Đề tài: Giải pháp phát triển dịch vụ logistics tại công ty cổ phần thương mại Hải Phòng –Hanosimex.
A. Lời Mở Đầu
Công ty cổ phần thương mại Hải Phòng-Hanosimex là một trong những công ty được ra đời từ rất sớm của thành phố Hải Phòng. Tuy nhiên sự phát triển của công ty lại chưa tương xứng với tiềm năng và bề dày lịch sử của nó. Mặc dù hoạt động trong một lĩnh vực logistics một lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận cao nhưng hoạt động đó chưa đem lại hiệu quả như mong muốn. Do đã trải qua một quá tr
69 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1863 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp phát triển dịch vụ Logistics tại Công ty cổ phần thương mại Hải Phòng - Hanosimex, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ình tương đối dài thực tập và làm việc tại công ty, được sự giúp đỡ của tiến sĩ Nguyễn Ngọc Sơn cùng toàn thể các cán bộ công nhân viên công ty tôi, xin đề xuất một số giải pháp phát triển dịch vụ logistics tại công ty cổ phần thương mại Hải Phòng - Hanosimex. Đây chỉ là ý kiến chủ quan của tôi khi có tham khảo mô hình và cách thức tổ chức hoạt động của một số công ty cung cấp dịch vụ logistics hàng đầu thế giới. Trong quá trình thực hiện đánh giá và đưa ra các giải pháp không thể tránh khỏi những thiếu xót rất mong có được sự tham gia góp ý của thầy giáo, tiến sĩ Nguyễn Ngọc Sơn cùng ban lãnh đạo công ty, để các giải pháp này có thể hoàn thiện hơn, có tính ứng dụng trong thực tế. Điều này sẽ giúp công ty nâng cao năng lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập, tạo doanh thu, lợi nhuận lớn hơn tương xứng với tiềm năng hiện có.
Em xin trân thành cám ơn sự giúp đỡ của tiến sỹ Nguyễn Ngọc Sơn, cùng các cán bộ công nhân viên trong công ty đã giúp đỡ em hoàn thành bài khoá luận này.
B, Nội Dung
Chương I
Cơ sơ lý luận về dịch vụ logistics vai trò của dịch vụ logistics đối với công ty cổ phần thương mại Hải Phòng –Hanosimex
Các khái niệm cơ bản
Khái niệm logistics
Khái niệm :Logistics là nghệ thuật và khoa học của quản lý và điều chỉnh luồng di chuyển của hàng hoá, năng lượng, thông tin và những nguồn lực khác như sản phẩm, dịch vụ và con người, từ nguồn lực của sản xuất cho đến thị trường.
Logistics thể hiện sự hợp nhất của thông tin liên lạc, vận tải, tồn kho, lưu kho, giao nhận nguyên vật liệu, bao bì đóng gói. Trách nhiệm vận hành của hoạt động logistics là việc tái định vị của nguyên vật liệu thô, của công việc trong toàn quá trình, và tồn kho theo yêu cầu chi phí tối thiểu có thể. Có thể nói logistics được coi như một nhánh của quá trình tạo ra một hệ thống liên quan đến nguồn lực con người hơn là một hệ thống về máy móc.
Có thể nói con người có vai trò rất quan trọng trong hoạt động logistics với vai trò vừa là đối tượng, vừa là công cụ tác động, vừa là chủ thể của quá trình.
Cơ sở của hoạt động logistics.
Logistics có thể được hiểu như là việc có được đúng số lượng cần thiết ở đúng thời điểm và với chi phí phù hợp. Nó là nghệ thuật, là một quá trình khoa học. Nó phối hợp tất cả các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, quản lý vòng đời dự án, chuỗi cung cấp và hiệu quả.
Khái niệm về logistics bắt nguồn từ nhu cầu quân sự trong việc cung cấp cho chính họ trong quá trình di chuyển của các đoàn quân từ căn cứ ra tiền tuyến. Đến năm 1950 logistics mới được vận dụng trong kinh doanh nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong thời kỳ bùng nổ kinh tế.Bằng cách vận dụng các biện pháp vận tải linh hoạt giúp doanh nghiệp có được lợi thế so với đối thủ canh tranh.
Logistics trong kinh doanh
Trong kinh doanh, logistics có thể hiểu như việc tập trung cả nội lực lẫn ngoại lực bao hàm cả quá trình chu chuyển từ nhà sản xuất gốc đến người tiêu dùng cuối cùng. Chức năng chính của logistics bao gồm việc quản lý việc mua bán, vận chuyển, lưu kho cùng với các hoạt động về tổ chức cũng như lập kế hoạch cho các hoạt động đó. Người quản lý logistics kết hợp kiến thức tổng hợp của mỗi chức năng từ đó phối hợp các nguồn lực trong tổ chức để vận hành.Có hai quan niệm khác nhau nói lên vai trò của logistics trong kinh doanh. Một thì đánh giá một cách lạc quan, đơn giản coi đó như là sự chu chuyển ổn định của nguyên liệu trong mạng lưới vận chuyển và lưu trữ một phía thì coi đó là sự kết hợp giữa các nguồn lực để tiến hành cả quá trình. Các hãng sản xuất kinh doanh ứng dụng Logistics vào ngay từ phần lập kế hoạch mua sắm nguyên vật liệu để đưa vào sản xuất, trong quá trình sản xuất và trong khâu cuối cùng là tiêu thụ sản phẩm.Họ có thể ứng dụng Logistics để phân công dây chuyền sản xuất, chuyên môn hoá sản xuất bố trí, bố trí các cơ sở, các công ty con, các chi nhánh ở trong nước hoặc nước ngoài để nhằm mục đích mua nguồn nguyên vật liệu thuận lợi, thuê nhân công với giá rẻ, đưa hàng đi tiêu thụ nhanh chóng đến các thị trường có nhu cầu, do đó mà đạt được mục tiêu giá rẻ, thuận tiện và bán được nhiều sản phẩm, thu được nhiều lợi nhuận. Các công ty lớn ngày càng nghiên cứu ứng dụng Logistics ở mức độ cao hơn. Đã có một số hãng đạt được mô hình sản xuất tối ưu. Toàn bộ quá trình sản xuất – lưu thông – tiêu dùng của nền sản xuất hàng hoá được mô hình hoá như sau:
(Sơ đồ chuỗi cung ứng)
(nguồn
Trên thực tế, các hoạt động của quá trình này còn phức tạp hơn nhiều. Ngày nay, nền sản xuất hiện đại, với sự phát triển của kinh tế quốc tế và thương mại toàn cầu, đã mở rộng nhiều loại hình kinh doanh dịch vụ Logistics.
Trong quá trình sản xuất
Chủ yếu áp dụng trong nghành công nghiệp mục đích của nó là đảm bảo mỗi một máy móc thiết bị hay trạm làm việc được ‘nạp’ đủ sản phẩm với đúng số lượng, chất lượng và đúng lúc. Vấn đề như vậy không phải là chỉ liên quan đến việc vận chuyển, mà còn là phâm luồng và điều chỉnh các kênh xuyên suốt quá trình gia tăng giá trị và xoá bỏ những giá trị không gia tăng. Logistics trong quá trình sản xuất được ápdụng cho cả những nhà máy đang tồn tại hoặc mới được thành lập. Sản xuất chế tạo là một nhà máy với quá trình thay đổi ổn định ( có thể hiểu là một nhà máy thì luôn phải hoạt động nhưng với một công suất ổn định). Máy móc được thay đổi vày thay mới.Theo đó sẽ là cơ hội cải thiện hệ thống logistics trong sản xuất. Ngược lại, logistics sẽ cung cấp các ‘phương tiện’ cho việc đạt được hiệu quả mong muốn của khách hàng và hiệu quả sử dụng vốn.
Đặc điểm của hoạt động logistics
Các dịch vụ Logistics chủ yếu là nhận đơn đặt hàng vận tải, gom hàng, xử lý nguyên vật liệu, gia công mã mác, lưu kho, kiểm soát hàng tồn kho, tái chế hàng trả lại, quản lý việc phân phối, xúc tiến thị trường và các dịch vụ thông tin…Tất cả các dịch vụ Logistics nhằm mục đích thoả mãn cao nhất cho nhu cầu của khách hàng (người sản xuất và người tiêu dùng).Trong dây chuyền cung ứng và tiêu thụ bao gồm rất nhiều khâu, giữa mắt xích của các khâu có các dịch vụ: giao nhận, xếp dỡ, lưu kho,… Nếu để hàng hoá phải tồn kho nhiều hoặc lưu kho quá lâu sẽ gây thiệt hại cho hãng sản xuất, do đó họ đã chú ý khâu này bằng những giải pháp khác nhau xác lập kênh phân phối, chọn thị trường tiêu thục họn vị trí kho hàng, thiết lập trung tâm phân phối, quản lý quá trình vận chuyển…
Có một số hãng đã đạt được quy trình sản xuất “không lưu kho” đối với một số mặt hàng nhất định, và đã đạt được lợi nhuận cao. Các bên tham gia vào hệ thống Logistics có các hãng sản xuất, các nhà giao nhận, các hãng chuyên kinh doanh dịch vụ Logistics. Đối với toàn bộ quá trình lưu thông, phân phối, ứng dụng hệ thống Logistics là một bước phát triển cao hơn của công nghệ vận tải. Vận tải đa phương thức đã liên kết được tất cả các phương thức vận tải với nhau để phục vụ cho nhu cầu cung ứng và tiêu thụ của hãng sản xuất.Hệ thống Logistics còn liên kết và tối ưu toàn bộ quá trình sản xuất và lưu thông trên phạm vi rất rộng: trong một quốc gia, một khu vực, đến toàn cầu.
