Một số giải pháp nhằm thực hiện tốt công tác bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Xí nghiệp in 1 - Thông tấn xã VN

Lời mở đầu Từ cơ chế tập trung chuyển sang cơ chế thị trường, các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh đang đứng trước nhiều vấn đề bức xúc. Một trong những vấn đề nổi lên hàng đầu là vấn đề bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh sao cho có hiệu quả. Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực in ấn nói chung và đối với Xí nghiệp in I - TTXVN ( thông tấn xã Việt Nam ) nói riêng thì một trong những mục tiêu phấn đấu hàng đầu chính là vấn đề bảo toàn và nâng cao hiệu quả

doc78 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1329 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm thực hiện tốt công tác bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Xí nghiệp in 1 - Thông tấn xã VN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sử dụng vốn kinh doanh. Có thể khẳng định rằng bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh là mục tiêu phấn đấu lâu dài của mỗi doanh nghiệp. Bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh gắn liền và ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường với môi trường cạnh tranh khắc nghiệt thì việc bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh là một biện pháp quản trọng giúp doanh nghiệp không chỉ đứng vững mà còn phát triển cả chiều rộng và chiều sâu quy mô sản xuất kinh doanh của mình. Tuy nhiên xuất phát từ thực tiễn rất nhiều các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường thực hiện rất kém mục tiêu bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của mình. Số vốn thu được sau một vòng tuần hoàn vốn lại thường thấp hơn số vốn đã bỏ ra ban đầu, công tác quản lý vốn kinh doanh thường lỏng lẻo, các biện pháp đưa ra thường mang tính chất lý thuyết không gắn với thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp đã làm nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ và đi đến bờ vực của sự phá sản. Trong số các doanh nghiệp đó thì các doanh nghiệp nhà nước chiếm một phần không nhỏ, điều này là một mỗi trăn trở của các nhà quản lý doanh nghiệp và cũng là của những người thường xuyên quan tâm đến vấn đề bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong doanh nghiệp, cần phải có những hướng đi đúng, những giải pháp hợp lý để công tác bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh thực sự có hiệu quả giúp cho các doanh nghiệp đứng vững trong nền kinh tế thị trường là yêu cầu và khách quan của mọi doanh nghiệp đang tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Yêu cầu làm rõ lí luận cũng như thực tiễn đối với vấn đề bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp hiện nay trở nên cấp bách và giải quyết được vấn đề đó sẽ tạo một động lực thúc đẩy các doanh nghiệp tồn tại và phát triển lâu dài trong cơ chế thị trường. Xuất phát từ những yêu cầu trên, trong quá trình học tập tại trường và thời gian thực tập tại Xí nghiệp in I - TTXVN ( thông tấn xã Việt Nam ), tôi đã quyết định tập trung và đi sâu vào nghiên cưu chuyên đề “ Một số giải pháp nhằm thực hiện tốt công tác bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Xí nghiệp in I - TTXVN”. Với hy vọng sẽ góp phần đáp ứng được nhu cầu bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh bức thiết hiện nay của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực in nói chung và Xí nghiệp in I - TTXVN nói riêng. Nội dung chuyên đề gồm ba phần chính: Phần I : Vốn kinh doanh với việc bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Phần II : Bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Xí nghiệp in I - TTXVN. Phần III : Một số giải pháp nhằm góp phần thực hiện tốt công tác bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Xí nghiệp in I - TTXVN Phần I Lý luận chung về vốn kinh doanh và Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp 1- Vốn kinh doanh và nguồn hình thành vốn kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. 1.1- Khái niệm và phân loại. 1.1.1- Khái niệm : Trong bất kỳ thời kỳ kinh tế nào, đã là một doanh nghiệp thì điều kiện đầu tiên là phải có một khoản tiền nhất định giành cho hoạt động kinh doanh gọi là vốn. Với lượng vốn này doanh nghiệp có thể xây dựng, đảm bảo cho hoạt động như xây dựng nhà xưởng, mua TSCĐ, trả tiền công cho người lao động, các khoản chi phí khác có liên quan,... tức là vốn được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và được thể hiện dưới dạng nhiều hình thái vật chất khác nhau. Như vậy, vốn sản xuất kinh doanh là gì ? Các nhà kinh tế học từ thời xa xưa đã đưa ra rất nhiều quan điểm khác nhau về vốn kinh doanh như sau : Theo quan điểm kinh tế học cổ điển : Vốn kinh doanh là yếu tố đầu vào nhằm phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh dưới dạng hình thái vật chất khác nhau như : tiền, lao động, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu,... Theo quan điểm của Các Mác cho rằng : "Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư". Đây là quan điểm được nhiều nhà kinh tế ủng hộ do phản ánh được đúng bản chất và tác dụng của vốn. Trong nền kinh tế thị trường, vốn kinh doanh còn được gọi là một loại quỹ tiền tệ đặc biệt không thể thiếu của doanh nghiệp và có các đặc trưng chủ yếu sau: Thứ nhất : Vốn được biểu hiện bằng một lượng giá trị thực của các tài sản có giá trị dùng để sản xuất ra một lượng giá trị các sản phẩm khác. Đó là các loại nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị, nhà xưởng,... trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Thứ hai : Vốn vận động phải sinh lời. Ban đầu vốn được biểu hiện bằng một lượng tiền nhất định, trong quá trình vận động vốn tồn tại dưới nhiều hình thái vật chất khác nhau. Tuy nhiên, điểm