Việt Nam thực hiện nghiệp vụ phát hành thẻ tín dụng (năm 1996). Đó là một ưu thế rõ rệt về cả thị trường cũng như kinh nghiệm. Tuy nhiên, ưu thế đó đang mất dần đi trước sự cạnh tranh rất lớn từ phía các ngân hàng trong nước và trong tương lai không xa là cả các ngân hàng nước ngoài. Ngân hàng Ngoại thương cân phải có những chính sách thích hợp nhằm tận dụng tối đa những ưu thế của mình, đồng thời tìm kiếm con đường đi vững chắc cho thị trường thẻ của mình. Với mong muốn đóng góp một vài ý kiến cho sự phát triển hoạt động kinh doanh thẻ của NHNT, sau một thời gian thực tập tại đây, em xin chọn chuyên đề: “ Một số giải pháp phát triển hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam”. Kết cấu của chuyên đề ngoài lời mở đầu và kêt luận gồm có ba chương: Chương 1: Một số vấn đề cơ bản của thẻ tín dụng của ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng kinh doanh thẻ tin dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Chương 3: Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Em xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo, đặc biệt là thầy giáo hướng dẫn - TS Hoàng Xuân Quế, cùng Ban lãnh đạo và các cô chú, các anh chị ở Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã quan tâm và tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tập Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THẺ TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1 KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO CỦA THẺ TÍN DỤNG 1.1.1 Khái niệm Để hiểu rõ về thẻ tín dụng trước hết ta tìm hiểu thế nào là thẻ: Thẻ là một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt do ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính phát hành cấp cho khách hàng. Khách hàng có thể dùng thẻ để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ tại các đơn vị chấp nhận thẻ hay rút tiền mặt tại các ngân hàng đại lý thanh toán thẻ, các máy rút tiền tự động ATM trong phạm vi số dư tài khoản tiền gửi hoặc hạn mức tín dụng được kí kết giữa ngân hàng phát hành và chủ thẻ. Thẻ tín dụng là một dịch vụ thanh toán với những hạn mức chi tiêu nhất định mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng căn cứ vào khả năng tài chính, số tiền ký quỹ hoặc tài sản thế chấp. Nó là một dạng tín dụng tuần hoàn giành cho việc thanh toán mà khách hàng có thể sử dụng cho mọi giao dịch một cách linh hoạt. Việc hoàn trả của khách hàng có thể được thực hiện môt lần hoặc nhiều lần theo một thời hạn nhất định và theo hạn mức quy định bởi ngân hàng phát hành thẻ. 1.1.2 Đặc điểm cấu tạo của thẻ tín dụng Thẻ TD được làm bằng chất nhựa trắng có 3 lớp, lõi thẻ là lớp nhựa trắng cứng nằm giữa 2 lớp tráng mỏng, kích thước tiêu chuẩn quốc tế là 8,5cm x 5,5cm x 0,07 cm. Mặt trước của thẻ gồm: Biểu tượng. Mỗi loại thẻ có một biểu tượng riêng. Ví dụ: Amex có biểu tượng đầu người chiến binh; Visa có biểu tượng hình chữ nhật gồm 3 màu xanh, trắng, vàng và hình một con chim bồ câu đang bay: Masters Card có dòng chữ “Masters Card” chạy giữa 2 vòng tròn màu da cam và đỏ lồng vào nhau... Tên và logo của ngân hàng phát hành thẻ. Số thẻ, tên của chủ thẻ được in nổi. Thời gian hiệu lực của thẻ: Là thời gian thẻ được phép lưu hành (tuỳ từng loại thẻ) được thống nhất là ngày dương lịch, tháng dương lịch, năm dương lịch Ký tự an ninh. Là số mật mã của đợt phát hành, mỗi loại thẻ luôn có ký tự an ninh kèm theo, in phía sau của ngày hiệu lực. Ví dụ thẻ Visa có chữ V (hoặc CV, PV, RV), thẻ Master Card có chữ M và chữ C lồng vào nhau. Mặt sau của thẻ gồm: Dải băng từ chứa các thông tin đã được mã hoá theo một chuẩn thống nhất như: số thẻ, ngày hết hạn, các yếu tố kiểm tra an toàn khác. Ô chữ kí dành cho chủ thẻ. Trên nền ô chữ ký, khách hàng phải ký vào chữ ký mẫu của mình khi nhận thẻ từ ngân hàng phát hành để cơ sở chấp nhận thẻ so sánh với chữ ký trên ô hóa đơn mua bán hàng hóa, dịch vụ hay tạm ứng tiền mặt. 1.1.3 Phân biệt thẻ tín dụng và các loại thẻ khác Thẻ có nhiều loại, dựa trên tính chất thanh toán, thẻ được chia thành 3 loại: thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ và thẻ rút tiền mặt. Đây là vấn đề về bản chất của thẻ, ta cần hiểu rõ để phân biệt thẻ tín dụng và các loại thẻ khác. Thẻ tín dụng (Credit Card): Khi sử dụng loại thẻ này chủ thẻ được cấp một hạn mức tín dụng không phải trả lãi để mua sắm hàng hoá, dịch vụ tại những cơ sở kinh doanh (cửa hàng, khách sạn, sân bay...) chấp nhận loại thẻ này. Các chủ thể phát hành thẻ sẽ qui định một hạn mức tín dụng nhất định cho từng chủ thẻ hay nói cách khác chủ thẻ chỉ được tiêu trong hạn mức đã cho. Hàng tháng, khi nhận được sao kê (thông báo yêu cầu thanh toán của ngân hàng theo danh sách các khoản chi đã thực hiện trong tháng), chủ thẻ chỉ phải thanh toán số tiền họ đã chi tiêu, mà không phải trả bất cứ một khoản lãi nào nếu trả đúng hạn quy định. Còn nếu chủ thẻ không thanh toán được hết nợ thì sẽ phải trả số tiền còn nợ theo mức lãi suất định trước. Lãi suất này được xác định tuỳ theo ngân hàng phát hành thẻ. Thẻ ghi nợ (Debit Card): Muốn được sở hữu thẻ này khách hàng phải có tài khoản tiền gửi tại ngân hàng. Khi giao dịch mua bán, giá trị giao dịch sẽ được trừ ngay lập tức vào tài khoản của chủ thẻ thông qua những thiết bị điện tử đặt tại cửa hàng, khách sạn..., và đồng thời ghi có vào tài khoản của cửa hàng, khách sạn đó. Thẻ ghi nợ còn được sử dụng để rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động (ATM). Thẻ ghi nợ thường không có hạn mức tín dụng vì nó phụ thuộc vào số dư hiện hữu trên tài khoản của chủ thẻ. Chủ thẻ chỉ chi tiêu trong phạm vi mình có. Với tính chất như vậy, thẻ ghi nợ thường được cấp có số dư tài khoản tiền gửi thường xuyên ghi Có. Tuy nhiên, tuỳ theo sự thoả thuận của chủ thẻ và ngân hàng phát hành, nếu số dư trên tài khoản của chủ thẻ không đủ thanh toán, ngân hàng sẽ cấp cho chủ thẻ một mức thấu chi, thẻ ghi nợ đã giúp cho cá nhân, doanh nghiệp được cấp một khoản tín dụng ngắn hạn mà không cần làm nhiều thủ tục. Có hai loại thẻ ghi nợ cơ bản: Thẻ on-line: là thẻ ghi nợ mà giá trị những giao dịch được khấu trừ ngay lập tức vào tài khoản tiền gửi của chủ thẻ. Thẻ off-line: là thẻ ghi nợ mà giá trị của những giao dịch sẽ được khấu trừ vào tài khoản của chủ thẻ sau đó vài ngày. Thẻ rút tiền mặt (Cash Card): Loại thẻ này được dùng để rút tiền mặt tại các máy rút tiền tự động (ATM) hoặc ở ngân hàng. Với chức năng chuyên để rút tiền nên chủ thẻ phải ký quĩ tiền gửi vào tài khoản ngân hàng hoặc chủ thẻ phải được cấp tín dụng, thấu chi mới sử dụng được. Số tiền rút ra mỗi lần sẽ được trừ dần vào số tiền ký quỹ. Trước đây, thẻ rút tiền có hai loại, một là chỉ để rút tiền tại những máy tự động của ngân hàng phát hành, hai là để rút tiền không chỉ ở ngân hàng phát hành mà còn được sử dụng để rút tiền ở các ngân hàng khác. Hiện nay hầu hết các loại thẻ của các ngân hàng đều rút được ở cả các máy rút tiền của ngân hàng phát hành và ngân hàng liên kết với nó, tất nhiên ở trường hợp thứ 2 thường phải chịu một khoản phí nhỏ. 1.2 PHÂN LOẠI THẺ TÍN DỤNG 1.2.1 Theo công nghệ sản xuât Thẻ khắc chữ nổi (Embossed card): Là loại thẻ của những ngày đầu tiên xuất hiện. Trên bề mặt của thẻ được khắc chữ nổi các thông tin cần thiết. Ngày nay hầu như không còn loại thẻ này, vì kỹ thuật làm thẻ thô sơ, dễ bị lợi dụng làm giả. Thẻ băng từ (Magneic stripe): Thẻ được dựa trên kỹ thuật những thông tin của thẻ và chủ thẻ được mã hoá trên băng từ ở mặt sau của thẻ. Thẻ này hiện nay đang được sử dụng rộng rãi, tuy nhiên thẻ có thể bị lợi dụng gây mất tiền do những thông tin ghi trên thẻ hẹp mang tính cố định, không thể áp dụng mã hoá an toàn, có thể đọc được dễ dàng qua hệ thống máy vi tính. Vậy nên thế giới đang có xu hướng chuyển sang thẻ thông minh. Thẻ thông minh (Smart card): Là loại thẻ thế hệ mới, dựa trên kỹ thuật vi xử lý tin học, gắn vào thẻ một “chíp” điện tử có cấu trúc như một máy tính hoàn hảo. Thẻ có tính an toàn và bảo mật rất cao. Tuy vậy giá thành của thẻ rất cao nên thẻ này mới chỉ phổ biến ở những nước phát triển. 1.2.2. Căn cứ vào phạm vi sử dụng Thẻ nội địa: là loại thẻ được giới hạn trong phạm vi một quốc gia, do vậy đồng tiền giao dịch phải là đồng tiền nước đó. Thẻ quốc tế: Là loại thẻ sử dụng các loại ngoại tệ mạnh để thanh toán, được chấp nhận trên phạm vi toàn cầu. Thẻ được hỗ trợ, quản lý trên toàn thế giới bởi các tổ chức tài chính lớn như Mastercard, Visacard… hoạt động thống nhất đồng bộ. Thẻ quốc tế rất được ưa chuộng vì tính an toàn, tiện lợi của nó. 1.3. CÁC CHỦ THỂ THAM GIA VÀO THỊ TRƯỜNG THẺ TÍN DỤNG 1.3.1. Tổ chức thẻ quốc tế Là tổ chức đứng ra liên kết các thành viên, đặt ra quy định bắt buộc đối với các thành viên, hoạt động thống nhất thành một hệ thống toàn cầu. Bất cứ ngân hàng nào hiện nay hoạt động trong lĩnh vực thẻ quốc tế đều phải gia nhập vào ít nhất một tổ chức thẻ quốc tế. Tổ chức thẻ quốc tế được tổ chức dưới hai hình thức: Hiệp hội và ngân hàng (hay công ty). Hình thức hiệp hội: do một nhóm ngân hàng liên kết với nhau thành lập ra. Hiệp hội soạn thảo ra qui định riêng về cách tổ chức, cấp phép, bù trừ, thanh toán áp dụng cho tất cả các thành viên của hiệp hội, đồng thời tổ chức về vấn đề cạnh tranh trên thị trường và vấn đề pháp lý. Hiệp hội không trực tiếp phát hành thẻ mà giao cho các thành viên và thu phí thường niên. Điển hình của loại hình này là tổ chức thẻ Visa và Masters. Hình thức ngân hàng (hay công ty): do một hoặc hai ngân hàng hay công ty đứng ra tổ chức và độc quyền phát hành loại thẻ của họ. Họ trực tiếp phát hành và quản lý thẻ, do vậy phạm vi hoạt động thường nhỏ hơn so với hình thức hiệp hội. JCB và American Express là điển hình của hình thức tổ chức này. 1.3.2. Ngân hàng phát hành thẻ Là thành viên chính thức của tổ chức thẻ và được cấp phép phát hành thẻ. Ngân hàng có trách nhiệm tiếp nhận, xử lý hồ sơ xin cấp thẻ, thiết kế các yêu cầu kĩ thuật, mật mã ký hiệu cho các loại thẻ để đảm bảo an toàn cho quá trình sử dụng thẻ, sau đó phát hành thẻ cho khách hàng, mở và quản lý tài khoản thẻ. Cụ thể, ngân hàng phát hành chịu trách nhiệm: Thanh toán ngay số tiền trên hoá đơn do ngân hàng đại lý chuyển đến khi ngân hàng này thực hiện đúng thủ tục do ngân hàng phát hành qui định. Đăng ký các thẻ vào danh sách đen để báo cho ngân hàng đại lý và cơ sở tiếp nhận. Cấp phép cho các thương vụ thanh toán vượt hạn mức thông qua trung tâm dữ liệu. Khấu trừ trực tiếp vào tài khoản chủ thẻ đối với thẻ ghi nợ. Từng kỳ lập bảng sao kê ghi rõ các khoản cụ thể đã sử dụng và yêu cầu thanh toán đối với thẻ tín dụng. Hoàn lại tiền ký quỹ nếu chủ thẻ không sử dụng hết đối với thẻ tiền mặt. Cung cấp các vật dụng dùng vào mục đích quảng cáo thẻ (giấy quảng cáo, biểu quảng cáo). 