Một số giải pháp phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2009 - 2015

MỞ ĐẦU Cùng với những thành tựu của công cuộc đổi mới, doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V) có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế - xã hội Việt Nam. Nhận thức được vai trò này, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn coi phát triển DNN&V là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Thời gian qua, DNN&V là động lực phát triển cho nền kinh tế đất nước. Từ năm 2001 đến 6/2008 đã có 285.900 doanh nghiệp, chủ yếu là các DNN&V đã đăng ký mới với số vốn đăng ký 1.233.000 tỷ đồng, đưa tổng số các d

doc111 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1625 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2009 - 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oanh nghiệp trong cả nước lên 349.300 doanh nghiệp với tổng số vốn đăng ký trên 1.389.000 tỷ đồng.Việt Nam ra nhập Tổ chức thương mại thế giới( WTO) đã trở thành cột mốc đánh dấu sự hoà nhập đầy đủ hơn của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy trong những năm qua, các DN nói chung và DNN&V Việt Nam nói riêng có nhiều cơ hội để hoà nhập và phát triển nhưng cũng gặp nhiều khó khăn thách thức.Do đó trong xu hướng phát triển, Nhà nước ta đã xác định xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển DNN&V ở Việt nam đến năm 2020 là một nhiệm vụ chiến lược quan trọng có tính chất đột phá, tạo ra động lực phát triển KT – XH cho đất nước. Đối với tỉnh Phú Thọ, trong những năm qua, DNN&V trên địa bàn tỉnh đã phát triển khá mạnh cả về số lượng và quy mô, đã có những đóng góp quan trọng trong việc phát triển KT-XH của tỉnh nói riêng và cả nước nói chung. Tuy nhiên, các DNN&V trên địa bàn tỉnh hiện nay còn nhiều bất cập, hạn chế như: vốn, lao động, công nghệ, khả năng quản lý, tiếp cận thị trường, thiếu định hướng lâu dài trong hoạt động kinh doanh… bên cạnh đó Tỉnh cũng chưa có những định hướng và chính sách ưu đãi tốt nhất để cho các DNN&V phát triển một cách bền vững… dẫn đến năng lực cạnh tranh của các DNN&V kém, hiệu quả của sản xuất kinh doanh (SXKD) thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh... Việc phát triển DNN&V ở Phú Thọ không những đóng góp vào việc phát triển kinh tế của tỉnh mà còn tạo ra sự ổn định về mặt xã hội thông qua tạo việc làm cho người lao động, giảm khoảng cách giàu nghèo và tệ nạn xã hội. Vì vậy, trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động của tỉnh theo hướng CNH-HĐH thời gian tới, tỉnh rất coi trọng vai trò của DNN&V. Để làm được điều này, tỉnh Phú Thọ phải đưa ra các giải pháp để phát triển DNN&V, tìm ra các mô hình, các chính sách ưu đãi hợp lý nhằm phát triển các DNN&V một cách có hiệu quả và bền vững sao cho phù hợp với đặc điểm KT-XH của tỉnh, huy động được các nguồn lực, tiềm năng và lợi thế vốn có của tỉnh. Do tầm quan trọng của DNN&V, em xin chọn đề tài “ Một số giải pháp phát triển DNN&V trên địa bàn tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2009 – 2015” làm đề tài nghiên cứu cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Nội dung nghiên cứu của em gồm 3 phần chính là: Chương I: Vai trò của DNN&V với phát triển KT – XH Việt Nam. Chương II: Thực trạng phát triển DNN&V trên địa bàn tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2001 – 2008. Chương III: Định hướng và giải pháp phát triển DNN&V trên địa bàn tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2009 – 2015. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô giáo GS.TS. Vũ Thị Ngọc Phùng và sự tạo điều kiện giúp đỡ của các cán bộ Sở Kế hoạch và Đầu tư Phú Thọ, Cục Thống Kê Phú Thọ đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. CHƯƠNG I: VAI TRÒ CỦA DNN&V VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VIỆT NAM 1. ĐẶC ĐIỂM CỦA DNN&V: 1.1. Khái niệm DNN&V: Mặc dù khái niệm DNN&V đã được biết đến trên thế giới từ những năm đầu của thế kỷ XX, và khu vực DNN&V được các nước quan tâm phát triển từ những năm 50 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, ở Việt Nam khái niệm DNN&V mới được biết đến từ những năm 1990 đến nay. Trong cơ chế bao cấp, các doanh nghiệp nhà nước được chia thành doanh nghiệp loại 1, doanh nghiệp loại 2, doanh nghiệp loại 3 với tiêu chí phân loại chủ yếu là số lao động trong biên chế và theo phân cấp Trung ương - địa phương. Trong đó, doanh nghiệp nhỏ và vừa gần như tương ứng với doanh nghiệp loại 2 và loại 3. Trước năm 1998, một số địa phương, tổ chức đã xác định DNN&V dựa trên các tiêu chí khác nhau như: số lao động ( dưới 500 người), giá trị tài sản cố định (dưới 10 tỷ đồng), số dư vốn lưu động( dưới 8 tỷ đồng) và doanh thu hàng tháng (duới 20 tỷ dồng). Một số nhà nghiên cứu cho rằng cần phân định doanh nghiệp vừa và nhỏ theo lĩnh vực: sản xuất, dịch vụ. Trong lĩnh vực sản xuất, doanh nghiệp có số vốn dưới 1 tỷ đồng, số lao động dưới 100 người là doanh nghiệp nhỏ; doanh nghiệp có từ 1 đến 10 tỷ đồng vốn và số lao động từ 100 đến 500 người là doanh nghiệp vừa. Trong thương mại dịch vụ, doanh nghiệp có số vốn dưới 500 triệu đồng và dưới 50 lao động là doanh nghiệp nhỏ; doanh nghiệp có số vốn từ 500 triệu đến 5 tỷ đồng và có từ 50 đến 250 lao động là doanh nghiệp vừa. Ngày 20-6-1998, Chính phủ đã có công văn số 681/CP-KCN về việc định hướng chiến lược và chính sách phát triển các DNN&V. Theo công văn này thì doanh nghiệp nhỏ và vừa là những doanh nghiệp có vốn đăng ký dưới 5 tỷ đồng và lao động thường xuyên dưới 200 người.Việc áp dụng một trong hai tiêu chí hoặc cả hai tiêu chí tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng địa phương, ngành, lĩnh vực. Đây có thể coi là văn bản đầu tiên đưa ra tiêu chí xác định DNN&V. Nó là cơ sở để cho phép thực hiện các biện pháp hỗ trợ cho khu vực này. Ngày 23-11-2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNN&V. Theo quy định này: DNN&V là một cơ sở sản xuất kinh doanh có vốn đăng ký không quá 10 tỷ hoặc có lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Đây là văn bản pháp luật đầu tiên chính thức về DNN&V, là cơ sở để các chính sách và biện pháp hỗ trợ của các cơ quan nhà nước và tổ chức trong và ngoài nước thực hiện các biện pháp hỗ trợ cho các DNN&V. Từ đó đến nay, khái niệm DNN&V đựơc hiểu và áp dụng thống nhất trong cả nước. Các tiêu chí về DNN&V ở Việt Nam( lao động và vốn đăng ký) không có quy định định lượng tối thiểu và do đó DNN&V theo định nghĩa của Việt Nam bao gồm cả các doanh nghiệp siêu nhỏ theo cách hiểu của nhiều quốc gia khác. Theo cách định nghĩa trên, ở nước ta hiện nay có khoảng 349.300 doanh nghiệp trong đó DNN&V chiếm khoảng hơn 90%.( Nguồn: Trang web của phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam) 1.2. Đặc điểm của DNN&V: Đặc điểm của các DNN&V xuất phát trước hết từ chính quy mô của doanh nghiệp. Cũng như các DNN&V trên thế giới, với quy mô nhỏ, DNN&V Việt Nam cũng có những đặc điểm tương tự như ở các quốc gia khác. Ngoài ra, do đặc trưng riêng của nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên các DNN&V Việt Nam còn có những đặc điểm riêng. Những đặc điểm cơ bản của DNN&V Việt Nam thể hiện như sau: 1.2.1. Về vốn kinh doanh: Các DNN&V thường gặp phải khó khăn về vốn, thiếu vốn sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, tình trạng thiếu vốn ở các doanh nghiệp không giống nhau. Nhiều doanh nghiệp phản ánh là thiếu vốn nhưng thực tế nếu có vốn cũng không biết sử dụng vào mục đích gì. Việc cung ứng vốn cho DNN&V hiện nay được đánh giá là chủ yếu thực hiện qua thị trường tài chính phi chính thức. Các chủ doanh nghiệp thường vay vốn của nhân dân, bạn bè và vay của những người cho vay lấy lãi. Hầu như các DNN&V, nhất là các DNN&V ngoài quốc doanh, không tiếp cận được với nguồn tín dụng chính thức, tức tín dụng của hệ thống của Ngân hàng. Điều này do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có một số nguyên nhân chủ yếu sau: Thứ nhất, hệ thống ngân hàng, kể cả hệ thống tài chính trung gian, còn yếu kém, chưa tiếp cận được với nhu cầu về tín dụng. Các điều kiện cho vay và thủ tục thế chấp tuy nhiều nhưng lại chưa chặt chẽ. Các ngân hàng vẫn có tỷ lệ nợ khó đòi cao, nhưng những doanh nghiệp hoạt động hợp pháp thì lại không được vay vốn. Trong những năm qua, số dư tín dụng của hệ thống ngân hàng chủ yếu là dành cho DNNN và chủ yếu là các DNNN có quy mô lớn. Nhiều doanh nghiệp, trong đó có DNN&V, chưa có khả năng đáp ứng các đòi hỏi của ngân hàng về các thủ tục như lập dự án, thủ tục thế chấp… cho nên chưa tiếp cận được với nguồn tín dụng này. Thứ hai, các chủ DNNQD cũng thường e ngại khi vay ngân hàng vì như vậy buộc phải xuất trình các báo cáo chính xác về tài chính và kết quả sản xuất kinh doanh, điều mà các doanh nghiệp không muốn làm vì các lý do khác nhau. Nguyên nhân này xuất phát chủ yếu từ phía doanh nghiệp chứ không phải từ phía ngân hàng và các cơ quan quản lý Nhà nước. 1.2.2. Về tổ chức quản lý doanh nghiệp và người lao động: Đa số các DNN&V của nước ta hiện nay vẫn tổ chức quản lý theo mô hình ''Gia đình''. Đặc biệt, mô hình này thể hiện rõ nét nhất ở các DNN&V ở thành phần kinh tế NQD như: Các DNTN, Công ty TNHH. Những người quản lý cũng như người lao động trong các DNN&V thường là những người trong cùng gia đình, hoặc cùng huyết thống hoặc là những người thân quen. Về trình độ của cán bộ quản lý doanh nghiệp: Phần lớn các chủ doanh nghiệp và các cán bộ quản trị doanh nghiệp NQD đều chưa được đào tạo cơ bản, thiếu kinh nghiệm quản trị và kiến thức kinh doanh trong cơ chế thị trường. Số lượng cán bộ có bằng cấp chuyên môn trong các doanh nghiệp này còn rất hạn chế. Đối với người lao động: Người lao động làm việc trong các DNN&V hầu hết là lao động phổ thông ít được đào tạo, thiếu kỹ năng, trình độ văn hóa thấp, hoặc chỉ được đào tạo qua các lớp học ngắn hạn tại các doanh nghiệp… Ngoài ra, các doanh nghiệp thường sử dụng hình thức lao động thời vụ hoặc hợp đồng gia công với các hộ dân cư. Số liệu điều tra về trình độ của người lao động trong các DNN&V trên cả nước cho thấy; Chỉ có khoảng 15% lao động trong các DNN&V có trình độ đại học, trong đó chủ yếu tập trung vào các DNNN, Công ty TNHH và Công ty CP Thu nhập của người lao động trong các DNN&V vẫn còn ở mức thấp, không ổn định thu nhập của người lao động phổ biến nằm trong khoảng trên dưới 1.000.000 đồng/người/tháng. Mặc dù mức thu nhập của người lao động trong các DNN&V cao hơn so với làm nông nghiệp nhưng vẫn còn thấp hơn so với làm việc trong các doanh nghiệp lớn. Ngoài ra, người lao động cũng chưa được hưởng đầy đủ các chế độ, chính sách như người lao động trong các doanh nghiệp lớn, như các chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, nghỉ chế độ… 1.2.3. Về công nghệ: DNN&V ở cả nước nói chung, ở Phú Thọ nói riêng mới được chú trọng phát triển trong vòng vài năm trở lại đây. Vì vậy, công nghệ lạc hậu khá phổ biến trong các DNN&V. Do thói quen tư duy và do hạn chế về đầu tư, DNN&V thường đầu tư dần, mỗi năm mua một vài loại máy, thiết bị và khi thấy không ổn thì cũng thay thế dần. Điều này làm cho máy móc thiết bị đang được sử dụng trong các DNNVV trở nên chắp vá, không đồng bộ. Theo báo cáo của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp(2004), vẫn có nhiều doanh nghiệp nhà nước có trình độ công nghệ dưới mức trung bình của khu vực và thế giới, máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất lạc hậu so với thế giới từ 10 - 20 năm. Trình độ trang thiết bị lạc hậu từ 3 – 4 thế hệ so với các nước trong khu vực. Tốc độ đổi mới công nghệ rất chậm. Rất nhiều sản phẩm có giá thành cao do chi phí tiêu hao nguyên vật liệu