Các nội dung cơ bản của dịch vụ logistics
Sau khi hợp đồng mua bán ngoại thương đã được ký kết, đơn vị kinh doanh XNK với tư cách là một bên ký kết phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó, đây là một công việc rất phức tạp. Nó đòi hỏi phải tuân thủ luật quốc gia và quốc tế, đồng thời bảo đảm được quyền lợi quốc gia và đảm bảo uy tín kinh doanh của đơn vị. Về mặt kinh doanh, trong quá trình thực hiện các khâu công việc để thực hiện hợp đồng, đơn vị kinh doanh XNK phải cố gắng tiết kiệm chi phí lưu thông, nâng cao tính doanh lợi và hiệu quả của toàn bộ nghiệp vụ giao dịch. Do vậy sự lựa chọn các nhà cung cấp dịch vụ logistics là giải pháp tối ưu cho các doanh nghiệp giúp doanh nghiệp chỉ tập trung vào lĩnh vực thế mạnh của mình, tối đa hoá lợi nhuận. Đến nay đã có rất nhiều hình thức tổ chức hoạt động của dịch vụ logistics.
Logistics bên thứ nhất (1 PL) người chủ sở hữu hàng hóa tự mình tổ chức và thực hiện các hoạt động Logistics để đáp ứng nhu cầu của bản thân. Logistics bên thứ hai (2 PL) người cung cấp dịch vụ Logistics bên thứ hai là người cung cấp dịch vụ cho một hoạt động đơn lẻ của Logistics (vận tải, kho bãi, thanh toán,…) để đáp ứng nhu cầu của chủ hàng, chưa có tích hợp hoạt động Logistics
Logistics bên thứ ba (3 PL) là người thay mặt cho chủ hàng quản lý và thực hiện các dịch vụ Logistics, do đó 3 PL tích hợp các dịch vụ khác nhau, kết hợp chặt chẽ việc luân chuyển, tồn trữ hàng hóa, xử lý thông tin,… trong dây chuyền cung ứng.
Logistics bên thứ tư (4 PL) – là người tích hợp chịu trách nhiệm quản lý dòng lưu chuyển Logistics, cung cấp giải pháp dây chuyền cung ứng, hoạch định, tư vấn Logistics, quản trị vận tải,… 4 PL hướng đến quản trị cả quá trình Logistics, như nhận hàng từ nơi sản xuất, làm thủ tục xuất, nhập khẩu, đưa hàng đến nơi tiêu thụ cuối cùng.
Logistics bên thứ năm (5 PL) Gần đây, cùng với sự phát triển của thương mại điện tử, người ta đã nói đến khái niệm Logistics bên thứ năm (5 PL). 5 PL phát triển nhằm phục vụ cho Thương mại điện tử, các nhà cung cấp dịch vụ 5 PL là các 3 PL và 4 PL, đứng ra quản lý toàn chuỗi phân phối trên nền tảng thương mại điện tử.
Nếu theo tính chất thì hoạt động logistics gồm:
Logistics đầu vào
Logistics đầu ra
Logistics ngược
Quy trình logistics khi thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu.
Giao nhận hàng xuất khẩu cho cảng
Giao Danh mục hàng hoá XK và đăng ký với phòng điều độ để bố trí kho bãi và lên phương án xếp dỡ.Chủ hàng liên hệ với phòng thương vụ để ký kết hợp đồng lưu kho, bốc xếp hàng hoá với cảng, lấy lệnh nhập kho và báo với hải quan và kho hàng, giao hàng vào kho, bãi của cảng.
Giao hàng xuất khẩu cho tàu
Sau khi giao hàng cho cảng xong, người xuất khẩu phải làm tiếp thủ tục giao hàng cho tàu, bao gồm các bước. Kiểm nghiệm, kiểm dịch (nếu cần), làm thủ tục hải quan, báo cho cảng ngày giờ dự kiến tàu đến (ETA), chấp nhận thông báo sẵn sàng. Giao cho cảng Danh mục hàng hoá XK để cảng bố trí phương tiện xếp dỡ. Trên cơ sở các danh mục hàng hoá này, thuyền phó phụ trách hàng hoá sẽ lên sơ đồ xếp hàng, ký hợp đồng xếp dỡ với cảng. Trước khi xếp phải vận chuyển hàng từ kho ra cảng, lấy lệnh xếp hàng, ấn định số máng xếp hàng, bố trí xe và công nhân và người áp tải.Khi giao nhận một lô hoặc toàn tàu, cảng phải lấy Biên lai thuyền phó (Mate’s Receipt) để lập vận đơn.Sau khi xếp hàng lên tàu, căn cứ vào số lượng hàng đã xếp ghi trong Tally Sheet, cảng sẽ lập Bản tổng kết xếp hàng lên tàu (General Loading Report) và cùng ký xác nhận với tàu. Ðây cũng là cơ sở để lập vận đơn đường biển.
Căn cứ vào hợp đồng mua bán và L/C, cán bộ giao nhận phải lập hoặc lấy các chứng từ cần thiết để tập hợp thành bộ chứng từ thanh toán, xuất trình cho ngân hàng để thanh toán tiền hàng. Bộ chứng từ thanh toán theo L/C thường gồm: B/L. hối phiếu, hoá đơn thương mại, giấy chứng nhận phẩm chất, Giấy chứng nhận xuất xứ, phiếu đóng gói, giấy chứng nhận trọng lượng, số lượng..
1.3.3 Trình tự nhận hàng nhập khẩu
1.3.3.1. Cảng nhận hàng từ tàu:
Trước khi dỡ hàng, tàu hoặc đại lý phải cung cấp cho cảng bản lược khai hàng hoá, sơ đồ hầm tàu để cảng và các cơ quan chức năng khác như Hải quan, điều độ, cảng vụ tiến hành các thủ tục cần thiết và bố trí phương tiện làm hàng.Cảng và đại diện tàu tiến hành kiểm tra tình trạng hầm tàu. Nếu phát hiện thấy hầm tàu ẩm ướt, hàng hoá ở trong tình trạng lộn xộn hay bị hư hỏng, mất mát thì phải lập biên bản để hai bên cùng ký. Nếu tàu không chịu ký vào biên bản thì mời cơ quan giám định lập biên bản mới tiến hành dỡ hàng. Dỡ hàng bằng cần cẩu của tàu hoặc của cảng và xếp lên phương tiện vận tải để đưa về kho, bãi. Trong quá trình dỡ hàng, đại diện tàu cùng cán bộ giao nhận cảng kiểm đếm và phân loại hàng hoá cũng như kiểm tra về tình trạng hàng hoá. Hàng sẽ được xếp lên ô tô để vận chuyển về kho theo phiếu vận chuyển có ghi rõ số lượng, loại hàng, số B/L. Cuối mỗi ca và sau khi xếp xong hàng, cảng và đại diện tàu phải đối chiếu số lượng hàng hoá giao nhận. Lập bản kết toán nhận hàng với tàu, cảng và tàu đều ký vào bản kết toán này, xác nhận số lương thực giao so với Bản lược khai hàng (Cargo Manifest) và B/L. Lập các giấy tờ cần thiết trong quá trình giao nhận như Giấy chứng nhận hàng hư hỏng (COR) nếu hàng bị hư hỏng hay yêu cầu tàu cấp Phiếu thiếu hàng (CSC), nếu tàu giao thiếu.
1.3.3.2 Cảng giao hàng cho chủ hàng:
Khi nhận được thông báo hàng đến, chủ hàng phải mang vận đơn gốc, giấy giới thiệu của cơ quan đến hãng tàu để nhận lệnh giao hàng. Hãng tàu hoặc đại lý giữ lại vận đơn gốc và trao 3 bản cho người nhận hàng. Chủ hàng đóng phí lưu kho, phí xếp dỡ và lấy biên bản, chủ hàng mang biên lai nộp phí, 3 bản lệnh và danh mục hàng đến văn phòng quản lý tàu tại cảng để ký xác nhận lệnh và tìm vị trí hàng.
Sau khi hải quan xác nhận hoàn thành thủ tục hải quan chủ hàng có thể mang ra khỏi cảng và chở hàng về kho riêng. Ðối với hàng không lưu kho, bãi tại cảng. Khi chủ hàng có khối lượng hàng hoá lớn chiếm toàn bộ hầm hoặc tàu hoặc hàng rời như phân bón, xi măng, clinker, than quặng, thực phẩm…thì chủ hàng hoặc người được chủ hàng ủy thác có thể đứng ra giao nhận trực tiếp với tàu.Trước khi nhận hàng, chủ hàng phải hoàn tất các thủ tục hải quan và trao cho cảng B/L, lệnh giao hàng. Sau khi đối chiếu với Bản lược khai hàng hoá, cảng sẽ lên hoá đơn cước phí bốc xếp và cấp lệnh giao hàng thẳng để chủ hàng trình cán bộ giao nhận cảng tại tàu để nhận hàng.Sau khi nhận hàng, chủ hàng và giao nhận cảng cùng ký bản tổng kết giao nhận và xác nhận số lượng hàng hoá đã giao nhận bằng phiếu giao hàng kiêm phiếu xuất kho.
1.3.4 hợp đồng thuê tàu
1.3.4.1 Hợp đồng tàu chuyến
Trong hợp đồng thuê tàu thường ghi rõ họ tên và địa chỉ người thuê tàu, người vận chuyển và một số chi tiết về tàu như tên tàu, cờ tàu, năm đóng, trọng tải, dung tích, loại hạng tàu, cơ quan đăng kiểm, vị trí tàu lúc ký hợp đồng. Phải quy định rõ khoảng thời gian, nếu tàu đến chậm quá quy định, người thuê tàu có quyền huỷ hợp đồng (tuỳ theo sự thoả thuận). Tàu được xem như đã đến cảng nếu xảy ra một trong ba trường hợp sau. Tàu đã cập cầu cảng hoặc đến vùng thương mại của cảng quy định, tàu đã sẵn sàng để xếp hoặc dỡ hàng của người thuê, tàu đã trao thông báo sẵn sàng cho người được ghi trong C/P (tức người thuê).