1.3.3. Chủ thẻ Chủ thẻ là người có tên trên thẻ, được ngân hàng phát hành thẻ cho phép sử dụng thẻ để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ thay tiền mặt theo hạn mức được cấp trên thẻ. Ngoài ra chủ thẻ có thể sử dụng thẻ để rút tiền mặt tại các máy rút tiền tự động hoặc các NH đại lý. Chủ thẻ có thể là một cá nhân riêng lẻ, hoặc đại diện cho một công ty hay tổ chức nào dó có nhu cầu sử dụng thẻ thanh toán. Chủ thẻ phải trả phí cho ngân hàng phát hành thẻ. Một chủ thẻ có thể yêu cầu cấp thêm thẻ phụ cho người thân. Chủ thẻ chính và chủ thẻ phụ cùng sử dụng chung một tài khoản thẻ với hạn mức tín dụng mà ngân hàng cấp cho chủ thẻ chính. Giao dịch của chủ thẻ chính và chủ thẻ phụ được thể hiện trên cùng một sao kê và được gửi cho chủ thẻ chính để thanh toán. Chủ thẻ chính là người chịu trách nhiệm cuối cùng về các khoản chi tiêu của cả chủ thẻ chính và chủ thẻ phụ. Chủ thẻ có các trách nhiệm sau: Bảo quản thẻ không để kẻ khác lấy cắp số hoặc lợi dụng. Sử dụng thẻ đúng mục đích quy định. Không giao thẻ hoặc mật mã thẻ cho người khác, chủ thẻ phải chịu rủi ro, không thể kiện ngân hàng phát hành thẻ khi để xảy ra việc giả mạo thẻ để rút tiền Có trách nhiệm thanh toán, hoàn trả các khoản đã sử dụng và lãi cho ngân hàng phát hành nếu là thẻ tín dụng. Khi mất thẻ phải báo ngay cho NHPH thẻ (tên, địa chỉ, số series ghi ở mặt sau của thẻ) để kịp thời xử lý 1.3.4. Ngân hàng thanh toán thẻ Ngân hàng thanh toán thẻ là thành viên chính thức hoặc thành viên liên kết của tổ chức thẻ hoặc các ngân hàng phát hành thẻ, được ủy quyền thực hiện nghiệp vụ phát hành thẻ. Ngân hàng thanh toán thẻ là ngân hàng trực tiếp ký hợp đồng với các cơ sở chấp nhận thẻ, và thanh toán các chứng từ giao dịch do cơ sở chấp nhận thẻ xuất trình. Một ngân hàng vừa có thể đóng vai trò là ngân hàng phát hành thẻ vừa là ngân hàng thanh toán thẻ. Ngoài ra còn có các ngân hàng đại lý thanh toán thẻ, làm đại lý thanh toán cho các ngân hàng thanh toán thẻ. Ngân hàng thanh toán có trách nhiệm: Trong phạm vi một ngày làm việc kể từ khi nhận được biên lai thanh toán, phải trả tiền vào tài khoản của cơ sở chấp nhận thẻ và khi việc thanh toán thẻ đúng qui định thì phải thanh toán ngay với trung tâm phát hành thẻ nơi ngân hàng đại lý nhận làm đại lý. Có trách nhiệm cung cấp các máy móc thiết bị, các hoá đơn thanh toán và bảng kê hoá đơn; các tài liệu hướng dẫn cách tiếp nhận thẻ, kiểm tra thẻ, các thông báo mới của ngân hàng đại lý nhận làm thẻ đại lý. 1.3.5. Cơ sở chấp nhận thẻ Cơ sở chấp nhận thẻ là các tổ chức hay cá nhân cung ứng hàng hoá, dịch vụ chấp nhận thẻ làm phương tiện thanh toán. Các cơ sở này thông thường được ngân hàng, hoặc các tổ chức thẻ quốc tế trang bị máy móc, thiết bị chuyên dụng để thực hiện chấp nhận thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ bằng thẻ. Cơ sở chấp nhận thẻ có trách nhiệm: Chỉ chấp nhận thanh toán các thẻ đóng mẫu do Ngân hàng thanh toán và ngân hàng phát hành hay hiệp hội thẻ qui định. Chỉ thanh toán các thẻ đã kiểm tra đúng mật mã, và qui định về kỹ thuật an toàn của Ngân hàng đại lý và ngân hàng phát hành. Sau khi giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ theo thẻ, trong pham vi số ngày làm việc qui định phải nộp biên lai thanh toán vào ngân hàng đại lý để đòi tiền. Để quá hạn, nếu gặp rủi ro ngân hàng đại lý không chịu trách nhiệm. Có trách nhiệm thường xuyên trưng bày các biểu tượng của thẻ mà cơ sở chấp nhận thanh toán. 1.4. LỢI ÍCH CỦA THẺ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI CÁC CHỦ THỂ VÀ NỀN KINH TẾ 1.4.1. Lợi ích của thẻ đối với chủ thẻ Thứ nhất, tiết kiệm thời gian, an toàn và tiện lợi. Đã có khá nhiều phương thức thanh toán không dùng tiền mặt xuất hiện như: séc, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, phương thức chuyển tiền khác nhưng đều có những nhược điểm. Ví dụ như là với séc du lịch, người phát hành sẽ phải dự đoán trước xem sẽ tiêu hết bao nhiêu và phải đến ngân hàng làm thủ tục mua séc trước chuyến đi đồng thời thanh toán tiền trước cho ngân hàng cùng với một khoản phí dù trên thực tế bạn chưa sử dụng séc này. Khi trở về nhà, nếu chưa sử dụng hết số tiền trên séc, hoặc người chủ séc phải mất thời gian hay chi phí để đến ngân hàng làm thủ tục đổi từ séc thành tiền hoặc sẽ chấp nhận rủi ro về tỷ giá khi giữ séc cho lần sử dụng sau. Thẻ tín dụng nhờ có các ưu điểm như: chủ thẻ không cần lên kế hoạch chi tiêu trước, cũng không cần phải trả tiền trước cho ngân hàng, chủ thẻ được quyền chi tiêu trước rồi trả tiền sau việc này đơn giản hơn so với dùng séc. Khi sử dụng thẻ, chủ thẻ sẽ tiết kiệm được thời gian mua hàng cũng như thời gian chờ làm các thủ tục với séc du lịch hay tiền mặt. Thứ hai, cung cấp khoản tín dụng tự động, tức thời. Khi sử dụng thẻ tín dụng thì khả năng mua hàng sẽ không bị gò bó. Dù việc mua hàng có được dự tính trước hay không thì thẻ thanh toán cũng là một nguồn tín dụng tự động giúp, cho các chủ thẻ khỏi phải lên ngân hàng xin vay. Người nào có tâm lý ngại đến ngân hàng xin vay sẽ đánh giá cao tiện ích này. Hơn thế nữa chủ thẻ có thể thanh toán một phần nhỏ và số còn lại chủ thẻ có thể trả sau. Thứ ba, chủ thẻ được hưởng nhiều dịch vụ giá trị gia tăng đi kèm Hiện nay, các tổ chức thẻ quốc tế đang ngày càng đa dạng hóa loại hình phục vụ của mình nhằm đem lại độ thỏa dụng cao nhất cho khách hàng. Ví dụ như cung cấp dịch vụ thanh toán hóa đơn tiền điện, nước, điện thọai hoặc các dịch vụ chăm sóc sức khỏe… 1.4.2. Lợi ích của thẻ đối với ngân hàng phát hành thẻ Thứ nhất, thẻ tín dụng là phương tiện tối ưu để hấp dẫn khách hàng mới. Trong công cuộc cạnh tranh hiện nay, ngoài cách thức thông thường như giảm lãi suất để thu hút khách hàng (một công cụ quá quen thuộc nhưng không phải lúc nào cũng thực hiện được) các ngân hàng còn cố gắng tạo ra các sản phẩm mới để thu hút khách hàng. Lĩnh vực thẻ thanh toán là một lĩnh vực mới sẽ 0rất phát triển trong tương lai, nếu ngân hàng nào “tiếp cận” sớm sẽ chiếm được thị phần lớn và nếu “chậm chân” thì việc gia nhập sẽ rất khó khăn. Thẻ là phương tiện tối ưu bởi vì nếu khách hàng muốn phát hành thẻ phải mở tài khoản cá nhân tại ngân hàng, khi có tài khoản tại một ngân hàng thì khách hàng hiếm khi chuyển sang một tổ chức đối thủ cạnh tranh, điều này mang lại sự trung thành của khách hàng với ngân hàng. Dựa vào tâm lý này của khách hàng lúc đó ngân hàng có thể tăng lãi suất tương đối với các khoản tín dụng thanh toán thẻ. Thứ hai, việc áp dụng thẻ tăng thêm thu nhập cho ngân hàng. Thu nhập chính của ngân hàng từ thẻ tín dụng gồm: phí từ cơ sở chấp nhận thẻ, phí từ khách hàng (phí phát hành, phí thường niên, phí chậm thanh toán, phí rút tiền mặt, lãi suất cho vay hiện hành, lãi vượt hạn mức tín dụng...) và các khoản thu từ các dịch vụ ngân hàng khác, các khoản đầu tư kèm theo. Ngoài ra, kinh doanh thẻ tạo một sự “hỗ trợ chéo” mà rất có hiệu quả cho ngân hàng. Tỷ lệ lợi nhuận tương đối cao từ kinh doanh thẻ có thể dùng để bù đắp cho những hoạt động kém sinh lời lớn của ngân hàng như kinh doanh trên tài khoản vãng lai. Bằng việc khuyến khích khách hàng sử dụng thẻ tín dụng, ngân hàng sẽ thực hiện số giao dịch séc và tiền mặt ít hơn. Điều này mang lại lợi nhuận cho ngân hàng và rất nhiều lợi ích: thực hiện số giao dịch ít hơn, những thông tin thường cập nhật được cung cấp bởi các tổ chức thẻ quốc tế dưới hình thức điện tử làm cho việc ghi nợ tương ứng vào các tài khoản của khách hàng được nhanh hơn và đơn giản hơn...hoạt động của ngân hàng nhờ đó có hiệu quả hơn. Thứ ba, phát hành thẻ là một loại tín dụng tiêu dùng hiện đại góp phần đa dạng hoá hình thức kinh doanh của ngân hàng. Thẻ tín dụng ra đời làm phong phú thêm các dịch vụ ngân hàng, mang đến cho ngân hàng một phương tiện thanh toán đa tiện ích thoả mãn một cách tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Không chỉ có vậy, ở các nước đang phát triển phát triển dịch vụ phát hành và thanh toán thẻ, ngân hàng có thể có thêm các dịch vụ khác song song như: đầu tư hoặc bảo hiểm cho các sản phẩm. Thông tin về dịch vụ này đã được báo đến khách hàng sử dụng thẻ cùng với sao kê hàng tháng của ngân hàng. Thứ tư, thẻ mở rộng khả năng hoạt động của ngân hàng trên toàn cầu. Trở thành thành viên chính thức của một tổ chức thẻ quốc tế như Visa hay Masters, một ngân hàng nhỏ nhất trên thế giới cũng thể cho khách hàng một phương tiện thanh toán quốc tế có chất lượng như bất cứ đối thủ cạnh tranh lớn nào. Ngoài ra, nhờ các mối quan hệ với các tổ chức thẻ quốc tế, ngân hàng chỉ phải thực hiện duy nhất một giao dịch đó là thông qua tổ chức thẻ quốc tế, ngân hàng này chỉ phải thực hiện duy nhất một giao dịch thông qua các tổ chức ngân hàng khác có liên quan sẽ do Visa thực hiện. Sau lợi nhuận, khả năng cung cấp dịch vụ toàn cầu đem lại lợi ích lớn cho ngân hàng, tạo điều kiện cho ngân hàng tham gia vào quá trình toàn cầu hoá, hội nhập với cộng đồng quốc tế. Thứ năm, kinh doanh thẻ sẽ làm tăng sức mạnh thương hiệu cho ngân hàng Có thể nói rằng lợi ích mà ngân hàng nhận được từ hoạt động phát hành và thanh toán thẻ tín dụng là rất lớn. Nó không chỉ dừng lại ở thu nhập của ngân hàng mà còn là uy tín, là danh tiếng của ngân hàng. Mà trong hoạt động kinh doanh ngân hàng thì uy tín cũng như danh tiếng là điều quan trọng bậc nhất quyết định sự tồn tại, phát triển của ngân hàng cũng như khả năng cạnh tranh của ngân hàng trong tương lai. 1.4.3. Lợi ích của thẻ đối với cơ sở chấp nhận thẻ Thứ nhất, thẻ làm tăng doanh số bán hàng hoá dịch vụ và giảm chi phí bán hàng. Chấp nhận thanh toán thẻ nghĩa là cung cấp cho khách hàng một phương tiện nhanh chóng tiện lợi do vậy khả năng thu hút khách hàng sẽ tăng lên, doanh số cung ứng hàng hoá, dịch vụ của cơ sở chấp nhận thẻ cũng tăng lên. Thẻ tín dụng tạo ra cho cơ sở chấp nhận thẻ một khả năng cạnh tranh lớn so với đối thủ khác. Môi trường văn minh, hiện đại trong giao dịch, mua bán khi thanh toán thẻ là một yếu tố quan trọng để thu hút khách hàng, đặc biệt là khách du lịch nước ngoài và nhà đầu tư. Cùng với việc tăng doanh số bán hàng là việc giảm chi phí bán hàng bởi cơ sở chấp nhận thẻ sẽ không phải trả các khoản chi phí cho việc đếm, bảo quản tiền, quản lý tài chính. Thứ hai, thẻ tiết kiệm thời gian, đảm bảo an toàn. Khi giao dịch thẻ, với các thiết bị chuyển tiền điện tử tại điểm bán hàng được sử dụng ngày càng nhiều thì rất đơn giản: người ta chỉ việc đưa băng từ của thẻ qua thiết bị này, mọi thông tin của thẻ đều được nhận dạng, giao dịch được thực hiện. Giao dịch sẽ được trả tiền ngay vào tài khoản của cơ sở chấp nhận thẻ. Ngoài ra, dù cho chưa được thanh toán ngay thì thanh toán thẻ cũng có ít nguy cơ bị mất cắp hơn so với séc hoặc tiền mặt. Một ngăn kéo đầy séc hay tiền mặt có giá trị lớn dễ là mục tiêu của nhân viên thiếu trung thực hoặc kẻ trộm hơn, nhưng cũng với số tiền như vậy để trên hoá đơn thì chẳng có ai quan tâm vì nó chẳng có ý nghĩa với ai khác ngoài cơ sở chấp nhận thẻ. Thứ ba, tăng vòng quay thu hồi vốn, tiền trong tài khoản được hưởng lãi. Khi dữ liệu về giao dịch thẻ đã được truyền đến ngân hàng hoặc CSCNT nộp hoá đơn thanh toán thẻ cho ngân hàng thì tài khoản của CSCNT được ghi có ngay. Số tiền này họ có thể sử dụng ngay vào mục đích quay vòng vốn hoặc là các mục đích khác. Nhanh chóng luân chuyển vốn là điểm thuận lợi hơn của thẻ so với với séc, séc thường phải mất một thời gian nhất định mới được thanh toán. 1.4.4. Lợi ích của thẻ đối với nền kinh tế Thứ nhất, giảm khối lượng tiền trong lưu thông và tăng nhanh khối lượng chu chuyển, thanh toán trong nền kinh tế. Là một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, vai trò đầu tiên của thẻ tín dụng chính là giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông. Tại những nước phát triển, thanh toán tiêu dùng bằng thẻ chiếm tỉ trọng gần như lớn nhất trong các tổng số các phương tiện thanh toán. Nhờ vậy mà khối lượng cũng như áp lực tiền mặt trong lưu thông đã giảm đáng kể. Cũng từ đó làm giảm chi phí giao dịch (chi phí của các phương tiện thanh toán điện tử thấp hơn chi phí giao dịch tiền mặt từ 30% - 50%). Thứ hai, thu hút được khách du lịch và đầu tư nước ngoài. Thanh toán thẻ là làm giảm bớt các giao dịch thủ công bằng tay, tiếp cận với một phương tiện văn