xuất phát và điểm cuối cùng của quá trình tuần hoàn vốn đều được biểu hiện bằng tiền, nhưng để bảo toàn và sử dụng vốn có hiệu quả thì đồng vốn bỏ ra phải nhỏ hơn hoặc bằng số tiền thu về. Thứ ba : Vốn có giá trị về mặt thời gian. Trong cơ chế thị trường như hiện nay thì đặc trưng này thể hiện rất rõ, đồng vốn bỏ ra luôn chịu ảnh hưởng của các yếu tố lạm phát, giảm phát, khủng hoảng, tiến bộ khoa học kỹ thuật,... nên giá trị của các đồng vốn tại các thời điểm khác nhau là khác nhau. Thứ tư : Vốn phải gắn với chủ sở hữu. Trong nền kinh tế thị trường mỗi đồng vốn bao giờ cũng gắn với chủ sở hữu nhất định. Người sử dụng vốn có thể chưa chắc là người chủ sở hữu vốn do có sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn. Điều này còn đòi hỏi mỗi người sử dụng vốn phải có trách nhiệm với đồng vốn mà mình đang nắm giữ và sử dụng. Thứ năm : Vốn không chỉ là biểu hiện bằng tiền của các loại tài sản hữu hình có hình thái vật chất cụ thể trong doanh nghiệp mà còn được biểu hiện bằng các loại tài sản vô hình như các lợi thế thương mại, bằng phát minh sáng chế, nhãn hiệu, các bí quyết công nghệ được bảo hộ. Như vậy, khái niệm chung của vốn kinh doanh như sau : Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản hữu hình và tài sản vô hình trong doanh nghiệp được đầu tư vào kinh doanh nhằm mục đích sinh lời. 1.1.2- Phân loại : Có nhiều cách phân loại về vốn kinh doanh như : Căn cứ vào đặc điểm luân chuyển vốn : Vốn kinh doanh được chia làm hai loại : Vốn cố định : là một bộ phận của vốn đầu tư biểu hiện về mặt giá trị của tất cả các TSCĐ trong doanh nghiệp mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi TSCĐ hết thời hạn sử dụng. Sau đó TSCĐ có thể được thanh lý hay huỷ bỏ. Vốn lưu động : Là một bộ phận của vốn sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp, được biểu hiện bằng tiền của toàn bộ giá trị tài sản lưu động và vốn lưu động để đảm bảo cho quá trình sản xuất và tái sản xuất của doanh nghiệp được thực hiện. Vốn lưu động tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh dưới nhiều hình thức khác nhau. Đặc điểm luân chuyển là chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất kinh doanh và toàn bộ giá trị sẽ chuyển dịch ngay vào giá trị sản phẩm sản xuất ra. Căn cứ vào quan hệ sở hữu : Theo cách phân loại này vốn kinh doanh được chia làm hai loại đó là vốn chủ sở hữu và nợ phải trả. Vốn chủ sở hữu: Là nguồn vốn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp bao gồm vốn để hình thành mọi loại tài sản trong doanh nghiệp, vốn điều lệ, vốn tự bổ sung từ lợi nhuận sau thuế và từ các quỹ của doanh nghiệp. Đối với DNNN thì vốn được bổ sung từ Ngân sách tức là Nhà nước là chủ sở hữu. Nguồn vốn này được đánh giá là ổn định và mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người nắm giữ nếu biết sử dụng hợp lý. Nợ phải trả : Là các khoản nợ phát sinh trong quá trình doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp có trách nhiệm phải hoàn trả cả vốn gốc và lãi vay trong một thời gian nhất định, nguồn vốn này được hình thành từ các khoản nợ vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, các khoản nợ người cung cấp, nợ công nhân viên, tiền vay do phát hành trái phiếu hoặc các khoản nợ phải trả Nhà nước,... Căn cứ theo phạm vi huy động vốn kinh doanh : Cũng được phân thành hai loại là vốn bên trong và vốn bên ngoài doanh nghiệp. Vốn bên trong doanh nghiệp : Là nguồn vốn có thể huy động được từ hoạt động bên trong doanh nghiệp từ các nguồn như tiền khấu hao TSCĐ, lợi nhuận để lại doanh nghiệp, các quỹ dự phòng, các khoản thu do thanh lý nhượng bán TSCĐ,... Đây là nguồn vốn quan trọng đảm bảo khả năng tự chủ về tài chính của doanh nghiệp. Vốn bên ngoài doanh nghiệp : Là số vốn mà doanh nghiệp huy động từ bên ngoài doanh nghiệp nhằm đáp ứng các yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh của mình như vốn vay ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác, phát hành trái và các khoản nợ khác. 1.2- Nguồn hình vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Tạo ra nguồn vốn là tiền đề vật chất để thực hiện các mối quan hệ kinh tế -tài chính của doanh nghiệp là một trong những giai đoạn quan trọng nhất trong quá trình hoạt động của tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Do vậy, vốn kinh doanh luôn đóng vai trò then chốt trong hoạt động của các doanh nghiệp. Nguồn vốn kinh doanh của một doanh nghiệp thường được hình thành bằng các nguồn khác nhau tuỳ theo loại hình, điều kiện và mục đích kinh doanh của từng doanh nghiệp. Thông thường vốn kinh doanh của doanh nghiệp được huy động từ các nguồn sau : Vốn do Ngân sách Nhà nước cấp : Vốn này chỉ được cấp cho loại hình DNNN. Bắt đầu từ khi có quyết định thành lập, DNNN cần một lượng vốn đầu tư tối thiểu cần thiết. Trong quá trình tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp này thường được bổ sung thêm vốn nhằm đảm bảo hoạt động của doanh nghiệp. Vốn do Ngân sách cấp được xác định trên biên bản giao nhận vốn mà doanh nghiệp phải có trách nhiệm bảo toàn và phát triển nguồn vốn đã được cấp. Vốn liên doanh, liên kết : Đây là nguồn vốn do các doanh nghiệp khác đóng góp nhằm cùng thực hiện các mục tiêu kinh tế đặt ra trong quá trình sản xuất kinh doanh. Vốn góp tham gia lên doanh liên kết có thể bằng tiền, bằng các loại tài sản cố định, vật tư hàng hoá hoặc các lợi thế về kinh doanh, mặt đất, mặt nước, mặt phố,... Dựa trên cơ sở tự nguyện, các bên tham gia liên doanh sẽ đóng góp vốn theo khả năng của mình, có trách nhiệm, được hưởng quyền lợi và chịu rủi ro theo phần vốn góp. Vốn tự bổ sung của doanh nghiệp : Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp luôn phải tích luỹ một lượng vốn để tái sản xuất giản đơn hay tái sản xuất mở rộng quá trình sản xuất kinh doanh. Do vậy mà nguồn