Tương tự như quy định về tàu, quy định về hàng hoá cũng đòi hỏi một số chi tiết như, tên hàng, loại bao bì, trọng lượng, thể tích. Nếu người thuê tàu cung cấp không đủ số lượng hàng quy định, cũng phải chịu cước như hàng đã đầy tàu. Về chi phí xếp dỡ hàng, theo điều kiện tàu chợ thì người vận chuyển phải chịu trách nhiệm và chi phí xếp dỡ hàng. Các chi phí xếp dỡ đã được tính gộp trong giá cước thuê tàu. Theo cách này, mức xếp dỡ được quy định theo tập quán của cảng chứ không quy định tiền thưởng phạt xếp dỡ nhanh hay chậm như thuê tàu chuyến.
Cước phí thanh toán được ghi rõ trong hợp đồng như giá cước, loại tiền thanh toán, đồng thời đơn vị tính cước là theo trọng lượng hay thể tích đều có thể dùng chung một đơn vị là tấn cước. Khi ấn định giá cước, cần xác định ai chịu phí xếp, dỡ và chi phí xếp hàng dưới tàu.
Nếu tính cước theo trọng lượng, cũng cần ghi rõ trọng lượng tính cước phí theo số lượng hàng xếp lên tàu ở cảng xếp hay theo số lượng hàng giao ở cảng đến. Người thuê phải trả toàn bộ tiền cước cho chủ tàu sau khi xếp xong hàng hoặc sau khi ký B/L một số ngày do hai bên quy định nếu bán theo CIF, CF. Người thuê tàu có thể trả cước phí sau, thời điểm trả có thể ấn định tuỳ theo thoả thuận giữa hai bên. Trả tiền trước khi mở hầm tàu để dỡ hàng, trả đồng thời với việc dỡ hàng, trả sau khi dỡ xong hàng, trả trước một phần và trả sau một phần. Việc giữ lại một phần tiền cước nhằm giúp người thuê gây áp lực nếu có tranh chấp, thưởng phạt với hãng tàu. Hợp đồng cũng phải quy định tiền cước được thanh toán tại ngân hàng nào, cách thức trả tiền…
Khi tất cả các hợp đồng và thủ tục cần thiết được hoàn tất chủ tàu sẽ gửi các bản thông báo cho bên thuê tàu gồm. Thông báo ngày dự kiến tàu đến cảng. Việc thông báo ngày dự kiến tàu đến cảng trong một khoảng thời gian ngắn (7,5,3 ngày) trước khi tàu đến cảng xếp dỡ là rất cần cho có đủ thời gian làm thủ tục cho tàu ra vào cảng và chuẩn bị xếp dỡ hàng theo đúng lịch trình đã quy định giữa hai bên chủ tàu và người thuê tàu. Thông báo sẵn sàng xếp dỡ hàng. Thời gian đưa thông báo sẵn sàng xếp dỡ còn tuỳ thuộc vào điều khoản về tàu đến bến.
Thưởng phạt về xếp dỡ:
Mức tiền bội thường hoặc phạt thường được quy định theo ngày hoặc tấn dung tích đăng ký toàn phần của tàu mỗi ngày.
Nguyên tắc của phạt là khi đã phạt là luôn bị phạt ,tức các ngày sau đó dù là ngày chủ nhật, ngày lễ, xấu hay tốt trời đều bị phạt.Mức thưởng thường chỉ bằng 1/ 2 mức phạt. Tiền thưởng thường được tính theo ngày hoặc theo tỷ lệ một phần của ngày, không hẳn ngày chẵn mà còn tính thêm giờ phút.Tàu chợ không có tiền thưởng phạt về xếp dỡ nhanh chậm, chỉ có trong tàu chuyến.Việc nảy sinh tranh chấp giữa hai bên ngoài hợp đồng hiện tại sẽ được chuyển cho trọng tài do hai bên thoả thuận từ trước.Nói chung các hợp đồng đều quy định chủ tàu phải chịu trách nhiệm tổn thất hư hỏng của hàng hoá do xếp không cẩn thận, do chèn lót không tốt, do hun khói, do thiếu cần mẫn thích đáng nên tàu không đủ khả năng đi biển…
Các trường hợp miễn trách nhiệm gồm: thiên tai, tai hoạ ngoài biển, thuỷ thủ phá hoại, cháy, cướp biển, ẩn tỳ của vỏ tàu và máy móc, do bản chất hàng, sơ sót của thuyền trưởng, bị cầm giữ do vua chúa và chính phủ, đi lệch hướng. Ngoài ra, chủ tàu được miễn trách do trì hoãn lúc khởi hành và trong chuyến hải trình bởi đình công , thiếu thuỷ thủ hoặc những người ảnh hưởng đến hải trình.Cần xác định rõ chủ tàu hay người cho thuê chịu các chi phí cung cấp vật liệu chèn lót, cung cấp cần trục, dây buộc. Chi phí thuê người điều khiển cần trục, di chuyển cần trục, đóng mở hầm tàu.Chi phí làm ngoài giờ, kiểm đếm thuế má, cảng phí
Cách thức thuê tàu chuyến
Thuê tàu chuyến phức tạp hơn công việc thuê tàu chợ, đòi hỏi người thuê tàu phải am hiểu tuyến, luồng vận tải, am hiểu đặc điểm kinh doanh của từng hãng tàu, am hiểu về giá cước phí
Các loại hình tàu chuyến sẽ thuê phục vụ cho kinh doanh như thuê chuyến một, thuê khứ hồi, thuê nhiều chuyến liên tục, thuê bao cả tàu trong một thời gian.
Vận Đơn (B\L)
Vận đơn đường biển là một chứng từ vận tải hàng hoá bằng đường biển do người chuyên chở hàng hoặc đại diện của họ cấp cho người gửi hàng sau khi đã xếp hàng lên tàu hoặc sau khi khận hàng để xếp.Vận đơn đường biển là một chứng từ vận tải rất quan trọng, là chứng từ cơ bản về hoạt động nghiệp vụ giữa người gửi hàng với người vận tải, giữa người gửi hàng với người nhận hàng. Nó có tác dụng như một bằng chứng về giao dịch hàng hoá, là bằng chứng của hợp đồng chuyên chở.
Nội dung của vận đơn vận chuyển ghi rõ tên tàu, tên người gửi hàng, tên người nhận hàng, nơi đến, số, ký mã hiệu, kiện hàng, tính chất hàng, trọng lượng hay khối lượng, trị giá hàng nếu cần. Sau đó người gửi hàng ký tên vào tờ khai đó.Giao tờ khai cho nhân viên tàu tính tiền cước và chi phí phụ,nhận lại một phiếu xếp hàng để xếp hàng xuống tàu đã chỉ định.Nhân viên nhận hàng của tàu ký xác nhận vào phiếu xếp hàng sau đó chuyển cho bộ phận chuyên trách. Bộ phận chuyên trách cấp chính thức một vận đơn hợp lệ cho người gửi hàng, có chữ ký của thuyền trưởng hay đại lý.
1.3.4.2 Cách thức thuê tàu chợ
Phải tập trung đủ số lượng hàng quy định rồi nghiên cứu lịch tàu chạy, lịch này thường được đăng trên các báo và tạp chí. Từ đó, chọn hãng tàu có uy tín và cước phí thấp sau đó lập bảng kê khai hàng và uỷ thác cho công ty đại lý vận tải giữ chỗ trên tàu. Chủ hàng ký Ðơn xin lưu khoang với đại lý sau khi hãng tàu đồng ýnhận chuyên chở, đồng thời đóng cước phí vận chuyển. Sau đó giao hàng cho tàu và lấy vận đơn,thong báo cho người mua biết về kết quả giao hàng
1.4 Các loại chứng từ có lien quan đến giao nhận vận tải.
Chứng từ là một văn bản có trong đó chứa các thông tin và cung cấp bằng chứng cho sự việc và sự kiện .Với ý nghĩa như vậy chứng từ là căn cứ quan trọng cho việc giao nhận và vận chuyển hàng hoá giữa nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu.
1.4.1 Chứng từ sử dụng đối với hàng nhập khẩu
1.4.1.1 Chứng từ hải quan
Chứng từ hải quan là chứng từ theo quy định người chủ hang phải xuất trình cho cơ quan hải quan khi hàng hoá đi qua biên giới quốc gia.Những chứng từ phải xuất trình và phải nộp khi làm thủ tục hải quan cho hàng xuất khẩu gồm. Một bản chính văn bản cho phép xuất khẩu (đối với hàng xuất khẩu có điều kiện) để đối chiếu với bản sao phải nộp.Ba bản chính tờ khai hải quan hàng xuất khẩu, một bản sao hợp đồng mua bán ngoại thương hoặc giấy tờ có giá trị tương đương như hợp đồng, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và giấy chứng nhận đăng ký mã số doanh nghiệp, bản chính bản kê chi tiết hàng hoá. Một bản sao hợp đồng uỷ thác xuất khẩu.
Tờ khai hải quan
Tờ khai hải quan là một văn bản do chủ hàng, chủ phương tiện khai báo xuất trình cho cơ quan hải quan trước khi hàng hoặc phương tiện nhập hoặc xuất qua lãnh thổ một quốc gia.
Pháp luật Việt Nam quy định việc khai báo hải quan là việc bắt buộc đối với phương tiện xuất khẩu hoặc nhập qua cửa khẩu một quốc gia.Mọi hành vi vi phạm như không khai báo hoặc khai báo không trung thực đều bị xử lý theo pháp luật hiện hành.Mẫu tờ khai hải quan thường được thống nhất cho từng loại đối tượng để tạo điều kiện thuận lợi cho các bên lien quan khi làm thủ tục thông quan.
Hợp đồng mua bán ngoại thương
Hợp đồng mua bán ngoại thương là sự thoả thuận giữa các bên có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau,theo đó bên xuất khẩu có nghĩa vụ chuyển vào quyền sở hữu của bên nhập khẩu một tài sản nhất định gọi là hàng hoá Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và giấy chứng nhận đăng ký mã số doanh nghiệp.
Tất cả các các doanh nghiệp hội đủ một số điều kiện(về pháp lý,vốn…)là có quyền xuất nhập khẩu trực tiếp.Ngoài ra còn có bản kê chi tiết hàng hoá, nó là chứng từ về chi tiết hàng hoá trong kiện, tạo điều kiện cho việc kiểm tra hàng hoá, ngoài ra nó còn có tác dụng bổ sung cho hoá đơn khi lô hàng có tên gọi khác và phẩm cấp khác nhau
1.4.1.2 Các chứng từ với cảng và tàu
Được sự uỷ thác của chủ hàng người giao nhận lien hệ với cảng và tàu để lo liệu cho hàng hoá được xếp lên tàu.Các chứng từ được sủ dụng gồm, chỉ thị xếp hàng, biên lai thuyền phó, vận đơn đường biển, bản lược khai hàng hoá, phiếu kiểm đếm, sơ đồ xếp hàng.
Chỉ thị xếp hàng
Đây là chỉ thị của người gửi hàng cho công ty vận tải và cơ quan quản lý cảng,công ty xếp dỡ ,cung cấp những chi tiết đầy đủ về hàng hoá được gửi đến cảng đẻ xếp lên tàu và những chỉ dẫn cần thiết.
Biên lai thuyền phó.
Đây là những chứng từ do thuyền phó phụ trách về những hàng cấp cho người gửi hàng hay chủ hàng xác nhận tàu đã nhận hàng xong.Việc cấp biên lai thuyền phó là một sự thừa nhận rằng hàng đã được xếp xuống tàu, đã được xử lý một cách thích hợp và cẩn thận. Do đó trong quá trình nhận hàng ngưòi vận tải nếu thấy tình trạng bao bì không chác chắn thì phải ghi chú vào biên lai thuyền phó.Dựa trên biên lai thuyền phó, thuyền trưởng sẽ ký phát vận đơn đường biển là tàu đẫ nhân hàng đển chuyên trở.
Bản lược khai hàng hoá
Đây là bản lược kê các loại hàng hoá xếp trên tàu để vận chuyểnđến các cảng khác nhau, do đại lý tại cảng xếp hàng căn cứ vào vận đơn lập lên.
Bản lược khai phải chuẩn bị xong ngay khi xếp hàng cũng có thể lập khiđang chuẩn bị ký vận đơn, phải lập xong và ký trước khi làm thủ tục cho tàu rời cảng.BẢn lược khai cung câp số liệu thống kê về xuất khẩu cũng như nhập khẩu và là cơ sở đẻ công ty vận tải dung để đối chiếu lúc dỡ hàng .
Phiếu kiểm đếm
Dock sheet là một loại phiếu kiểm đếm tại cầu tàu trên đó ghi số lượng hàng hoá giao nhận tại cầu.
Tally sheet là phiếu kiểm đếm hàng hoá đã xếp lên tàu do nhân viên kiểm đếm chịu trách nhiệm ghi chép.
Phiếu kiểm đém là một chứng từ gốc về số lượng hàng hoá được xếp lên tàu. Do đó bản sao của phiếu kiêm đếm phải được cho thuyền phó phụ trách về hàng hoá một bản để lưu giữ, nó cần thiết cho những khiếu lại tố cáo sau này.
Sơ đồ xếp hàng
Đây chính là bản vẽ vị trí sắp xếp hàng trên tàu.Nó có thể dung màu sắc khác nhau đánh dấu hàng của từng cảng khác nhau để dễ theo dõi, kiểm tra khi dơ hàng lên xuống các cảng.KHi nhận đựoc bản dăng ký hàng chuyên chở do chủ hàng gửi tới, thuyền trưởng cùng nhân viên điều độ sẽ lập sơ đồ xếp hàng, mục đích là nhằm sư dụng một cách hợp lý các khoang, hầm chứa hàng trên tàu.
1.4.1.3 Chứng từ khác
Ngoài các chứng từ xuất trình hải quan và giao dịch với cảng, tàu, ngươi giao nhận được sự uỷ thác của chủ hàng lập hoặc giúp chủ hàng lập những chứng từ hàng hoá,chứng từ về bảo hiểm, chứng từ về thanh toán. giáy chứng nhận xuất xứ hàng hoá, hoá đơn thương mại, phiếu đóng gói, giấy chứng nhận số lượng, trọng lượng,
Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá
Giấy chứng nhận xuất xứ là một chứng từ ghi nơi sản xuất hàng do người xuất khẩu kê khai, ký và được người của cơ quan có thẩm quyền của nước người xuất khẩu xác nhận.
Chứng từ này cần thiết cho cơ quan hải quan để tùy theo chính sách cảu Nhà Nước vận dụng các chế độ ưu đãu khi tính thuế. Nó cũng cần thiết cho việc theo dõi thực hiện chế độ hạn ngạch. Đồng thời trong chừng mực nất định, có nói lên phẩm chất của hàng hóa bởi vì đặc đỉểm địa phương và đièu kiện sản xuất có ảnh hưởng tới chất lượng hang hóa.
Hóa đơn thương mại
Sau khi giao hàng xuấu khẩu, người xuất khẩu phải chuẩn bị một bộ hóa đơn thương mại. Đó là yêu cầu cùa người bán đồi hỏi người mua phải trả số tiền hàng đã được ghi trên háo đơn.
Giấy chứng nhận số lượng/ trọng lượng
Đây là một chứng từ mà người xuất khẩu lập ra, cấp cho người nhập khảu nhằm xác định số lượng/ trọng lượng hàng háo đã giao.Tuy nhiên để đảm bảo tính tập trung trong giao hàng, người nhập khẩu có thể yêu cầu người xuất khẩu cấp giấy chứng nhận số lượng/trọng lượng do người thứ ba thiết lập giám định, hải quan hay người sảm xuất.
Chứng từ bảo hiểm
Người giao hàng theo yêu cầu cảu người sản xuất có thể mua bảo hiểm cho hàng hóa. Chứng từ bảo hiểm là những chứng từ do cơ quan bảo hiểm cấp cho các đơn vị xuất nhập khẩu để xác nhận về việc hàng háo đã được bảo hiểm và là bằng chứng của hợp đồng bảo hiểm.
Chứng từ bảo hiểm thường được dùng là đơn vị bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm.
1.4.1.4 Chứng từ sử dụng đối với hàng nhập khẩu bằng đường biển
Khi thay mặt nhà nhập khẩu nhận hàng từ tầu biển, người giao nhận phải xuất trình và lập nhiều loại chứng từ. Để tiện cho việc theo dõi ta chia các chắng từ này thành 2 nhóm:
Chứng từ bắt buộc theo quy định của Nhà Nước trong giao nhận hàng xuất khẩu. Chứng từ phát sinh trong giao nhận hang xuất khẩu.Các chứng từ phải nộp hoặc xuất trình để thông quan hàng nhập khẩu gồm cũng giống như các chứng từ trong giao nhận hàng hoá xuất khẩu. Quy trình và thủ tục giao nhận cũng tương tụ đối với hàng hoá xuất khẩu. Chỉ khác nhau ở một số chi tiết nhỏ. Khi làm thủ tục hải quan cho hàng nhập khẩu, người giao nhận chỉ cần nộp một bản sao vận đơn đường biển. Thế nhưng khi nhận hàng trực tiếp từ tàu thì phải sử dụng bản gốc vì bản gốc cảu vận đơn cung cấp bằng chứng về quyền sở hữu hàng hóa. Ngoài ra còn có một số chứng từ phát sinh trong giao nhận hàng nhập khẩu. Khi giao nhận hàng nhập khẩu, người giao nhận phải tiến hành kiểm tra, phát hiện thiếu hụt, mất mát, tổn thương hang hóa để kịp thời giúp đỡ người nhập khẩu khiếu nạn đòi bồi thường.Việc đòi bồi thường phải dựa vào các biên bản như, biên bản kết toán nhận hàng với tàu,
biên bản kê khai hàng thừa thiếu, biên bản hàng hư hỏng đổ vỡ biên bản giám định phẩm chất, biên bản giám định số lượng/trọng lượng, biên bản giám định cảu công ty bảo hiểm.
Như vậy giao nhận vận tải hang hóa xuất khẩu chuyên chở bằng đường biển là nghiệp vụ phức tạp trong buôn bán quốc tế. Hợp đồng xuất khẩu chỉ có thể thực hiện được khi hoạt động giao nhận vận tải thực hiện. Hợp đồng xuất nhập khẩu là hợp đồng thay đổi quyền sở hữu, song quyền sở hữu di chuyển như thế nào phải cần đến giao nhân vận tải hàng hoá. Chính vì vật giao nhận hàng vận tải đóng vai trò hết sức quan trọng trong buôn bán quốc tế.