cao, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có trình độ công nghệ cao hơn, nhưng cũng chỉ đạt mức trung bình của khu vực. Theo báo cáo của Bộ Công nghiệp, phần lớn giá trị máy móc thiết bị sản xuất của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chỉ còn 30% so với giá trị ban đầu và đã lạc hậu hơn 30 năm. Địa phương đầu tàu kinh tế của cả nước là thành phố Hồ Chí Minh cũng chỉ có 25% doanh nghiệp có công nghệ sản xuất tiên tiến, 32% ở mức trung bình, còn lại ở mức dưới trung bình và lạc hậu. 1.2.4. Về lĩnh vực hoạt động: DNN&V hoạt động trong tất cả các lĩnh vực nhưng tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực kinh tế như công nghiệp, xây dựng cơ bản, thương mại dịch vụ.Theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2006, DNN&V hoạt động trong ngành thương mại chiếm 40% , thứ hai là ngành công nghiệp chế biến( chiếm 25,5%), thứ ba là ngành xây dựng chiếm 13,5% tổng số các DNN&V trong các ngành. Còn lại hoạt động trong các lĩnh vực khác. 1.2.5. Về địa bàn hoạt động: Hiện nay, các DNN&V phân bố rộng khắp trên cả nước, cả ở nông thôn và thành thị, ở tất cả các vùng và các địa phương trên cả nước. Bảng 1.1 dưới đây thống kê số lượng DN đăng ký kinh doanh ở các tỉnh năm 2007. Qua bảng số liệu ta thấy, sự khác nhau về số lượng và mật độ doanh nghiệp giữa các tỉnh, thành phố rất lớn. Ví dụ thành phố Hồ Chí Minh có số lượng doanh nghiệp ĐKKD nhiều nhất trên 17.000 doanh nghiệp trong khi tỉnh Bắc Kạn chỉ có 71 doanh nghiệp ĐKKD.Thành phố Hồ Chí Minh chiếm trên 30% số doanh nghiệp ĐKKD, ngoài ra có tới gần 55% các doanh nghiệp ĐKKD tập trung ở 3 thành phố: Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Hải Phòng. ( Nguồn: Báo cáo thường niên DNN&V Việt Nam 2008 - Cục Phát triển DNN&V) Bảng 1. 1. : Số lượng DN Đăng ký theo tỉnh năm 2007. Đơn vị: Doanh nghiệp Số TT Tỉnh Số DN Số TT Tỉnh Số DN 1 TP. HCM 17.313 33 Bình Phước 354 2 Hà Nội 10.913 34 Tây Ninh 344 3 Hải phòng 3001 35 Phú Thọ 330 4 Đồng Nai. 1.605 36 Ninh Bình 319 5 Đà Nẵng 1.596 37 Đồng Tháp 316 6 Bình Dương 1.368 38 Thái Nguyên 310 7 Hà Tây 1.029 39 Quảng Trị 308 8 BR - VT 987 40 Quảng Bình 282 9 Nghệ An 867 41 Sóc Trăng 265 10 Quảng Ninh 828 42 Hà Tĩnh 258 11 Khánh Hoà 817 43 Phú Yên 246 12 Cần Thơ 807 44 Bến Tre 241 13 Thanh Hoá 781 45 Hoà Bình 241 14 Long An 743 46 Bắc Giang 238 15 Bình Định 622 47 Kom Tum 235 16 Hải Dương 607 48 Vĩnh Long 226 17 Kiên Giang 592 49 Hà Nam 177 18 Bắc Ninh 572 50 Đăks Nông 171 19 Nam Định 552 51 Lạng Sơn 169 20 Quảng Nam 548 52 Lào Cai 164 21 Vĩnh Phúc 532 53 Ninh Thuận 159 22 Đắk Lắc 526 54 Yên Bái 150 23 Cà Mau 499 55 Trà Vinh 136 24 Gia Lai 470 56 Sơn La 136 25 Tiền Giang 470 57 Bạc Liêu 133 26 Thái Bình 464 58 Tuyên Quang 117 27 Lâm Đồng 463 59 Hậu Giang 105 28 TT - Huế 461 60 Cao Bằng 103 29 Hưng Yên 419 61 Hà Giang 102 30 Quảng Ngãi 404 62 Điện Biên 85 31 Bình Thuận 396 63 Lai Châu 85 32 An Giang 368 64 Bắc Kạn 71 Nguồn: Tổng cục Thống kê 2. VAI TRÒ CỦA DNN&V VỚI PHÁT TRIỂN KT – XH Ở VIỆT NAM. Với việc chuyển sang kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường ở Việt Nam từ cuối những năm 1980 đến nay, và đặc biệt là từ khi Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân ra đời( 1990), các DNN&V phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, cho đến khi Luật doanh nghiệp năm 1999 được ban hành ( thay thế Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân) thì số lượng doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân được thành lập tăng lên nhanh chóng. Vơi số lượng các doanh nghiệp được thành lập mới ngày càng tăng nhanh, đóng góp của khu vực DNN&V ngày càng lớn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, vai trò của các DNN&V ngày càng lớn đối với nền kinh tế - xã hội của Việt Nam và được thể hiện ở các mặt sau: 2.1. DNN&V đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của cả nước. DNN&V ngày càng đóng góp nhiều hơn vào tổng GDP do số lượng doanh nghiệp ngày càng lớn và phân bổ rộng khắp trong hầu hết các ngành, lĩnh vực. Ngoài ra, tốc độ tăng trưởng của khu vực DNN&V cũng thường cao hơn so với các khu vực DN khác. Nếu tính doanh thu của các DN cả nước, tỷ trọng doanh thu của khu vực DNN&V theo quy mô lao động( dưới 300 người) năm 2002 – 2004 là 81,5% - 86,5%. Điều đó chứng tỏ các DNN&V có đóng góp lớn vào việc gia tăng sản lượng và tăng trưởng kinh tế. Bảng 1. 2 : Tỷ trọng doanh thu DNN&V trong nền kinh tế Năm Toàn bộ Doanh thu ( Tỷ đồng) Tỷ trọng Doanh thu DNN&V(%) Chia ra theo quy mô lao động(%) Dưới 5 người Từ 5 - 200 Từ 200 - 300 2002 364844 86,5 4,9 74,2 4,4 2003 485104 82,0 4,2 70,6 7,3 2004 640087 81,5 4,4 72,5 4,6 Nguồn: Tổng cục Thống kê 2005 Về đóng góp vào GDP: từ chỗ tỷ lệ trong GDP của khu vực DNN&V không đáng kể đầu những năm 1990, đến nay tỷ lệ này khoảng từ 24% đến 25,5%. Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực thì đây là mức thấp nhất. 2.2. Góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Ngoài việc đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, DNN&V còn có vai trò góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Điều này được thể hiện ở các cơ cấu sau: Cơ cấu thành phần kinh tế: Trong thời gian qua tỷ lệ doanh nghiệp dân doanh trong số các doanh nghiệp đã tăng lên nhanh chóng. Đến năm 2007, khối doanh nghiệp dân doanh có khoảng 160.000 doanh nghiệp và 18.500 hợp tác xã, trong đó có tới 96% là DNN&V. Ngoài ra còn có khoảng 3 triệu hộ kinh doanh cá thể. Các doanh nghiệp dân doanh đã và đang trở thành trụ cột cuả nền kinh tế nước nhà, đưa chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần đi vào cuộc sống. Cơ cấu ngành kinh tế: Như đã nêu ở trên, Các DNN&V chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp – xây dựng và dịch vụ, thương mại. Vì các lĩnh vực này dễ dàng tham gia kinh doanh với số vốn ít và yêu cầu trình độ chuyên môn không đòi hỏi cao, khả năng thu hồi vốn nhanh. Điều này đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng dần tỷ trọng giá trị đóng góp vào GDP của ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng giá trị sản phẩm của ngành nông nghiệp trong GDP. Cơ cấu theo lãnh thổ: Các DNN&V được thành lập ở tất cả mọi nơi trên cả nước, kể cả vùng có điều kiện KT – XH khó khăn. Đây là điểm khác biệt cơ bản so với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các DNN&V có thể đóng góp vào việc phân bổ các ngành công nghiệp đến nhiều vùng dân cư khác nhau; từ thành thị, nông thôn đến các vùng miền núi, vùng sâu vùng xa. Nhờ đó giảm bớt được khoảng cách phát triển giữa các khu vực khác nhau và tạo ra được sự phát triển cân đối giữa các vùng khác nhau trên toàn quốc. 2.3. Đóng góp vào ngân sách nhà nước. Nguồn thu ngân sách từ doanh nghiệp NN hiện nay chiếm tỷ trọng lớn, nhưng với tình hình hiện nay để có được nguồn thu này thì nhà nước cũng phải trợ cấp cho các DNNN rất nhiều. Hơn nữa, một khi gia nhập WTO thì việc trợ cấp này không thể duy trì, và hệ quả là nguồn thu từ các doanh nghiệp NN sẽ khó được đảm bảo. Ngân sách nhà nước, vì vậy, phục thuộc ngày càng nhiều vào các nguồn thu khác, trong đó đặc biệt quan trọng là từ thuế do các doanh nghiệp dân doanh đóng góp. Qua số liệu về đóng góp của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp vào ngân sách trung ương cũng cho ta thấy phần nào vai trò của khu vực DNN&V, lực lượng chủ yếu trong các doanh nghiệp dân doanh. Mặc dù đóng góp của khu vực DNN&V vào thu ngân sách còn nhỏ, nhưng tỷ lệ này đã tăng đáng kể và đang có xu hướng tăng nhanh trong mấy năm gần đây từ khoảng 6,4% năm 2001 lên hơn 7,2% năm 2002( Tỷ lệ này của doanh nghiệp FDI là 5,2% và 6%, của DNNN là 21,6 và 23,4%). Thu từ thuế công thương nghiệp và dịch vụ NQD năm 2002 tăng 13% so với năm 2001. Quý I – 2003, số thu từ doanh nghiệp dân doanh chiếm khoảng 11% tổng số thu, tăng 28,7% so với cùng kỳ và đạt 26,8% chỉ tiêu do Quốc hội đề ra. 2.4. DNN&V góp phần giải quyết việc làm, giảm áp lực về thất nghiệp. Hiện nay, do tỷ lệ tăng dân số cao trong những năm trước đây, hằng năm Việt Nam có khoảng 1,4 triệu người gia nhập vào lực lượng lao động. Vấn đề giải quyết việc làm cho những người này là rất cấp thiết. Bên cạnh đó, khu vực doanh nghiệp nhà nước hiện đang thực hiện sắp xếp lại nên không những không thể thu hút thêm lao động mà còn tăng thêm số lao động dôi dư. Khu vực đầu tư nước ngoài mỗi năm cũng chỉ tạo ra khoảng 30.000 chỗ làm mới, một tỷ lệ không đáng kể. Như vậy phần lớn số người tham gia lực lượng lao động này trông chờ vào khu vực nông thôn và khu vực DNN&V. Các DNN&V đã tạo ra nhiều việc làm mới với tốc độ tăng trưởng cao. Hiện nay, khu vực DNN&V đã tạo ra hơn 50% việc làm cho lao động làm việc trong các doanh nghiệp nói chung. 2.5. DNN&V làm đối tác liên kết làm tăng sức mạnh của các doanh nghiệp lớn: Doanh nghiệp lớn có thế mạnh về vốn, công nghệ, quy mô sản xuất kinh doanh, khả năng đáp ứng công nghệ, chương trình lớn về tiếp thị, phát triển thị trường,… Nhưng phân công lao động xã hội chỉ có doanh nghiệp lớn thì sẽ không hiệu quả, không phát huy được lợi thế trong liên kết kinh tế để tạo ra sức mạnh cạnh tranh của cả nền kinh tế. Đối với nhiều lĩnh vực, mặt hàng, doanh nghiệp lớn cần liên kết với các DNN&V trên cơ sở phân công lao động hợp lý, hiệu quả để cùng phát triển, nhất là những lĩnh vực như khâu thu mua nguyên vật liệu cũng như phân phối sản phẩm cần trên diện rộng, các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động,… Ở Phú Thọ, các DNN&V nhất là các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân đảm nhận vai trò là xí nghiệp vệ tinh cung cấp nguyên liệu, hỗ trợ các doanh nghiệp NN, các doanh nghiệp lớn sản xuất trong các lĩnh vực sản xuất giấy, chế biến chè, hoá chất, vật liệu xây dựng; là mạng lưới phân phối hàng hoá, tiêu thụ nông sản, giúp đỡ người nông dân. 3. ƯU, NHƯỢC ĐIỂM VÀ CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN DNN&V: 3.1. Ưu, nhược điểm của DNN&V: 3.1.1. Ưu điểm: DNN&V có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. DNN&V có cả hình thức sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp. Về loại hình kinh doanh, các DNN&V có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau như doanh nghiệp NN, doanh nghiệp TN, công ty CP, công ty TNHH. DNN&V dễ dàng khởi sự và nhạy bén, năng động, linh hoạt trong lĩnh vực kinh doanh. DNN&V chỉ cần một số vốn hạn chế, một diện tích nhỏ là có thể khởi sự sản xuất kinh doanh. Do có quy mô vừa và nhỏ, mô hình tổ chức quản lý gọn nhẹ nên các DNN&V khá năng động, linh hoạt, dễ chuyển đổi sang những lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh khác khi cần thiết. Việc chuyển địa điểm sản xuất kinh doanh, cơ sở vật chất cũng dễ dàng và không tốn nhiều chi phí như những tập đoàn, doanh nghiệp lớn. DNN&V thu hút nhiều lao động, hoạt động hiệu quả với chi phí ổn định thấp. Các DNN&V có nguồn vốn ít, do đó vốn đầu tư vào tài sản cố định cũng ít, họ thường tận dụng lao động thay thế cho vốn, đặc biệt là các nước có lực lượng lao động lớn và giá nhân công thấp như nước ta, để tiến hành sản xuất kinh doanh. Do đó, sự phát triển của các DNN&V đã tạo ra nhiều việc làm cho nền kinh tế - xã hội. DNN&V ít xảy ra xung đột giữa người sử dụng lao động và lao động. Do quy mô vừa và nhỏ nên sự ngăn cách giữa người sử dụng lao động và người lao động không lớn, người chủ doanh nghiệp luôn theo sát công việc của người lao động, do đó nếu có mâu thuẫn, xung đột cũng dễ dàng giải quyết để cân bằng giữa lợi ích của người lao động với lợi ích của người sử dụng lao động. 3.1.2. Hạn chế, tồn tại: Về tiếp cận đất đai: Trong bối cảnh thị trường bất động sản có nhiều biến động như hiện