minh thế giới do đó sẽ tạo ra một môi trường thương mại văn minh, hiện đại hơn. Đây cũng là yếu tố thu hút khách du lịch và các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Thứ ba, thực hiện được các chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước. Trong thanh toán thẻ các giao dịch đều nằm dưới sự kiểm soát của ngân hàng. Nhờ đó mà các ngân hàng có thể dễ dàng kiểm soát được mọi giao dịch, tạo nền tảng cho công tác quản lý vĩ mô của nhà nước, thực hiện chính sách ngoại hối quốc gia. Việc sử dụng thẻ tín dụng nói riêng và thanh toán qua ngân hàng nói chung tăng tính minh bạch tài chính cho nền kinh tế, giảm trốn thuế, tham nhũng, nền kinh tế ngầm. Và thực tế hiện nay mọi chế độ, chính sách liên quan tới thẻ đều dựa trên chính sách quản lý ngoại hối của nhà nước. 1.5. NGHIỆP VỤ KINH DOANH THẺ TÍN DỤNG Như đã nói ở trên, thẻ tín dụng là một phương thức thanh toán không dùng tiền mặt. Bằng các biện pháp đảm bảo như tín chấp hoặc thế chấp. khách hàng có thể phát hành thẻ tín dụng quốc tế để thanh toán hàng hoá, dịch vụ tại các điểm bán hàng có chấp nhận thẻ và rút tiền mặt. Tổng quát nghiệp vụ kinh doanh thẻ tín dụng gồm có 3 nghiệp vụ cơ bản là phát hành, thanh toán và quản lý rủi ro. 1.5.1. Nghiệp vụ phát hành thẻ tín dụng Khi phát hành thẻ TDQT cần phải căn cứ vàp những quy định hiện hành của tổ chức thẻ quốc tế và luật pháp của nước sở tại. Đồng thời mỗi cơ quan quản lý việc phát hành sẽ có những quy chế riêng đòi hỏi phải tuân thủ trong qua trình phát hành. Cụ thể, thẻ TDQT được phát hành dựa trên cơ sở tín chấp, ký quỹ, thế chấp, và dựa trên khả năng tài chính của khách hàng. Ngân hàng thương mại muốn được cung ứng dịch vụ thẻ phải thỏa mãn một số yêu cầu như: có năng lực tài chính, đảm bảo hệ thống trang thiết bị đủ tiêu chuẩn, có đội ngũ cán bộ đủ năng lực chuyên môn, …. Khi đã có đủ các điều kiện trên, ngân hàng thương mại mới được phép phát hành thẻ theo quy trình chung như sau: Quy trình phát hành Bước 1: Tiếp nhận hồ sơ phát hành thẻ Khách hàng đến ngân hàng đề nghị được cấp thẻ tín dụng, khi đi có mang theo các hồ sơ cũng như giấy chứng nhận cần thiết. Đến nơi khách hàng trình giấy tờ và ký vào các văn bản mà ngân hàng yêu cầu. Bước 2: Ngân hàng tiến hành thẩm định lại hồ sơ Chi nhánh phát hành tiến hành xem xét lại hồ sơ được lập đúng chưa, tình hình tài chính (nếu là công ty) hay các khoản thu nhập thường xuyên của khách hàng (nếu là cá nhân), số dư trên tài khoản tiền gửi của khách hàng, mối quan hệ tín dụng với ngân hàng trước đây (nếu có). Sau khi thẩm định, ngân hàng sẽ ra quyết định chấp nhận hay từ chối phát hành. Bước 3: Với những hồ sơ được chấp nhận, ngân hàng tiến hành phân loại khách hàng để cấp thẻ Đối với thẻ ghi nợ, việc phát hành thẻ đơn giản vì khách hàng đã có tài khoản tại ngân hàng. Còn đối với thẻ tín dụng, ngân hàng phải tiến hành phân loại khách hàng để có chính sách tín dụng riêng . Thông thường có 2 loại hạn mức tín dụng: Hạn mức theo thẻ vàng: Thường cấp cho khách hàng loại một và lãnh đạo các doanh nghiệp có quan hệ tốt với ngân hàng, khách hàng thuộc hàng quan chức chính phủ hoặc lãnh đạo các cơ quan nước ngoài, các tổ chức quốc tế, các cá nhân có thu nhập cao và ổn định. Hạn mức cho thẻ thường: Được cấp cho những khách hàng có thu nhập thấp với hạn mức thấp hơn nhiều so với thẻ vàng. Bước 4:Trung tâm thẻ lập hồ sơ quản lý thẻ và chuyển cho chi nhánh phát hành thẻ. Bước 5: Ngân hàng phát hành giao thẻ cho khách hàng Ngân hàng phát hành yêu cầu chủ thẻ ký tên và đăng ký chữ ký mẫu ở ngân hàng. Sau khi thẩm định và phân loại các khách hàng, ngân hàng ghi những thông tin cần thiết về chủ thẻ đồng thời mã hoá và ấn định mã số cá nhân (PIN) cho chủ thẻ, nhập dữ liệu về chủ thẻ vào tập tin quản lý và giao thẻ cho khách hàng. Quy trình phát hành thẻ có thể khái quát trong sơ đồ sau: Chủ thẻ Ngân hàng phát hành thẻ Trung tâm thẻ (1) (5) (2),(3) (4) Sau khi ngân hàng giao thẻ cho khách hàng, khách hàng được gọi là chủ thẻ, ngân hàng được gọi là ngân hàng phát hành. Trong quá trình sử dụng thẻ, chủ thẻ có quyền sử dụng thẻ để rút tiền tại các máy ATM hoặc thanh toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ. Khi ngân hàng phát hành gửi sao kê cho chủ thẻ, chủ thẻ có quyền kiến nghị nếu có thắc mắc. Ngân hàng phát hành phải giải đáp những thắc mắc của chủ thẻ, thanh toán tiền cho ngân hàng thanh toán, các đơn vị chấp nhận thẻ. Trong trường hợp khách hàng yêu cầu phát hành lại thẻ, ngân hàng cần kiểm tra lại các chi tiết trong hồ sơ khách hàng. Việc in lại thẻ cũng giống như việc in thẻ mới. Trong trường hợp thẻ của khách hàng hết hạn sử dụng, ngân hàng phát hành sẽ thông báo trước cho chủ thẻ. Nếu chủ thẻ yêu cầu được tiếp tục sử dụng thẻ, ngân hàng sẽ phát hành lại thẻ. Nếu chủ thẻ không có ý kiến gì, việc sử dụng thẻ sẽ mặc nhiên chấm dứt. Sau khi kết thúc nghiệp vụ phát hành thẻ,ngân hàng phải tiến hành nghiệp vụ thanh toán thẻ vì kể từ lúc này khách hàng sử dụng thẻ trong thanh toán hoặc rút tiền mặt. 1.5.2. Nghiệp vụ thanh toán thẻ TDQT ` Sau khi thẻ được Ngân hàng phát hành thẻ trao cho khách hàng sử dụng, qui trình thanh toán thẻ phát sinh khi Chủ thẻ tiến hành mua sắm hàng hoá, dịch vụ…bằng thẻ tại các cơ sở chấp nhận thẻ, và rút tiền mặt tại máy ATM, tiếp đó các nghiệp vụ thanh toán hộ cho khách hàng giữa ngân hàng phát hành và các bên trung gian có liên quan trong thị trường thẻ, nhằm đảm bảo cuối cùng số tiền giao dịch của khách hàng được thanh toán cho cơ sở chấp nhận thẻ. Nghiệp vụ thanh toán thẻ có sự tham gia của hầu hết các thành viên của thị trường thẻ. (1) Chủ thẻ dùng thẻ để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, hoặc rút tiền mặt tại các cơ sở chấp nhận thẻ hoặc Ngân hàng đại lý. (2) Cơ sở chấp nhận thẻ hoặc Ngân hàng đại lý khi nhận được thẻ từ khách hàng kiểm tra tính hợp lệ của thẻ, thiết lập hoá đơn thanh toán, và trao hàng hoá, dịch vụ cho khách hàng. (3) Cơ sở chấp nhận thẻ giao dịch với Ngân hàng, gửi hoá đơn thẻ cho Ngân hàng thanh toán. (4) Ngân hàng thanh toán thẻ thực hiện thanh toán cho cơ sở chấp nhận thẻ (Ghi Có vào tài khoản của cơ sở chấp nhận thẻ hoặc Ngân hàng đại lý) (5) Ngân hàng thanh toán tiến hành thanh toán với Tổ chức thẻ quốc tế và các thành viên khác. Cuối mỗi ngày, Ngân hàng thanh toán tổng hợp toàn bộ các giao dịch phát sinh từ thẻ do Ngân hàng khác phát hành và truyền dữ liệu cho Tổ chức thẻ quốc tế. Chủ thẻ NH phát hành thẻ Cơ sở chấp nhận thẻ NH thanh toán thẻ Tổ chức thẻ Quốc tế (2) (1) (3) (9) (10) (7) (8) (5) (6) Sơ đồ : Quy trình nghiệp vụ thanh toán thẻ (4) (10) (6) Tổ chức thẻ quốc tế ghi Có cho Ngân hàng thanh toán Tổ chức thẻ quốc tế sau khi nhận được dữ liệu từ Ngân hàng thanh toán sẽ tiến hành ghi Có cho Ngân hàng. Dữ liệu mà tổ chức thẻ quốc tế truyền về bao gồm những khoản Ngân hàng thanh toán được trả, những khoản phí phải trả cho Tổ chức thẻ quốc tế, những giao dịch bị tra soát. (7) Tổ chức thẻ quốc tế báo nợ cho Ngân hàng phát hành. (8) Ngân hàng phát hành thẻ thanh toán nợ cho Tổ chức thẻ quốc tế (9) Ngân hàng phát hành thẻ gửi sao kê cho chủ thẻ (10) Chủ thẻ thanh toán nợ cho Ngân hàng phát hành Chủ thẻ sau khi nhận được sao kê sẽ tiến hành trả tiền cho những khoản hàng hoá, dịch vụ mà mình đã tiêu dùng. Trong một số trường hợp cơ sở chấp nhận thẻ phải liên hệ với Ngân hàng ._.phát hành hoặc Tổ chức thẻ quốc tế (thay mặt Ngân hàng phát hành) để cấp phép cho giao dịch mua bán hoặc ứng tiền mặt bằng thẻ. Các trường hợp xin cấp phép bao gồm: Các giao dịch ứng tiền mặt bằng thẻ tín dụng. Các giao dịch thanh toán hàng hoá, dịch vụ mà số tiền của giao dịch thanh toán bằng hoặc cao hơn mức hạn mức thanh toán của cơ sơ chấp nhận thẻ do các Tổ chức thẻ quốc tế qui định. Các thẻ mà cơ sở chấp nhận thẻ có nghi ngờ về hiệu lực của thẻ đối với chủ thẻ. Những thẻ thanh toán không có chữ ký mẫu của chủ thẻ trên băng chữ ký ở mặt sau của thẻ. 1.5.3. Nghiệp vụ quản lý rủi ro Căn cứ vào quy trình phát hành và thanh toán người ta chia rủi ro thành các nhóm như sau: 1.5.3.1. Rủi ro trong phát hành thẻ Giả mạo thông tin phát hành thẻ (Fraudulent Applications) Khách hàng có thể cung cấp thông tin giả mạo về bản thân, khả năng tài chính, mức thu nhập…cho NHPH khi yêu cầu phát hành thẻ. Nếu NHPH không thẩm định thông tin khách hàng, có thể dẫn tới những tổn thất tín dụng cho NHPH khi chủ thẻ không có đủ khả năng thanh toán các khoản tín dụng thẻ cố tình lừa đảo để chiếm dụng tiền của Ngân hàng. Thẻ giả Thẻ giả là loại rủi ro lớn nhất và nguy hiểm nhất hiện nay mà tất cả các tổ chức thẻ rất quan tâm. Có các loại thẻ giả sau: Thẻ bị thay đổi thông tin trên thẻ: Tội phạm dùng thẻ thật không còn giá trị lưu hành để thay đổi các thông tin trên thẻ. Thẻ giả mạo: Tội phạm làm thẻ giả dựa trên các thông tin lấy được từ việc đánh cắp các dữ liệu của thẻ thật bằng các thủ đoạn khác nhau. Loại giả mạo này thường liên quan đến tội phạm có tổ chức , vì yêu cầu công nghệ cao hơn. Thẻ chỉ giả mạo băng từ: Là loại thẻ giả chỉ có băng từ được mã hoã dựa trên dữ liệu của thẻ thật nhưng không có các thông tin dập nổi và những đặc điểm bảo mật trên thẻ. Tội phạm sử dụng thẻ tại các ĐVCNT thông đồng có EDC, hoặc tại các điểm bán hàng tự động không được kiểm soát chặt chẽ. Thẻ bị làm giả hoàn toàn : Là loại thẻ giả hoàn chỉnh với băng từ được mã hoá và trên phôi thẻ có đầy đủ những yếu tố như thẻ thật. Thẻ mất cắp, thất lạc (Lost – Stolen Card) Thẻ bị mất cắp hoặc thất lạc và bị sử dụng trước khi chủ thẻ kịp thông báo cho NHPH để có các biện pháp chấm dứt sử dụng hoặc thu hồi thẻ. Thẻ bị mất cắp, thất lạc cũng có thể bị bọn tội phạm sử dụng để làm thẻ giả (dập nổi, mã hoá lại băng từ bằng các thông tin giả mạo) như trường hợp thẻ giả. Chủ thẻ không nhận được thẻ do NHPH gửi (Never Received Issue) Thẻ bị đánh cắp hoặc bị lợi dụng thực hiện giao dịch trong quá trình chuyển từ NHPH đến chủ thẻ. Tài khoản của chủ thẻ bị lợi dụng (Account Takeover) Rủi ro này phát sinh khi NHPH nhận được những thay đổi thông tin của chủ thẻ đặc biệt là thay đổi địa chỉ của chủ thẻ. Do không xác minh kỹ, nên NHPH đã gửi thẻ về địa chỉ theo như yêu cầu, mà không đến tay chủ thẻ thực. Tài khoản của chủ thẻ thực đã bị người khác lợi dụng sử dụng. Rủi ro tín dung Chủ thẻ sử dụng thẻ nhưng không thực hiện thanh toán hoặc không đủ khả năng thanh toán. 1.5.3.2. Rủi ro trong hoạt động thanh toán thẻ: ĐVCNT giả mạo ĐVCNT cố tình đăng ký các thông tin không chính xác với ngân hàng thanh toán. NHTT sẽ chịu tổn thất khi không thu được những khoản đã tạm ứng cho những ĐVCNT này trong trưòng hợp những ĐVCNT thông đồng với chủ thẻ hoặc cố tình tạo ra các hoá đơn hoặc các giao dịch giả mạo. ĐVCNT thông đồng với chủ thẻ CPP ( Common Purchase Point): là hiện tượng một ĐVCNT được xác định là một điểm xảy ra việc đánh cắp dữ kiệu thẻ để sử dụng vào mục đích tạo các thẻ giả hoặc giao dịch giả mạo POC (Point of Compromise): là hiện tượng ĐVCNT thông đồng với chủ thẻ thanh toán thẻ giả. Thanh toán hàng hoá dịch vụ bằng thẻ qua các phương tiện viễn thông (MO/TO) ĐVCNT cung cấp hàng hoá dịch vụ theo yêu cầu của chủ thẻ qua thư, điện thoại, fax hoặc internet và thanh toán trên cơ sở các thông tin như: Loại thẻ, số thẻ, ngày hiệu lực, tên chủ thẻ. ĐVCNT cũng như NH thanh toán có thể chịu tổn thất trong trường hợp chủ thẻ thực không phải là khách hàng đặt mua hàng của ĐVCNT và giao dịch đó bị từ chối thanh toán. Nhân viên ĐVCNT in nhiều hoá đơn thanh toán của một thẻ (Multiple imprint) hoặc sửa đổi thông tin trên các hoá đơn thẻ. Đây chính là rủi ro liên quan đến đạo đức của nhân viên ĐVCNT. Khi thực hiện giao dịch, nhân viên của ĐVCNT đã cố tình in ra nhiều bộ hoá đơn thanh toán thẻ, nhưng chỉ giao một bộ hoá đơn cho chủ thẻ ký để hoàn thành giao dịch. Sau đó, nhân viên của ĐVCNT mạo chữ ký của chủ thẻ để nộp các hoá đơn thanh toán còn lại cho NH thanh toán để lấy tiền tạm ứng của NH. Nhân viên tại ĐVCNT cũng có thể sửa đổi các hoá đơn giao dịch, ghi tăng giá trị không được chủ thẻ chấp thuận. Đánh cắp dữ liệu băng từ (Skimming) Các thiết bị đọc thẻ tại ĐVCNT có thể bị cài đặt thêm thiết bị để thu thập các thông tin trên băng từ của thẻ thanh toán tại các ĐVCNT; hoặc nhân viên tại ĐVCNT có thể câu kết với các tổ chức tội phạm đọc dữ liệu thẻ thật bằng thiết bị chuyên dùng riêng. Các ĐVCNT có tỷ lệ rủi ro cao (High Rish Merchant) Các ĐVCNT có tỷ lệ rủi ro cao là các ĐVCNT kinh doanh hàng hoá dịch vụ có giá trị lớn, có tính chất dễ chuyển đổi sang tiền mặt – nơi tội phạm hoặc các tổ chức tội phạm thường sử dụng thẻ giả mạo. 1.5.3.3. Rủi ro nghiệp vụ Rủi ro phát sinh tại CNPH, CNTT, NHĐL của NHNT và TTT trong việc xử lý giao dịch, thực hiện quy trình nghiệp vụ hàng ngày. 1.5.3.4. Rủi ro kỹ thuật Loại rủi ro này xảy ra khi hệ thống máy móc, trang thiết bị, viễn thông, trung tâm chuyển mạch…có trục trặc, không ổn định, ngừng hoạt động hoặc gây lỗi trong quá trình xử lý ảnh hưởng đến việc phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ. Trong điều kiện hiện nay, khi khối lượng giao dịch tăng lên đến mức khổng lồ, dẫn đến việc xử lý nghiệp vụ lệ thuộc vào hệ thống máy móc, công nghệ, cũng như việc lưu trữ chứng từ điện tử trên vật mang tin như đĩa từ, băng từ, tape…là tất yếu. Do vậy, rủi ro chứa đựng trong khâu này cũng lớn theo. Bên cạnh đó, việc bảo mật công nghệ, bảo mật dữ liệu lỏng lẻo cũng có thể là nguyên nhân gây nên rủi ro vô cùng nghiêm trọng. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG KINH DOANH THẺ TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 2.1. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của NHNT Việt Nam NHNT Việt Nam tiền thân là Cục Ngoại hối thuộc Ngân hàng Nhà nước. Khi miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng cơ sở vật chất cho Chủ nghĩa Xã hội, làm hậu thuẫn cho công cuộc cách mạng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, thì đòi hỏi thành lập một định chế tài chính chuyên về nghiệp vụ ngân hàng đối ngoại. Trên cơ sở yêu cầu đó, ngày 30/10/1962, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định 115/CP thành lập NHNT Việt Nam trên cơ sở bộ máy của Cục Ngoại hối trực thuộc NHNN Việt Nam. Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 01/04/1963, NHNT Việt Nam chính thức được thành lập và đi vào hoạt động. Ngày 26/03/1988 Hội đồng Bộ trưởng đã ra nghị định số 53/HĐBT quy định rõ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan của HĐBT, được tổ chức thành 2 cấp: NHNN là cấp quản lý và các ngân hàng chuyên doanh trực thuộc gồm NHNT Việt Nam, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Ngày 14/11/1990 Hội đồng Bộ trưởng ban hành chỉ thị số 403/CT chuyển NHNT Việt Nam theo Nghị định 53/HĐBT ngày 26/03/1988 của HĐBT thành “Ngân hàng thương mại quốc doanh”, lấy tên là Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam gọi tắt là Ngân hàng Ngoại thương, tên tiếng Anh đầy đủ là Bank for Foreign Trade of Vietnam, viết tắt là Vietcombank (VCB). Với 2 pháp lệnh ngân hàng được ban hành, NHNT Việt Nam từ vai trò độc quyền về kinh doanh ngoại hối chuyển vào môi trường tự do cạnh tranh với các ngân hàng thương mại khác bao gồm cả các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh. NHNT Việt Nam ra đời đã đánh dấu bước phát triển rất quan trọng trong hoạt động ngân hàng tại Việt Nam. Trải qua hơn 40 năm xây dựng và trưởng thành, NHNT đã có những đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước bằng việc huy động vốn trong xã hội để đầu tư phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế, thực thi chính sách tiền tệ cũng như chính sách ngoại hối theo định hướng của Nhà nước. Trong những năm qua, với truyền thống chuyên doanh đối ngoại, NHNT được đánh giá một trong những ngân hàng thương mại hoạt động có hiệu quả nhất tại Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực tài trợ tín dụng và thanh toán quốc tế. NHNT Việt Nam liên tục giữ vai trò chủ lực trong hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Được Nhà nước xếp hạng là một trong 23 doanh nghiệp đặc biệt, NHNT Việt Nam đồng thời là thành viên của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam và Hiệp hội Ngân hàng Châu Á. Trong suôt 5 năm liên tiếp kể từ năm 2000, NHNT Việt Nam đã được tạp chí “The Banker” - một tạp chí rất có uy tín trong ngành tài chính ngân hàng thế giới với số lượng phát hành mỗi kỳ là 15 triệu ấn bản, bầu chọn danh hiệu “ngân hàng tốt nhất Việt Nam”. Tính đến cuối năm 2004, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã phát triển thành một hệ thống bao gồm: 26 chi nhánh cấp 1, 41 chi nhánh cấp 2, và 47 phòng giao dịch trên toàn quốc; 1 công ty tài chính và 3 văn phòng đại diện ở nước ngoài ; 3 công ty trực thuộc (công ty chứng khoán, công ty cho thuê tài chính, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản); Góp vốn cổ phần vào 6 doanh nghiệp (2 công ty bảo hiểm, 3 công ty kinh doanh bất động sản, 1 công ty đầu tư kỹ thuật), 7 ngân hàng và 1 quỹ tín dụng; Tham gia 4 liên doanh với nước ngoài. Ngoài ra, NHNT còn có khoảng 1250 ngân hàng đại lý trên 90 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới 2.1.2. Cơ cấu tổ chức của NHNT Việt Nam 2.1.2.1. Cơ cấu chung của NHNT Việt Nam P.QL đề án công nghệ P.thông tin tín dụng Văn phòng Hội đồng quản trị Ban Tổng giám đốc ALCO Ban kiểm soát Hội đồng tín dụng TRỤ SỞ CHÍNH P.kiểm tra nội bộ P.kinh doanh ngoại tệ P.quan hệ NH đại lý P.TC cán bộ& đào tạo P.quan hệ khách hàng P.vốn P.kế toán tài chính P.quản lí thẻ Trung tâm thanh toán P.TT tuyên truyền P.pháp chế P.QL xây dựng cơ bản P.quản trị P.tổng hợp thanh toán P.kế toán vốn P.tổng hợp & PT kinh tế P.quản lý tín dụng P. đầu tư dự án P.quản lí vốn LD CP P.kế toán quốc tế P.công nợ Trung tâm tin học MẠNG LƯỚI TRONG NƯỚC MẠNG LƯỚI NGOÀI NƯỚC Sở giao dịch Chi nhánh Công ty con VP đại diện tại Paris. Moscow, Singapore Công ty tài chính Việt Nam tại HongKong 2.1.2.2. Cơ cấu tổ chức bộ phận quản lý và kinh doanh thẻ Từ năm 1992, nhận thức được lợi ích của hoạt động kinh doanh thẻ, Phòng quản lý thẻ, trực thuộc NHNT trung ương đã được thành lập và trở thành đầu mối quan trọng nhất cho cả các hoạt động liên quan đến phát hành và thanh toán thẻ. Đầu tiên đó là những quan hệ đại lý với các tổ chức và các ngân hàng phát hành thẻ nổi tiếng trên thế giới. Đây cũng là trung tâm xử lý dữ liệu về phát hành, thanh toán, cấp phép và tra soát thẻ giữa các Chi nhánh NHNT, giữa NHNT với các thành viên khác và các Tổ chức thẻ quốc tế. Tham gia mạng thanh toán cũng như trao đổi toàn cầu của các Tổ chức thẻ quốc tế. Phòng có các nhiệm vụ chủ yếu: Nghiên cứu, hướng dẫn thực hiện các chính sách và chế độ liên quan đến phát hành và thanh toán thẻ. Là trung tâm xử lý, phát hành, in ấn và quản lý thẻ trắng. Nghiên cứu và tổ chức chương trình mạng lưới cơ sở chấp nhận thẻ và chủ thẻ trên toàn hệ thống. Tổ chức và phối hợp với các Tổ chức thẻ quốc tế thực hiện các chương trình quản lý rủi ro. Tổ chức tập huấn và đào tạo, bổ sung nghiệp vụ thẻ cho cán bộ. Quản lý, theo dõi và báo cáo hoạt động phát hành, thanh toán thẻ của toàn bộ hệ thống NHNT, các chi nhánh và các ngân hàng đại lý, các cơ sở chấp nhận thẻ và chủ thẻ. Các nhiệm vụ trên cho thấy, Phòng quản lý thẻ không trực tiếp tham gia vào nghiệp vụ kinh doanh thẻ mà việc kinh doanh thẻ được Phòng thẻ của Sở giao dịch và các chi nhánh thực hiện. 2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của NHNT Việt Nam trong những năm gần đây 2.1.3.1. Hoạt động huy động vốn NHNT Việt Nam có tổng nguồn vốn tăng trưởng mạnh và liên tục trong nhiều năm: Năm 1999 có tốc độ tăng trưởng là 34,17%, năm 2000 là 44,98%, năm 2001 là 16,83%, năm 2002 là 6,3%, năm 2003 là 19,42%, năm 2004 là 24,53%. Năm 2002, với sự nỗ lực và linh hoạt trong công tác điều hành vốn, tổng nguồn vốn đạt 81.495 tỷ VND. Tuy tốc độ tăng chậm so với những năm trước nhưng nguồn vốn vẫn đáp ứng đủ cho nhu cầu vốn tín dụng gia tăng mạnh trong năm. Công tác huy động vốn được làm tốt là do NHNT đã chủ động làm tốt công tác khách hàng, tăng cường một bước trong công tác điều hành, quản trị vốn, lãi suất, quản trị rủi ro, thanh khoản và áp dụng một số sản phẩm mới dựa trên nền tảng công nghệ. Tỷ trọng vốn bằng VND trong tổng nguồn vốn tăng mạnh (32,9%) trong năm 2002. Cơ cấu vốn được cải thiện theo hướng tích cực, tỷ trọng nguồn vốn VND trong tổng nguồn vốn tăng từ 27% năm 2001 lên 34% tính đến 31/12/2002. Bên cạnh đó thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu nguồn vốn theo hướng tăng tỷ trọng nguồn vốn trung và dài hạn, NHNT đã phát hành thành công nhiều đợt kỳ phiếu và trái phiếu nhằm đáp ứng nhu cầu vốn trung va dài hạn đang tăng cao. Năm 2003, công tác quản trị vốn đã không ngừng được tăng cường mạnh cả về chất và lượng; việc điều hành quản trị lãi suất được thực hiện một cách năng động và theo tín hiệu thị trường; cơ chế quản lý vốn tập trung toàn hệ thống tiếp tục được củng cố và phát huy hiệu quả; các hình thức huy động vốn được đa dạng hoá mang tính đặc trưng của NHNT (chứng chỉ tiền gửi, lãi suất bậc thang, tiết kiệm dự thưởng Seagame, v.v...); công tác quản lý thanh khoản đã được nâng cao và được quán triệt trong toàn bộ hệ thống. Nhờ đó công tác huy động vốn đã đạt được những kết quả rất khả quan. Tổng nguồn vốn đến cuối tháng 12/2003 đạt 97.521 tỷ VND, tăng 19.42% so với đầu năm, vượt kế hoạch 8% và chiếm 20,3% vốn huy động của toàn ngành ngân hàng. Trong năm hầu hết các chi nhánh trong hệ thống đã có nhiều nỗ lực nhằm huy động vốn tại địa bàn. Bốn đơn vị là Hội sở chính, chi nhánh HCM, Vũng Tầu, Hà Nội chiếm tới 83.8% vốn huy động toàn hệ thống. Một số chi nhánh khác có số dư huy động vượt ngưỡng 1.000 tỷ đồng là Vinh, Đồng Nai, Tân Thuận. Năm 2004, tổng vốn huy động của ngân hàng đạt mức 110.142 tỷ đồng. Vốn huy động trên thị trường II đạt 22,662 tỷ đồng, tăng 58,7% so với năm 2003. Nguồn huy động từ ngân sách Nhà nước và NHNN chiếm 44,7% trong vốn huy động trên thị trường II, so với năm 2003 là 47,3%. Tỷ lệ giữa tiền gửi và vay từ các tổ chức tín dụng khác khá là cân bằng 52/48. Huy động vốn từ dân cư và tổ chức kinh tế của ngân hàng có tốc độ tăng 18,8%, đạt 85,34 tỷ đồng. Cơ cấu vốn huy động từ dân cư so với từ tổ chức kinh tế trong 2 năm 2003-2004 khá ổn định, 42%/58% năm 2004 so với 43%/57% năm 2003. Bên cạnh đó, vốn huy động bằng ngoại tệ vẫn tiếp tục chiếm ưu thế, thể hiện ở 59% năm 2004 so với 57% năm 2003. Cũng trong năm 2004, ngân hàng tiếp tục phát hành giấy tờ có giá bao gồm kì phiếu, trái phiếu và chứng chỉ tiền gửi với nhiều kì hạn đa dạng và các ưu đãi hấp dẫn. NHNT đã chủ động áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt trên cơ sở cung, cầu vốn thị trường, đồng thời phát triển nhiều công cụ huy động vốn mới, nhằm đối phó với những biến động thị trường, đặc biệt là đối với USD. 2.1.3.2. Hoạt động tín dụng Từ những năm 1998-1999, NHNT được nhiều dự án khả thi, trong đó phải kể đến việc ngân hàng đã đứng ra làm đầu