Sự cần thiết của dịch vụ logistics tại công ty cổ phần thương mại Hải Phòng-Hanosimex
Có thể nói dịch vụ Logistics trong Công ty cổ phần thương mại Hải Phòng – Hanosimex có vai trò hết sức quan trọng đối với công ty. Đây là hoạt động kinh doanh đem lại phần lớn lợi nhuận trong công ty. Hoạt động kinh doanh dịch vụ chiếm hơn 50% tổng doanh thu của công ty trong năm 2007. Doanh thu của mảng dịch vụ, xuất nhập khẩu hàng hóa là 42,26 tỷ đồng trong tổng doanh thu 83,093 tỷ. Phần còn lại doanh thu là sự đóng góp của nhà máy may. Tuy nhiên, sự hoạt động của nhà máy không đạt hiệu quả cao, kể từ khi đi vào hoạt động năm 2002, phần lớn các năm thua lỗ hoặc hòa vốn. Do vậy mà dịch đã tạo ra hầu hết lợi nhuận cho công ty bù đắp sự thua lỗ của nhà máy. Việc sản xuất của nhà máy rất thụ động phụ thuộc vào các đơn hàng xuất khẩu từ tổng công ty. Không chủ động tìm kiếm thị trường, phần lớn các hợp đồng là gia công do vậy lợi nhuận thu được là không cao. Mặt khác, do đặc thù của ngành dệt may là tỷ suất lợi nhuận không cao, giá trị gia tăng không lớn. Nếu công ty không kiểm soát chặt chẽ được chi phí đổi mới mẫu mã, tìm kiếm nhu cầu thị trường, tìm kiếm đơn hàng doanh nghiệp sẽ dẫn đến thua lỗ là điều không thể tránh khỏi. Về mảng dịch vụ, do sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế vĩ mô, sự tăng trưởng mạnh mẽ trong lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng hóa. Đây là cơ hội rất lớn cho phát triển của mảng dịch vụ của công ty. Với một vị trí địa lý thuận lợi, đó là gần ngay cảng Đoạn Xá, một trong những cảng lớn của Hải Phòng, diện tích đất doanh nghiệp vào khoảng 11000m2 với 8 kho bãi tất cả. Đây là một tiền đề vững chắc cho công ty và là lợi thế mà doanh nghiệp khác không có được khi tham gia vào lĩnh vực xuất nhập khẩu, kho bãi, giao nhận, vận tải. Với tổng số hơn 80 cán bộ công nhân viên trong lĩnh vực dịch vụ trên 464 cán bộ công nhân viên của toàn bộ doanh nghiệp đã đóng góp hơn 50% doanh thu và phần lớn lợi nhuận. Như vậy, kinh doanh dịch vụ là một mảng xương sống của doanh nghiệp, nó là cơ sở là tiền đề để thúc đẩy sản xuất phát triển, mang tính bền vững, lâu dài. Nó duy tr._.ì mức lợi nhuận của công ty trong khi sản xuất của nhà máy đang đi vào bế tắc trong khâu tìm kiếm thị trường và tiêu thụ sản phẩm. Một khi nhà máy có thể tháo gỡ khó khăn trước mắt và từng bước mở rộng sản xuất thì nó sẽ thúc đẩy mảng dịch vụ phát triển mạnh mẽ hơn.
Chương II Thực trạng hoạt động logistics tại công ty cổ phần thương mại Hải Phòng –Hanosimex
2.1 Giới thiệu tổng quan về công ty cỏ phần thương mại Hải Phòng-Hanosimex
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển.
Công ty Cổ phần thương mại Hải Phòng-Hanosimex, tiền thân là trạm vật tư thuộc Bộ Công Nghiệp chuyên nhập các nguyên vật liệu phục vụ cho ngành sản xuất dệt may ,và một số ngành khác.Được thành lập từ năm 1964 đến nay đã được hơn bốn mươi năm hình thành và phát triển trải qua nhiều thăng trầm công ty cũng có những tên gọi và thuộc nhiều đơn vị chủ quản khác nhau. Được Bộ Công Nghiệp chuyển giao về tổng công ty dệt may Việt Nam với chức năng nhiệm vụ chính là nhập khẩu các nguyên phụ liệu cho ngành may và thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến xuất nhập khẩu cho ngành dệt may.Gần đây công ty lại được chuyển giao về làm đơn vị trực thuộc của công ty HANOSIMEX với nhiệm vụ chính là nhâp nguyên liệu cho tổng công ty và tham gia một số chức năng mang tính chất tự doanh như vận tải ,tờ khai hải quản ,cho thuê kho tàng bến bãi.Đến ngày 27-11 năm 2006 Bộ trưởng bộ công nghiệp đã ký quyết định số 3376/QĐ-BCN về việc phê duyệt phương án chuyển công ty sản xuất-xuất nhập khẩu Dệt May Hải Phòng của tổng công ty Dệt May Ha Nội thành công ty cổ phần thương mại Hải Phòng-HANOSIMEX.
2.1.2 Chức năng nhiệm vụ
2.1.2.1 Chức năng , nhiệm vụ
Chịu trách nhiệm nộp các loại thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của luật pháp
Chịu trách nhiệm trước nhà nước về hoạt động kinh doanh của công ty
Đảm bảo quyền lợi và phúc lợi đối với nhân viên trong công ty
Tổ chức, xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh
Nhận kế hoạch được giao của tổng công ty
2.1.2.2 Ngành nghề kinh doanh và mục tiêu của công ty
Tổ chức đại lý ,dịch vụ giao nhận, bảo quản hàng hoá trong và ngoài nước.
Tổ chức kinh doanh kho vận kho ngoại quan.;
Sản xuất may mặc
Kinh doanh nguyên vật liệu ,vật tư, thiết bị,phụ tùng ,phụ liệu, hoá chất thuốc nhuộm và các sản phẩm cuối cùng của ngành dệt may .
Xuất nhập khẩu hàng dệt may ,hàng công nghệ thực phẩm ,nông lâm hải sản, thủ công mỹ nghệ ,ôtô,xe máy,….
Kinh doanh vận tải hàng hoá, vận tải hành khách, dịch vụ cho thuê xe ôtô,
Kinh doanh nhà hàng, khách sạn, cho thuê văn phòng.
Kinh doanh các ngành nghề khác theo quy định của pháp luật.
Mục tiêu
Từng bước đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh, huy động và sử dụng nguồn vốn đặt hiệu quả cao. Tạo lợi nhuận, nâng cao mức sống, thu nhập cho cán bộ công nhân viên giải quyết thêm được công ăn việc làm cho những lao động nhàn dỗi. Đóng góp vào ngân sách nhà nước, nâng cao hiệu quả từng hoạt động của doanh nghiệp.
2.1.3 Cơ cấu tổ chức
2.1.3.1 Hội đồng quản trị
Hội đồng Quản trị do Đại hội đồng cổ đông tín nhiệm bầu ra. Hội đồng quản trị là cơ quan quản trị toàn bộ mọi hoạt động của công ty, các chiến lược, kế hoạch sản xuất và kinh doanh trong nhiệm kỳ của mình. Đây cũng là đại diện pháp lý của Công ty trước pháp luật.
Quyết định phương án đầu tư và dự án đầu tư trong thẩm quyền và giới hạn theo quy định của luật hoặc điều lệ công ty.
Đưa ra các giải pháp phát triển thị trường, tiếp thị và công nghệ; thông qua hợp đồng mua, bán, vay, cho vay và hợp đồng khác có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại điều lệ công ty
Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, ký hợp đồng, chấm dứt hợp đồng đối với Giám đốc và người quản lý quan trọng khác do điều lệ công ty quy định, quyết định mức lương và lợi ích khác của những người quản lý đó, cử người đại diện theo uỷ quyền thực hiện quyền sở hữu cổ phần hoặc phần vốn góp ở công ty khác, quyết định mức thù lao và lợi ích khác của những người đó.Giám sát, chỉ đạo Giám đốc và người quản lý khác trong điều hành công việc kinh doanh hằng ngày của công ty
Quyết định cơ cấu tổ chức, quy chế quản lý nội bộ công ty, quyết định thành lập công ty con, lập chi nhánh, văn phòng đại diện và việc góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp khác.
2.1.3.2 Ban giám đốc
Điều hành mọi hoạt động của công ty, quyết định các vấn đề lien quan đến công việc kinh doanh hằng ngày của công ty bao gồm việc thay mặt công ty ký kết các hợp đồng kinh tế, tổ chức điều hành hoạt động kinh doanh thường nhật theo những thông lệ quản lý tốt nhất.
Tổ chức thực hiện các quyết định của hội đồng quản trị, thực hiện các kế hoạch kinh doanh và phương án đầu tư của công ty đã được hội đồng quản trị thông qua, nếu trái pháp luật, điều lệ công ty và các quyết định của đại hội cổ đông thì có thể từ chối nhưng việc từ chối này phải làm thành văn bản gửi hội đồng quản trị.
Xây dựng trình hội đồng quản trị phê duyệt cơ cấu tổ chức, phương án thay đổi tổ chức, thành lập hoặc giải thể các đơn vị thuộc công ty, trình hội đồng quản trị quy chế quản lý nội bộ. Báo cáo tổng công ty và cơ quan nhà nước có thẩm quyền về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, báo cáo tài chính tổng hợp, bảng cân đối tài sản của công ty theo quy định của nhà nước và cấp trên.
Chỉ đạo hoạt động của nhà máy may về công tác đầu tư, môi trường, thực hiện kế hoạch sản xuất, kế hoạch vật tư, kế hoạch tu sửa thiết bị, sửa chữa nhà xưởng. Thiết lập, tạo điều kiện để cán bộ công nhân viên tuân thủ, thực hiện chính sách chất lượng và chính sách trách nhiệm xã hội. Chịu trách nhiệm cao nhất trước khách hàng về chất lượng sản phẩm của công ty. Quản lý phần vốn của công ty tại các doanh nghiệp khác theo quy định của pháp luật.
GIÁM ĐỐC
PHÓ GIÁM ĐỐC
Phòng
Tổ chức HC
Phòng
Kế hoạch TT
PHÓ GIÁM ĐỐC
Phòng
Kinh Doanh
Phòng
Kho Vận
Phòng
Tài chính kế toán
Nhà máy may
CTY CP VẬN TẢI HOÀ PHÁT
Ghi chú:
Điều tra trực tuyến
Tham gia quản lý, điều hành vốn của HTPC- Hanosimex lien kết kinh doanh
(Sơ đồ tổ chức các phòng ban chức năng tại công ty cổ phần thương mại Hải Phòng - Hanoismex)
2.1.3.3 Các phòng ban chức năng
Phòng tổ chức hành chính
Tham mưu cho giám đốc về công tác tổ chức cán bộ, đào tạo, chế độ chính sách, hành chính, phục vụ sức khỏe đời sống cán bộ công nhân viên và công tác đổi mới doanh nghiệp.
Tuyển chọn, bố trí, sắp xếp, điều chuyển, đề bạt, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ. Đánh giá, nhận xét cán bộ, thực hiện các chế độ chính sách liên quan đến cán bộ. Lập kế hoạch tổ chức, thực hiện công tác đào tạo cán bộ công nhân viên. Triển khai, tổ chức và theo dõi tất cả các hoạt động liên quan tới việc tuyển dụng lao động, thỏa ước lao động tập thể, chế độ về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm lao động, khen thưởng, kỷ luật. Quản lý các chế độ chính sách về tiền lương, công tác y tế chăm sóc sức khỏe.