nay, giá thuê mặt bằng tăng cao thì việc tiếp cận đất đai làm mặt bằng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp càng khó khăn hơn. Nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc giải quyết các thủ tục hành chính về đất đai. Các DNN&V thường có thị trường hẹp và khả năng cạnh tranh thấp. - Việt nam có tuy có dân số đông nhưng lại là một thị trường nhỏ do thu nhập của người dân vẫn còn thấp. Ngoài ra, thị trường còn đang bị ảnh hưởng bởi các hàng hoá nhập lậu, hàng giả như hàng tiêu dùng từ Trung Quốc, ...Khác với các DN lớn, DNN&V không thể đủ lực để hạ giá hàng nhằm cạnh tranh với với hàng hoá nhập lậu. DNN&V có thị trường nhỏ hẹp, hàng hoá thường được tiêu thụ ở thị trường nội địa vì chất lượng kém, mẫu mã bao bì chưa đa dạng chưa đủ sức để vươn ra thị trường quốc tế. - Những biến động lớn về giá cả đầu vào đã tác động mạnh đến hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt nhiều doanh nghiệp không có khả năng dự báo tình hình biến động của thị trường. Điều này đã ảnh hưởng lớn đến khả năng cạnh tranh thị trường của doanh nghiệp. Các DNN&V thường có chiến lược sản xuất kinh doanh mang tính thời vụ, chưa có hướng phát triển lâu dài. Phần lớn các DNN&V của Việt Nam đều chiếm một thị phần nhỏ trên thị trường; do đó, các doanh nghiệp này thường không chủ động trên thị trường.Các DNN&V thường chỉ đưa ra được những kế hoạch phát triển sản xuất kinh doanh mang tính thời vụ đáp ứng nhu cầu tức thì trên thị trường tại một thời điểm nào đó, chưa mang tính ổn định và phát triển lâu dài. Nếu DN không đưa ra được một định hướng phát triển lâu dài thì khi thị trường xảy ra những biến cố, doanh nghiệp rất khó khăn để thích nghi với hoàn cảnh và có thể dẫn tới nguy cơ phá sản, đổ vỡ. 3.2. Các nhân tố tác động đến DNN&V: 3.2.1. Quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Quá trình hội nhập của nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế thế giới đang diễn ra rất nhanh chóng và mạnh mẽ. Điều này ảnh hưởng đến hoạt động của mọi chủ thể kinh tế, trong đó có các DNN&V. Nước ta đang trong quá trình hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới thông qua việc tham gia khối và tổ chức như: ASEAN, APEC, WTO, IMF, WB và các tổ chức khu vực và quốc tế khác. Đây vừa là một thách thức nhưng đồng thời cũng mở ra cơ hội rất lớn và là một điều kiện rất thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam, trong đó có DNN&V. Đó là việc các doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận với thế giới bên ngòai để thu nhập thông tin, phát triển công nghệ, tăng cường hợp tác cùng có lợi, mở rộng thị trường đầu vào và thị trường xuất khẩu. Còn thách thức đó là cùng với quá trình hội nhập thì sự bảo hộ đối với sản xuất trong nước thông qua các hàng rào thuế quan và phí thuế quan sẽ giảm dần, trong khi khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các DNN&V nói riêng trên thị trường quốc tế còn rất hạn chế. Nếu không vượt qua được thách thức đó thì các DNN&V sẽ khó tồn tại ngay cả trên chính thị trường trong nước chứ chưa nói đến thị trường thế giới. Bên cạnh đó thị trường vốn và sự phân công lao động quốc tế là yếu tố ảnh hưởng không nhỏ trong quá trình hội nhập... về vốn, chúng ta vẫn xác định vốn trong nước là quyết định, vốn đầu tư nước ngoài là quan trọng cho phát triển kinh tế. Hiện nay và trong những năm tới, nguồn vốn đáp ứng nhu cầu đầu tư trên thế giới ngày càng thiếu. Trong khi đó, các nước trong khu vực và rất nhiều nước trên thế giới tìm cách thu hút đầu tư nước ngoài bằng cách đưa ra các chính sách hấp dẫn. Việc thu hút vốn ĐTNN vừa tạo thuận lợi nhưng sẽ tăng mức độ cạnh tranh đối với các doanh nghiệp nói chung và các DNN&V nói riêng. Một giải pháp là phải phát triển các DNN&V thông qua tự do hóa việc thành lập doanh nghiệp của mọi thành phần kinh tế nhằm huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi.Chính điều này đã tạo ra nguồn vốn đối ứng trong nước khi thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đây chính là cơ hội cho DNN&V phát triển. 3.2.2. Môi trường pháp lý và các chính sách vĩ mô. Khu vực DNN&V là khu vực rất phát triển ở hầu hết các nước trên thế giới. Các nước đó đều có chính sách riêng, khuôn khổ luật pháp riêng và rõ ràng cho DNN&V, có cơ quan Nhà nước chuyên soạn thảo chính sách đối với DNN&V. Trong những năm qua, thông qua các tổ chức quốc tế, các cơ quan quản lý Nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp của Việt nam đã có nhiều dịp tiếp cận, học hỏi kinh nghiệm phát triển DNN&V với các nước trong khu vực, trao đổi về nhu cầu hợp tác, đào tạo cán bộ, cũng như các kỹ năng tư vấn hỗ trợ DNN&V. Tuy nhiên, hiện tại Việt Nam chưa có khung khổ chính sách thích hợp cho loại hình DNN&V. Một số cơ quan quản lý, cơ quan hỗ trợ doanh nghiệp, một số địa phương đã tự ban hành tiêu chí để xác định DNN&V tùy theo mục đích hoạt động của các tổ chức và cơ quan đó. Đến nay Chính phủ mới ban hành Nghị định 90/2001/NĐ-CP, định nghĩa về DNN&V làm cơ sở cho việc phân loại, nghiên cứu và đề xuất cơ chế chính sách đối với khu vực này. Về môi trường pháp lý và các chính sách vĩ mô liên quan đến DNN&V hiện nay, có một số hạn chế chủ yếu sau đây: - Chính sách ưu đãi đầu tư: Nhà nước đã ban hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước, trong đó có các lĩnh vực, vùng ưu tiên cho các nhà đầu tư. Chính sách ưu đãi đầu tư thể hiện thông qua việc miễn, giảm thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp, các ưu đãi về tín dụng cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay nhiều doanh nghiệp quy mô nhỏ, các DNNQD chưa tiếp cận được với các chính sách ưu đãi đầu tư do nhiều nguyên nhân khác nhau. Vẫn còn tình trạng phân biệt đối xử giữa DNNN và DNNQD trong cả văn bản luật và các chính sách của Nhà nước, mặc dù quan điểm của Đảng và Nhà nước là đảm bảo sự phát triển bình đẳng, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng cho các thành phần kinh tế. - Về chính sách đất đai: Nhiều DNN&V thiếu mặt bằng sản xuất, nhất là ở các tỉnh và các trung tâm công nghiệp. Hiện này ở Việt Nam còn thiếu quy hoạch các khu công nghiệp tập trung dành riêng cho DNN&V và chưa có chính sách cụ thể và rõ ràng về đất đai cho hoạt động sản xuất của các DNN&V. - Về chính sách công nghệ: Các DNN&V gặp phải những khó khăn liên quan đến thông tin như: Không hiểu biết kỹ đối tác, nhất là đối tác nước ngoài; không biết xuất xứ của công nghệ của nước ngoài cũng như các thông tin để đánh giá sự phù hợp của công nghệ đối với doanh nghiệp. Bên cạnh đó chất lượng nguồn nhân lực nói chung và kỹ năng của người lao động nói riêng cũng là yếu tố quan trọng để có thể tiếp thu được công nghệ chuyển giao. Chính sách của Việt Nam hiện nay mới chỉ dừng lại ở những phương hướng, chưa có chính sách, chương trình thật cụ thể cho việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài nhiều khi không có lợi cho doanh nghiệp mà còn gây thiệt hại cho các doanh nghiệp Việt Nam. Mối liên hệ giữa doanh nghiệp lớn và DNN&V cũng như giữa các DNN&V với nhau trong chuyển giao công nghệ còn yếu. Ngoài ra, các chính sách vĩ mô về công nghệ vẫn còn mâu thuẫn với nhau. Thí dụ, Nhà nước luôn khẳng định khuyến khích các DN đối mới công nghệ, nhưng chế độ khấu hao tài sản đối với các doanh nghiệp lại không phù hợp. Các chính sách thuế, ưu đãi về vốn cũng chưa thực sự khuyến khích việc nghiên cứu và triển khai áp dụng công nghệ mới và chuyến giao công nghệ. - Chính sách lãi suất và tín dụng của các ngân hàng: cùng với chính sách đất đai và chính sách công nghệ, chính sách tài chính tín dụng là một chính sách quan trọng đối với sự phát triển của các DNN&V. Trong tổng dư nợ tín dụng của các ngân hàng, tỷ lệ dành cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã có chiều hướng tăng lên xong chưa tương xứng với số lượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng như đóng góp của các doanh nghiệp này trong nền kinh tế. Hiện nay các thủ tục vay tín dụng của các ngân hàng nhìn chung còn quá phức tạp. Việc thiếu các quy định về đăng ký tài sản cá nhân là một trong những nguyên nhân gây khó khăn trong việc thế chấp, cầm cố khi vay mượn. Ngoài ra các thủ tục thế chấp này vẫn có nhiều điểm chưa hợp lý như quy định về công chứng, đánh giá tài sản,… Một thực tế đó là các ngân hàng thương mại không muốn cho các DNN&V vay vì khối lượng vốn vay nhỏ, độ tin cậy thấp, các ngân hàng không đủ cán bộ để q._.uản lý các khoản cho vay nhỏ này. Ngoài ra, các DNN&V lại thường gặp khó khăn trong việc thế chấp tài sản, năng lực lập dự án để vay vốn… do vậy, đa số các DNN&V thường phải huy động vốn trong khu vực tài chính phi chính thức với lãi suất cao, gây bất lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh. 4. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN DNN&V Ở VIỆT NAM. 4.1. Sự phát triển về số lượng các DNN&V ở Việt Nam. Các DNN&V ở Việt Nam đã trải qua một quá trình phát triển gắn bó với quá trình đổi mới nền kinh tế. Trong mô hình kinh tế cũ, các DNN&V chủ yếu là các xí nghiệp quốc doanh, các hợp tác xã và các cơ sở kinh doanh cá thể. Với việc phát triển kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, từ năm 1989 các DNN&V có bước khởi sắc. Với Luật công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân( 1990) cùng với việc thừa nhận sở hữu tư nhân trong Hiến pháp 1992 và việc ban hành các luật như: Luật khuyến khích đầu tư trong nước (1994), Luật Doanh nghiệp nhà nước (1995), Luật Hợp tác xã (1996), các DNN&V khu vực kinh tế NQD phát triển mạnh. Sau một thời gian phát triển, khu vực DNN&V đã có sự phát triển đáng kể về mặt số lượng và tỷ trọng của khu vực này so với toàn bộ khu vực doanh nghiệp trong cả nước. Theo tiêu chí phân loại dựa vào tổng giá trị vốn, trong tổng số 23.708 doanh nghiệp trong cuộc Tổng điều tra các cơ sở kinh tế, hành chính sự nghiệp trên phạm vi cả nước tại thời điểm ngày 1-7-1995, có tới 20.856 DN là các DNN&V, chiếm tỷ lệ 88%. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 1999 số lượng DN có vốn dưới 5 tỷ đồng là 43.772 DN, chiếm 91% tổng số các DN (48.133 DN), trong đó DNNN quy mô nhỏ và vừa là 3.672 DN, chiếm 64,2%( trong tổng số 5.718 DNNN), DNN&V NQD là 40.100 DN, chiếm 94,5% trong tổng số DNNQD. Tổng số vốn ĐKKD của khu vực DNN&V khoảng 50.000 tỷ đồng, bằng 30% tổng vốn kinh doanh của toàn bộ khu vực DNNN. Tuy nhiên, các DNN&V thực sự phát triển mạnh cả về số lượng và lượng vốn đầu tư, thu hút lao động từ khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực( ngày 01-01-2000). Trong năm 2000, có trên 14.457 doanh nghiệp ĐKKD thành lập mới, gấp khoảng 2,5 lần so với số lượng năm 1999, con số này của năm 2001 đã là 19.800 DN, năm 2005 đã lên tới 45.162 DN. Số lượng và vốn ĐKKD của các doanh nghiệp trong giai đoạn 2000- 2007 được thể hiện ở bảng sau. Bảng 1. 3 : Số lượng doanh nghiệp ĐKKD giai đoạn 2000 – 2007. Năm Số lượng Doanh nghiệp ( Doanh nghiệp) Vốn đăng ký ( tỷ đồng) Vốn trung bình 1 doanh nghiệp, (triệu đồng) Trước 2000 46.770 139531,6 2983,4 2000 14.457 13904,4 961,8 2001 19.800 25770,1 1301,5 2002 20.803 36736,2 1765,9 2003 26.023 54212,1 2083,2 2004 36.795 75124,0 2041,7 2005 45.162 45754,4 2016,6 2006 46.606 146.433.924 3.141,95 2007 58.196 473.811.492 8.141,65 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Tổng cục Thống kê 2007. Như vậy, sau 8 năm thực hiện Luật Doanh nghiệp, số lượng doanh nghiệp nói chung và DNN&V nói riêng tăng lên gấp nhiều lần so với trước đây. Năm 2007 số doanh nghiệp đăng ký mới tăng hơn 4 lần so với năm 2000. Đáng chú ý hơn là trong số các doanh nghiệp đăng ký mới thì chủ yếu là các DNN&V( chiếm khoảng trên 90%). 