mối cho nhiều dự án cho vay đồng tài trợ lớn cùng với các ngân hàng quốc doanh và liên doanh khác như dự án Nhiệt điện Phú Mỹ, dự án Đường ống dẫn khí Nam Côn Sơn, trị giá mỗi dự án trên 100 triệu USD. Năm 2000, hợp đồng tài trợ thứ hai cho dự án đường ống dẫn khí Nam Côn Sơn được ký kết, ngoài ra ngân hàng còn tham gia các công trình phát triển và khôi phục kinh tế lớn của Chính phủ như cho vay khắc phục hậu quả của cơn bão số 5, cho vay thu mua lương thực và lúa gạo, cho vay phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn theo chính sách của Nhà nước. Số tiền mua tín phiếu, trái phiếu, công trái của kho bạc nhà nước là 1336 tỷ đồng. Đến cuối năm 2001, NHNT Việt Nam đã cung ứng 41.400 tỷ đồng vốn tín dụng cho nền kinh tế trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, công nghệ và công nghiệp chế biến, nông lâm nghiệp và thuỷ sản. Không chỉ tài trợ cho các dự án lớn của Tổng công ty nhà nước bằng nội tệ, NHNT đã tài trợ dự án bằng ngoại tệ cho dự án Đạm Phú Mỹ trị giá 230 triệu USD và nhiều dự án khác. Thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo đối tượng khách hàng nhằm tạo thế ổn định lâu dài, chương trình cho vay các dự án trọng điểm, cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, và chương trình mở rộng cho vay cá thể được khởi động từ cuối năm 2001 và triển khai mạnh mẽ trong năm 2002. Với những chương trình này, NHNT đã đạt được mức tăng trưởng tín dụng rất đáng kể, vượt xa tốc độ tăng trưởng trung bình trong toàn ngành ngân hàng (30,52%). Dư nợ tín dụng đối với khách hàng năm 2002 tăng 78% so với năm 2001 và đạt 29.295 tỷ VND. Trong các khoản tín dụng đối với khách hàng của Ngân hàng, cho vay dài hạn bằng ngoại tệ có tốc độ tăng trưởng mạnh 301,69% đạt 6.220.544 triệu VND; sau đó đến cho vay ngắn hạn bằng ngoại tệ tăng 207,71% đạt 5.141.799 triệu VND. Đi đôi với việc tăng trưởng mạnh về dư nợ, chất lượng tín dụng cũng được chú ý và bảo đảm. Tỷ lệ nợ quá hạn phát sinh ở mức thấp, chỉ chiếm 2.8%. Tỷ trọng cho vay trung và dài hạn chiếm 35%. Tiếp tục giữ vững vai trò của một ngân hàng có thế mạnh về vốn và khả năng làm đầu mối thu xếp vốn, Ngân hàng Ngoại thương đã rất tích cực tham gia cam kết cho vay các dự án trọng điểm của nhà nước với tổng trị giá gần 600 triệu USD. Năm 2002 đồng thời cũng là năm Ngân hàng Ngoại thương thực hiện giải ngân lớn nhất đối với các dự án trọng điểm của nhà nước với giá trị hơn 2.200 tỷ đồng, đóng góp quan trọng đến tốc độ tăng trưởng tín dụng của toàn hệ thống. Được Chính phủ khuyến khích nhóm các doanh nghiệp nhỏ và vừa có tốc độ tăng trưởng khá cao trong hai năm gần đây. Để đáp ứng nhu cầu vốn của nhóm doanh nghiệp này, chương trình tín dụng thêm 500 tỷ VND trong hai năm 2002 và 2003 đã được đề ra từ đầu năm. Với hoạt động hướng tới khách hàng được tăng cường đặc biệt là nhóm khách hàng này, chương trình tín dụng thêm 500 tỷ VND đã hoàn thành chỉ trong 1 năm. Tính đến ngày 31/12/2002 dư nợ tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ mang lại một ý nghĩa rất lớn góp phần đa dạng hoá thành phần khách hàng, phân tán rủi ro đồng thời mở ra hướng kinh doanh ổn định lâu dài. Tuy nhiên, so sánh với tiềm năng của thị trường thì mức dư nợ tín dụng này còn khiêm tốn. Bước sang năm 2003, tốc độ tăng trưởng tín dụng vẫn ở mức cao. Tính đến 31/12/2003, tổng dư nợ tín dụng của toàn bộ hệ thống NHNT Việt Nam là 39.269 tỷ VND, tăng 35,2% so với năm 2002, vượt kế hoạch tăng trưởng đề ra từ đầu năm (27,1%). Thực hiện chủ trương của Ban lãnh đạo ngân hàng “năm 2003 là năm tăng cường kiểm tra, kiểm soát nâng cao chất lượng tín dụng”, NHNT đã thực hiện nhiều hoạt động nhằm nâng cao chất lượng tín dụng của toàn bộ hệ thống. NHNT đã chú trọng áp dụng và hoàn thiện các giải pháp nâng cao quản trị rủi ro tín dụng như: xác định giới hạn tín dụng cho hầu hết khách hàng là doanh nghiệp, quản trị vay doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tập trung vào các khu công nghiệp, khu chế xuất. Về xử lý nợ tồn đọng, trong 3 năm thực hiện Đề án Tái cơ cấu, NHNT đã vận dụng tổng hợp nhiều giải pháp như dùng Quỹ Dự phòng rủi ro, khai thác và bán các tài sản xiết nợ, tích cực thu nợ trực tiếp từ khách hàng, áp dụng giãn nợ, tham gia vốn cổ phần để xử lý nợ tồn đọng. Tính đến cuối năm 2003, nợ quá hạn đối với các khoản vay hiện hành chỉ chiếm 2,2% tổng dư nợ, so với 2,8% năm 2002 và mức trung bình của ngành ngân hàng, giảm từ 1.035 tỷ năm 2002 xuống 372 tỷ năm 2003. Năm 2004, NHNT đã áp dụng nhiều biện pháp vào trong quản trị rủi ro tín dụng, góp phần thực hiện thành công chính sách tín dụng của năm 2004: "Củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng". Trước tiên phải kể đến là việc chính thức đưa hệ thống tính điểm và xếp hạng doanh nghiệp, hệ thống chấm điểm xếp hạng tổ chức tín dụng vào áp dụng trên toàn hệ thống. Đối mặt với nhiều cơ hội và thách thức trên thị trường, NHNT đã có những tế vào năm 2005. Tính đến 31/12/2004, tổng dư nợ tín dụng toàn hệ thống đạt 51.773 tỷ quy đồng, tăng 30,64% so với năm 2003, vượt mức tăng trưởng kế hoạch (27,2%). Tổng nợ quá hạn đến cuối năm 2004 là 1.451 tỷ quy đồng, chiếm tỷ trọng 2,8% trong tổng dư nợ - chạm mức chỉ tiêu khống chế đặt ra từ đầu năm là 2,8%. 2.1.3.3. Hoạt động thanh toán quốc tế Tiếp tục phát huy thế mạnh của một ngân hàng có truyền thống trong công tác thanh toán quốc tế đặc biệt là thanh toán xuất nhập khẩu. Năm 2001, NHNT Việt Nam là ngân hàng chủ lực và dẫn đầu trong thanh toán quốc tế. Ngân hàng chiếm 30,2% thị phần thanh toán xuất nhập khẩu của cả nước, vượt chỉ tiêu đề ra (29%). Doanh số xuất nhập khẩu tăng 1,7% so với năm 2000. Năm 2002, NHNT vẫn chiếm thị phần lớn nhất trong hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu với doanh số xuất khẩu 4,7 tỷ USD (28% thị phần), nhập khẩu 5,6 tỷ USD (29% thị phần). Doanh số thu từ hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu tăng 10200 triệu USD tức là tăng 10% so với năm 2001 trong đó xuất khẩu tăng 7,5% và nhập khẩu tăng 12,6%. Năm 2003, doanh số thanh toán xuất nhập khẩu của NHNT đạt gần 12,5 tỷ USD, tăng 21,9% so với năm 2002, chiếm 28% thị phần thanh toán xuất nhập khẩu của cả nước. Doanh số mua bán ngoại tệ đạt 10.052 triệu USD, tăng 1.258 triệu USD hay 14.3 % so với năm 2003. Lượng ngoại tệ mua được là 5.027 triệu USD, tăng 13.2%; bán 5.025 triệu USD cho khách hàng, tăng 15.4% so với năm trước. Trong đó, doanh số ngoại tệ NHNT bán cho các doanh nghiệp nhập khẩu xăng dầu đạt 1.307 triệu USD, tăng 22.3%; lượng ngoại tệ được cân đối từ Ngân hàng Nhà nước để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu xăng dầu trong năm qua là 622 triệu USD. Chênh lệch giữa số ngoại tệ bán cho mục đích xăng dầu và số lượng được cân đối là 685 triệu USD. Doanh số mua bán ngoại tệ nước ngoài của NHNT đạt 3.025 triệu USD, giảm 29.4% so với năm 2002. Do tình hình thị trường quốc tế có nhiều biến động bất thường như sự mất giá của USD đối với EUR và JPY, cho nên NHNT đã tăng cường quản lý nhằm hạn chế rủi ro đối với hoạt động này. Trong năm 2004, thanh toán xuất nhập khẩu thực hiện qua NHNT chiếm 28,5% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Doanh số thanh toán xuất nhập khẩu qua NHNT đạt 16,4 tỷ USD, tăng 32,3% so với năm trước. Doanh số thanh toán xuất khẩu qua NHNT năm 2004 đạt 6.967 triệu USD, tăng 22,4% so với năm 2003, chiếm 26,7% thị phần của cả nước. Doanh số thanh toán nhập khẩu năm 2004 đạt 9.409 triệu USD, tăng 39,3% so với năm 2003 và chiếm 29,9% thị trường cả nước. Hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu diễn ra mạnh nhất tại các chi nhánh nằm trong khu kinh tế phát triển của cả nước như: Hội sở chính, chi nhánh Tp.Hồ Chí Minh, chi nhánh Vũng Tàu, Chi nhánh Hải Phòng. Hoạt động kinh doanh ngọai tệ của NHNT năm 2004 cũng có nhiều khởi sắc. Đối với các giao dịch trong nước, NHNT đạt tổng doanh số mua bán là 13.601 triệu USD, tăng 36,3% so với năm 2003, lượng mua vào và bán ra tương đối cân bằng. Lượng ngoại tệ mua vào của ngân hàng chủ yếu từ các tổ chức kinh tế thanh toán nhập khẩu, chiếm 99,5%. Đối với các giao dịch kinh doanh với nước ngoài, nhu cầu khách hàng tăng cao cùng với việc áp dụng rộng rãi các hình thức mua bán ngoại tệ đa dạng giúp mảng kinh doanh này có tốc độ tăng trưởng trên 130% đạt 7.047 triệu USD. 2.1.3.4. Công nghệ và sản phẩm mới Trong những năm qua, nền tảng công nghệ của NHNT đã không ngừng được củng cố và phát triển. Hệ thống thanh toán quốc tế Swift và hệ thống thẻ tín dụng bắt đầu được triển khai vào đầu những năm 90 của thế kỉ trước, sản phẩm ngân hàng lõi “VCB Vision 2010” dược chính thức đưa vào sử dụng trong toàn hệ thống vào năm 2001, dịch vụ ngân hàng trực tuyến “VCB Online”, hệ thống thẻ ghi nợ “VCB Connect 24” được đưa vào năm 2002. Năm 2003, NHNT tiếp tục phát triển nền tảng công nghệ của mình bằng việc tiếp tục triển khai dự án Hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán do Ngân hàng thế giới tài trợ.Dự án này đã hoàn tất quá trình kết nối các sản phẩm, dịch vụ của NHNT thành 1 hệ thống tích hợp cung cấp cho khách hàng các sản phẩm ngân hàng hiện đại với chất lượng cao nhất, đồng thời cung cấp các công cụ quản trị tiên tiến cho sự phát triển bền vững của ngân hàng. Dựa trên nền tảng này, NHNT đã không ngừng phát triển các sản phẩm dịch vụ mới nhằm đáp ứng nhu câu ngày càng cao của khách hàng và nâng cao tính cạnh tranh của mình trên thị trường. Tính đến hết năm 2003, NHNT đã phát hành được 123.964 thẻ VCB Connect 24, tăng 4 lần so với năm 2002, nâng tổng số thẻ lên 153.313 thẻ, đồng thời phát hành được 9.832 thẻ VCB Visa và VCB Master, tăng 28% so với năm 2002. Riêng thẻ VCB Amex, tuy mới chỉ bắt đầu phát hành trong năm 2003 nhưng đã thu được kết quả khá khả quan, đạt 1.044 thẻ. Ngân hàng cũng kí liên minh thẻ với 11 NHTM hoạt động tại Việt Nam sử dụng hệ thống máy ATM, nhằm kết nối hệ thống ATM giữa các ngân hàng mở rộng tiện ích sử dụng thẻ cho khách hàng, tăng hiệu quả kinh tế cho các ngân hàng đồng thời tiết kiệm chi phí đầu tư cho toàn xã hội. Tổng doanh số thanh toán các loại thẻ quốc tế của ngân hàng đạt 150 triệu USD, tăng 38% so với năm 2002. NHNT chiếm 50% thị phần thanh toán thẻ và 40% thị phần thanh toán thẻ quốc tế. Trong năm 2003, NHNT được tổ chức thẻ quốc tế VISA trao giải Ngân hàng đứng đầu thị trường 2003. Ngoài các sản phẩm đặc trưng trên, năm 2003, NHNT liên tục đưa thêm một loạt sản phẩm phái sinh khác mang nhiều tiện ích cho khách hàng như sản phẩm thương mại điện tử V-CBP đầu tiên trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam, chính thức được bưu điện thành phố Hồ Chí Minh sử dụng từ tháng 8/2003, cho phép khách hàng thanh toán hoá đơn tiền điện thoại qua hệ thống ATM được lắp đặt khắp nơi trên toàn quốc với tính năng vượt trội, hoạt động 24/24 giờ Năm 2004 NHNT tiếp tục triển khai giai đoạn II của đề án hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán. Dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, ngân hàng đã xây dựng được nhiều sản phẩm dịch vụ mới với các tiện ích gia tăng nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường, mở rộng và tăng cường công tác quản trị kinh doanh trong nội bộ ngân hàng. Dịch vụ thẻ phát triển với tốc nhanh, thu hút hơn nửa triệu khách hàng cá nhân và hàng chục nghìn khách hàng mới mỗi tháng. Năm 2004, NHNT đã kết nối thành công mạng ATM với 6 ngân hàng thương mại cổ phần khác, 1 ngân hàng liên doanh; kết nối và triển khai ATM với POS với ngân