vốn do doanh nghiệp tự bổ sung trong quá trình hoạt động đóng một vai trò quan trọng. Lượng vốn tự bổ sung phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ, thông qua việc phân bổ vào các quỹ của doanh nghiệp. Nguồn vốn tự bổ sung trong quá trình kinh doanh chủ yếu dựa vào hai nguồn là lợi nhuận và quỹ khấu hao của doanh nghiệp. Nguồn vốn tự bổ sung mang ý nghĩa rất quan trọng do nó là cơ sở nhằm đánh giá khả năng tự chủ về mặt tài chính của doanh nghiệp. Nguồn vốn tín dụng : Thông thường nguồn vốn vay tín dụng là nguồn vốn mà các doanh nghiệp sử dụng thường xuyên và nhiều nhất trong nền kinh tế. Đây là nguồn vốn vay có khả năng đáp ứng đầy đủ yêu cầu của hoạt động SXKD nhất là vốn để đáp ứng cho các nhu cầu của dự án đầu tư có quy mô lớn, thời gian dài. Nguyên tắc cơ bản mà doanh nghiệp phải thực hiện khi sử dụng nguồn vốn này là phải sử dụng đúng mục đích, và chứng minh được tính hiệu quả của dự án, phải có tài sản đảm bảo và phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi đầy đủ và đúng thời hạn. Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn vay tín dụng trong giới hạn cho phép của hệ số nợ sẽ góp phần phân tán bớt rủi ro trong hoạt động SXKD. Tuy nhiên, khi sử dụng nguồn vốn này cần đánh giá, phân tích kỹ lưỡng tình hình tài chính cũng như đặc điểm của từng nhu cầu nhằm đạt hiệu quả cao nhất, tránh tình trạng lệ thuộc quá nhiều vào vốn vay. Các nguồn vốn khác : Ngoài các nguồn vay chính trên, để đáp ứng yêu cầu về tài trợ nguồn vốn ngắn hạn, doanh nghiệp cũng có thể vay vốn từ một số nguồn như : Tín dụng thương mại : Đây là một hình thức quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn của doanh nghiệp. Bản chất của hình thức này chính là việc chiếm dụng vốn hợp pháp của người khác trong một khoảng thời gian nhất định. Nó xuất phát từ việc doanh nghiệp nhận được hàng hoá hoặc dịch vụ của nhà cung cấp nhưng lại chưa phải trả tiền ngay, do vậy doanh nghiệp có thể sử dụng số tiền phải trả đó như một nguồn vốn để tài trợ trong ngắn hạn. Quy mô của nguồn vốn này phụ thuộc vào giá cả và số lượng của hàng hoá hay dịch vụ mà người bán đã cung cấp. Sử dụng nguồn vốn tín dụng thương mại có ưu điểm là đơn giản, thuận tiện. Nếu người cung cấp là bạn hàng quen biết thì khả năng đánh giá rủi ro của nguồn vốn này là tương đối dễ dàng. Sử dụng thương phiếu : Nhằm bổ sung thêm lượng vốn lưu động trong doanh nghiệp. Đây là một trong những biện pháp thu hút được nguồn vốn rộng rãi và chi phí là thấp nhất. Tuy nhiên, hình thức này phụ thuộc rất nhiều vào độ tin cậy của người mua thương phiếu cũng như mức độ dư thừa vốn trong nền kinh tế. 2- Sự cần thiết của việc nâng hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp. 2.1- Vấn đề chung về nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường luôn nhằm mục đích tối đa hoá lợi nhuận, không ngừng tăng giá trị doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Để đạt được điều đó một vấn đề để đòi hỏi trước tiên là doanh nghiệp phải bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của mình. Bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh được hiểu chung nhất là sự đảm bảo duy trì và nâng cao được giá trị thực tế doanh nghiệp tại các thời điểm khác nhau trong quá trình tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh bất kể có sự biến động của giá cả trên thị trường. Việc bảo toàn vốn kinh doanh ở các đơn vị kinh tế được thực hiện trong quá trình sử dụng vốn vào mục đích đầu tư hay sản xuất kinh doanh là nhằm mục đích đảm bảo cho các tài sản không bị mất mát, hao hụt hoặc hư hỏng trước thời hạn, đảm bảo cho đồng vốn thường xuyên duy trì và nâng cao được giá trị của mình trong quá trình sử dụng vốn. Việc bảo toàn vốn kinh doanh sẽ tỏ ra có hiệu quả khi doanh nghiệp vẫn duy trì được năng lực sản xuất kinh doanh của mình trong các tình huống kho khăn trên thị trường như thiếu nguyên vật liệu hay đồng tiền bị trượt giá. Chế độ bảo toàn và phát triển vốn là tất yếu khách quan đối với mọi doanh nghiệp trong quá trình tái sản xuất, đặc biết là việc bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của các doanh nghiệp trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát, giá cả thường xuyên biến động, do đó phải thường xuyên điều chỉnh các loại vật tư hàng hoá theo hệ số trượt giá trên thị trường. Việc thực hiện bảo toàn vốn trong doanh nghiệp cần chú ý các vấn đề cơ bản sau: + Không để vốn kinh doanh bị thất thoát trong quá trình tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh như TSCĐ không sử dụng được do hư hỏng trước thời hạn, vốn ứ đọng trong sản xuất do không tiêu thụ được sản phẩm, mất mát vật tư, hàng hoá, vốn bị khách hàng chiếm dụng trong thanh toán quá nhiều. + Trong quá trình tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, nguyên tắc cơ bản để bảo toàn vốn là số vốn cuối kỳ luôn phải lớn hơn hoặc bằng số vốn đã bỏ ra đầu kỳ. Chỉ khi thực hiện được điều này vốn của doanh nghiệp mới không bị mất đi và doanh nghiệp mới có thể tái sản xuất giản đơn quá trình sản xuất tiếp theo. + Trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát, giá cả hàng hoá thay đổi phải có biện pháp điều chỉnh tăng nguồn vốn để duy trì khả năng sản xuất hiện tại. Nội dung của công tác bảo toàn vốn kinh doanh trong doanh nghiệp bao gồm việc bảo toàn vốn cố định và bảo toàn vốn lưu động. Do đặc điểm luân chuyển vốn chậm, các loại TSCĐ là quan trọng, thiết yếu trong hoạt động sản xuất kinh doanh nên bảo toàn và phát triển vốn cố định bao gồm cả việc bảo toàn về mặt giá trị. 2.2- Sự cần thiết và ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Mỗi doanh nghiệp để thực hiện tốt mục đích kinh doanh của mình phải thực hiện quá trình kinh doanh có hiệu quả. Trong đó, yếu tố tác động có tính chất quyết định nhất đến hiệu