4.2. Sự phát triển của DNN&V phân theo nguồn vốn, lao động và ngành nghề kinh doanh. Theo số liệu điều tra doanh nghiệp giai đoạn 2000 – 2006 của Tổng cục Thống kê, số DNN&V theo quy mô vốn và lao động được thể hiện như Bảng 4 và bảng 5 dưới đây. Trong đó, riêng năm 2006, có 114.340 doanh nghiệp có số vốn dưới 10 tỷ đồng, chiếm 87,1% tổng số doanh nghiệp, có 127.600 doanh nghiệp chiếm 97,2% tổng số doanh nghiệp cả nước. Bảng 1. 4 : Số lượng và tỷ lệ doanh nghiệp phân theo quy mô nguồn vốn giai đoạn 2000 – 2006. Đơn vị: Doanh nghiệp. Số lượng doanh nghiệp sản xuất, theo quy mô nguồn vốn (tính tới thời điểm cuổi năm) 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Dưới 0.5 tỷ VND 16.267 18.326 18.591 18.790 23.187 26.687 15.908 0.5 – 1 tỷ VND 6.534 8.403 10.994 12.954 16.191 20.434 21.808 1 – 5 tỷ VND 10.759 14.556 20.141 24.737 32.739 41.856 63.954 5 – 10 tỷ VND 2.745 3.385 4.490 5.496 7.303 9.255 12.670 Tổng số DNN&V 36.305 44.670 54.216 61.977 79.420 98.232 114.340 10 – 50 tỷ VND 3.957 4.623 5.771 6.648 8.269 10.017 11.502 50 – 200 tỷ VND 1.515 1.781 2.160 2.491 2.904 3.302 3.837 200 – 500 tỷ VND 312 383 501 586 760 895 1.013 Trên 500 tỷ VND 199 223 260 310 403 504 640 Tổng số doanh nghiệp không phải là DNN&V 5.983 7.010 8.692 10.035 12.336 14.718 16.992 Tỷ lệ % Dưới 0.5 tỷ VND 38,5 35,5 29,6 26,1 25,3 23,6 12,1 0.5 – 1 tỷ VND 15,5 16,3 17,5 18,0 17,6 18,1 16,6 1 – 5 tỷ VND 25,4 28,2 32,0 34,4 35,7 37,1 48,7 5 – 10 tỷ VND 6,5 6,5 7,1 7,6 8,0 8,2 9,6 Tổng số DNN&V 85,9 86,4 86,2 86,1 86,6 87,0 87,1 10 – 50 tỷ VND 9,4 8,9 9,2 9,2 9,0 8,9 8,8 50 – 200 tỷ VND 3,6 3,4 3,4 3,5 3,2 2,9 2,9 200 – 500 tỷ VND 0,7 0,7 0,8 0,8 0,8 0,8 0,8 Trên 500 tỷ VND 0,5 0,4 0,4 0,4 0,4 0,4 0,5 Tổng số doanh nghiệp không phải là DNN&V 14,1 13,6 13,8 13,9 13,4 13,0 12,9 Nguồn: Tổng cục thống kê Từ số liệu ở Bảng 4 cho thấy, tỷ trọng các doanh nghiệp nhỏ với số vốn dưới 1 tỷ đồng (trên 60.000 USD) đã giảm từ 54% vào năm 2000 xuống còn 29% vào năm 2006. Điều này chứng tỏ rằng một bộ phận các DNN&V lớn hơn đang hình thành. Dựa vào tiêu chí về quy mô lao động, chúng ta cũng thấy một bức tranh tương tự về DNN&V. Tỷ trọng DNN&V sử dụng dưới 5 lao động đã giảm (từ 24% xuống còn 12,8% trong giai đoạn 2000 - 2006), trong khi đó tỷ trọng các DNN&V sử dụng trong khoảng 5-9 lao động ngày càng tăng (từ 26% đến 44%). Tuy nhiên, tỷ lệ các DNN&V ở các nhóm có số lao động lớn hơn cũng giảm đi: Các nhóm từ 10-49 người vẫn ổn định; nhóm có số lao động từ 50-299 người giảm từ 16% xuống còn 10%. Điều này chỉ ra rằng trong khi Việt Nam đã rất thành công trong việc gia tăng số lượng các DNN&V thì vẫn còn hạn chế về quy mô của các doanh nghiệp. Bảng 1. 5 : Số lượng và tỉ lệ doanh nghiệp phân theo quy mô lao động giai đoạn 2000-2006. Đơn vị: Doanh nghiệp. Số lượng các DN hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, theo quy mô lao động ( tính tới thời điểm cuối năm) 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Dưới 5 lao động 10.169 11.932 12.079 13.091 17.977 23.188 16.834 5 - 9 lao động 10.900 13.896 18.139 20.438 26.459 34.632 57.980 10 - 49 lao động 12.071 15.737 20.718 25.220 32.443 38.957 39.366 50 - 199 lao động 5.633 6.304 7.541 8.531 9.808 10.933 11.683 200 - 299 lao động 1.124 1.193 1.354 1.407 1.535 1.626 1.737 Tổng số DNN&V 39.897 49.062 59.831 68.687 88.222 109.336 127.600 300 - 499 lao động 1.047 1.156 1.354 1.403 1.511 1.555 1.528 400 - 999 lao động 815 883 1.043 1.181 1.203 1.188 1.259 1.000 - 4.999 lao động 495 539 638 684 764 801 864 Từ 5.000 lao động trở lên 34 40 42 57 56 70 81 Tổng số doanh nghiệp không phải là DNN&V 2.391 2.618 3.077 3.325 3.534 3.614 3.732 Tỷ lệ % 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Dưới 5 lao động 24,5 23,1 19,2 18,2 19,6 20,5 12,8 5 – 9 lao động 25,8 26,9 28,8 28,4 28,8 30,7 44,1 10 - 49 lao động 28,5 30,5 32,9 35,0 35,4 34,5 30,0 50 - 199 lao động 13,3 12,2 12,0 11,8 10,7 9,7 8,9 200 - 299 lao động 2,7 2,3 2,2 2,0 1,7 1,4 1,3 Tổng số DNN&V 94,3 94,9 95,1 95,4 96,1 96,8 97,2 300 - 499 lao động 2,5 2,2 2,2 1,9 1,6 1,4 1,2 400 - 999 lao động 1,9 1,7 1,7 1,6 1,3 1,1 1,0 1.000 - 4.999 lao động 1,2 1,0 1,0 0,9 0,8 0,7 0,7 Từ 5.000 lao động trở lên 0,1 0,1 0,1 0,1 0,1 0,1 0,1 Tổng số doanh nghiệp không phải là DNN&V 5,7 5,1 4,9 4,6 3,9 3,2 2,8 Nguồn: Tổng cục Thống kê. Bảng 1. 6 dưới đây thống kê DNN&V theo ngành nghề kinh doanh giai đoạn 2000-2006 cho thấy không có quá nhiều thay đổi về ngành nghề kinh doanh của khu vực DNN&V theo thời gian. Bảng 1. 6: Số lượng và tỷ lệ doanh nghiệp phân loại theo ngành nghề kinh doanh giai đoạn 2000 – 2006 Số lượng doanh nghiệp, phân loại theo ngành nghề kinh doanh ( tính tới thời điểm cuối năm) 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Nông và lâm nghiệp 925 875 972 939 1.015 1.071 1.092 Thuỷ sản 2.453 2.563 2.407 1.468 1.354 1.358 1.307 CN khai thác mỏ 427 634 879 1.029 1.193 1.277 1.369 Công nghiệp chế biến 10.399 12.353 14.794 16.916 20.531 24.017 26.863 Xây dựng 3.999 5.693 7.845 9.717 12.315 15.252 17.783 Thương mại 17.547 20.722 24.794 28.369 36.090 44.656 52.505 Khách sạn và nhà hàng 1.919 2.405 2.843 3.287 3.957 4.730 5.116 Giao thông vận tải 1.796 2.545 3.242 3.976 5.351 6.754 7.695 Khác 2.823 3.890 5.132 6.311 9.950 13.835 17.602 Tỷ lệ 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Nông và lâm nghiệp 2,2 1,7 1,5 1,3 1,1 0,9 0,8 Thuỷ sản 5,8 5,0 3,8 2,0 1,5 1,2 1,0 CN khai thác mỏ 1,0 1,2 1,4 1,4 1,3 1,1 1,0 Công nghiệp chế biến 24,6 23,9 23,5 23,5 22,4 21,3 20,5 Xây dựng 9,5 11,0 12,5 13,5 13,4 13,5 13,5 Thương mại 41,5 40,1 39,4 39,4 39,3 39,5 40,0 Khách sạn và nhà hàng 4,5 4,7 4,5 4,6 4,3 4,2 3,9 Giao thông vận tải 4,2 4,9 5,2 5,5 5,8 6,0 5,9 Khác 6,7 7,5 8,2 8,8 10,8 12,2 13,4 Đơn vị: Doanh nghiệp Nguồn: Tổng cục Thống kê - Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm 2001- 2007. Qua các số liệu ta thấy, tỷ trọng các DNN&V trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản đã giảm chút ít so với các ngành dịch vụ. Sự thay đổi mạnh mẽ nhất chính là tỷ trọng của mục “khác”, đã tăng từ 6,7% đến 13,4% giai đoạn 2000 - 2006, cho thấy các DNN&V đang chuyển dịch sang các lĩnh vực kinh doanh đa dạng hơn, bao gồm các khu vực có tốc độ tăng trưởng cao như dịch vụ tài chính, phần mềm và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh khác. 5. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN DNN&V Ở MỘT SỐ TỈNH. 5.1. Chính sách phát triển DNN&V ở tỉnh Đồng Nai: Trong những năm qua, nhờ có chính sách khuyến khích và hỗ trợ phát triển DNN&V của nhà nước ban hành, nhất là sau khi luật Doanh nghiệp có hiệu lực từ năm 2000, số lượng các DNN&V ở nước ta nói chung và tỉnh Đồng Nai nói riêng đã phát triển rất nhanh. Phần lớn các doanh nghiệp khu vực kinh tế dân doanh tỉnh Đồng Nai được thành lập trong thời gian qua là các DNN&V. Theo số liệu của Cục Thống kê Đồng Nai, đến cuối năm 2005, Tỉnh Đồng Nai có 8.739 doanh nghiệp công nghiệp dân doanh, tăng 18% so với năm 2000; trong đó có 9 hợp HTX, tăng 3 HTX so với năm 2000; 350 Công ty TNHH và Công ty CP, tăng 4,5 lần so với năm 2000; và 8.100 hộ kinh doanh cá thể, tăng 15% so với năm 2000. Năm 2005, giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực công nghiệp dân doanh toàn tỉnh đạt trên 5.894 tỷ đồng, tăng 123,9 % so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, doanh nghiệp tư nhân thực hiện được 950 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 18,1%, tăng 10,2% so với cùng kỳ.HTX có giá trị sản xuất công nghiệp thực hiện được hơn 18 tỷ đồng, tăng 0,8% so cùng kỳ. Các hộ sản xuất cá thể thực hiện được 769 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 10,6%, tăng 51,9% so với cùng kỳ. Các doanh nghiệp hỗn hợp (Công ty CP) còn lại có giá trị sản xuất công nghiệp thực hiện được 4.155 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 70,8%, tăng 23,3% so với cùng kỳ năm trước. Nhìn chung, khu vực công nghiệp dân doanh là khu vực có mức tăng trưởng cao nhất so với các khu vực khác trong ngành công nghiệp trên địa bàn. Để đạt được những thành quả như trên, trong thời gian qua tỉnh Đồng Nai đã có nhiều biện pháp nhằm hỗ trợ cho các DNN&V của tỉnh, và đây cũng là kinh nghiệm cho việc phát triển DNN&V ở Phú Thọ. Các biện pháp nhằm phát triển DNN&V của tỉnh Đồng Nai được thể hiện ở các nội dung sau: Thành lập các trung tâm hỗ trợ DNN&V: Nhận thức được vai trò quan trọng của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Tỉnh Đồng Nai đã tích cực triển khai chính sách hỗ trợ phát triển DNN&V của Chính phủ. Tại Đồng Nai hiện đã thành lập 2 Trung tâm thực hiện hỗ trợ DNN&V đó là Trung tâm hỗ trợ phát triển DNN&V Đồng Nai (SMEDAC) và Trung tâm khuyến công Đồng Nai. Các trung tâm này có chức năng tư vấn hỗ trợ nhằm giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động sản xuất kinh doanh của DNN&V. - Tư vấn cho doanh nghiệp tìm hiểu, giải thích về các chính sách, pháp luật, các văn bản pháp luật về thuế, … có liên quan đến doanh nghiệp. - Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp như: + Lập dự án đầu tư và phương án vay vốn của các tổ chức tín dụng. + Lập hồ sơ xin cấp phép xây dựng, hướng dẫn ghi sổ sách kế toán và lập báo cáo tài chính. - Đào tạo và tập huấn kiến thức quản lý cho doanh nghiệp. - Đại diện cho doanh nghiệp và bảo vệ lợi ích hợp pháp cho doanh nghiệp trong quan hệ với các cơ quan nhà nước và cơ quan pháp luật. - Cung cấp thông tin thị trường, tổ chức triển lãm hội trợ và giới thiệu sản phẩm giúp cho các doanh nghiệp tìm kiếm được các thị trường và đối tác kinh doanh mới. Đưa ra các chính sách hỗ trợ DNN&V. - Chính sách đầu tư: Đồng Nai đã thực hiện khá tốt các biện pháp khuyến khích đầu tư, như giảm thuế, cho vay tín dụng, đơn giản hóa các thủ tục để rút ngắn thời gian đăng ký xuống còn 3 - 5 ngày (trong luật định là 15 ngày). Tỉnh chỉ đạo các sở, ban ngành liên quan tăng cường phối hợp trong việc giúp đỡ hỗ trợ các doanh nghiệp, như việc xây dựng phương án đầu tư, tổ chức gặp gỡ các doanh nghiệp (một năm ít nhất 2 lần), ban hành quy chế và tiêu chuẩn khen thưởng cho doanh nghiệp. Nhìn chung môi trường pháp lý đã thông thoáng hơn rất nhiều để khuyến khích đầu tư. - Chính sách đất đai: Tỉnh đã thực hiện công tác quy hoạch tổng thể về các DNN&V và có nhiều biện pháp cụ thể hỗ trợ DNN&V về đất đai, mặt bằng sản xuất, hình thành 4 loại KCN và các CCN tập trung với các chính sách khác nhau để vừa tăng cường thu hút đầu tư, tạo cơ hội cho các DN có điều kiện đầu tư phát triển. - Chính sách đào tạo nhân lực: Năm 2007 tỷ lệ chi cho giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội chiếm 37% tổng chi ngân sách toàn tỉnh, đạt khoảng 360 tỷ VNĐ. Từ tháng 11/2000 tỉnh đã thành lập Trung tâm hỗ trợ đầu tư và phát triển DNN&V, hiện đang hoạt động khá hiệu quả. Điều này đã giải quyết những khó khăn về tuyển dụng lao động cho các DNN&V của tỉnh. - Chính sách thuế: Tỉnh thực hiện hỗ trợ DNN&V trên cả hai mặt: Thực hiện đúng, kịp thời những quy định chung về ưu đãi thuế và các biện pháp hỗ trợ cụ thể đối với các DN. Thí dụ, trong hai năm 2005 và 2006, tỉnh đã xét giảm thuế GTGT và miễn thuế thu nhập cho trên 135 doanh nghiệp, thực hiện giảm 50% thuế suất GTGT cho hoạt động xây dựng nhà ở và cơ sở hạ tầng để bán hoặc cho thuê, giảm trừ từ 10% xuống còn 5% thuế GTGT cho nhiều mặt hàng và dịch vụ, thực hiện ưu đãi thuế cho doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động, đồng thời thực hiện chính sách miễn giảm thuế TNDN cho những doanh nghiệp mới đầu tư theo quy định hiện hành… - Chính sách vốn, tín dụng: Giảm bớt các thủ tục phiền hà không cần thiết để tạo điều kiện cho DNN&V tiếp cận với Ngân hàng, thành lập Chi nhánh Quỹ hỗ trợ phát triển và Quỹ hỗ trợ đầu tư của tỉnh để cho vay trung và dài hạn cho một số dự án đầu tư.  5.2. Chính sách phát triển DNN&V của tỉnh Bình Dương.   