Chịu trách nhiệm trước giám đốc về mọi hoạt động khen thưởng, kỷ luật công nhân viên, quản lý công tác xây dựng, củng cố lực lượng tự vệ, an ninh, an toàn trong công ty. Quản lý việc lập kế hoạch, mua sắm trang thiết bị, phương tiện làm việc, phối hợp với các đơn vị tổ chức các phong trào văn hóa, văn nghệ, thể thao.
Phòng kế hoạch thị trường
Phòng kế hoạch thị trường là đơn vị thực thuộc cơ quan, giám đốc công ty. Có chức năng tham mưu cho giám đốc công ty về công tác xây dựng và kiểm soát thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh. Công tác triển khai áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO, công tác mạng máy tính và công tác đầu tư xây dựng cơ bản của công ty.
Xây dựng, triển khai báo cáo công tác kế hoạch sản xuất kinh doanh, thực hiện xuất nhập khẩu và uỷ thác xuất nhập khẩu nguyên vật liệu, sản phẩm ngành dệt may và các mặt hàng khác theo đăng ký kinh doanh của công ty.
Thực hiện kinh doanh thương mại, bán và giới thiệu sản phẩm, quảng bá giới thiệu sản phẩm , phát triển thương hiệu, thị trường hàng dệt may. Mua bán, cung cấp vật tư hàng hoá, văn phòng phẩm cho toàn công ty.
Trưởng phòng chịu trách nhiệm trước giám đốc về mọi hoạt động của phòng về công tác khen thưởng, kỷ luật cán bộ công nhân viên trong phòng, kiểm tra và ký xác nhận chứng từ thanh toán của cán bộ công nhân viên trong phòng theo quy định.
Phòng kinh doanh
Phòng kinh doanh là phòng nghiệp vụ có vị trí rất quan trọng trong công ty, và cũng là phòng mà bất kỳ công ty nào khi xây dựng cũng cần có. Đối với công ty, phòng kinh doanh có ảnh hưởng thực sự đáng kể tới sự tồn tại và phát triển của công ty. Các nhiệm vụ và chức năng cụ thể của phòng kinh doanh là:
Nghiên cứu, xây dựng các chiến lược kinh doanh của công ty theo tháng, quý và năm
Là đầu mối nghiên cứu thị trường và khách hàng: Tổ chức thực hiện các chương trình tiếp thị sản phẩm cũng như tìm kiếm khách hàng mới của công ty.
Là đầu mối thu thập thông tin về các hoạt động của công ty, các chương trình kế hoạch cũng như tiến độ thực hiện các dự án.
Tổ chức nghiên cứu, xây dựng đề án triển khai các sản phẩm, dịch vụ mới.
Chủ trì lập các dự án đầu tư, báo cáo nghiên cứu khả thi để Giám đốc xem xét quyết định.
Định kỳ phân tích, đánh giá, rút kinh nghiệm, đề xuất các giải pháp để nâng cao hiều quả từng mặt công tác, hoàn thiện quy trình nghiệp vụ.
Xây dựng và thực hiện kế hoạch dịch vụ xuất nhập khẩu, giao nhận hàng hóa. Lập hợp đồng, dịch vụ ủy thác, giao nhận, vận tải với khách hàng theo những điều khoản, quy định của pháp luật hiện hành và thông lệ quốc tế. Tiếp nhận hồ sơ, chuẩn bị hồ sơ, nhận lệnh tại hãng tàu, khai báo tại hải quan, làm thủ tục giám định, kiểm tra hàng hóa và giao hàng, phương tiện vận tải do phòng kho vận bố trí. Trung chuyển, giao nhận hàng hóa như bông, sơ, sợi, hóa chất, thuốc nhuộm, máy móc, thiết bị, phụ tùng, hàng xuất khẩu, hàng tiêu dùng của công ty và các đơn vị ủy thác tại Hải Phòng và các tỉnh phụ miền bắc. Xây dựng thương hiệu công ty, thường xuyên cập nhật chế độ chính sách, pháp luật của nhà nước về chính sách kinh doanh.
Tiếp nhận và tổ chức thực hiện toàn bộ hàng hóa nhập khẩu của công ty và các đơn vị ủy thác, đảm bảo đúng tiến độ, giảm thiểu các chi phí, lưu Container, lưu kho, lưu bãi. Nhận hồ sơ từ phòng tổ chức hành chính, kiểm tra hồ sơ, chứng từ, trao đổi làm rõ các chi tiết của hàng hóa và yêu cầu bổ sung chứng từ còn thiếu hoặc chứng từ mới theo quy định của hải quan. Thực hiện thủ tục nhập khẩu đến đại lý hãng tàu, nhận lệnh giao hàng, kiểm dịch thực vật động vật, giám định hàng hóa theo yêu cầu khách hàng. Chuẩn bị hồ sơ hoàn chỉnh bao gồm những giấy tờ cần thiết theo văn bản hướng dẫn, luật của cơ quan hải quan. Thông báo cho khách hàng hiện tượng hư hỏng đổ vỡ của hàng hóa để cùng phối hợp làm thủ tục giám định tổn thất. Liên hệ với hãng tàu để lấy xác nhận đổ vỡ, phiếu xuất kho, các giấy tờ khác để làm thủ tục bảo hiểm. Làm thủ tục lấy hàng với cảng, kho bãi, giao lên phương tiện vận tải đường bộ do phòng kho vận bố trí. Thu phiếu giao hàng sau khi có đầy đủ xác nhận của đơn vị ủy thác. Ký xác nhận hồ sơ thanh toán, phiếu giao hàng gốc, hồ sơ lưu kho.
Phòng tài chính kế toán
Thực hiện công tác hạch toán kế toán các hoạt động của công ty theo quy định của Thống đốc Ngân hàng nhà nước và pháp luật hiện hành
Lập bảng cân đối kế toán, và các báo cáo tài chính. Đồng thời xây dựng và trình giám đốc công ty ban hành các quy định, chế độ, quy trình nghiệp vụ về hạch toán kế toán áp dụng tại công ty.
Phối hợp với phòng kinh doanh để xây dựng các kế hoạch tài chính định kỳ cho công ty.
Phân tích hiệu quả kinh tế tài chính, khả năng sinh lời của các hoạt động kinh doanh.
Tham mưu cho giám đốc các công việc liên quan đến phân phối lợi nhuận, sử dụng các quỹ, phân phối tiền lương.
Thực hiện chế độ nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ khác với nhà nước theo quy định của pháp luật. Cập nhật chế độ chính sách của nhà nước về công tác kế toán tài chính. Giám sát các đơn vị khác trong công ty về công tác tài chính.
Xây dựng kế hoạch doanh thu, kế hoạch vốn hàng quý, hàng năm
Phòng giao nhận, kho vận
Tham mưu cho lãnh đạo về tổ chức thực hiện công tác thủ tục và dịch vụ xuất nhập khẩu, vận chuyển và giao nhận hàng hoá của công ty và các đơn vị uỷ thác.
Xây dựng, thực hiện kế hoạch dịch vụ xuất nhập khẩu, vận chuyển giao nhận hàng hoá. Lập hợp đồng uỷ thác, giao nhận vận tải với khách hàng theo những điều khoản quy định của pháp luật hiện hành và thông lệ quốc tế.
Tiếp nhận hồ sơ, chuẩn bị hồ sơ, lấy lệnh hang tàu đi khai báo hải quan, làm thủ tục giám định, kiểm tra hàng hóa và giao hàng lên kho của chủ hàng, chung chuyển giao nhận hàng hoá như bông, xơ, sợi, máy móc thiết bị phụ tùng hoá chất, thuốc nhuộm, hàng xuất khẩu, hàng tiêu dung… của công ty và các đơn vị uỷ thác tại Hải Phòng và các tỉnh phía bắc.
Hoạt động theo sự quản lý mọi mặt của công ty trong lĩnh vực tài chính, kế toán, công tác tổ chức cán bộ, chế độ chính sách cho người lao động, khen thưởng kỷ luật theo quy định công ty và pháp luật nhà nước.
Thực hiện quản lý và bảo quản tài sản của công ty bao gồm các trang thiết bị, sản phẩm hàng hoá. Làm thanh toán các bộ hồ sơ hàng hoá theo đúng quy định của cơ quan, lưu trữ chứng từ theo quy định của pháp luật.
Nhà máy may
Nhà máy mới đi vào hoạt động từ năm 2003, với khoảng gần 400 cán bộ công nhân viên. Nhiệm vụ chính của nhà máy là sản xuất các đơn hàng do tổng công ty giao cho ngoài ra còn sản xuất theo đơn hàng của khách hàng khi có yêu cầu. Thực hiện chế độ chính sách lao động tiền lương đối với cán bộ công nhân viên, nghĩa vụ thuế đối với nhà nước.
2.2 Tình hình sản xuất kinh doanh của công ty giai đoạn 2004-2007
2.2.1 Đánh giá môi trường sản xuất kinh doanh
2.2.1.1 Môi trường vĩ mô
Môi trường vĩ mô của Doanh nghiệp là những yếu tố ngoài ngành nhưng có ảnh hưởng đến mức cầu của ngành và tác động trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Những yếu tố này thường xuyên thay đổi, tạo ra những cơ hội và mối đe dọa mới.
Việc phân tích môi trường vĩ mô giúp doanh nghiệp trả lời một phần cho câu hỏi : Doanh nghiệp đang trực diện với những gì ? Vì vậy, Doanh nghiệp cần phải hiểu được tầm quan trọng của các yếu tố vĩ mô và đánh giá được ảnh hưởng do sự thay đổi của môi trường này. Các yếu tố của môi trường vĩ mô bao gồm:
Kinh tế
Các yếu tố kinh tế có vai trò rất quan trọng đối với doanh nghiệp nó có thể tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh, các quyết đinh đầu tư của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ lưỡng các yếu tố kinh tế cả trong ngắn hạn, dài hạn và sự can thiệp của chính phủ tới nền kinh tế, và doanh nghiệp sẽ dựa trên yếu tố kinh tế để quyết định đầu tư vào các ngành, các khu vực.