quả kinh doanh là hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Một đồng vốn bỏ ra phải có khả năng sinh lời, đây là vấn đề cốt yếu, liên quan trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vì thế tổ chức và sử dụng vốn có hiệu quả là một yêu cầu khách quan đối với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nói một cách cụ thể hơn, việc tăng cường công tác tổ chức và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp xuất phát từ những lý do chủ yếu sau : - Xuất phát từ vị trí, vai trò của vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn là phạm trù kinh tế, là điều kiện tiên quyết của bất cứ một doanh nghiệp nào để tiến hành tổ chức các hoạt động đó theo mục đích đã định. Trong bất cứ hoạt động sản xuất kinh doanh nào nếu không có vốn thì không thể tiến hành được công việc và mục tiêu đề ra. Ngoài ra, vốn sản xuất kinh doanh còn là điều kiện để sử dụng các nguồn tiềm năng khác để phát triển sản xuất kinh doanh phục vụ cho quá trình tái sản xuất mở rộng. Với vai trò quan trọng đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn quan tâm đến việc nâng cao hiệu qua sử dụng vốn, đó cũng chính là mục tiêu cần đạt tới của việc sử dụng vốn trong quá trình SXKD của doanh nghiệp. - Xuất phát từ ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn SXKD của doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp sẽ nâng cao sức cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường hiện nay, môi trường cạnh tranh luôn đặt doanh nghiệp vào những yêu cầu phải nâng cao những lợi thế về công nghệ, về chất lượng hàng hoá, giá cả,... Để đáp ứng được yêu cầu này trước hết doanh nghiệp phải huy động được các nguồn tài trợ cho các nghiệp vụ của mình và các nguồn tài chính, doanh nghiệp sẽ có điều kiện để đầu tư mở rộng sản xuất, nâng cao trình độ công nghệ. Từ đó nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm,... Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ đảm bảo được tính an toàn về tài chính cho doanh nghiệp. Hoạt động trong cơ chế thị trường đòi hỏi doanh nghiệp phải đề cao tính an toàn, đặc biệt là an toàn về tài chính, nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp được nâng cao có ý nghĩa là việc huy động các nguồn tài trợ và khả năng thanh toán được đảm bảo, tránh được tình trạng mất khả năng thanh toán và có đủ nguồn lực để khắc phục các rủi ro trong kinh doanh. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ đảm bảo thực hiện tốt mục đích lợi nhuận và các mục đích khác của doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp gia tăng lợi nhuận của doanh nghiệp trong hiện tại mà nó còn tạo lập cơ sở vững vàng để thu lợi nhuận trong tương lai, tạo sự phát triển lâu dài cho doanh nghiệp. Đó cũng chính là điều kiện nâng cao mức sống cho người lao động, tăng các khoản nộp Ngân sách cho Nhà nước, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Như vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp không những đem lại hiệu quả thiết thực, ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp mà nó còn ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế xã hội. 2.3- Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn. 3.3.1- Vốn kinh doanh : - Chỉ tiêu vòng quay toàn bộ vốn trong kỳ : Vòng quay toàn bộ vốn = Tổng mức luân chuyển vốn Vốn sản xuất kinh doanh trong kỳ Chỉ tiêu này thể hiện một đồng vốn sản xuất kinh doanh bình quân trong kỳ quay được bao nhiêu vòng, từ đó có thể đánh giá được khả năng sử dụng tài sản và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. - Tỷ suất lợi nhuận tổng vốn : Tỷ suất lợi nhuận vốn = Lợi nhuận trước thuế và lãi vay Vốn sản xuất kinh doanh bình quân trong kỳ Là chỉ tiêu đo lường mức độ sinh lời của đồng vốn, phản ánh một đồng vốn bình quân sử dụng trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. 2.3.2- Vốn cố định : - Hiệu suất sử dụng vốn cố định Hệ số này được xác định bằng tỷ số giữa doanh thu về tiêu thụ sản phẩm trong kỳ với số dư bình quân vốn cố định trong kỳ ( là số bình quân giữa giá trị còn lại của TSCĐ đầu kỳ và cuối kỳ ). Hiệu suất sử dụng vốn cố định = Doanh thu thuần Số dư bình quân vốn cố định trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn cố định bình quân có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần từ việc tiêu thụ hàng hoá trong kỳ. - Hiệu suất sử dụng tài sản cố định : Hiệu suất sử dụng tài sản cố định trong kỳ = Doanh thu thuần Nguyên giá tài sản cố định bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này đánh giá một tài sản cố định có thể đạt được năng suất là bao nhiêu, hay là đánh giá tổng mức doanh thu từ những sản phẩm do TSCĐ đó làm ra trong kỳ là bao nhiêu. - Hiệu quả sử dụng vốn cố định : Hiệu quả sử dụng vốn cố định = Lợi nhuận sau thuế Số dư bình quân vốn cố định trong kỳ Chỉ tiêu này thể hiện cứ một đồng vốn cố định bình quân bỏ ra sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Chú ý khi sử dụng chỉ tiêu này cần lưu ý là tử số chỉ tính những lợi nhuận sau thuế có sự tham gia trực tiếp của TSCĐ tạo ra, vì thế cần phải loại ra những khoản thu nhập khác như lãi từ hoạt động tài chính, lãi do vốn góp liên doanh, lãi khác,... vì những khoản lãi này không có sự tham gia của vốn cố định. - Hệ số hao mòn vốn cố định : Hệ số hao mòn vốn cố định = GTCL của TSCĐ vào thời điểm kiểm tra NG của TSCĐ vào thời điểm kiểm tra Chỉ tiêu này phản ánh số vốn cố định còn phải thu hồi để bảo toàn vốn và phản ánh hiện trạng về năng lực vốn và năng lực sản xuất của đơn vị tại thời điểm kiểm tra. Trên đây là những chỉ tiêu quan trọng mà các doanh nghiệp dùng để đánh giá hiệu quả của việc sử dụng vốn cố định. Nhưng trong điều kiện hiện nay của nền kinh tế thì chỉ tiêu “Hiệu quả sử dụng vốn cố định” được coi là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá chất lượng và hiệu quả đầu tư cũng như việc sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp. Bởi mục tiêu cuối cùng của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đều phải hướng tới lợi nhuận tối đa. Việc hoàn thành kế hoạch sản lượng phải được đặt trên cơ sở hoàn thành kế hoạch lợi nhuận. 