Bình Dương là một tỉnh miền Đông Nam Bộ, có tốc độ tăng trưởng GDP vào loại bậc nhất của cả nước, bình quân giai đoạn 1991 ÷ 1995 là 17,5% và giai đoạn 1996 ÷ 2000 đạt 13,5%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Nếu đến năm 1985 cơ cấu giá trị NLN là 66%; CN-XD là 9% và DV là 25% thì đến năm 2002 tỷ trọng tương ứng là 12,5% - 62,5% - 25%. Hiện nay, số DNN&V chiếm tỷ trọng >98% tổng số doanh nghiệp của tỉnh. Trong đó, DNN&V trong khu vực kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng lớn. Cơ cấu ngành nghề của DNN&V ở Bình Dương khá phong phú. Một điểm nổi bật ở Bình Dương là các DNN&V không khó khăn lắm trong việc vay vốn và cho vay vốn. Do đó một số DNN&V nhờ có nguồn vốn vay mở rộng SXKD đã trở thành DN lớn, hoặc đầu tư đổi mới công nghệ. Trong những năm qua, Bình Dương đã có nhiều chính sách nhằm phát huy nội lực, thu hút ngoại lực, đã tạo được môi trường đầu tư thông thoáng cho các DN thuộc mọi thành phần kinh tế. Đặc biệt, tạo sự yên tâm đầu tư cho các chủ DNN&V. Từ những quan điểm, chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần của tỉnh, các sở, ban ngành đã cụ thể hóa nội dung quản lý của mình để hỗ trợ phát triển của DNN&V cụ thể: - Tăng cường các biện pháp trong chính sách đất đai nhằm tạo cho các DNN&V có điều kiện thuận lợi để ổn định và mở rộng mặt bằng SXKD, đồng thời có đủ giấy tờ hợp pháp về đất đai để làm các thủ tục thế chấp. Đến cuối năm 2000, đã hoàn thành 90% thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và cấp 77% đến tay người dân. Thực hiện chủ trương ''đổi đất lấy kết cấu hạ tầng'', vừa thu hút được vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, vừa sử dụng đất có hiệu quả. Đối với các DN ở tỉnh khác đến thuê đất, hoặc đổi đất để xây dựng kết cấu hạ tầng thi tỉnh khuyến khích, không phân biệt đối xử. - Hỗ trợ về kỹ thuật công nghệ theo hướng khuyến khích các DNN&V chú trọng đổi mới công nghệ thông qua các nguồn vốn với lãi suất ưu đãi, tạo điều kiện và tài trợ một phần vốn để các DNN&V đủ điều kiện triển khai chương trình quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO; phổ biến và hỗ trợ thông tin, đặc biệt là hình thành các đầu mối cung cấp thông tin ổn định, phát huy vai trò của các hiệp hội, chi hội nghề nghiệp…. Ngoài ra, tỉnh Bình Dương còn rất quan tâm tới các chính sách: Thương mại, tài chính tín dụng, hỗ trợ đào tạo nguồn lực với các biện pháp khá cụ thể để phát triển DNN&V. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DNN&V TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ GIAI ĐOẠN 2001- 2008. 1. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ TỈNH PHÚ THỌ: 1.1. Đặc điểm tự nhiên, vị trí địa lý. 1.1.1. Vị trí địa lý: Phú Thọ là tỉnh thuộc khu vực miền núi, trung du phía Bắc, nằm trong khu vực giao lưu giữa vùng Đông Bắc, đồng bằng sông Hồng và Tây Bắc (vị trí địa lý mang ý nghĩa trung tâm của tiểu vùng Tây – Đông - Bắc). Phía Đông giáp Hà Tây, phía Đông Bắc giáp Vĩnh Phúc, phía Tây giáp Sơn La, phía Tây Bắc giáp Yên Bái, phía Nam giáp Hoà Bình, phía Bắc giáp Tuyên Quang. Với vị trí “ngã ba sông” cửa ngõ phía Tây của Thủ đô Hà Nội, Phú Thọ cách Hà Nội 80 km, cách sân bay Nội Bài 60 km, cách cửa khẩu Lào Cai, cửa khẩu Thanh Thuỷ hơn 200 km, cách Hải Phòng 170 km và cảng Cái Lân 200 km.   Phú Thọ nằm ở trung tâm các hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt và đường sông từ các tỉnh thuộc Tây - Đông - Bắc đi Hà Nội, Hải Phòng và các nơi khác. Là cầu nối giao lưu kinh tế - văn hoá - khoa học kỹ thuật giữa các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ với các tỉnh miền núi Tây Bắc. Quốc lộ 2 qua Phú Thọ đi Tuyên Quang, Hà Giang sang Vân Nam (Trung Quốc), quốc lộ 70 đi Yên Bái, Lào Cai sang Vân Nam (Trung Quốc), quốc lộ 32 qua Phú Thọ đi Yên Bái, Sơn La, cùng với các tỉnh bạn trong cả nước và quốc tế. Diện tích tự nhiên 3.528,4 km2, trong đó: Diện tích đất nông, lâm nghiệp, thủy sản 271.923 ha (Trong đó: Đất sản xuất nông nghiệp 100.080 ha, đất lâm nghiệp 167.425; đất nuôi trồng thủy sản 4.372 ha); đất ở, chuyên dùng 51.085 ha; đất chưa sử dụng 29.798. Dân số trung bình năm 2007 trên 1.350,6 nghìn người. Lao động trong độ tuổi 795,8 nghìn người ( chiếm 58.92% dân số). Phú Thọ có 13 huyện, thành, thị gồm 01 thành phố (thành phố Việt Trì), 01 thị xã (thị xã Phú Thọ) và 11 huyện: Thanh Sơn, Tân Sơn, Yên Lập, Cẩm Khê, Tam Nông, Thanh Thuỷ, Hạ Hoà, Thanh Ba, Đoan Hùng, Lâm Thao, Phù Ninh. Thành phố Việt Trì là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hoá của tỉnh; có 274 xã, phường, thị trấn; trong đó 10 huyện và 214 xã là miền núi (43 xã đặc biệt khó khăn theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ). 1.1.2. Khí hậu: Phú Thọ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có một mùa đông lạnh. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 230C, lượng mưa trung bình trong năm khoảng 1.600 đến 1.800 mm. Độ ẩm trung bình trong năm tương đối lớn, khoảng 85 – 87%. Nhìn chung khí hậu của Phú Thọ thuận lợi cho việc phát triển cây trồng, vật nuôi đa dạng 1.1.3. Đặc điểm địa hình: Phú Thọ là tỉnh miền núi, trung du nên địa hình bị chia cắt, được chia thành tiểu vùng chủ yếu. Tiểu vùng núi cao phía Tây và phía Nam của Phú Thọ, tuy gặp một số khó khăn về việc đi lại, giao lưu song ở vùng này lại có nhiều tiềm năng phát triển lâm nghiệp, khai thác khoáng sản và phát triển kinh tế trang trại. Tiểu vùng gò, đồi thấp bị chia cắt nhiều, xen kẽ là đồng ruộng và dải đồng bằng ven sông Hồng, hữu Lô, tả Đáy. Vùng này thuận lợi cho việc trồng các loại cây công nghiệp, phát triển cây lương thực và chăn nuôi. 1.2. Tình hình KT – XH của tỉnh: 1.2.1. Về tăng trưởng kinh tế: Sau giai đoạn bị tác động của khủng hoảng tài chính khu vực, tốc độ tăng GDP của Phú Thọ giảm từ 9,6% năm 1997 xuống còn 6,79% năm 1998; sau đó lấy lại được đà tăng trưởng cao trong những năm tiếp theo. Giai đoạn 1997- 2000 tăng 8,16%/năm, giai đoạn 2001- 2005 tăng 9,79%/năm; năm 2006 tăng 10,7%, năm 2007 tăng 10,84% và năm 2008 là 10,7% Bảng 2. 1: kết quả tăng trưởng kinh tế (GDP) của Phú Thọ giai đoạn 1997-2008 Chỉ tiêu 1997 2000 2005 2007 2008 GDP giá 1994 (Tỷ đồng) 2 237 2 794 4 457 5 469 - Tốc độ tăng trưởng (%) 9.6 8.96 1031 10.84 10.7 Nguồn số liệu: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Thọ, năm 2007 Biểu đồ 2. 1 : Tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 1997- 2008. Tốc độ tăng GDP của Phú Thọ luôn ở mức cao hơn bình quân chung cả nước và vùng trung du miền núi Bắc Bộ, nhưng quy mô còn nhỏ, nên số tuyệt đối tăng thêm không nhiều, GDP bình quân đầu người năm 1997 chỉ có 2,29 triệu đồng/người (176,3 USD), tăng lên 2,98 triệu đồng/người (214 USD) năm 2000, 5,23 triệu đồng/người (tương đương 332 USD) năm 2005 và 6,8 triệu đồng/năm (tương đương 425 USD) năm 2007. Như vậy, GDP bình quân đầu người ở Phú Thọ chỉ bằng khoảng 52% GDP bình quân chung cả nước. 1.2.2. Về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế: Cùng với tốc độ tăng cao của GDP, cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Phú Thọ cũng đã có sự thay đổi. Từ năm 1997 đến năm 2008, tỷ trọng của khu vực NLN đã giảm từ 33,1% xuống 26%, nhường chỗ cho sự tăng lên về tỷ trọng của khu vực CN - XD từ 33,2% lên 38.7%. Còn khu vực DV thay đổi không đáng kể từ 33,7% năm 1997 lên 35.3% năm 2008. Qua số liệu về cơ cấu ngành kinh tế của Phú Thọ giai đoạn 1997 – 2008, cho thấy cơ cấu ngành kinh tế của Phú Thọ có xu hướng chuyển dịch từ NLN sang CN và DV. Tuy nhiên quá trình dịch chuyển này còn diễn ra rất chậm. Bảng 2. 2: Cơ cấu ngành kinh tế giai đoạn 1997 - 2008 (theo giá hiện hành) Đơn vị tính: % Ngành 1997 2000 2005 2007 2008 NLN 33.1 29.8 28.7 27.0 26.0 CN – XD 33.2 36.5 37.6 38.0 38.7 DV 33.7 33.7 33.7 35.0 35.3 Nguồn số liệu: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Thọ, năm 2007 Biểu đồ 2. 2: Cơ cấu ngành kinh tế năm 1997 và năm 2008 Năm 1997 Năm 2008 1.2.3. Về chuyển dịch cơ cấu lao động: Quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động của tỉnh Phú Thọ được thể hiện như ở bảng 2.3 sau đây. Bảng 2. 3: Tình hình chuyển dịch cơ cấu lao động giai đoạn 1997- 2007 Năm 1997 2000 2005 2007 Số lao động làm việc trong các ngành kinh tế( nghìn người). - - 661,2 679,7 Cơ cấu lao động(%) 100 100 100 100 + NLN 80.49 79.85 72.2 68.2 + CN - XD 10.64 10.72 14.9 17.2 + DV 8.87 9.43 12.9 14.6 Nguồn số liệu: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Thọ năm 2007 Qua số liệu trên ta thấy, từ năm 1997 đến năm 2007 tỷ trọng lao động trong ngành NLN giảm từ 80.49% xuống 68,2%; ngành CN - XD tăng từ 10.64% lên 17,2%; ngành DV tăng từ 8,87% lên 14,6%. Năm 2007, trong số 679.700 lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế, có khoảng 463.555 người làm việc trong ngành NLN( chiếm 62,8%); 116.908 người làm việc trong ngành CN - XD( chiếm 17,2%); 99.236 người làm trong ngành DV ( chiếm 14,6%). Cơ cấu lao động của tỉnh đã có sự chuyển dịch tích cực theo đúng xu thế. Đó là tăng tỷ trọng lao động làm việc trong các ngành CN và DV, giảm tỷ trọng lao động làm việc trong ngành NN. Tuy nhiên, tốc độ tăng tỷ trọng lao động CN, DV và giảm lao động trong NLN vẫn còn diễn ra rất chậm. 1.2.4. Về đầu tư phát triển: Bảng 2. 4: Vốn đầu tư phát triển giai đoạn 1997 – 2008 Đơn vị tính: Tỷ đồng Chỉ tiêu 1997 2000 2005 2007 2008 TỔNG SỐ 579 1 124 4 323 5 142 5.908 1. Đầu tư từ Ngân sách nhà nước 199 678 1.915 2.565 3.078 + Đầu tư qua tỉnh 124 275 1.265 1.575 2.078 + Đầu tư qua Bộ, ngành, DNNN 74,9 402,5 650 990 1.000 2. Đầu tư của dân cư và tư nhân 67,4 343,9 1.258 1.675 1.900 3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) 312 102,7 1.150 902 930 Nguồn số liệu: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Thọ Xác định thu hút đầu tư phát triển là điều kiện quan trọng để khai thác tiềm năng, thế mạnh phát triển sản xuất, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, do đó giai đoạn 1997 - 2008 Phú Thọ đã huy động được 34.672 tỷ đồng, bình quân 2.889 tỷ đồng/năm. Riêng năm 2008 huy động được 5.908 tỷ đồng, trong đó vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước là 3.078 tỷ đồng chiếm 52,1%, vốn đầu tư của dân cư, tư nhân là 1.900 tỷ đồng chiếm 32,16 % và còn lại là vốn FDI chiếm 15,74%. Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước tập trung đầu tư kết cấu hạ tầng để thu hút các dự án khác phát triển sản xuất. 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DNN&V Ở TỈNH PHÚ THỌ: 2.1. Quá trình hình thành và sự phát triển về số lượng của các DNN&V. Các DNN&V ở Phú Thọ ra đời kể từ khi có Luật Doanh nghiệp và chủ trương cổ phần hoá các DNNN. Từ khi luật Doanh nghiệp có hiệu lực, thủ tục đăng ký kinh doanh được đơn giản hoá nhiều giấy phép không cần thiết được bãi bỏ, số lượng DNN&V của cả nước nói chung và của tỉnh Phú Thọ nói riêng tăng lên nhanh chóng. Đến hết năm 2008 cả tỉnh có khoảng 2240 DN. Trong đó có 1958 DN được cấp phép thành lập trong giai đoạn 2001 – 2008 với tổng số vốn gần 10.000 tỷ đồng. Trong số 1958 DN này, DNN&V chiếm tỷ trọng khoảng 94% tương đương với 1839 DN. Tình hình thành lập các DNN&V ở tỉnh Phú Thọ được thể hiện như ở bảng 2.5. Bảng 2. 5: Số lượng DN ĐKKD giai đoạn 2001 – 2008. Năm Tổng số Doanh nghiệp Tổng số DNN&V 2001 116 109 2002 155 144 2003 202 180 2004 252 241 2005 227 215 2006 268 256 2007 324 303 2008 414 391 Tổng 1958 1839 Đơn vị: Doanh nghiệp. Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Phú Thọ. Biểu đồ 2. 3: Số lượng DN thành lập giai đoạn 2001 – 2008. Quan sát số liệu ở bảng 2.5, ta thấy số lượng DNN&V thành lập mới liên tục tăng trong giai đoạn 2001 – 2008. Năm 2000, cả tỉnh có chưa đến 400 DNN&V, trong khi đó số DNN&V thành lập mới trong 3 năm 2001-2003 đã lớn hơn 400 doanh nghiệp. Năm 2008, số lượng DNN&V thành lập đã lên tới 391 doanh nghiệp đưa tổng số DNN&V của tỉnh lên 2017 DNN&V. 2.2. Tình hình giải thể, phá sản và chuyển đổi hình thức sở hữu của các DNN&V Phú Thọ trong giai đoạn 2001 – 2008: Cùng với quá trình hình thành nhanh chóng của các DNN&V trên địa bàn, trong giai đoạn 2001 – 2008, toàn tỉnh cũng có hàng trăm DN giải thể, phá sản hoặc thay đổi hình thức sở hữu. Hầu hết đây là các DN hoạt động không hiệu quả và có khả năng cạnh tranh kém. Số lượng các DNN&V giải thể, phá sản hoặc chuyển đổi hình thức sở hữu trong giai đoạn 2001 – 2008 của tỉnh Phú Thọ được thể hiện ở bảng dưới đây. Bảng 2. 6: Số lượng DNN&V giải thể, phá sản, chuyển đổi hình thức sở hữu giai đoạn 2001 – 2008 Đơn vị: Doanh nghiệp Loại hình Số lượng DN Công ty TNHH 27 DNTN 32 DNNN 33 Công ty Cổ phần. 17 Tổng số 109 Nguồn: Sở Kế hoạch Đầu tư Phú Thọ. Như vậy, trong giai đoạn 2001 – 2008 có 1839 DNN&V thành lập mới, nhưng cũng có 109 DNN&V giải thể, phá sản hoặc thay đổi hình thức sở hữu. Trong đó phần lớn là các DNTN và DNNN. Điều này cho thấy với sự ra đời của Luật DN và quá trình mở cửa, có rất nhiều doanh nghiệp mới ra đời nhưng không phải DN nào cũng hoạt động hiệu quả. Vì vậy, tỉnh Phú Thọ cần có những chính sách để tạo môi trường kinh doanh thuận lợi hơn cho các DN này. 2.3. Sự phát triển DNN&V theo loại hình doanh nghiệp. Theo luật Doanh nghiệp, các doanh nhân có thể chọn 1 trong các loại hình doanh nghiệp sau để hoạt động. Đó là DNTN, công ty TNHH, công ty hợp danh và công ty CP. Trong đó công ty hợp danh ít xuất hiện nhất. Về cơ cấu loại hình doanh nghiệp của các DNN&V đã có sự chuyển đổi đáng kể giữa các loại hình theo hướng các loại hình đa sở hữu có khả năng liên kết, thu hút vốn như công ty CP, công ty TNHH tăng mạnh, trong khi đó loại hình DNTN có xu hướng giảm. Điều này được thể hiện rõ khi so sánh tỷ trọng giữa các loại hình doanh nghiệp trước năm 2000 và giai đoạn 2001 – 2008. Trước năm 2000, tỷ trọng DNTN là 50%, công ty TNHH là 42,8%, công ty CP là 7,2 %. Qua bảng 2.6 dưới đây, ta có thể tính được tỷ trọng các loại hình DN được thành lập mới trong giai đoạn 2001 – 2008. Trong tổng số các DNN&V thành lập trong giai đoạn 2001 – 2008 có: 230 DNTN chiếm 12,5%, 992 Công ty TNHH chiếm 53,9%, 617 Công ty CP chiếm 33,6%. Bảng 2. 7: Số lượng các DNN&V theo loại hình kinh doanh thành lập giai đoạn 2001 – 2008. Đơn vị: Doanh nghiệp Năm Loại hình DN 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Tổng DNTN 28 23 19 27 36 34 32 31 230 Công ty TNHH 70 84 101 104 103 128 171 231 992 Công ty CP 11 37 60 110 76 94 101 130 617 Tổng số 109 144 180 241 215 256 303 391 1839 Nguồn: Sở Kế Hoạch và Đầu tư Phú Thọ. Theo số liệu ở bảng trên ta thấy, trong số các DNN&V được thành lập từ 2001 đến nay thì loại hình công ty TNHH chiếm ưu thế, tiếp đó là công ty CP cũng chiếm tỷ trọng lớn. Còn loại hình DNTN chiếm số lượng ít nhất. Như vậy có thể thấy rằng cơ cấu loại hình doanh nghiệp của các DNN&V của tỉnh Phú Thọ cũng đang biến động theo xu hướng phù hợp với xu hướng chung. 2.4. Thực trạng về vốn của các DNN&V. 2.4.1. Số lượng DNN&V theo quy mô vốn đăng ký. Cùng với tốc độ tăng trưởng của các DNN&V mới thành lập, số vốn đăng ký kinh doanh cũng đang có xu hướng gia tăng. Theo quy định ._.triển DNN&V tỉnh trong những năm qua. Nhưng các chính sách này áp dụng trên thực tế vẫn còn máy móc, kém linh họat, chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn. Do đó để tiếp tục phát triển DNN&V, Phú Thọ cần tiếp tục hoàn thiện các chính sách phát triển đối với DNN&V như: 2.3.1. Chính sách về khuyến khích thành lập các DNN&V. Để khuyến khích các DNN&V hình thành và phát triển, các chính sách vĩ mô của tỉnh cần tập trung vào các vấn đề sau đây: - Đơn giản hóa các thủ tục cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp. Giảm thiểu thời gian xét duyệt các thủ tục xin ĐKKD cho các doanh nghiệp nói chung và các DNN&V nói riêng, làm cho các cá nhân dễ dàng hơn trong việc tham gia thị trường. - Tỉnh lập Quỹ khởi sự để cho các DNN&V mới thành lập vay vốn với lãi suất ưu đãi để khởi sự doanh nghiệp. - Quy hoạch một số khu công nghiệp tập trung dành cho DNN&V để khuyến khích các doanh nghiệp này phát triển sản xuất kinh doanh, giải quyết khó khăn về mặt bằng sản xuất cho các DNN&V, đồng thời dũng giải quyết những khó khăn của các cơ quan chức năng trong việc quản lý các doanh nghiệp này. 2.3.2. Chính sách ưu đãi về vốn và tín dụng. Chính sách vốn và ưu đãi tín dụng là một trong những chính sách khuyến khích đầu tư quan trọng đối với các DNN&V. Chính sách này ưu tiên lãi suất cho từng đối tượng, từng doanh nghiệp trong từng ngành, lĩnh vực cụ thể. Để thực hiện được chính sách này, cần phải thành lập được quỹ hỗ trợ trích từ ngân sách tỉnh. Đồng thời tỉnh cũng phải thành lập trung tâm bảo lãnh cho vay đối với các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn hoặc các tổ chức mới thành lập. Trong thời gian tới, để khắc phục tình trạng thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh của các DNN&V và tình trạng ứ đọng vốn ở các ngân hàng thương mại, tỉnh cần đưa ra và thực hiện các giải pháp đồng bộ về phát triển DNN&V để theo kịp cũng như thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế của Phú Thọ. Các ngân hàng và các tổ chức tín dụng của tỉnh cần phải thực hiện các biện pháp: - Giảm bớt các thủ tục trong việc cho các DNN&V vay vốn, giảm điều kiện cho vay và điều kiện thế chấp. Giảm các phiền hà do thủ tục hành chính trong việc cho vay đối với các DNN&V. - Thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng đối với các DNN&V. - Nâng cao năng lực cán bộ ngân hàng, để ngân hàng trở thành các nhà đầu tư thực sự, đầu tư theo ý tưởng của các dự án đầu tư khả thi của các DNN&V. Ngân hàng làm đại diện thanh toán, giám sát, kiểm tra. - Khuyến khích các ngân hàng thương mại tăng tỷ lệ cho vay đối với các DNN&V trong tổng mức dư tín dụng của mình. 2.3.3. Chính sách đất đai Hiện nay các DNN&V thường có mặt bằng sản xuất hẹp, phân tán, đôi lúc phải tận dụng cả nhà ở để kinh doanh. Vì vậy, tỉnh Phú Thọ phải có những ưu đãi nhất định về đất đai cho các doanh nghiệp có khả năng sản xuất theo đúng định hướng của tỉnh. Cụ thể là nghiên cứu sửa đổi những quy định về thời gian giao đất, quyền sử dụng đất cho thuê, đấu thầu ... sao cho sử dụng đất có hiệu quả và bảo đảm tính công bằng giữa các loại hình doanh nghiệp. Đặc biệt, trong quy hoạch đất đai, phải nhanh chóng hình thành các khu, cụm công nghiệp để kích thích phát triển DNN&V, thông qua đó để thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, hướng tới giải quyết một phần khó khăn về mặt bằng sản xuất cho các DNN&V. 2.3.4. Chính sách khuyến khích cạnh tranh Tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp nói chung và các DNN&V nói riêng. Hạn chế tình trạng cạnh tranh quá gay gắt giữa các DNN&V của tỉnh với nhau, cũng như doanh nghiệp lớn với DNN&V trên địa bàn tỉnh; Xác định các chủng loại sản phẩm là thế mạnh và ưu tiên cho DNN&V sản xuất. Trong họat động sản xuất của các doanh nghiệp lớn, tỉnh cần yêu cầu các doanh nghiệp lớn lập kế hoạch rõ ràng về thuê thầu phụ với các DNN&V thích hợp. Tỉnh cũng cần đưa ra danh mục các sản phẩm mà các doanh nghiệp lớn phải cho DNN&V làm thầu phụ, xác định danh sách DNN&V làm thầu phụ cho từng ngành hoặc từng doanh nghiệp lớn. Để tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, tỉnh có rất nhiều việc cần phải làm, trong đó tập trung vào một số nội dung: - Xác định rõ các lĩnh vực, các ngành ưu tiên cho các DNN&V và các DN lớn của tỉnh. - Hạn chế các hiện tượng tiêu cực như: trốn thuế, buôn lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng ... tạo môi trường kinh doanh lành mạnh và bình đẳng giữa các doanh nghiệp. - Công khai các quy hoạch về xây dựng cơ sở hạ tầng, kế hoạch mua sắm thiết bị và đấu thầu bằng nguồn ngân sách của các cơ quan tỉnh, giúp cho các DNN&V có kế hoạch tham gia đấu thầu và có thể thực hiện đấu thầu một cách công khai, công bằng. - Chia nhỏ các dự án lớn của tỉnh thành các gói thầu nhỏ để các DNN&V có đủ khả năng tham gia một cách trực tiếp. - Cung cấp thông tin một cách rõ ràng, minh bạch, kịp thời cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các thông tin về thị trường, về cơ chế, chính sách của nhà nước. Từ đó giúp các doanh nghiệp tiếp cận một cách dễ dàng, bình đẳng với các ngồn thông tin này. 2.3.5. Chính sách hỗ trợ về công nghệ Trong việc hỗ trợ về công nghệ, tỉnh cần thành lập các quỹ nhằm hỗ trợ DNN&V về công nghệ trong một số lĩnh vực cụ thể: - Nghiên cứu, thiết kế và chế tạo sản phẩm mới; - Nghiên cứu sản xuất các loại nguyên nhiên vật liệu mới; - Nghiên cứu và ứng dụng công nghệ thông tin vào sản xuất và quản lý doanh nghiệp. Để thực hiện được các biện pháp hỗ trợ về công nghệ cho các DNN&V, tỉnh cần đưa ra và thực hiện được các biện pháp: - Khuyến khích các DNN&V thực hiện khấu hao nhanh đối với tài sản cố định, tăng tỷ lệ khấu hao hàng năm ... Như phần trên đã phân tích, tốc độ thay đổi công nghệ của Phú Thọ rất thấp, chi khoảng 10%/ năm, nay phải tăng lên 30 - 40%/năm. - Thực hiện các ưu đãi về tín dụng đối với các DNN&V thực hiện đổi mới công nghệ, áp dụng công nghệ thông tin vào sản xuất kinh doanh. - Đa dạng hóa các hình thức kinh doanh tài chính: Thuê mua, cho thuê tài chính - Cung cấp thông tin về công nghệ và chuyển giao công nghệ cho các DNN&V. Thực hiện các tư vấn cần thiết cho các DNN&V trong chuyển giao và mua công nghệ. Trong thời gian tới, Phú Thọ cần thành lập một trung tâm công nghệ thông tin phục vụ cho các doanh nghiệp nói chung và các DNN&V nói riêng. Cung cấp các thông tin miễn phí về KT-XH của tỉnh, các chính sách của Đảng, Nhà nước, các quy định, luật pháp, thị trường ngoài nước, các thông tin về công nghệ và thị trường lao động ... 