hàng ngoại thương Lào. Tính đến cuối năm 2004, số máy ATM mà NHNT đã triển khai lên tới 400 máy, đưa doanh số hoạt động đạt 8.800 tỷ VND, mỗi ngày hệ thống ATM xử lý hơn 100 nghìn giao dịch. 2.2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 2.2.1. Thực trạng hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng trong giai đoạn 1990 đến 2003 Trong giai đoạn này, NHNT Việt Nam đã trải qua một số cột mốc đáng nhớ như sau: Ngày 27/6/1990, Vietcombank đã ký kết hợp đồng đại lý thanh toán thẻ Visa Card với đại diện ngân hàng BFCE (Pháp) chi nhánh Singapore, chính thức đặt chân vào thị trường thẻ tín dụng. Ngày 24/7/1991, tức là hơn một năm sau đó, Vietcombank ký hợp đồng đại lý thanh toán thẻ tín dụng quốc tế Masters Card với công ty thẻ MBF của Malaysia – công ty này đảm nhiệm vai trò là trung gian thanh toán thẻ cho Vietcombank. Cũng trong năm 1991, ngày 18/9, Vietcombank tiếp tục ký hoạt động đại lý thanh toán thẻ JCB với chính công ty JCB. Trong năm này, doanh số thanh toán thẻ tín dụng đạt 121,5 tỷ VND. Có thể nói trong những năm đầu này, hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng phát triển khá tốt, tổng doanh số mỗi năm tăng gần gấp đôi năm trước. Tất nhiên sự tăng trưởng mạnh này cũng một phần do kết quả tính toán dựa vào số tương đối (tỷ lệ %), bởi nếu xét về số tuyệt đối thì thực tế cũng không lớn lắm: năm 1992 doanh số thanh toán đạt 240,5 tỷ VND và năm 1993 là 431,4 tỷ VND. Tuy vậy đây cũng là những tiền đề quan trọng cho việc phát triển thị trường thẻ tín dụng sau này. Trong giai đoạn này NHNT Việt Nam mới chỉ chấp nhận thanh toán 3 loại thẻ là Visa, Masters và JCB nên cơ cấu doanh số thanh toán hầu như không thay đổi nhiều lắm: Visa chiếm hơn 80%, Masters chiếm khoảng 15% và JCB chỉ chiếm hơn 1% tổng doanh số thanh toán. Tháng 2/1994, ngay sau khi Mỹ chính thức tuyên bố bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam, Vietcombank ký kết hoạt động đại lý thanh toán thẻ với tổ chức thẻ Americain Express của Mỹ. Việc này đã tác động tích cực ngay vào doanh số thanh toán. Vì Amex là một loại thẻ nổi tiếng của Mỹ với doanh số thanh toán hàng năm rất lớn, đặc biệt trong lĩnh vực du lịch giải trí, nên ngay trong năm đầu thực hiện thanh toán doanh số thanh toán thẻ Amex đã đạt 161,39 tỷ VND – cao hơn tổng doanh số thanh toán của cả 3 loại thẻ trong năm 1991, đồng thời nâng tổng doanh số thanh toán của cả năm 1994 lên 1204 tỷ VND. Hai năm 1995, 1996 là 2 năm đạt doanh số thanh toán thẻ cao nhất trong giai đoạn này, thậm chí cao nhất trong 12 năm từ 1991 đến 2002. Năm 1995 tổng doanh số thanh toán đạt 1926,4 tỷ VND. Năm 1996 tổng doanh số thanh toán đạt 1993,8 tỷ VND. Sự tăng đột biến về doanh số thanh toán là kết quả của một loạt các sự kiện lớn của cả Việt Nam nói chung và Vietcombank nói riêng. Cụ thể, việc Việt Nam ra nhập tổ chức ASEAN, mở rộng quan hệ trên các lĩnh vực kinh tế – xã hội đã khiến cho lượng khách nước ngoài vào Việt Nam nhiều hơn. Và đặc biệt, sự kiện Vietcombank phát hành chiếc thẻ tín dụng quốc tế đầu tiên – Masters Card đã làm uy tín của ngân hàng tăng lên đáng kể. Cần nói rõ hơn, cho đến thời điểm năm 1996, mảng dịch vụ thẻ tín dụng của NHNT Việt Nam chỉ có hoạt động thanh toán. Trước đấy (1993, 1994, 1995) Vietcombank mới chỉ phát hành những thẻ mang tính chất thử nghiệm là thẻ Vietcombank Card và ATM, không phải là thẻ tín dụng quốc tế, dùng trong nội bộ hai thành phố lớn là Hà nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi trở thành thành viên chính thức của tổ chức thẻ quốc tế Masters Card vào năm 1995, năm 1996 NHNT đưa thẻ VCB-Master Card ra công chúng, mở đầu cho hoạt động phát hành thẻ tín dụng.._.ình quân. Đối với Vietcombank, dù đang chiếm hơn 50% thị phần thẻ song cũng vấp phải nhiều khó khăn tương tự khi phát triển thẻ tín dụng quốc tế bởi tỷ lệ non active ở mảng sản phẩm này hiện là 30%. Nguyên nhân của tình trạng này là, tuy dùng thẻ tín dụng rất có lợi khi khách hàng được sử dụng vốn của ngân hàng không mất phí, song tâm lý người tiêu dùng Việt Nam vẫn ngại mang tiếng vay tiền ngân hàng để tiêu. Vậy nên các chủ thẻ tín dụng chủ yếu chỉ dùng đến thẻ khi đi công tác nước ngoài. Trong tổng số 252 tỷ đồng doanh số sử dụng thẻ quốc tế quý I, tỷ lệ chi tiêu ở nước ngoài chiếm tới 85%. Trước tình trạng chi tiêu tiền mặt nhiều của các chủ thẻ Việt Nam, các nhà cung cấp dịch vụ và các tổ chức thẻ quốc tế như Visa Card hay Masters Card đã phải chuyển sang ưu tiên phát triển thẻ ghi nợ nội địa và quốc tế, điều đó làm cho hoạt động thẻ tín dụng phải giảm đi. Mặc dù tình trạng thẻ chết chưa đến mức đáng lo ngại và là chuyện thường xảy ra ở các thị trường mới phát triển. Song nếu không sớm khắc phục sẽ gây lãng phí thời gian và công sức quản lý của ngân hàng, dù chi phí để phát hành một chiếc thẻ không lớn. Để giải quyết vấn đề có lẽ các nhà cung câp dịch vụ phải giải quyết từ gốc nguyên nhân của nó: Đó là tình trạng người tiêu dùng Việt Nam chưa biết rõ các tính năng tiện ích của chủ thẻ, và đặc biệt, dù đã biêt song việc sử dụng lại khó khăn do các tính năng còn hạn chế do nguyên nhân từ phía ngân hàng. Đồng thời cũng cần phải có những cơ sở pháp lý để giải quyết những ràng buộc về việc duy trì hoạt động thẻ của chủ thẻ đối với ngân hàng. Trên đây là những thành công mà NHNT Việt Nam đã đạt được trong thời gian quan cùng với những hạn chế và nguyên nhân. Ngân hàng cần nhìn nhận vào thức tế tồn tai để đưa ra các chiến lược và giải pháp đúng đắn nhằm tăng cường hoạt động phát hành và thanh toán thẻ tín dụng cho hiện tại và tương lai. CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 3.1. ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 3.1.1. Phát triển sản phẩm mới Theo xu hướng phát triển trong lĩnh vực kinh doanh thẻ trên thế giới và trong khu vực, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trong thời gian tới sẽ nghiên cứu tìm kiếm đối tác và đưa ra các sản phẩm mới, hiện đại, tiện dụng để phù hợp với yêu cầu ngày càng cao của khách hàng và dịch vụ thẻ. Cụ thể, để tận dụng cơ sở khách hàng và những lợi thế của các tổ chức thương mại lớn trong nước, NHNT Việt Nam sẽ liên kết với các đối tác tài chính quốc tế để đưa ra lưu hành các sản phẩm thẻ liên kết. Trước mắt là thẻ liên kết Amex Blue Box cùng với Vietnam Airlines. Sau đó sẽ có phát triển thẻ liên kết thương hiệu Visa hoặc Master cùng với bảo hiểm, viễn thông, Petrolimex. Song song với nó, Vietcombank cũng đang triển khai quá trình chuyển đổi sang công nghệ thẻ chip vì loại thẻ này không những tăng thêm sự an toàn mà còn tăng khả năng cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài trong điều kiện Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. 3.1.2. Về xúc tiến khách hàng Hiện nay dịch vụ thẻ tín dụng còn là một dịch vụ tương đối mới chưa được nhiều người dân biết đến, đòi hỏi phải có sự tuyên truyền, khuyếch trương quảng cáo và công tác marketing của đội ngũ cán bộ khách hàng. Trong thời gian tới Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam sẽ đẩy mạnh công tác này thông qua việc xây dựng chương trình quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, tăng cường, bồi dưỡng lực lượng cán bộ marketing cơ sở và Trung ương, có chính sách khen thưởng , khuyến khích thích đáng cho các chi nhánh, cá nhân làm công tác khách hàng tốt. 3.1.3. Phát triển công nghệ Để theo kịp những phát triển công nghệ của thời đại, đáp ứng ngày tốt hơn nhu cầu của khách hàng, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam sẽ nghiên cứu nâng cấp hệ thống xử lí dịch vụ thẻ, khắc phục những tồn tại về kĩ thuật đồng thời tiếp cận các công nghệ mới trên thế giới. 3.2. GIẢI PHÁP CỤ THỂ NHẰM TĂNG CƯỜNG HỌAT ĐỘNG PHÁT HÀNH VÀ THANH TOÁN THẺ TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM Dựa trên những hạn chế đã trình bày ở chương 2, tôi xin được trình bày phương hướng giải pháp cho từng vấn đề đó. 3.2.1. Giải pháp nhằm tăng cường đối tượng sử dụng thẻ tín dụng Nguyên nhân của việc hạn chế đối tượng sử dụng thẻ như đã trình bày ở trên gồm có sự hạn chế về trình độ dân trí và tập quán thanh toán dùng tiền mặt, công tác Marketing của ngân hàng và nguyên nhân do chính bản thân dịch vụ. Về trình độ dân trí và tập quán thanh toán không dùng tiền mặt thì có thể nói đây là vấn đề nhạy cảm và khó tác động một cách trực tiếp để làm thay đổi nó. Sự hội nhập kinh tế quốc tế và sự tăng trưởng của thị trường tài chính Việt Nam sẽ làm thay đổi những tập quán này. Việc mà các ngân hàng như Vietcombank có thể làm là đóng góp một cách tích cực vào sự phát triển của thị trường tài chính bằng các hoạt động như nâng cao chất lượng dịch vụ và marketing. Về công tác marketing và quảng bá sản phẩm, NHNT Việt Nam cần phải có những chiến lược rõ ràng dựa trên cách làm việc khoa học. Trước hết cần phải phân đoạn thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu cho sản phẩm, sau đó phải có những chiến lược riêng cho từng nhóm khách hàng. Cụ thể như sau: Đối với công tác phân đoạn thị trường, trước hết cần phải quan tâm đánh giá lại những đặc điểm của thị trường Việt Nam. Thứ nhất, đối với 70% dân số Việt Nam sống ở nông thôn và gần 60% lao động trong nông nghiệp với mức thu nhập thấp và không ổn định, đa phần là dân trí thấp. Họ còn chưa hiểu và hình dung được khái niệm thẻ như thế nào huống chi nói đến sử dụng. Vì vậy, trong điều kiện hiện nay Ngân hàng Ngoại thương không nên tập trung chú ý, hướng dịch vụ thẻ tín dụng quốc tế vào phục vụ đối tượng này. Thứ hai, đối với dân số ở thành thị cũng nên được phân loại thành 2 đối tượng: những đối tượng có thu nhập trung bình trở xuống và những đối tượng có thu nhập khá trở lên. Tất nhiên để phân biệt 2 đối tượng này ngân hàng có thể thông qua các công ty làm nhiệm vụ điều tra thị trường hoặc tự điều tra nhưng phải dựa trên những phương pháp khoa học, linh hoạt và kết hợp với tình hình thực tế của đất nước và của từng khu vực, bởi vì thực tế việc điều tra về thu nhập của một người bao giờ cũng là một vấn đề hết sức nhạy cảm. Ví dụ, đối tượng có thu nhập trung bình là những người có mức thu nhập bình quân từ 2 triệu đồng/tháng trở xuống. Đó là những người buôn bán nhỏ, thợ thủ công, công nhân, sinh viên,...Việc mua sắm hàng hoá và chi trả dịch vụ của những người dân này là những khoản nhỏ lẻ, phải tính tới hàng tháng, hàng năm mới có được 1 lần mua các đồ dùng đắt tiền...Trong số họ cũng có người đi du lịch xa bằng máy bay, ăn nghỉ tại khách sạn, v.v... Song đó là kết quả của một quá trình tích luỹ tiết kiệm lâu dài, hay một khoản tài chính đột xuất như quà biếu, tiền lương, không phải là thường xuyên. Do vậy, việc phát hành thẻ cho đối tượng này thực tế khá khó khăn và có thể nói là không kinh tế. Tuy vậy thực tế họ là lượng khách hàng có tiềm năng do dễ được tiếp xúc với những phương tiện thông tin đại chúng và nhiều thành phần kinh tế, nên NHNT có thể tiếp thị tới họ những sản phẩm khác của ngân hàng hiện đại ví dụ như thẻ ghi nợ nội địa. Đây sẽ là một cách làm khôn ngoan để nắm giữ khách hàng mà không lo lắng nhiều về những rủi ro có tính kinh tế lớn. Cũng trong ví dụ trên, đối tượng thứ hai sẽ là đối tượng có thu nhập khá trở lên, tức là những người có thu nhập bình quân trên 2 triệu đồng/tháng. Đó là những người làm việc ở trong các cơ quan nước ngoài, hay cơ sở liên doanh đầu tư nước ngoài, hoặc một số ngành có thu nhập cao như: dầu khí, ngân hàng, bưu điện, hàng không...; chủ doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước, có