2.3.3- Vốn lưu động : Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn lưu động vận động không ngừng, thường xuyên qua các giai đoạn của quá trình tái sản xuất từ khâu nguyên vật liệu, dự trữ, sản xuất cho đến khâu tiêu thụ sản phẩm. Do đó, các doanh nghiệp đã chú trọng nhiều đến việc sử dụng vốn lưu động như thế nào cho có hiệu quả nhất. Sau đây là một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động : Mức sinh lời của vốn lưu động : Mức sinh lời của vốn lưu động = Lợi nhuận ròng Vốn lưu động bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh có bao nhiêu đồng lợi nhuận thu được từ việc sử dụng một đồng vốn lưu động bình quân trong kỳ. Số vòng quay của vốn lưu động : Tốc độ luân chuyển của vốn lưu động là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh trình độ tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động được thể hiện bởi chỉ tiêu số vòng quay vốn lưu động trong kỳ : Số vòng quay của vốn lưu động = Doanh thu thuần Vốn lưu động bình quan trong kỳ Số vòng quay vốn lưu động có ý nghĩa kinh tế rất lớn đối với mỗi doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng cao thể hiện vốn lưu động luân chuyển càng nhanh, hoạt động tài chính càng tốt, tỷ suất lợi nhuận cao,... Kỳ thu tiền bình quân : Kỳ thu tiền bình quân = Số dư bình quân các khoản phải thu trong kỳ Doanh thu bình quân một ngày trong kỳ Chỉ tiêu này đo lường khả năng thu hồi vốn thanh toán của doanh nghiệp. Đồng thời phản ánh công tác quản lý các khoản phải thu và các chính sách tín dụng của doanh nghiệp đối với khách hàng của mình. Số vòng quay vốn vật tư hàng hoá : Số vòng quay hàng tồn kho = Giá vốn bán hàng Số dư bình quân hàng tồn kho Chỉ số này thể hiện tốc độ luân chuyển của hàng tồn kho trong kỳ. Chỉ số này càng lớn tức là thời gian hàng tồn lại kho ít và luân chuyển nhanh theo vòng quay của vốn. Các hệ số sinh lời : Đây là thước đo được đánh giá hàng đầu dùng để đánh giá hiệu quả và tính sinh lời của vốn trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Là kết quả của hàng loạt các biện pháp và quyết định quản lý của doanh nghiệp. Sau đây là một số các hệ số sinh lời : Tỷ suất doanh lợi doanh thu : Tỷ suất doanh lợi doanh thu = Lợi nhuận thuần Doanh thu thuần Đây là chỉ tiêu phản ánh một đồng doanh thu thuần từ việc tiêu thụ hàng hoá trong kỳ đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tỷ suất doanh lợi tổng vốn : Tỷ suất doanh lợi tổng vốn = Lợi nhuận thuần Vốn sản xuất kinh doanh bình quân trong kỳ Là chỉ tiêu đo lường mức độ sinh lời của một đồng vốn. Phản ánh một đồng vốn bình quân được sử dụng trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Doanh lợi vốn chủ sở hữu : Doanh lợi vốn chủ sở hữu = Lợi nhuận thuần Vốn chủ sở hữu bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh mức độ sinh lời của một đồng vốn chủ sở hữu. Tức là với một đồng vốn chủ sở hữu có thể tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. 2.4- Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn SXKD của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn kinh doanh của doanh nghiệp không ngừng luân chuyển từ hình thái này sang hình thái khác và cùng một thời điểm vốn kinh doanh có thể tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau. Do vậy, trong quá trình vận động vốn kinh doanh chịu tác động của rất nhiều nhân tố làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Có những nhân tố chủ quan, có những nhân tố khách quan, có những yếu tố tích cực, ngược lại có những yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Điều cốt yếu là doanh nghiệp phải nhận biết được các nhân tố đó. Từ đó tìm ra phương hướng giải quyết, khắc phục nhược điểm tồn tại, phát huy những mặt tốt nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp. 2.4.1- Những nhân tố mang tính chất khách quan : Các biến động của nền kinh tế : Nhà nước với chức năng quản lý và điều tiết nền kinh tế của mình đã đưa ra các luật kinh tế và các chính sách kinh tế nhằm tạo môi trường và hành lang cho các doanh nghiệp tiến hành phát triển sản xuất kinh doanh mà không vi phạm đến những quy định của pháp luật. Bất kỳ một sự thay đổi nào trong các chế độ chính sách của Nhà nước cũng gây ra những tác động tích cực hoặc tiêu cực đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp hoàn toàn chủ động trong việc tạo nguồn, tìm kiếm bạn hàng cũng như thị trường tiêu thụ sản phẩm. Những chính sách quản lý của Nhà nước nhìn chung ngày càng tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp phát huy khả năng sáng tạo trong quản lý và điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Các chính sách của Nhà nước : Một doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường luôn gắn liền hoạt động sản xuất kinh doanh của mình với sự vận động của nền kinh tế. Khi nền kinh tế có biến động thì hoạt động sản xuất của doanh nghiệp cũng bị ảnh hưởng. Do vậy, mọi nhân tố tác động đến việc tổ chức và huy động vốn của doanh nghiệp đến từ bên ngoài đều ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp đó. Những tác động đó có thể xảy ra khi nền kinh tế có lạm phát, sức ép của môi trường cạnh tranh gay gắt, những rủi ro mạng tính hệ thống mà doanh nghiệp không tránh khỏi, sức mua của đồng tiền giảm sút dẫn đến sự tăng giá của vật tư hàng hoá. Trong tình hình đó nếu doanh nghiệp không có biện pháp điều chỉnh kịp thời sẽ làm cho vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mất dần theo tốc độ trượt giá của đồng tiền. 