Kinh tế toàn cầu hiện nay vẫn đang tăng trưởng tốt mặc dù một số nền kinh tế đầu tàu, của một số nước phát triển hiện nay đang gặp phải một số vấn đề về lạm phát, tỷ giá hối đoán, lãi suất, rủi ra về tài chính.. . Đặc biệt là nền kinh tế Mỹ hiện nay đang có dấu hiệu của một cuộc suy thoái, đây là nhận xét của một số chuyên gia hàng đầu về lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên kinh tế của một số nước đang phát triển vẫn đang tăng trưởng ổn định như Trung Quốc, Ấn Độ, Nga….Hiện nay giá dầu mỏ đang lên rất cao đe doạ đến nguy cơ tăng trưởng của một số nước và toàn thế giới, mặt khác tình trường tài chính chứng khoán ở các nước phát triển cũng đang rất ảm đạm. Tuy nhiên việc xảy ra khủng hoảng kinh tế toàn cầu khó có thể xảy ra, các nước vẫn có thể kiểm soat đuợc nền kinh tế. Kinh tế thế giới năm 2007 tăng trưởng ở mức 5,2% so với năm 2006 là 5,3% và dự báo sẽ tăng trưởng ở mức 4,8% vào năm 2008 đây là đánh giá của quỹ tiền tệ quốc tế (IMF). Các nước đang phát triển như Trung Quốc, Ấn Độ, Nga, đã đóng góp phần lớn cho mức tăng trưởng các nền kinh tế này đã chiếm ½ tổng mức tăng trưởng của kinh tế thế giới. Tốc độ tăng trưởng mạnh tập trung ở các nền kinh tế mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển, trong đó có một số nước thuộc châu Phi. Sự tăng trưởng hay suy thoái của nền kinh tế Mỹ có tác động đến toàn cầu do nền kinh tế Mỹ hiện nay vẫn chiếm khoảng 30% sản lượng của nền kinh tế toàn cầu. Kinh tế Mỹ được dự báo sẽ có mức tăng trưởng chậm, đạt khoảng 1,9% trong năm 2008, thấp hơn khoảng 1% so với dự báo trước đó của IMF và giảm mạnh so với mức 2,9% trong năm 2006. Theo báo cáo của ngân hàng thế giới (WB) trong năm 2007 và đầu năm 2008 kinh tế Việt Nam đã bộc lộ những dấu hiệu tăng trưởng quá nóng. Tỷ lệ lạm phát tăng mạnh từ mức 6,6% năm 2006 lên tới 15,7% tính đến tháng 2/2008. Cán cân vãng lai thâm hụt ở mức đang ngại, khoảng 9,3% - 9,7% GDP, giá tài sản tăng cao, đặc biệt là giá cổ phiếu đầu 2007 và giá bất động sản cuối 2007. Tuy nhiên WB vẫn dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2008 vào khoảng từ 7,5% - 8% , trong năm 2009 nếu tình hình kinh tế thế giới và khu vực diễn biến tốt thì kinh tế Việt Nam có thể đật mức tăng trưởng trên 8%. Trong mấy tháng đầu năm mức nhập siêu ở nước ta đã tăng đáng kể so với năm ngoái với 7 tỷ USD nhập siêu. Tổng giá trị hàng hóa nhập khẩu trong ba tháng đầu năm đạt trên 20,5 tỉ USD, tăng 68,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong khi đó, xuất khẩu cả quí của cả nước mới đạt khoảng 13 tỉ USD, bằng 22,15% kế hoạch năm và tăng hơn 21% so với cùng kỳ năm ngoái. Dự báo trong năm nay kim ngạch xuất khẩu của nước ta vào khoảng 60 tỷ USD. Như vậy nếu tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu cứ giữ như hiện nay thì trong năm nay tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta vào khoảng 140 tỷ USD, đây là một cơ hội rất lớn cho các doanh nghiệp tham gia vào dich vụ logistics. Dịch vụ logistics ở Việt Nam chiếm khoảng từ 15-20% GDP, trong năm 2007 GDP của nước ta vào khoảng 63 tỷ USD như vậy chi phí cho hoạt động logistics vào khoảng từ 9,5 đến 12,5 tỷ USD. Đây là một khoản tiền rất lớn, nếu chỉ tính riêng khâu quan trọng nhất trong logistics là vận tải, chiếm từ 40-60% chi phí thì cũng đã là một thị trường dịch vụ khổng lồ. Như vậy sự ổn định và tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế vĩ mô là tiền đề để cho dịch vụ logistics trong nước và phát triển.
Chính trị, pháp luật
Đây là yếu tố có tầm ảnh hưởng tới tất cả các ngành kinh doanh trên một lãnh thổ, các yếu tố thể chế, luật pháp có thể uy hiếp đến khả năng tồn tại và phát triển của bất cứ ngành nào. Khi kinh doanh trên một đơn vị hành chính, các doanh nghiệp sẽ phải bắt buộc tuân theo các yếu tố thể chế luật pháp tại khu vực đó. Hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics lại càng phải chú ý đến môi trường chính trị pháp luật của một quốc gia do tính chất của hoạt động là hoạt động trên lãnh thổ rộng, xuyên quốc gia. Mà mỗi quốc gia có những quy định khác nhau về, chính trị, pháp luật, điều này sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Tại Việt Nam chưa có một bộ quy chế hoạt động hoàn chỉnh cho hoạt động của lĩnh vực logistics. Cho đến nay bản thân khái niệm logistics mới chỉ được đề cập đến trong bộ luật Thương Mại như là một văn bản chính thức thừa nhận sự hiện diện của ngành này. Song ở cấp độ quản lý và điều hành thì lại chưa hề có một quy chuẩn cụ thể cho ngành dịch vụ này. Theo cam kết mở cửa thị trường với WTO thì trong một số năm tới sẽ mở cửa hoàn toàn thị trường logistics cho các công ty và tập đoàn ở nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực logistics, đây sẽ là một khó khăn rất lớn cho ngành logistics Việt Nam. Hiện nay các công ty hoạt động trong lĩnh vực logistics của Việt Nam phần lớn là rất nhỏ bé chưa thể cạnh tranh trực tiếp với các tập đoàn logistics hàng đầu thế giới, đòi hỏi cần phải có sự hỗ trợ của Nhà nước nhằm nâng cao năng lực cạch tranh của các công ty trong thời kỳ hội nhập. Chính phủ cần có chính sách và biện pháp hướng dẫn, thúc đẩy sự liên kết các doanh nghiệp giao nhận kho vận với nhau để có những doanh nghiệp có đủ quy mô, đủ điều kiện cạnh tranh với các doanh nghiệp cùng loại trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên chính phủ cũng đang dần tạo hành lang pháp lý cho sự tham gia của các công ty nước ngoài theo cam kết hội nhập nhằm thúc đẩy hoạt động này phát triển, như đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, các điều kịên về thủ tục luật pháp.
Văn hoá xã hội
Mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ đều có những giá trị văn hóa và các yếu tố xã hội đặc trưng, và những yếu tố này là đặc điểm của người tiêu dùng tại các khu vực đó
Những giá trị văn hóa là những giá trị làm lên một xã hội, có thể vun đắp cho xã hội đó tồn tại và phát triển. Chính vì thế các yếu tố văn hóa thông thường được bảo vệ hết sức quy mô và chặt chẽ, đặc biệt là các văn hóa tinh thần. Các yếu tố về văn hoá, xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động logistics tại một quốc gia, các doanh nghiệp khi tham gia vào lĩnh vực này đòi hỏi phải hiểu biết về các yếu tố văn hoá, tinh thần của một quốc gia. Tại Việt Nam văn hoá kinh doanh nói chung và văn hoá trong linh vực hoạt động logistics nói riêng vẫn chưa được chú trọng. Các công ty hoạt động trong lĩnh vực logistics vẫn chưa thể hướng nhân viên của mình vào một môi trường văn hoá kinh doanh chuyên nghiệp tạo được những ấn tượng tốt trong con mắt của các bạn hàng quốc tế. Văn hoá của một công ty thể hiện ở chính những con người trong công ty đó về khả năng chuyên môn, ngoại ngữ, khả năng giao tiếp của nhân viên công ty. Nhân viên trong công ty logistics ở Việt Nam hiện nay vừa yếu về khả năng chuyên mon và ngoại ngữ, điều nầy đã làm giảm năng lực cạnh tranh của các công ty trên thị truờng thế giới. Ngoài ra các doanh nghiệp còn tự làm mất hình ảnh của mình khi mà tạo ra những cách làm ăn theo kiểu chộp giật, manh mún. Điều này phần nào đã tạo ra sự ép giá của các doanh nghiệp logistics lớn trên thế giới, mà người chịu thiệt cuối cùng chính là các doanh nghiệp trong nước.
Công nghệ
Công nghệ là yếu tố không thể thiếu đối với hoạt động kinh doanh logistics, nó có tác động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của công ty cung cấp dịch vụ. Thế giới ngày nay vẫn đang trong cuộc cách mạng của công nghệ, hàng loạt các công nghệ mới đã ra đời và được đưa vào ứng dụng thực tiễn trong cuộc sống. Công nghệ trong hoạt động logistic bao gồm công nghệ thông tin liên lạc, công nghệ vận tải, quản lý...Tại các doanh nghiệp logistics ở Việt Nam yêú tố công nghệ còn rất hạn chế, chưa có sự quan tâm đầu tư của các doanh nghiệp điều này sẽ gây ra hạn chế trong lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp. Phần lớn các hoạt động đều tiến hành thủ công dựa vào con người là yếu tố chính. Hạn chế trong thông tin sẽ làm cho doanh nghiệp bỏ qua nhiều cơ hội trong kinh doanh cho các đối thủ cạnh tranh. Công nghệ quản lý có ý nghĩa rất lớn đối với doanh nghiệp khi mà phạm vi hoạt động ngày càng mở rộng.