nhu cầu hay có điều kiện thường xuyên đến các siêu thị, nghỉ tại khách sạn, đi máy bay, đi du lịch... Rõ ràng đây là đối tượng chính và có xu hướng tăng lên trong việc sử dụng thẻ mà Vietcombank cần tập trung khai thác. Thứ ba, đối tượng cuối cùng là người nước ngoài, bao gồm cả người cư trú và người đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, người của các tổ chức quốc tế ở Việt Nam, đồng thời những người không cư trú như Việt kiều về thăm tổ quốc, khách du lịch, thương gia nước ngoài đến tìm hiểu thị trường Việt Nam, người nước ngoài đến làm việc ngắn ngày. Đối tượng này có nhu cầu dùng thẻ thực sự và khá đông, bình quân trên 1 triệu người mỗi năm. Đây hiện đang là thị trường lớn nhất của Vietcombank. Tuy vậy, nhóm này hay sử dụng thẻ do ngân hàng nước ngoài phát hành, ngân hàng thường chỉ phục vụ họ hoạt động thanh toán. Vậy nên tăng cường nâng cao chất lượng phục vụ thanh toán để thu hút họ và phần nào có thể kéo họ sử dụng thẻ tín dụng do ngân hàng phát hành. Tóm lại, NHNT Việt Nam cần phân tích chi tiết cụ thể các tầng lớp dân cư, các đối tượng nước ngoài cư trú và không cư trú để tìm ra được những nhóm khách hàng tiềm năng. Từ đó có những biện pháp đẩy mạnh marketing phù hợp để những khách hàng tiềm năng thực sự trở thành khách hàng của ngân hàng. Sau công tác phân loại thị trường, công tác quảng cáo và tiếp thị cần phải được quan tâm nhiều hơn nữa. Rất nhiều người dân biết rằng NHNT là một ngân hàng tốt, chất lượng hàng đầu Việt Nam, song lại không hề biết gì về các sản phẩm thẻ tín dụng cũng như nhiều sản phẩm khác của ngân hàng. Điều này cho thấy công tác tiếp thị, quảng cáo thẻ và các dịch vụ về thẻ của NHNT còn chưa hiệu quả. Đơn cử như việc, tới thời điểm hiện nay, chưa hề có thông tin quảng cáo nào về thẻ của Ngân hàng Ngoại thương được xuất hiện trên truyền hình, và việc in ấn các tờ rơi để giới thiệu với khách hàng về các dịch vụ chào bán, thủ tục giao dịch... cũng thực hiện ở diện hẹp. Các đợt quảng cáo chỉ chủ yếu được triển khai theo yêu cầu củng cố mối quan hệ giữa các báo là chính chứ không phải nhằm mục đích hướng tới khách hàng. Thực trạng đó đòi hỏi phải có hướng giải quyết ngay. Tôi xin đề xuất một vài ý kiến sau: Thứ nhất, phải có từng chiến lược quảng cáo riêng đối với từng nhóm khách hàng dựa vào kết quả phân đoạn thị trường Trước hết đối với nhóm khách hàng mục tiêu, ngân hàng phải có những hoạt động tiếp thị cụ thể, giới thiệu cho họ hiểu rõ về các tiện ích mà thẻ tín dụng đem lại. Ngân hàng có thể cử một số nhân viên đến các doanh nghiệp và công sở, nơi mà ở đó nhân viên có thu nhập cao và ổn định, để giới thiệu về thẻ và những vấn đề liên quan đến thẻ. Đội ngũ này phải được tập huấn trước để cho việc giới thiệu có tính thuyết phục. Nếu đội ngũ tiếp thị của ngân hàng quá mỏng, không đủ khả năng làm việc đó, thì ngân hàng có thể sử dụng đội ngũ sinh viên ở các trường đại học, bởi công việc tiếp thị này không đòi hỏi phải có chuyên môn sâu về ngân hàng, Ngân hàng chỉ cần đào tạo ngắn hạn là đội ngũ sinh viên hoàn toàn có thể đảm nhận công việc này. Việc này đã được áp dụng tại nhiều doanh nghiệp khác nhau và thu được kết quả đáng kể, đồng thời sẽ giảm được nhiều chi phí. Khi khách hàng đã hiểu rõ về thẻ, những tiện ích của nó, cùng những sự phù hợp về mặt kinh tế, khách hàng sẽ không ngần ngại khi sử dụng loại hình dịch vụ mới mẻ này. Với những nhóm khách hàng còn lại mà ta gọi là nhóm khách hàng tiềm, việc quảng cáo trên phương tiện thông tin đại chúng là hết sức cần thiết. Hoạt động này sẽ đưa thẻ dần dần thâm nhập vào nhận thức của các tầng lớp nhân dân, tạo đà phổ biến thẻ sau này ở thị trường Việt Nam. Tất nhiên chi phí cho mỗi lần quảng cáo là không nhỏ. Để giảm bớt chi phí quảng cáo, ngân hàng có thể quảng cáo chung với cơ sở chấp nhận thẻ. Như thế vừa quảng cáo cho dịch vụ thẻ của ngân hàng, vừa giới thiệu được các cơ sở chấp nhận thẻ, lại giảm chi phí quảng cáo cho cả hai bên. Việc quảng cáo trên những phương tiện thông tin đại chúng tuy nhiều khi không được cách đầy đủ, nhưng nhiều khi nó lại kích thích sự tìm hiểu của họ. Thẻ là một phương tiện thanh toán hoàn toàn mới, người Việt Nam mới hiểu biết nó qua kênh truyền hình và sách báo, coi nó như một sản phẩm của thế giới phát triển. Khi biết thẻ đã xuất hiện ở Việt Nam, người dân sẽ cảm thấy tò mò, và như thế kích thích được người dân tự tìm hiểu về thẻ thanh toán. Thứ hai, cần xây dựng hình ảnh của ngân hàng mình như một người bạn thật sự tin cậy đối với khách hàng. Các chương trình quảng cáo cho ngân hàng phải được chuẩn bị thật kỹ càng, lôi cuốn và phải thực hiện liên tục. Ngoài ra các thông tin về các loại dịch vụ chào bán, lãi suất, thủ tục giao dịch nên được thông tin dưới dạng các tờ rơi và chuyển đến từng hộ gia đình. Hoạt động chăm sóc khách hàng cũng phải được đẩy mạnh, bởi vì, để khách hàng đến với ngân hàng mình đã khó, làm cho khách hàng trở thành khách hàng trung thành càng khó hơn. Chính vì vậy, NHNT nên tổ chức thường xuyên hơn các hội nghị khách hàng, nhằm lắng nghe ý kiến đóng góp của khách hàng, đồng thời cũng là tạo ra hình ảnh đẹp trong công chúng về ngân hàng. Trong các dịp Lễ, Tết, hội họp nên tặng quà nhỏ xinh xắn cho khách hàng. Tránh các món quà bị trùng lắp quá nhiều như bút bi, giây đeo chìa khoá, áo sơ mi chất lượng kém, mẫu mã không đẹp vì có thể việc này gây ấn tượng xấu đối với khách hàng. Ngoài các hoạt động trên, NHNT nên tham gia nhiều hơn nữa vào các hoạt động xã hội, như tặng quà cho trẻ em nghèo, tham gia các chương trình thể thao văn nghệ, có quỹ học bổng giành cho sinh viên xuất sắc ở các trường đại học, cử cán bộ chuyên môn đến nói chuyện với sinh viên ở các trường đại học. Việc tổ chức các buổi nói chuyện này thường không tốn nhiều kinh phí, lại thu hút được nhiều người nghe. Sinh viên là một tầng lớp rất thích tiếp thu cái mới, hiện đại và đây cũng là một nhóm khách hàng tiềm năng của ngân hàng trong tương lai. Sinh viên lại xuất phát từ nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội, vì thế có thể qua tầng lớp này phổ biến thẻ đến nhiều người khác nữa. Trên đây là các ý kiến đóng góp của tôi vào hoạt động Marketing của NHNT. Tất nhiên với những ưu thế và tiềm lực của ngân hàng trong thời điểm này thì những hoạt động này không phải là khó. Vấn đề là ngân hàng phải bắt tay vào hoạt động ngay. Trong các nguyên nhân về sự hạn chế đối tượng sử dụng thẻ, có nguyên nhân xuất phát từ mức ký quĩ của ngân hàng quá lớn. Ngân hàng cũng nên xem xét vấn đề này để đưa thẻ tín dụng của Vietcombank đến gần với người tiêu dùng hơn, tất nhiên sự thay đổi nếu có vẫn phải nằm trong lộ trình phát triển lâu dài của ngân hàng. 3.2.2. Giải pháp cho vấn đề phát triển hệ thống ATM và các điểm chấp nhận thẻ của NHNT Trước khi trình bày nội dung giải pháp, tôi cần phải nói rõ rằng: Tuy thẻ ATM không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài, đồng thời đối với ngân hàng, cụ thể là NHNT Việt Nam thì thường không khuyến khích dùng thẻ tín dụng để rút tiền qua máy ATM (chính vì lẽ đó nên ngân hàng tính phí rút tiền mặt khá cao), tuy nhiên, xét trong tình hình của thị trường tài chính Việt Nam với xu hướng chung của người tiêu dùng là vẫn ưa thích tiền mặt như hiện nay, việc nâng cấp hoàn hảo hệ thống ATM – máy rút tiền tự động là thực sự cần thiết. Bởi ngoài việc phục vụ cho hoạt động của thẻ ATM, việc có thể rút tiền ở khăp nơi với thẻ tín dụng nhờ một hệ thống máy ATM hiện đại sẽ thúc đẩy mạnh mẽ lượng khách hàng tham gia. Như phần trình bày ở chương 2 đã cho thấy rằng, thị trường thẻ tín dụng ở Việt Nam cần phải có sự thay đổi: đó là liên kết lại. Việc thiếu liên kết giữa các ngân hàng về mặt cơ sở vật chất, cụ thể trong hệ thống máy ATM và hệ thống cơ sở chấp nhận thẻ, sẽ gây ra lãng phí lớn khi các ngân hàng đã phải tốn một khoản tài chính khổng lồ để đầu tư trang thiết bị, công nghệ, nhân lực để quản lý và vận hành cho một hệ thống máy mà mỗi máy chỉ phục vụ cho vài trăm thẻ. Việc kết nối rời rạc cũng tạo ra sự bất tiện cho người tiêu dùng. Người sử dụng thẻ ATM của ngân hàng này không thể giao dịch với thiết bị của ngân hàng khác. Và nếu sử dụng chiếc thẻ chỉ để rút tiền và một vài dịch vụ khác nhưng phải đi tìm cho được chiếc máy ATM của chính ngân hàng phát hành thẻ mới giao dịch được, sẽ khiến cho khách hàng nản lòng vì bất tiện hơn giao dịch tiền mặt. Vì vậy, khách hàng sẽ không còn muốn dùng thẻ nữa. Điều đó thực sự trái với những cố gắng làm tăng đối tượng sử dụng thẻ đã nói ở trên. Không phải các ngân hàng không nhìn thấy được sự lãng phí và bất tiện khi chơi một mình một sân, một số ngân hàng đã liên kết với nhau. Hiện tại có 4 hệ thống liên kết chính là Connect24 của Vietcombank với 18 ngân hàng liên kết với nhau, Công ty chuyển mạch tài chính BankNet do ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank) được chọn làm đầu mối, Liên minh Sacombank - ANZ, và Liên minh thẻ VNBC hiện có 4 thành viên. Dù đây là những dấu hiệu cho thấy các ngân hàng đã có khuynh hướng hợp tác với nhau, song theo nhận xét của các nhà quản lý và của chính các ngân hàng, sự liên kết này cũng chỉ mới mang tính tự phát. Việc kết nối vẫn cứ mang tính cục bộ theo nhóm nhỏ, và vì thế vẫn chưa phát huy được hết những dịch vụ tiện ích của máy ATM. Như vậy có thể nói rằng mục tiêu của phần lớn các ngân hàng là tìm ra một sự phương thức liên kết hoàn hảo càng sớm càng tốt. Tuy nhiên, với đặc thù của Việt Nam thì còn nhiều vấn đề cần phải bàn. Bởi trước khi liên kết, các ngân hàng đều cho rằng quan trọng nhất là giữa các ngân hàng phải có một nền tảng cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin đồng nhất để có thể kết nối. Trong khi đó với điều kiện của Việt Nam hiện nay, không phải ngân hàng nào cũng có đầy đủ điều kiện về hệ thống kỹ thuật, nghiệp vụ và nhân sự để triển khai dịch vụ thẻ. Chính vì vậy, giải pháp kết nối toàn hệ thống do NHNN làm đầu mối và đóng vai trò trung tâm thanh toán bù trừ là giải pháp tốt nhất cho thị trường thẻ Việt Nam phát triển. Khi NHNN trở thành trung tâm thanh toán bù trừ về thẻ, hệ thống ngân hàng sẽ có nhiều lợi ích. Một là, tiết kiệm được chi phí cho các ngân hàng khi đầu tư mua sắm hệ thống ATM và POS. Khi đó, một máy ATM tại 1 điểm giao dịch nào đó có thể sử dụng tất cả các loại thẻ của tất cả các ngân hàng, và mỗi cơ sở chấp nhận thẻ chỉ cần trang bị 1 máy POS thay vì phải trang bị rất nhiều máy của nhiều ngân hàng như hiện nay. Với các chi phí đầu vào như vậy, NHNN có thể phân bổ cho các ngân hàng tuỳ theo số lượng thẻ của các ngân hàng được giao dịch trên máy. Thứ hai, hệ thống thanh toán thẻ thống nhất tạo sự tiện lợi tối đa cho khách hàng vì có thể sử dụng thẻ tại bất cứ nơi nào với mức phí thống nhất. Vấn đề còn lại của các ngân hàng là công tác Marketing và chăm sóc khách hàng để phát hành được nhiều thẻ hơn các khác. Ba là, có hệ thống thanh toán thẻ thống nhất mới giải quyết được yêu cầu cơ bản hiện nay là giảm lượng tiền mặt trong lưu thông. Các NHTM sẽ khuyến khích các doanh nghiệp trả lương qua tài khoản và thẻ, có chính sách giảm phí cho các cá nhân sử dụng thẻ chi trả các phí dịch vụ trong gia đình…Cũng như giảm phí thanh toán cho các cơ sở chấp nhận thẻ... Như vậy với NHNN mang vai trò trung tâm thanh toán, chắc chắn sẽ được các NHTM hợp tác vì sự phát triển của thị trường, đưa dịch vụ thẻ đến với khách hàng, từng bước xã hội hóa dịch vụ thẻ, giúp người dân làm quen với thanh toán không dùng tiền mặt, đặt nền