2.4.2- Các nhân tố mang tính chất chủ quan : Công nghệ và trình độ lao động : Các đặc điểm về mặt kỹ thuật có tác động đến một số chỉ tiêu quan trọng phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định như : Hệ số đổi mới máy móc thiết bị, thời gian sử dụng và công suất sử dụng,... Nếu công nghệ sản xuất đơn giản, trình độ tay nghề không cao, doanh nghiệp dễ có điều kiện sử dụng máy móc thiết bị nhưng năng suất lao động không cao, chất lượng sản phẩm thấp, không có khả năng cạnh tranh trên thị trường tức là doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm dẫn đến việc tồn đọng vốn, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Ngược lại, nếu công nghệ sản xuất phức tạp đòi hỏi trình độ tay nghề cao tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao dễ dàng tiêu thụ, cạnh tranh trên thị trường, đẩy nhanh vòng quay vốn và tạo ra nhiều lợi nhuận. Cơ cấu vốn đầu tư và nhu cầu về vốn của doanh nghiệp : Cơ cấu vốn đầu tư của doanh nghiệp là một nhân tố ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Một cơ vốn hợp lý sẽ là cho chi phí sử dụng vốn thấp, hiệu quả của vốn được phát huy. Ngược lại, nếu một cơ cấu vốn không hợp lý như đầu tư vào các tài sản không hoặc chưa cần sử dụng với số lượng lớn sẽ làm cho nó không những không phát huy được tác dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh mà còn bị hao mòn, mất mát dần, năng suất đem lại thấp. Cơ cấu vốn tốt còn thể hiện ở tính cân đối giữa vốn cố định và vốn lưu động. Nếu một doanh nghiệp đầu tư quá nhiều vào TSCĐ, có thể dẫn đến tình trạng gây lãng phí do không sử dụng hết công suất. Còn nếu doanh nghiệp đầu tư quá nhiều vào tài sản lưu động thi có thể dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn, thiếu vốn cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Do đó, việc bố trí một cách cân đối giữa tài sản cố định và tài sản lưu động là một vấn đề hết sức quan trọng. Cơ cấu này có thể khác nhau giữa các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và các doanh nghiệp thương mại tuỳ theo từng ngành, từng lĩnh vực kinh doanh mà mỗi doanh nghiệp nên bố trí cho mình một cơ cấu vốn hợp lý nhằm đạt được hiệu quả một cách cao nhất. Việc xác định nhu cầu về vốn cũng thực sự cần thiết đối với doanh nghiệp. Thiếu vốn hoặc thừa vốn trong giai đoạn sản xuất kinh doanh đều có ảnh hưởng không tốt đến kết quả sản xuất kinh doanh cũng như hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Cùng với việc xác định nhu cầu vốn thiếu chính xác là việc sử dụng vốn một cách lãng phí nhất là vốn lưu động trong quá trình mua sắm, dự trữ như : mua vật tư không phù hợp với quy trình sản xuất, không đúng tiêu._. chuẩn kỹ thuật và chất lượng quy định, không tận dụng hết các loại phế liệu, phế phẩm. Những vấn đề này cũng gây ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp. Trình độ quản lý, tổ chức sản xuất của doanh nghiệp : Trình độ quản lý của doanh nghiệp cũng quyết định đến tình hình sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp. Nếu trình độ quản lý còn yếu kém, sẽ dẫn đến tình trạng hoạt động thua lỗ kéo dài, dẫn đến thâm hụt vào vốn kinh doanh sau mỗi chu kỳ sản xuất. Để có hiệu quả cao thì mỗi doanh nghiệp cần phải có một bộ phận quản lý tổ chức riêng cho mình, phải phù hợp với từng loại hình sản xuất, phải diễn ra nhịp nhàng, ăn khớp, chi phí quản lý thấp . Bên cạnh đó phải có sự phân công hợp lý, không ngừng nâng cao tay nghề cho cán bộ quản lý cũng như công nhân viên bằng cách tổ chức các lớp học hoặc gửi đi đào tạo,... Chu kỳ sản xuất kinh doanh : Đây là đặc điểm quan trọng gắn liền với hiệu quả sử dụng vốn. Cụ thể, nếu chu kỳ sản xuất kinh doanh ngắn, vòng quay vốn nhanh, doanh nghiệp sẽ thu hồi vốn nhanh nhằm tái tạo mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh. Ngược lại, nếu chu kỳ kéo dài sẽ là một gánh nặng gây ứ đọng vốn, tăng các khoản lãi vay phải trả, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc điểm về sản phẩm : Sản phẩm chứa đựng yếu tố chi phí cũng như đem lại doanh thu cho doanh nghiệp. Do đó, nó quyết định đến lợi nhuận đạt được của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp sản xuất những sản phẩm thông dụng, chi phí đầu tư không cao, dễ mua sắm đổi mới thiết bị dây truyền công nghệ, dễ dàng tiêu thụ cạnh tranh trên thị trường thì hiệu quả sử dụng vốn sẽ cao hơn so với những sản phẩm đòi hỏi công nghệ sản xuất phức tạp, chi phí đầu tư lớn, thị trường tiêu thụ hẹp. Trên đây là một số nguyên nhân ảnh hưởng đến công tác tổ chức và sử dụng vốn hiệu quả trong doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần phải nghiên cứu xem xét kỹ lưỡng thận trọng từng nguyên nhân để hạn chế đến mức thấp nhất những hậu quả xấu có thể xảy ra, đảm bảo huy động vốn kịp thời chi nhu cầu sản xuất kinh doanh đồng thời không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. 3- Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp. Nhằm cung ứng đầy đủ, kịp thời vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh và không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, các doanh nghiệp cần thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau : Xác định chính xác nhu cầu về vốn, đặc biệt là vốn lưu động tối thiểu cần thiết cho doanh nghiệp, từ đó đưa ra kế hoạch tổ chức huy động vốn đáp ứng cho hoạt động của doanh nghiệp, hạn chế tình trạng thiếu vốn gây gián đoạn sản xuất,, đồng thời doanh nghiệp cần phải có những biện pháp xử lý kịp thời tránh tình trạng ứ đọng vốn, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Lựa chọn các hình thức thu hút vốn phù hợp, tổ chức khai thác triệt để có hiệu quả nguồn vốn bên trong của doanh nghiệp, vừa đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, vừa giảm được chi phí sử dụng vốn vay. Tránh tình trạng vốn tồn