2.2.1.2 Môi trường ngành
Môi trường ngành bao gồm các yếu tố về chu kỳ sống của ngành, khách hàng, nhà cung cấp, nhà phân phối, đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn, và đối thủ cạnh tranh trực tiếp, sản phẩm thay thế. Tất cả những yếu tố trên có ảnh hưởng trực tiếp hoặc dán tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Chu kỳ sống của ngành
Chu kỳ sống của ngành là cả một quá trình dài từ khi ngành xuất hiện đến lúc suy thoái và không còn thực hiện chức năng của ngành. Do đặc thù là một ngành dịch vụ, luôn gắn liền với sản xuất lên chu kỳ sống của nó cũng tồn tại và kéo dài cùng với quá trình sản xuất hàng hoá. Như vậy có thể nói chu kỳ sống của ngành dịch vụ logistics có thể kéo dài mãi mãi cùng các ngành sản xuất. Nó là công cụ, cầu nối giữa sản xuất và tiêu dung giúp sản xuất ngày càng phát triển. Hoạt động logistics đã ra đời từ rất lâu nhưng tại Việt Nam thì nó mới chỉ đang trong giai đoạn phát triển trong một xu thế phát triển dài hạn. Do hoạt động sản xuất trong nước đang ra tăng, mặt khác mức sống của người dân cũng đã tăng lên rất nhiều điều đó sẽ kính thích mức tiêu dùng trong nước, tạo điều kiện cho dịch vụ logistics phát triển. Như vậy chu kỳ sống của ngành ở Việt Nam là đang trong quá trình tăng trưởng và phát triển, doanh nghiệp phải biết tận dụng thời cơ bứt phá, tìm kiếm lợi nhuận. Môt khi đã có nhiều doanh nghiệp tham gia thị trường, lúc này sẽ làm giảm tỷ suất lợi nhuận chung của ngành, đẩy cạnh tranh tới mức độ gay gắt hơn, doanh nghiệp nào không có sự chuẩn bị từ trước thì rất dễ bị loại khỏi thị trường.
Khách hàng
Khách hàng là một áp lực cạnh tranh có thể ảnh hưởng trực tiếp tới toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp logistics. Khi sức mạnh khách hàng càng lớn thì khách hàng càng có khả năng áp đặt giá. Sức mạnh của khách hàng lớn khi khách hàng có tính tập trung cao tức là có ít khách hàng chiếm một thị phần lớn, khách hàng tiêu thụ một lượng lớn sản phẩm của doanh nghiệp, chi phí chuyển đổi nhà cung cấp của khách hàng là rất nhỏ. Khách hàng của các doanh nghiệp logistics la các doanh nghiệp sản xuất trong và ngoài nước. Các công ty logistics trong nước phần lớn là các công ty nhỏ và vừa, chỉ thực hiện một công đoạn trong cả quá trình logistics không đủ khả năng để thực hiện cả quá trình. Do vậy áp lực từ phía khách hàng đối với công ty cung cấp dịch vụ logistics ở Việt Nam là rất lớn. Các công ty muốn giảm áp lực từ phía khách hàng thì chỉ còn cách liên kết với nhau để thực hiện một chuỗi logistics hoàn chỉnh. Hiện tại lĩnh vực xuất khẩu của Việt Nam tăng trưởng mỗi năm vào khoảng 20% - 22% trong đó tổng công ty nhà nước đã chiếm phần lớn lượng hàng hoá xuất khẩu, đây là các tập đoàn lớn do vậy áp lực từ các doanh nghiệp này đối với các công ty logistics tương đối lớn. Tuy nhiên các công ty sẽ đựơc lợi rất lớn nếu trở thành khách chính của các tổng công ty này, chính vì điều này các công ty đã tìm mọi cách, kể cả việc giảm giá thành để trở thành đối tác chính. Hành động này khiền thị trường logistic của Việt Nam càng trở lên rối ren hơn và người chịu thiệt cuối cùng chính là bản thân các doanh nghiệp đó.
Nhà cung cấp
Nhà cung cấp có ảnh hưởng rất lớn đến doanh nghiệp.Sức mạnh của nhà cung cấp thể hiện khả năng quyết định các điều kiện giao dịch của họ đối với doanh nghiệp. Những nhà cung cấp yếu thế có thể phải chấp nhận các điều khoản mà doanh nghiệp đưa ra, nhờ đó doanh nghiệp giảm được chi phí và tăng lợi nhuận trong sản xuất, ngược lại, những nhà cung cấp lớn có thể gây sức ép đối với ngành sản xuất bằng nhiều cách, chẳng hạn đặt giá bán nguyên liệu cao để san sẻ phần lợi nhuận của ngành. Số lượng nhà cung cấp sẽ quyết định đến áp lực cạnh tranh, quyền lực đàm phán của họ đối với ngành, doanh nghiệp.Nếu nhà cung cấp của một doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhiều nhà cung cấp khác, thì có khả năng là họ sẽ phải chấp nhận những điều khoản bất lợi hơn, vì doanh nghiệp có thể nhanh chóng chuyển sang đặt hàng của nhà cung cấp khác, do đó, nhà cung cấp buộc phải chấp nhận tình trạng bị ép giá. Sức mạnh của nhà cung cấp thể hiện ở mức độ tập trung của nhà cung cấp, tầm quan trọng của số lượng sản phẩm đối với nhà cung cấp, sự tồn tại của các nhà cung cấp thay thế. Nhà cung cấp có sức mạnh thị trường lớn đối với doanh nghiệp khi mà khả năng thay thế nguyên liệu đầu vào thấp, chi phí chuyển đôi nhà cung cấp cao. Trong các hoạt động về dịch vụ logistics thì nhà cung cấp là các công ty sản xuất, cho thuê các phương tiện vận tải, ngoài ra còn có các công ty cung ứng về xăng dầu, vật tư máy móc, thiết bị….Hiện tại áp lực từ phía nhà cung cấp đối với các doanh nghiệp logistics ở Việt Nam là không lớn lắm, do quy mô từ phía nhà cung cấp chưa đủ lớn để gây áp lực đối với các doanh nghiệp. Do vậy các doanh nghiệp có thể thoải mái lựa chon nhà cung cấp và gây sức ép lên nhà cung cấp nhằm giảm giá thành của sản phẩm.
Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn
Đối thủ tiềm ẩn là các doanh nghiệp hiện chưa có mặt trên trong ngành nhưng có thể ảnh hưởng tới ngành trong tương lai. Đối thủ tiềm ẩn nhiều hay ít, áp lực của họ tới ngành mạnh hay yếu sẽ phụ thuộc vào các yếu tố gồm sức hấp dẫn của ngành, những rào cản gia nhập ngành.
Sức hấp dẫn của ngành được thể hiện thông qua ánh qua tỷ suất lợi nhuận, số lượng khách hàng, số lượng doanh nghiệp trong ngành. Các rào cản ra nhập ngành gồm rào cản về vốn, kỹ thuật, công nghê, rào cản về độc quyền, sự bảo hộ của chính phủ, bằng phát minh sáng chế, thương hiệu...Ngành logistics ở Việt Nam hiện nay có thể nói là một trong những ngành có tỷ suất lợi nhuận rất cao, rào cản ra nhập ngành là không lớn đối với những công ty chỉ cung cấp một phần dịch vụ trong chuỗi hoạt động logistics. Chính vì thế trong những năm qua các công ty hoạt động ở dạng này đã thành lập rất nhiều và hoạt động cũng rất hiệu quả do tỷ suất lợi nhuận của ngành đang đạt ở mức cao.
Cạnh tranh từ nội bộ ngành
Các doanh nghiệp đang kinh doanh trong ngành sẽ cạnh tranh trực tiếp với nhau tạo ra sức ép trở lại lên ngành tạo nên một cường độ cạnh tranh. Các yếu tố về nhu cầu, độ tốc độ tăng trưởng ,số lượng đối thủ cạnh tranh sẽ góp phần làm ra tăng sức ép cạnh tranh trong ngành, làm cho cường độ cạnh tranh ngày càng trở lên gay gắt hơn. Ngoài ra mức độ tập trung hay phân tán của ngành cũng có ảnh hưởng rất lớn tình hình cạnh tranh trong nội bộ ngành. Ngành phân tán là ngành có rất nhiều doanh nghiệp cạnh tranh với nhau nhưng không có doanh nghiệp nào có đủ khả năng chi phối các doanh nghiệp còn lại. Ngành tập trung là ngành chỉ có một hoặc một vài doanh nghiệp nắm giữ vai trò chi phối . Hoạt động logistics ở nước ta hiện nay đang có sự cạnh tranh gay gắt từ các doanh nghiệp trong ngành, điều này hoàn toàn dễ hiểu khi ngành đang trong giai đoạn phát triển tốt. Nhưng cạnh tranh không phải là tìm mọi cách tiêu diệt đối thủ mà là tìm cách để nâng cao chất luợng dịch vụ, giúp cho sản phẩm dịch vụ ngày một tốt hơn. Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay dường như đã đi ngược lại với những quy luật cạnh tranh, điều này gây tỏn hại đến uy tín của doanh nghiệp cũng như quốc gia. Hiện tải nước ta có khoảng 600 doanh nghiệp tham gia hoạt động logistics trong đó đại đa số là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hạn chế về vốn, công nghệ và nhân lực.Do vậy các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics ở Việt Nam mới chỉ đóng vai trò là một nhà cung cấp dịch vụ vệ tinh cho các đối tác nước ngoài. Chưa có một doanh nghiệp nào của Việt Nam đủ sức để tổ chức và điều hành toàn bộ quy trình hoạt động logistics. Như vậy để cho ngành logistics của Việt Nam có thể hội nhập và phát triển tốt thì cần rất nhiều biện pháp trợ giúp nhằm thúc đẩy ngành phát triển mạnh mẽ hơn.
2.2.2 Tình hình sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần thương mại Hải Phòng - Hanosimex giai đoạn 2004._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28557.doc