tảng cho việc tạo dựng nền văn minh thanh toán tại Việt Nam. Đây là một trong những đề xuất của tôi lên chính phủ với mục tiêu giải quyết khó khăn về cơ sở kĩ thuật của toàn bộ hệ thống ngân hàng trong đó có Vietcombank. Riêng đối với Vietcombank, ngân hàng chiếm hơn 50% thị phần thẻ nội địa, chiếm đến gần 60% lượng máy ATM trên cả nước thì vai trò đầu tàu trong chiến lược phát triển của cả nền tài chính sẽ là đương nhiên. Tất nhiên sự liên kết này sẽ đem lại thuận lợi rất lớn cho các ngân hàng nhỏ, nhưng không vì thế mà NHNT sẽ bị mất thị phần. Hơn thế nữa, việc liên kết với các ngân hàng trong cả nước sẽ làm cơ sở cho mục tiêu trở thành một tập đoàn tài chính lớn. Vì vậy Vietcombank một mặt phải tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, một mặt sẽ phải là người đứng ra nắm vai trò liên kết các ngân hàng lại. Đây là một nhiệm vụ khó khăn, tuy nhiên với khả năng của mình, chắc chắn NHNT Việt Nam sẽ thành công. 3.2.3. Giải pháp cho vấn đề rủi ro phát sinh trong khâu thanh toán. Với các vấn đề rủi ro trong khâu thanh toán, giải pháp trước hết là phải kiến nghị lên NHNN nhanh chóng ban hành một hệ thống pháp lý chặt chẽ và minh bạch nhằm bảo vệ quyền lợi cho ngân hàng và chủ thẻ. Vấn đề này cần phải được triển khai càng sớm càng tốt để làm cơ sở giải quyết những tranh chấp giữa các bên tham gia. Đồng thời phải có những biện pháp xử lý mạnh mẽ đối với những chủ thẻ hoặc cơ sở chấp nhận thẻ cố tình làm trái gây ra tiêu cực trong hoạt động. Cũng đề nghị Ngân hàng Nhà nước cho phép NHTM được lập quỹ phòng ngừa rủi ro cho nghiệp vụ thẻ thành lập quỹ dự phòng rủi ro cho nghiệp vụ thẻ tín dụng, thành lập bộ phận quản lý phòng ngừa rủi ro chung cho các ngân hàng phát hành, ngân hàng thanh toán thẻ và nên nằm trong trung tâm phòng ngừa rủi ro của NHNN. Qua đó, các NHTM Việt Nam có thể tham khảo được các thông tin cần thiết về khách hàng liên quan đến phát hành và thanh toán thẻ. Bộ phận này cũng là đầu mối quan hệ chống tội phạm trong nước và quốc tế để có sự phối hợp giúp đỡ cho các ngân hàng một cách kịp thời khi gặp các trường hợp rủi ro hay giả mạo. Hiện tại ở NHNT đã thiết lập quỹ phòng ngừa rủi ro nhưng quỹ này chủ yếu là bù đắp những khoản rủi ro tín dụng. Ngoài ra cũng đề nghị Ngân hàng Nhà nước phải thường xuyên hơn nữa tổ chức những khoá học, hội thảo, trao đổi kinh nghiệm về phòng chống rủi ro trong thanh toán thẻ tín dụng cho các ngân hàng thương mại cùng tham gia; giới thiệu để các ngân hàng thương mại thu thập thông tin, tài liệu chuyên đề về thẻ, cùng các ngân hàng thương mại trao đổi kinh nghiệm, giải quyết khó khăn phát sinh trong quá trình thực hiện. Đồng thời trong thời kỳ chuẩn bị cho việc gia nhập nền kinh tế thế giới, đề nghị NHNN cho phép các ngân hàng thương mại Việt Nam được áp dụng linh hoạt một số ưu đãi nhất định nhằm tăng tính cạnh tranh cho các ngân hàng Việt Nam trong phát hành và thanh toán các loại thẻ tín dụng trước khi các ngân hàng lớn của nước ngoài chính thức vào Việt Nam. Riêng đối với vấn đề thẻ giả thì trên thực tế, thậm chí tại các quốc gia có thị trường tài chính và khoa học kỹ thuật cực kỳ phát triển cũng chưa thể tìm ra một biện pháp nào về mặt công nghệ có độ an toàn 100%. Bọn tội phạm với năng lực ngày càng cao không thua kém gì các chuyên gia công nghệ ngân hàng, cộng với thủ đoạn vô cùng tinh vi và đa dạng, thực sự có khả năng ăn cắp tiền trên các tài khoản thẻ tín dụng. Khi tại Việt Nam chỉ mới xuất hiện hình thức lắp đặt máy camera vào ATM để ăn cắp thông tin rồi làm giả thẻ từ, thì trên thế giới bọn tội phạm đã có thể đánh cắp dữ liệu của khách hàng trên đường truyền dữ liệu từ đơn vị chấp nhận thẻ (tức là nơi bán hàng hoá, dịch vụ về ngân hàng) hoặc cả trên tổng đài điện thoại nơi ngân hàng phải thuê đường truyền (wire tapping). Và sau khi đã mất cắp dữ liệu trên thẻ thì việc cho ra đời một thẻ giả, thậm chí là thẻ chip, chỉ còn là công đoạn thủ công. Nói như vậy để thấy rằng đây thực sự là một vấn đề không thể giải quyết một sớm một chiều. Và tạm thời, chúng ta vẫn phải chấp nhận công nghệ hàng đầu trên thế giới hiện nay là công nghệ thẻ chip. Công nghệ thẻ chip ( SmarCard) đã được đề cập đến trong chương 2, về cơ bản có thê tóm tắt lại như sau: Với một con chip nhỏ xíu gắn trên thẻ, lưu giữ toàn bộ thông tin về khách hàng cũng như số liệu về tài khoản của khách hàng như một máy vi tính nhỏ, thẻ chip cho phép bảo mật cao đối với tài khoản của khách hàng hơn rất nhiều lần so với thẻ từ. Các giao dịch thực hiện ngay tại các đại lý không kết nối trực tuyến với ngân hàng phát hành vẫn được chấp nhận, điều này giúp hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất. Bên cạnh đó cơ chế quản lý thông tin giao dịch của thẻ chip giúp cho ngân hàng phát hành vẫn có thể kiểm soát đầy đủ các đại lý, dù nền tảng viễn thông thấp hơn. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi triển khai mở rộng qui mô dịch vụ. Đồng thời thẻ chip còn làm giảm giá thành duy trì hoạt động của hệ thống hỗ trợ giao dịch. Cụ thể, do khối lượng các giao dịch trực tuyến là rất lớn, mà chủ yếu là phụ thuộc vào chi phí viễn thông. Việc giảm thiểu số lượng giao dịch trực tuyến sẽ hạn chế đáng kể các chi phí này. Khi sử dụng thẻ chip, không những chất lượng thẻ được cải thiện, mà còn nâng cao hiệu quả việc xử lý các giao dịch loại trừ, giao dịch thanh toán, tăng cường lợi nhuận Vietcombank đã đưa ra lộ trình chuyển toàn bộ thẻ bao gồm thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ làm bằng công nghệ từ sang thẻ chip. Tuy vậy nhiều khả năng phải đến hết năm 2008 lộ trình mới hoàn tất. Và chúng ta cũng biêt rằng do thẻ chip chưa phải là công nghệ hoàn hảo nên ngay từ bây giờ NHNT sẽ phải áp dụng các biện pháp sau: Trung tâm thẻ của ngân hàng luôn đưa lên và cập nhật Danh sách thẻ cấm lưu hành thuộc khu vực phát hiện ra việc sử dụng thẻ giả với thời gian tối thiểu 60 ngày. Khi cần thiết, có thể đưa thẻ lên Danh sách thẻ cấm lưu hành của khu vực khác hoặc trên toàn cầu. Nếu thẻ giả được sử dụng rộng rãi, Trung tâm thẻ nên xem xét điều chỉnh hạn mức thanh toán và sử dụng thẻ đăng ký tại các Tổ chức thẻ quốc tế xuống mức tối thiểu có thể để hạn chế việc sử dụng thẻ giả Do ngân hàng còn nằm trong liên minh thẻ với các ngân hàng khác nên việc nâng cấp hệ thống máy ATM theo hướng lắp thêm camera theo dõi có lẽ cần phải được tính đến. Tuy nhiên có cải tiến gì chăng nữa, đại diện các ngân hàng vẫn cho rằng điều quan trọng nhất là hướng dẫn khách hàng sử dụng thẻ một cách an toàn: Thực hiện nghiêm túc các yêu cầu của khách hàng về việc sử dụng thẻ. Không cho người khác mươn thẻ. Cố gắng hạn chế càng nhiều càng tốt việc mua bán hàng hoá qua mạng. Cực kỳ cảnh giác khi gặp phải trường hợp ngân hàng gửi e-mail đến và yêu cầu khách hàng đổi password hay khai lại những thông tin liên quan đến tài khoản ngay trên trang web. Bởi vì phần lớn đó là những trang web giả được làm y như thật, và khi khách hàng thực hiện yêu cầu này, tất cả các thông tin của họ đã bị lấy mất… 3.2.4. Giải pháp cho vấn đề rủi ro trong khâu phát hành Rủi ro trong khâu phát hành đã để cập đến ở chương 2, chính là tình trạng “thẻ chết” phổ biến hiện nay. Tình trạng này băt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân lớn là do khâu marketing tuyên truyền của các ngân hàng còn yếu kém dẫn đến việc khách hàng không biêt hết tính năng tiện ích của thẻ, thậm chí cho rằng thẻ tín dụng chỉ dùng để rút tiền khi đi ra nước ngoài. Còn dối với những khách hàng hiểu về thẻ tín dụng và cũng thực sự có nhu cầu thì lại gặp phải han chế là mạng lưới cơ sở chấp nhận thẻ chưa rộng rãi, các dịch vụ đi kèm còn ít, thậm chí thanh toán hàng hoá, dịch vụ còn phải chịu phụ phí. Tất cả những nguyên đó đã khiến cho nhiều chủ thẻ để thẻ “chết”. Vấn đề cải thiện hoạt động marketing và tăng cường cải tiến chất lượng dịch vụ đi kèm đã được nói đến ở phần trên, tôi không đề cập lại nữa. Còn một vấn đề là những đòi hỏi về pháp lý để làm cơ sở cho việc giải quyết những ràng buộc về việc duy trì hoạt động thẻ của chủ thẻ đối với ngân hàng, xin được đề nghị lên Ngân hàng Nhà nước. Mong NHNN sẽ sớm hoàn thành không chỉ luật về vấn đề này mà còn về toàn bộ hoạt động thẻ tín dụng của ngân hàng để thuận tiện hơn cho các NHTM trong việc phát triển hoạt động thẻ. Ngoài ra cần nhấn mạnh rằng đây là một vấn đề lớn của cả chung hệ thống ngân hàng, trong đó NHNT Việt Nam ảnh hưởng nhiều nhất. Vì vậy ngoài việc cải thiện tình trạng bằng các biện pháp trên, NHNT cũng cần phải phối hợp với các ngân hàng trong công tác quảng bá hay tăng cường dịch vụ. Điều đó sẽ giúp cho các khách hàng có thái độ tích cực hơn trong việc sử dụng thẻ, thực sự đem lại sự phát triển về chất cho thị trường. KẾT LUẬN Thẻ tín dụng ngày càng khẳng định vai trò và những ưu thế so với phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt khác. Thanh toán bằng thẻ tín dụng không chỉ đem lại lợi ích cho các chủ thể phát hành (ngân hàng, các công ty tài chính), cơ sở chấp nhận và người sử dụng thẻ, mà còn đem lại những lợi ích quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Việc sử dụng thẻ tín dụng đã làm giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông, tăng nhanh tốc độ chu chuyển hàng hoá và tiền tệ, tăng cường khả năng kiểm soát của các cơ quan chức năng của Nhà nước, hạn chế tiêu cực xã hội và là một bước tiến tới xã hội văn minh. Trong xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay, việc đẩy mạnh và phát triển thanh toán bằng thẻ tín dụng ở Việt Nam là đúng thời điểm và rất cần thiết. Là một trong những ngân hàng thương mại nhà nước lớn nhất ở Việt Nam, NHNT đã chú trọng và có những đầu tư đặc biệt cho hoạt động phát hành và thanh toán thẻ. Thành công bước đầu cho thấy, Ngân hàng có số lượng khách hàng sử dụng thẻ là cao nhất; đồng thời, đây cũng là Ngân hàng luôn dẫn đầu về doanh số phát hành cũng như thanh toán. Tuy nhiên để đáp ứng cho yêu cầu tăng cường hoạt động phát hành và thanh toán thẻ, NHNT cần tiếp tục khuyến khích đầu tư cũng như nghiên cứu và áp dụng một số giải pháp đã được đề cập. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Davit Cox, Nghiệp vụ ngân hàng thương mại hiện đại. Peter S.Rose, Quản trị ngân hàng thương mại. Lê Văn Tề, Trương Thị Hồng, thẻ thanh toán quốc tế và việc ứng dụng thẻ thanh toán quốc tế tại Việt Nam, Nhà xuất bản trẻ. PGS.TS.Nguyễn Thị Thu Thảo, Nghiệp vụ thanh toán quốc tế, Nhà xuất bản Lao động Xã hội, năm 2004. Hướng dẫn sử dụng dịch vụ cho các đơn vị chấp nhận thẻ của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Tài liệu hướng dẫn của phòng quản lý và thanh toán thẻ tín dụng Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Báo cáo tổng kết hoạt động thẻ của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam năm 2000, 2001, 2002, 2003, 2004, 2005. Báo cáo thường niên của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam năm 2000, 2001, 2002, 2003, 2004. Tạp chí Ngân hàng Ngoại thương các số 1+2/2004; 5,7,9,10,12/2005. Tạp chí Ngân hàng các năm 1996, 1997, 1998, 1999, 2000, 2001, 2002, số 9, 11, 13, 15 /2003, số 5, 6 / 2004, số 3, 4, 5, 7, 11/ 2005. Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ số 3+4, 8, 10 ,17, 23, 24/ 2004; số 6, 16, 19, 24/ 2005. Tạp chí Tin học Ngân hàng số 2,6, 7/2004; số 4, 7/2005. Trang Web: Point-of-sale reference guide-Visa. Hướng dẫn về phát hành và thanh toán thẻ tín dụng Master Card. MỤC LỤC Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36444.doc