đọng dưới dạng vật tư, hàng hoá không cần sử dụng, kém phẩm chất,...mà doanh nghiệp phải đi vay với lãi suất cao để duy trì sản xuất, chịu sự giám sát của chủ nợ làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trước khi quyết định đầu tư, doanh nghiệp cần cân nhắc kỹ nguồn tài trợ vốn đầu tư, quy trình công nghệ, tình hình cung ứng vật tư và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Để đảm bảo chi phí sử dụng vốn đầu tư là thấp nhất, xem xét quyết định đầu tư ảnh hưởng như thế nào đến kết cấu sản xuất vốn kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng tốt hay xấu đến công tác tổ chức và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Đối với vốn cố định, phải quản lý chặt chẽ và sử dụng triệt để tài sản cố định hiện có vào sản xuất kinh doanh để có thể tăng thời gian làm việc hữu ích của tài sản cố định hoặc tăng sản lượng và tỷ trọng TSCĐ đang hoạt động trong cơ cấu tài sản hiện có của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ theo chiều sâu bằng cách tiến hành hoàn chỉnh kỹ thuật sản xuất và hiện đại hoá TSCĐ. Lựa chọn các phương pháp tính khấu hao và mức khấu hao thích hợp. Thường xuyên đánh giá lại tài TSCĐ giúp bộ phận quản lý nắm bắt được tình hình biến động của vốn cố định và từ đó có các biện pháp điều chỉnh cho thích hợp. Ngoài ra, công ty cần có phương án thanh lý tài sản hoạt động có hiệu quả,... Đối với vốn lưu động, cần lựa chọn đơn vị cung ứng, tạo quan hệ tốt nhằm giảm bớt lượng nguyên vật liệu tồn kho và đi trên đường. Tính toán, cung cấp đầy đủ số lượng nguyên vật liệu cần thiết cho sản xuất, giải quyết kịp thời những Nguyên vật liệu ứ đọng để thu hồi vốn. Tổ chức tốt quá trình sản xuất và đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm có chất lượng tốt, giá thành hạ, đồng thời mở rộng được thị trường tiêu thụ, hạn chế sản phẩm tồn kho, tăng nhanh vòng quay của vốn lưu động. Làm tốt công tác thanh toán nợ, chủ động phòng ngừa rủi ro kinh doanh. Doanh nghiệp cần chủ động thanh toán các khoản công nợ, thanh toán tiền hàng, hạn chế tình trạng bán hàng không thu được tiền, vốn bị chiếm dụng khiến cho khi phát sinh nhu cầu vốn, doanh nghiệp phải đi vay ngoài kế hoạch, làm phát sinh chi phí,... Doanh nghiệp cần phải mua bảo hiểm, lập quỹ dự phòng tài chính,.. để có thể bù đắp lượng vốn bị thiếu hụt, mất mát khi xảy ra rủi ro. Phát huy tích cực vai trò của công tác quản lý tài chính trong việc quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp ở tất cả các khâu trong quá trình sản xuất, sử dụng vốn một cách linh hoạt để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Trên đây là một số biện pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh việc tổ chức và sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung. Trong thực tế, do đặc điểm khác nhau giữa các doanh nghiệp trong từng ngành, từng lĩnh vực cũng như trong toàn bộ nền kinh tế, nên mỗi doanh nghiệp cần căn cứ vào đặc điểm của mình để đưa ra các phương hướng, biện pháp cụ thể để nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Phần II Thực tế tổ chức và công tác bảo toàn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Xí nghiệp in I - TTXVN khái quát chung về Xí nghiệp 1.1- Quá trình hình thành và phát triển Hiện nay nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Các doanh nghiệp được thành lập dưới nhiều dạng khác nhau: doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp hợp doanh.v.v. Đối với Xí nghiệp in thông I TTXVN là một đơn kinh tế được thành lập theo quyết định số 67/TTXVN . Tiền thân là tổ in typo của TTXVN, có tru sở tại số 3 Phan Huy Chú. Tới tháng 9/1983 tổ in typo trở thành xí nghiệp in, lúc này được trang bị thêm một máy in offset của Tiệp. Với sự phát triển mạnh của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường cơ sự điều tiết vĩ mô của nhà nước, các thành phần kinh tế đua nhau phát triển. Cùng với các quy luật cạnh tranh, tác động và chi phối mạnh mẽ tới sự tồn tại, phát triển của mỗi doanh nghiệp. Để tồn tại, đứng vững và phát được trong điều kiện chạnh tranh không liệt này, tử năm 1989 -1991, Xí nghiệp In I- TTXVN đã đầu tư thêm một số máy in OFFSET hiện đại khổ nhỏ của Nhật phục vụ cho việc in ấn các sản phẩm cao cấp như : nhãn mác hàng hoá, sách, báo, văn hoá phẩm. Từ đây, Xí nghiệp đã định hướng phát triển đó là chuyển toàn bộ công nghệ in Typo sang công nghệ in OFFSET, có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu của thị trường, tạo ra được nhiều sản phẩm có chất lượng cao, phất triển và mở rộng sản xuất, có tích luỹ cao và đảm bảo được đời sông cho hơn 100 cán bộ công nhân viên trong Xi nghiệp. Từ năm 1991 -1994 Xí nghiệp lần lượt trang bị thêm các máy móc thiệt bị hiện đại có tính năng tác dụng cao như: Máy in hai màu, máy xén ba mặt .v.v dần đưa vào dây truyền sản xuất; đồng thời tiến hành sửa chữa , keo dài thời gian sử dụng đối với máy móc cũ, dần ổn định dây chuyền công nghệ, ổn định mặt hàng sản xuất. Hàng năm Xí nghiệp đều có tổ chức học tập, đào tạo, đào tạo lại để nâng cao tay nghề cho công nhân trực tiếp sử dụng máy móc thiết bị nhằm nâng cao năng suất lao động và sử dụng tối đa công suất máy móc. Đến nay, tuy số công nhân sản xuất không tăng song sản lượng năm sau cao hơn năm trước: trước đây, năng suất của Xí nghiệp chỉ đạt 500- 800 triệu trang in một năm; nay số lượng trang in đã được nâng lên trên 1 tỷ trang in một năm, vơi công suất khoảng 8000-12000 trang trong một giờ Năm 1993, theo quyết định số 75/QĐ ngày 10/3/1993 của TTXVN, Xí nghiệp In I -TTXVN là một doanh nghiệp Nhà nước sản xuất kinh doanh hạch toán độc lập, có tư cách pháp nhân, có tài khoản riêng ở ngân hàng và hoạt động theo phương thực quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa. Là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc quản lý của TTXVN 1.2- Cơ cấu tổ chức sản xuất, tổ chức bộ máy của Xí nghiệp. 