2.3.6. Chính sách phát triển nhân lực Hiện nay, với trình độ công nghệ của các doanh nghiệp ngày càng tăng lên, trình độ tay nghề của người lao động cũng phải tăng lên tương ứng. Đồng thời, để đứng vững trong cạnh tranh, các DNN&V Phú Thọ cũng phải tìm cách tăng năng suất lao động, áp dụng khoa học công nghệ vào họat động sản xuất và nâng cao tay nghề cho người lao động. Tuy nhiên, như đã phân tích trong chương 2, đa số người lao động trong các DNN&V của tỉnh chưa qua đào tạo về nghề. Để đáp ứng được yêu cầu về số lượng và chất lượng, nguồn nhân lực cho quá trình phát triển kinh tế của tỉnh nói chung và của các DNN&V nói riêng, chính sách phát triển nguồn nhân lực cần tập trung vào một số nội dung: - Mở rộng hệ thống các trường đào tạo nghề của tỉnh, trong đó tập trung vào đào tạo các nghề trong những lĩnh vực mà tỉnh có thế mạnh như: cơ khí, điện, may mặc, hướng dẫn viên du lịch ... Đồng thời nâng cao chất lượng đào tạo nghề của các cơ sở đào tạo. - Thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng cho các chủ DNN&V, xây dựng những chương trình đào tạo, bồi dưỡng thiết thực cho đội ngũ này. Như đã phân tích trong chương 2 về trình độ của chủ DNN&V tỉnh còn nhiều yếu kém, đa số chưa được đào tạo về quản lý. Hiện nay thực hiện công tác này ở Phú Thọ chỉ có Trung tâm khuyến công và Tư vấn công nghiệp Phú Thọ thực hiện tương đối có hiệu quả. - Thành lập các trung tâm xúc tiến và hỗ trợ việc làm cho người lao động và nâng cao hiệu quả họat động các trung tâm hiện có. Hiện nay ở Việt Nam nói chung và ở Phú Thọ nói riêng vẫn chưa tồn tại thị trường lao động theo đúng nghĩa. Trong thời gian trước mắt, vai trò của các trung tâm xúc tiến việc làm có ý nghĩa quan trọng đối với cả người lao động và DNN&V của tỉnh. 2.4. Tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp lớn và DNN&V trên địa bàn tỉnh. Ở tất cả các nước cũng như các địa phương trong cả nước, sự liên kết giữa doanh nghiệp lớn và các DNN&V của địa phương là một trong những yếu tố tạo nên cơ cấu kinh tế hợp lý, góp phần tạo ra sự phát triển của cả DN lớn và DNN&V. Doanh nghiệp lớn có vai trò rất quan trọng đối với việc phát triển DNN&V trên cùng địa bàn như: Tạo việc làm cho các DNN&V, chuyển giao công nghệ, tạo thị trường cho các DNN&V thông qua việc gia công sản phẩm, thực hiện một công đoạn của sản xuất, cung cấp đầu vào hoặc thực hiện phân phối sản phẩm... như đã phân tích trong chương 2, hiện nay mối quan hệ giữa doanh nghiệp lớn với các DNN&V Phú Thọ chưa thật chặt chẽ, các doanh nghiệp lớn chưa góp phần đáng kể vào việc tạo việc làm, chuyển giao công nghệ và tạo thị trường cho các DNN&V. Điều này tạo ra sự kém hiệu quả trong phát triển kinh tế của tỉnh nói chung và họat động của các doanh nghiệp nói riêng. Để tăng hiệu quả, tạo lên một cơ cấu kinh tế hợp lý cho tỉnh trong thời gian tới, Phú Thọ khuyến khích mối liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp này. Trong bối cảnh hội nhập mạnh mẽ vào kinh tế khu vực và thế giới, tỉnh cũng phải có những định hướng trong mối liên kết giữa doanh nghiệp lớn và DNN&V trên địa bàn. Trong tương lai không xa, Phú Thọ cũng sẽ tham gia mạnh mẽ vào quá trình phân công lao động quốc tế, sự phát triển kinh tế của Phú Thọ phải dựa trên những lợi thế so sánh của tỉnh chứ không thể phát triển tất cả các ngành, các lĩnh vực như hiện nay. Đồng thời, các liên doanh nước ngoài với quy mô lớn sẽ xuất hiện ngày càng nhiều và đóng góp ngày càng quan trọng vào GDP của tỉnh. Với định hướng này, trong thời gian tới, các chính sách khuyến khích liên kết giữa doanh nghiệp lớn với DNN&V cần tập trung vào một số nội dung: - Tăng cường các hỗ trợ tài chính của ngân hàng và các tổ chức tài chính để khuyến khích đầu tư của các doanh nghiệp lớn vào các DNN&V của tỉnh. - Tăng cường phân công lao động trên địa bàn tỉnh trong quá trình SXKD của các doanh nghiệp: từ nghiên cứu, chế tạo sản phẩm, phân phối sản phẩm, cung cấp nguyên vật liệu... Các DNN&V thực hiện từng công đoạn trong quá trình SXKD của các doanh nghiệp lớn trên địa bàn tỉnh. Qua đó, làm tăng thêm chuyên môn hóa sản xuất, tận dụng và khai thác nguồn tài nguyên với nguồn vốn và nhân lực hạn chế đồng thời giúp các DNN&V có thể tiếp thu những kinh nghiệm quản lý và sản xuất của doanh nghiệp lớn. - Khuyến khích các doanh nghiệp lớn và các tổ chức chính trị - xã hội khác thành lập các trung tâm tư vấn nhằm hỗ trợ đào tạo, cải thiện chất lượng nguồn nhân lực ... cho các doanh nghiệp nói chung, các DNN&V nói riêng, tạo thuận lợi cho họat động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn Phú Thọ. Việc liên kết giữa các doanh nghiệp lớn và DNN&V trên địa bàn Phú Thọ nên thực hiện dưới các hình thức: - Liên kết sự phát triển của các doanh nghiệp này ngành trong cùng một ngành hoặc trong một địa bàn của huyện, thành, thị; khu, cụm công nghiệp. - Liên kết trong quá trình hợp tác sản xuất và phân công lao động, tức là liên kết theo từng công đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh. - Liên kết về thương mại, chia sẻ thị trường, liên kết phát triển công nghệ và triệt để tận dụng thương hiệu sản phẩm và thế mạnh của nhau. - Liên kết dưới hình thức giao thầu lại của các doanh nghiệp lớn cho các DNN&V một số phần công việc trong hợp đồng lớn (cụ thể là dưới hình thức thầu phụ). - Sát nhập các DNN&V với doanh nghiệp lớn hoặc giữa các DNN&V với nhau để hình thành doanh nghiệp lớn. 2.5. Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của DNN&V Phú Thọ. Trong phân tích về quả sản xuất kinh doanh của các DNN&V Phú Thọ ta thấy: Các DNN&V Phú Thọ phát triển mạnh về số lượng, nhưng quy mô vốn và hiệu quả hoạt động chưa thực sự cao. Trong những năm vừa qua, tỉnh đã có nhiều biện pháp khác nhau để thúc đẩy phát triển DNN&V một cách có hiệu quả như: hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, hỗ trợ đền bù giải phóng mặt bằng, ưu đãi về giá cho thuê đất ... Tuy nhiên, để thúc đẩy các DNN&V Phú Thọ phát triển hơn nữa Phú Thọ cần áp dụng một số biện pháp nâng cao hiệu quả sau: 2.5.1. Biện pháp khai thác và mở rộng thị trường Một trong những khó khăn lớn nhất của hầu hết các DNN&V Phú Thọ là việc tìm kiếm thị trường cho doanh nghiệp mình. Bởi vì các doanh nghiệp nói chung và các DNN&V nói riêng không thể tồn tại được nếu sản phẩm sản xuất ra không có thị trường tiêu thụ. Tuy nhiên, như đã phân tích trong chương 2, các DNN&V Phú Thọ khả năng cạnh tranh còn thấp, tiềm lực vốn nhỏ, khả năng quản lý còn nhiều hạn chế cho nên việc tìm kiếm và mở rộng thị trường gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là thị trường xuất khẩu. Hiện nay, thị trường chủ yếu của các DNN&V Phú Thọ là các dịch vụ và một số ít hàng tiêu dùng, còn lại chủ yếu là gia công cho các doanh nghiệp lớn. Tức là thị trường của các DNN&V là phần thị trường mà các doanh nghiệp lớn để lại. Có nhiều tiêu thức khác nhau để phân đoạn thị trường. Có thể phân chia thị trường theo tiêu thức về địa lý, theo quy mô thị trường, theo thị trường trong và ngoài nước, theo thu nhập của người tiêu dùng hoặc phân chia thị trường theo từng nhóm sản phẩm. Mỗi loại thị trường có những đặc điểm khác nhau và phù hợp với các doanh nghiệp khác nhau. Qua việc phân tích đặc điểm của từng thị trường, các DNN&V có thể phát triển thêm các khách hàng mới, các thị trường mới cũng như thị trường và khách hàng tiềm năng. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn này, với trọng tâm là các giải pháp kinh tế, tác giả đưa ra các biện pháp từ phía tỉnh để mở rộng thị trường cho các DNN&V chứ không đưa ra các giải pháp cho các doanh nghiệp. Mở rộng thị trường trong và ngoài tỉnh Với thu nhập của người dân tỉnh nói riêng và cả nước nói chung đang tăng lên nhanh chóng, thị trường trong nước ngày càng được mở rộng cho các DNN&V Phú Thọ. Nhu cầu của người dân ngày càng đa dạng, chất lượng các sản phẩm và dịch đòi hỏi ngày một cao hơn. Đây là cơ hội lớn cho các DNN&V của tỉnh, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức mới. Đặc biệt khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO vào cuối năm 2006, các hàng rào thuế quan sẽ giảm dần. Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các DNN&V Phú Thọ rói riêng sẽ gặp phải sự cạnh tranh mạnh mẽ ngay ở thị trường nội địa. Để tận dụng được những cơ hội và vượt qua được những khó khăn này, tỉnh phải có những biện pháp hiệu quả để mở rộng thị trường, tăng khả năng cạnh tranh cho các DNN&V thông qua các định hướng và chính sách cụ thể. - Định hướng khu vực thị trường nội địa mà các DNN&V Phú Thọ cần hướng tới cho phù hợp với những thế mạnh của các doanh nghiệp này. ở thị trường Phú Thọ, các DNN&V tiếp tục phát triển các loại dịch vụ vận tải và giao nhận hàng hóa, dịch vụ du lịch, các sản phẩm có thế mạnh và truyền thống của Phú Thọ. Đồng thời, tỉnh cũng tạo điều kiện về thông tin để các DNN&V của tỉnh mở rộng thị trường sang các tỉnh, thành lân cận như: Hà Nội, Vĩnh Phúc, Yên Bái, Hà Tây... - Mở rộng họat động của các công ty du lịch và lữ hành không chỉ trên địa bàn Phú Thọ mà ra các địa phương khác trong cả nước. Khuyến khích của công ty du lịch xây dựng các Tour ra các địa phương khác và ra thị trường nước ngoài. - Mở rộng các họat động gia công, thầu phụ và làm vệ tinh của các DNN&V Phú Thọ đối với các doanh nghiệp lớn trên địa bàn Phú Thọ và các tỉnh, thành lân cận. Trong quá trình phân công lao động trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, các DNN&V Phú Thọ không những làm vệ tinh và liên kết với các doanh nghiệp lớn của tỉnh, mà có thể liên kết với các doanh nghiệp lớn ở các tỉnh, thành lân cận. Đây là một xu hướng tất yếu trong quá trình phân công lao động và Phú Thọ phải nắm bắt được cơ hội này và định hướng đúng cho họat động của các DNN&V tỉnh Phú Thọ. - Tiếp tục phát triển các DNN&V tỉnh trong lĩnh vực gia công cho các doanh nghiệp dệt may, da giày. Duy trì họat động của các DNN&V trong một số ngành nghề truyền thống của Tỉnh như chế biến thực phẩm, hàng thủ công mỹ nghệ, công nghiệp phụ trợ... Mở rộng thị trường xuất khẩu cho các DNN&V Đối với các DNN&V thông thường khi mới thành lập, các doanh nghiệp này thường hướng tới thị trường trong tỉnh và các địa phương lân cận. Các thị trường này sẽ phát huy được thế mạnh của DNN&V và phù hợp với điều kiện của các DNN&V. Các doanh nghiệp này có khả năng cạnh tranh tốt ở thị trường nội địa. Tuy nhiên, như đã phân tích trong chương 2, do năng lực và trình độ quản lý của các DNN&V còn hạn chế nên rất khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường xuất khẩu. Các DNN&V Phú Thọ vẫn chủ yếu thực hiện gia công sản phẩm cho các liên doanh, các doanh nghiệp lớn xuất khẩu. Các sản phẩm xuất khẩu trực tiếp của các DNN&V còn rất hạn chế. Để hỗ trợ các DNN&V Phú Thọ trong việc tìm kiếm, mở rộng thị trường xuất khẩu, trong những năm tới, tỉnh cần tập trung vào một số biện pháp sau đây: Thứ nhất, tỉnh cần hình thành Quỹ xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp của tỉnh nói chung và DNN&V nói riêng. Quỹ này sẽ được thành lập bằng nguồn vốn Ngân sách nhà nước của tỉnh, đóng góp của các DN trên địa bàn tỉnh nhằm các mục đích: - Hỗ trợ cho các họat động xúc tiến thương mại như: khảo sát, thu thập thông tin về thị trường nước ngoài, hỗ trợ trong việc tham gia các hội thảo quốc tế… - Hỗ trợ nâng cao hiệu quả trong công tác tìm kiếm thị trường xuất khẩu như: các chương trình đào tạo về xuất nhập khẩu và hội nhập, các kỹ năng tìm kiếm thị trường, hướng dẫn các thủ tục Hải quan, hỗ trợ trực tiếp cho các doanh nghiệp có họat động xuất nhập khẩu. Thứ hai, tỉnh nên nghiên cứu thành lập các Trung tâm xúc tiến thương mại tại các thị trường nước ngoài nhằm cung cấp thông tin về các thị trường này, hỗ trợ thông tin để các DNN&V tiếp cận các thị trường này, mở rộng họat động SXKD và xuất nhập khẩu sang thị trường nước sở tại. Thứ ba, Nhà nước cần đẩy mạnh các họat động ngoại giao kinh tế nhằm thu hút vốn đầu tư, tìm kiếm thị trường mới cho các DNN&V. Tăng cường vai trò kinh tế và thương mại của Đại sứ quán, các lãnh sự quán tại các nước. 2.5.2. Biện pháp đổi mới công tác quản lý trong DNN&V: Như chương 2 đã phân tích, các DNN&V Phú Thọ, đặc biệt là các DNTN, Công ty TNHH chủ yếu tổ chức theo mô hình gia đình trong đó coi các thành viên của doanh nghiệp như là các thành viên của gia đình mình, quyền lợi của họ phải được đặt lên trên. Tuy nhiên, mô hình này lại không tạo được sự bình đẳng giữa các thành viên trong doanh nghiệp. Để khắc phục hạn chế này, trong DNN&V cần phải xây dựng các nội quy, quy định chung áp dụng cho mọi thành viên trong doanh nghiệp. Điều này cũng đảm bảo cho sự phát triển lâu dài của các DNN&V. Về đội ngũ cán bộ quản lý DNN&V: các DNN&V Phú Thọ phải nhận thức được tầm quan trọng của chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp trong quá trình phát triển của mình. Doanh nghiệp có cạnh tranh được hay không, có nhanh nhạy trong việc lựa chọn và chuyển giao công nghệ hay không ... là dựa vào năng lực quản lý của cán bộ quản lý doanh nghiệp. Do vậy, các DNN&V và các cơ quan quản lý Nhà nước trên địa bàn phải có kế hoạch đào tạo và cho đi đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho các chủ doanh nghiệp, các cán bộ quản lý doanh nghiệp trên địa bàn… bổ sung các kiến thức thông qua các lớp bồi dưỡng, tìm hiểu thực tế, tiếp cận các thông tin… Về chất lượng của người lao động: Các doanh nghiệp này phải có chiến lược và kế hoạch đào tạo và sử dụng người lao động một cách hợp lý. Đứng trên giác độ quản lý Nhà nước, các cơ quan Nhà nước và các Hiệp hội DNN&V Phú Thọ phải trợ giúp cho các DNN&V trong việc tuyển dụng, đào tạo và đào tạo lại đối với người lao động trong các DNN&V để nâng cao hiệu quả SXKD của các doanh nghiệp. Về xây dựng chiến lược cho các DNN&V: Các DNN&V Phú Thọ có phát triển được hay không phụ thuộc nhiều vào việc xây dựng chiến lược của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trình độ xây dựng chiến lược và kế hoạch của các DNN&V Phú Thọ còn thấp. Các họat động SXKD của các DNN&V Phú Thọ chưa có định hướng cụ thể, họat động mang nhiều tính tự phát và chộp giật. Điều này là do chất lượng công tác chiến lược của các doanh nghiệp này. Các cơ quan quản lý Nhà nước và các Hiệp hội DNN&V của tỉnh cần tập trung nâng cao chất lượng công tác xây dựng chiến lược cho các doanh nghiệp. Có những định hướng cho các doanh nghiệp này trong việc xây dựng chiến lược SXKD của mình. KẾT LUẬN Từ khi luật Doanh nghiệp ra đời, khu vực DNN&V cả nước nói chung và tỉnh Phú Thọ nói riêng đã phát triển mạnh mẽ và ngày càng đóng góp vai trò quan trọng trong nền kinh tế của tỉnh. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động DNN&V gặp phải không ít những khó khăn về vốn, nguồn nhân lực, sức cạnh tranh,…Do vậy, để thúc đẩy các DNN&V trên địa bàn phát triển cần tập trung vào một số giải pháp: - Đổi mới quản lý Nhà nước đối với DNN&V Phú Thọ. - Khuyến khích thành lập và nâng cao hiệu quả của các Hiệp hội DNN&V ở Phú Thọ. - Hoàn thiện các chính sách vĩ mô đối với các DNN&V. - Tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp lớn và các DNN&V trên địa bàn tỉnh. - Biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNN&V. Các giải pháp nêu trên nếu được thực thi sẽ tạo điều kiện để các DNN&V ngày càng phát triển và đóng góp nhiều hơn cho nền kinh tế, thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của cả nước cũng như của tỉnh Phú Thọ. Tuy đã cố gắng hết sức để hoàn thành luận văn nhưng do hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm thực tế nên bài viết của Em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự đóng góp ý kiến của Cô giáo để bài viết của Em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tạp chí Kinh tế và phát triển số 129 ( 3/2008) số 136 ( 10/2008) 2. Tạp chí Kinh tế và dự báo số 418( 2/ 2008) số 442( 1/2009) 3. Tạp chí tài chính doanh nghiệp số 11/2008 số 1/2009 4. Đổi mới cơ chế quản lý DNN&V trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam NXB Chính trị quốc gia 5. Các DNN&V của Việt Nam trong điều kiện hội nhập Kinh tế quốc tế NXB Chính trị quốc gia 2006( Tác giả: Lê Xuân Bá) 6. Giải pháp phát triển DNN&V ở Việt Nam – NXB Chính trị quốc gia 2002 ( GS.TS Nguyễn Đình Hương) 7. Báo cáo thường niên DNN&V Việt Nam 2008 ( Cục phát triển DNN&V - Bộ Kế hoạch và Đầu tư) 8. Các Đề tài nghiên cứu trên các diễn đàn ( internet) về phát triển DNN&V. 9. Các số liệu về DNN&V của Sở Kế hoạch và Đầu tư Phú Thọ; Cục Thống kê tỉnh Phú Thọ. 10. Các trang web: DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DNN&V : Doanh nghiệp nhỏ và vừa KT - XH : Kinh tế - xã hội CNH - HĐH : Công nghiệp hoá - hiện đại hoá SXKD : Sản xuất kinh doanh KCN : Khu công nghiệp CCN : Cụm công nghiệp DNNN : Doanh nghiệp nhà nước DNTN : Doanh nghiệp tư nhân NQD : Ngoài quốc doanh TNHH : Trách nhiệm hữu hạn CP : Cổ phần ĐKKD : Đăng ký kinh doanh DN : Doanh nghiệp GDP : Tổng sản phẩm quốc nội (Grooss Domestic Procduct) FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment) ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (The Association of South East Asian Nations) IMF : Quỹ tiền tệ quốc tế (International Monetary Fund) WTO : Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization) WB : Ngân hàng thế giới( World Bank) HTX : Hợp tác xã GTGT : Giá trị gia tăng TNDN : Thu nhập doanh nghiệp NLN : Nông - lâm nghiệp CN – XD : Công nghiệp – Xây dựng DV : Dịch vụ TM : Thương mại TB : Trung bình UBND : Uỷ ban nhân dân NĐ : Nghị định CP : Chính Phủ DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Biểu đồ 2. 1 : Tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 1997- 2008. 33 Biểu đồ 2. 2: Cơ cấu ngành kinh tế năm 1997 và năm 2008 35 Biểu đồ 2. 3: Số lượng DN thành lập giai đoạn 2001 – 2008. 39 Biểu đồ 2. 4: Tỷ trọng các DNN&V thành lập theo quy mô vốn 43 Bảng 2. 1: kết quả tăng trưởng kinh tế (GDP) của Phú Thọ 33 Bảng 2. 2: Cơ cấu ngành kinh tế giai đoạn 1997 - 2008 34 Bảng 2. 3: Tình hình chuyển dịch cơ cấu lao động 35 Bảng 2. 4: Vốn đầu tư phát triển giai đoạn 1997 – 2008 36 Bảng 2. 5: Số lượng DN ĐKKD giai đoạn 2001 – 2008. 38 Bảng 2. 6: Số lượng DNN&V giải thể, phá sản, chuyển đổi hình thức sở hữu giai đoạn 2001 – 2008 40 Bảng 2. 7: Số lượng các DNN&V theo loại hình kinh doanh thành lập 41 Bảng 2. 8: Số lượng DNN&V theo quy mô vốn thành lập giai đoạn 42 Bảng 2. 9 : Tỷ trọng DNN&V thành lập giai đoạn 2001 – 2008 43 Bảng 2. 10: Quy mô vốn của các DNN&V thành lập trong 45 Bảng 2. 11: Số lượng lao động trong các DNN&V 46 Bảng 2. 12: Số lượng DNN&V hoạt động trong các ngành 49 Bảng 2. 13: Tỷ trọng các DNN&V hoạt động trong các ngành 50 Bảng 2. 14: Số lượng DNN&V ĐKKD giai đoạn 2001 – 2008 51 Bảng 2. 15: Kết quả sản xuất kinh doanh của các DNN&V 51 Bảng 3. 1: Định hướng về số lượng DNN&V và số lao động làm việc 75 Bảng 3. 2: Định hướng số DNN&V theo cơ cấu ngành nghề 77 Bảng 3. 3: Định hướng số lượng DNN&V theo loại hình DN 80 Biểu đồ 3. 1: Định hướng về số lượng DNN&V và số lao động làm việc 75 Biểu đồ 3. 2: Định hướng số DNN&V theo cơ cấu ngành nghề 77 Biểu đồ 3.3: Định hướng số lượng DNN&V theo loại hình DN. 81 MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I: VAI TRÒ CỦA DNN&V VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VIỆT NAM 3 1. ĐẶC ĐIỂM CỦA DNN&V: 3 1.1. Khái niệm DNN&V: 3 1.2. Đặc điểm của DNN&V: 4 1.2.1. Về vốn kinh doanh: 5 1.2.2. Về tổ chức quản lý doanh nghiệp và người lao động: 6 1.2.3. Về công nghệ: 7 1.2.4. Về lĩnh vực hoạt động: 8 1.2.5. Về địa bàn hoạt động: 8 2. VAI TRÒ CỦA DNN&V VỚI PHÁT TRIỂN KT – XH Ở VIỆT NAM. 10 2.1. DNN&V đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của cả nước. 10 2.2. Góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 11 2.3. Đóng góp vào ngân sách nhà nước. 12 2.4. DNN&V góp phần giải quyết việc làm, giảm áp lực về thất nghiệp. 12 2.5. DNN&V làm đối tác liên kết làm tăng sức mạnh của các doanh nghiệp lớn: 13 3. ƯU, NHƯỢC ĐIỂM VÀ CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN DNN&V: 14 3.1. Ưu, nhược điểm của DNN&V: 14 3.1.1. Ưu điểm: 14 3.1.2. Hạn chế, tồn tại: 15 3.2. Các nhân tố tác động đến DNN&V: 16 3.2.1. Quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. 16 3.2.2. Môi trường pháp lý và các chính sách vĩ mô. 17 4. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN DNN&V Ở VIỆT NAM. 19 4.1. Sự phát triển về số lượng các DNN&V ở Việt Nam. 20 4.2. Sự phát triển của DNN&V phân theo nguồn vốn, lao động và ngành nghề kinh doanh. 21 5. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN DNN&V Ở MỘT SỐ TỈNH. 26 5.1. Chính sách phát triển DNN&V ở tỉnh Đồng Nai: 26 5.2. Chính sách phát triển DNN&V của tỉnh Bình Dương. 29 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DNN&V TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ GIAI ĐOẠN 2001- 2008. 31 1. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ TỈNH PHÚ THỌ: 31 1.1. Đặc điểm tự nhiên, vị trí địa lý. 31 1.1.1. Vị trí địa lý: 31 1.1.2. Khí hậu: 32 1.1.3. Đặc điểm địa hình: 32 1.2. Tình hình KT – XH của tỉnh: 32 1.2.1. Về tăng trưởng kinh tế: 32 1.2.2. Về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế: 34 1.2.3. Về chuyển dịch cơ cấu lao động: 35 1.2.4. Về đầu tư phát triển: 36 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DNN&V Ở TỈNH PHÚ THỌ: 38 2.1. Quá trình hình thành và sự phát triển về số lượng của các DNN&V. 38 2.2. Tình hình giải thể, phá sản và chuyển đổi hình thức sở hữu của các DNN&V Phú Thọ trong giai đoạn 2001 – 2008: 39 2.3. Sự phát triển DNN&V theo loại hình doanh nghiệp. 40 2.4. Thực trạng về vốn của các DNN&V. 41 2.4.1. Số lượng DNN&V theo quy mô vốn đăng ký. 41 2.4.2. Vốn TB của các DNN&V: 44 2.4.3. Về cơ cấu vốn. 46 2.5. Thực trạng về nguồn nhân lực của các DNN&V. 46 2.5.1. Số lượng lao động trong các DNN&V. 46 2.5.2. Chất lượng nguồn nhân lực: 47 2.6. Sự phát triển DNN&V theo cơ cấu ngành. 48 2.7. Sự phân bố DNN&V trên địa bàn tỉnh. 50 2.8. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNN&V. 51 3. THỰC TRẠNG VỀ MÔI TRƯỜNG KINH DOANH VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG ĐỐI VỚI CÁC DNN&V: 52 3.1. Thực trạng về môi trường kinh doanh: 52 3.1.1. Môi trường hành chính, pháp lý. 52 3.1.2. Thực trạng môi trường kinh tế. 54 3.1.3. Thực trạng các chính sách vĩ mô đối với DNN&V Phú Thọ. 55 3.1.4. Thực trạng về môi trường công nghệ. 58 3.2. Thực trạng về hoạt động của thị trường. 59 4. ĐÁNH GIÁ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN DNN&V Ở TỈNH PHÚ THỌ. 61 4.1. Đóng góp của DNN&V với sự phát triển kinh tế xã hội Tỉnh Phú Thọ. 61 4.1.1. Đóng góp về mặt kinh tế. 61 4.1.2. Đóng góp về mặt xã hội. 63 4.2. Một số tồn tại, hạn chế trong quá trình phát triển DNN&V. 63 4.2.1. Một số tồn tại, hạn chế: 63 4.2.2. Một số nguyên nhân chủ yếu: 66 CHƯƠNG III: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DNN&V TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ GIAI ĐOẠN 69 2009- 2015. 69 1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN DNN&V Ở TỈNH PHÚ THỌ: 69 1.1. QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN DNN&V CỦA TỈNH: 69 1.1.1. DNN&V có vị trí đặc biệt quan trọng trong phát triển KT – XH của tỉnh Phú Thọ. 69 1.1.2. Tỉnh sẽ tạo môi trường thuận lợi cho các DNN&V hoạt động. 70 1.1.3. DNN&V được ưu tiên phát triển trong các ngành mà tỉnh có lợi thế. 73 1.1.4. DNN&V được khuyến khích phát triển trong những ngành và lĩnh vực khai thác được lợi thế của DNN&V. 73 1.2. Định hướng phát triển DNN&V giai đoạn 2009 – 2015. 74 1.2.1. Định hướng về quy mô và số lượng DNN&V. 74 1.2.2. Định hướng theo cơ cấu ngành kinh tế. 76 1.2.3. Định hướng phát triển theo lãnh thổ. 78 1.2.4. Định hướng theo loại hình doanh nghiệp: 79 1.2.5. Định hướng về phát triển nguồn lực. 81 2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN DNN&V Ở PHÚ THỌ. 82 2.1. Đổi mới quản lý Nhà nước đối với DNN&V Phú Thọ. 82 2.2. Khuyến khích thành lập và nâng cao hiệu quả hoạt động của các Hiệp hội DNN&V ở Phú Thọ. 84 2.3. Hoàn thiện các chính sách vĩ mô đối với các DNN&V Phú Thọ. 87 2.3.1. Chính sách về khuyến khích thành lập các DNN&V. 87 2.3.2. Chính sách ưu đãi về vốn và tín dụng. 88 2.2.3. Chính sách đất đai 89 2.3.4. Chính sách khuyến khích cạnh tranh 89 2.3.5. Chính sách hỗ trợ về công nghệ 90 2.3.6. Chính sách phát triển nhân lực 91 2.4. Tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp lớn và DNN&V trên địa bàn tỉnh. 92 2.5. Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của DNN&V Phú Thọ. 94 2.5.1. Biện pháp khai thác và mở rộng thị trường 95 2.5.2. Biện pháp đổi mới công tác quản lý trong DNN&V: 98 KẾT LUẬN 100 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 101 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21330.doc
Tài liệu liên quan