1.2.1- Cơ cấu tổ chức sản xuất Hiện nay, Xí nghiệp in I TTXVN tổ chức bộ máy quản lý theo mô hình trực tuyến tham mưu, đứng đầu là giám đốc, dưới có một phó giám đốc, một kế toán tưởng, các phòng ban và phân xưởng. Các phòng ban Các phân xưởng Phòng kế hoạch sản xuất 1. Phân xưởng in I Phòng hành chính tổ chức 2. Phân xưởng in II Phòng tài vụ 3. Phân xưởng chế bản phòng vi tính 4. Phân xưởng sửa chữa cơ điện Đối với mỗi doanh nghiệp sản xuất, qui trình công nghệ sản xuất là nhân tố cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới công tác tổ chức bộ máy quản lý nói chung và công tác tổ chức quản lý tài chính nói riêng. Do vậy cần phải xem xét qui trình công nghệ in mà xí nghiệp đang sử dụng. Sản phẩm của xí nghiệp là sản phẩm được sản xuất trên công nghệ in OFFSET. Qui trình công nghệ in OFFSET phải trải qua nhiều công đoạn: đầu tiên la công tác chuẩn bị các yếu tố cần thiết cho quá trình sản xuất khép kín va lần lượt thực hiện các giai đoạn sau: - Giai đoạn chế bản: bộ phận chế bản la khâu quan trọng trong qui trình công nghệ in được thực hiện ở phân xưởng chế bản. Các bản thảo, mẫu mã do khách hàng đưa đến theo hợp đồng đã ký kết đước đưa vào bộ phận sắp xếp theo một trình tự nhất định rồi được chuyển tới bộ phận sửa - chụp phin - bình bản để tao nên các tờ in theo từng tiêu chuẩn kỹ thuật và chuyển đến cho bộ phận phơi bản để hiện hình( ăn mòn) trên bản nhôm. - Giai đoạn in: Các bản nhôm trên sau khi đi kiểm tra với đầy đủ tiêu chuẩn kỹ thuật được chuyển cho bộ phận máy in để tiến hành in ra các tờ in theo yêu cầu. - Giai đoạn gia công: Các tờ in sau đó chuyển đến bộ phận gia công biến thành sản phẩm in hoàn chỉnh và giao trả khách hàng. Các giai đoạn này có thể khái quát thành sơ đồ 1 Sơ đồ 1: sơ đồ cơ cấu tổ chức sản xuất của xí nghiệp Phơi bản in Khách ký HĐ Phòng kế phiếu Phân hàng đặt hàng hoạch sản SX xưởng KCS xuất in I;II gia công thành phẩm Giao hàng Nhập kho phòng tiêu thụ Công nghệ in OFFSET qua nghiên cưu ở trên là một qua trình sản xuất dây chuyền khép kín bao gồm nhiều giai đoạn liên tục, kế tiếp nhau nên xí nghiệp đã tổ chức bộ máy của mình thành các phân xưởng riêng biệt, mỗi phân xưởng đảm nhận một khâu trong quá trình khép kín đó. Đứng đầu mỗi phân xưởng là quản đốc, hướng dẫn kiểm tra các hoạt động sản xuất diễn ra trong phân xưởng của mình sao cho hoàn thành tốt các chỉ tiêu kế hoạch sản xuất doanh nghiệp giao phó trên cơ sở thiết bị hiện có, đồng thời phải đảm bảo an toàn lao động trong sản xuất. Ngoài các phân xưởng sản xuất chính ra còn có phân xưởng cơ điện với nhiệm vụ giám sát các bộ phận trong dây chuyền sản xuất, chấp hành đầy đủ các quy trình, quy phạm về an toàn và bảo dưỡng máy móc thiết bị và lập kế hoạch sửa chữa trang thiết bị của Xí nghiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của phó giám đốc 1.2.2- Cơ cấu tổ chức quản lý- Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban bộ máy quản lý của Xí nghiệp được tổ chức theo mô hình trực tuyến tham mưu và được khái quát theo sơ đồ sau: Sơ đồ 2: sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của xí nghiệp Giám đốc Phó giám đốc Kế toán trưởng Phòng tổng hợp Phòng PX PX PX Phòng P. vật tư PX KHSX in I in II chế bản TC-HC tiêu thụ cơ điện - Giám đốc: Người đứng đầu thay mặt cho Nhà nước quản lý Xí nghiệp theo chế độ thủ trưởng chịu trách nhiệm chung về mọi mặt hoạt động sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế trước cơ quan TTXVN - Phó giám đốc phụ trách về các khâu sản xuất của doanh nghiệp trực tiếp ở đây là phụ trách về việc in các loại báo , tạp chí, sách .v.v ngoài ra phó giám đốc còn làm tham mưu cho giám đốc quản lý các phân xưởng phòng ban thuộc trách nhiệm của mình, như thu thập và cung cấp thông tin cho giám đốc . - Phòng tài vụ gồm có bốn thành viên, với nhiệm vụ thu thập, xử lý và cung cấp đầy đủ các thông tin về tài chính và kinh tế. - Phòng tổ chức hành chính: Là phong giúp việc tham mưu cố vấn cho giám đốc về các mặt như nhân sự, cán bộ, đào tạo, lao động, tiền công bảo hiểm xã hội, an toàn lao động, bảo vệ, hành chính quản trị đời sống. - Phòng kế hoạch- sản xuất: là nơi nắm đầu vào của hoạt động sản xuất kinh doanh, có nhiệm vụ theo dõi mọi hoạt động hàng ngày dưới sự chỉ đạo của ban giám đốc có nhiệm vụ mua vào, tính toán giá trị tiêu hao vật tư các loại để phụ vụ cho sản xuất của Xí nghiệp, đảm bảo đầy đủ chính xác kịp thời các loại vật tư cho công việc in ân. - Phòng chế bản: Gồm các bộ phận như bộ phận vi tính, bộ phận bóc tách màu ( chế độ ảnh màu) - Phân xưởng in: Tại đây các hợp đồng in của Xí nghiệp được in theo như kế hoạch của bạn giám đốc Phòng CKS hoặc gọi là phòng OTK : phòng này có chức năng, nhiệm vụ là kiểm tra lại các thành phẩm sau khi in xong. Phân xưởng thành phẩm: Có nhiệm vụ gia công sản phẩm và gửi lại phòng OTK lần nữa tiếp đó sản phẩm được nhập kho Kho thi Xí nghiệp chia làm hai bộ phận: Kho vật tư và kho thành phẩm. Kho vật tư lưu giữ vật tư để phục vụ cho việc in ân, kho thành phẩm dùng để chứa thành phẩm sau khi in. Trên đây là vài nét sơ qua về chức năng, nhiệm vụ của một số phòng tại đơn vị em thực tập con dưới đây là tổ chức, công tác tại phòng tài vụ của Xí nghiệp in. 1.3- Tổ chức công tác kế toán và bộ máy tác kế toán tại Xí nghiệp In I- TTXVN Tại Xí nghiệp in I - TTXVN, công tác quản lý tài chính được tập trung hầu hết tại phòng tài vụ như : thu thập dữ liệu, kiểm tra chứng từ, các hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhiệm vụ trong phòng chủ yếu là tổ chức, hướng dẫn, kiểm tra, thực hiện toàn bộ công tác thu thập, xử lý thông tin ban đầu. Thực hiện nhiệm vụ chế độ ghi chép ban đầu, chế độ hạch toán và chế độ quản lý tài chính theo quy định chung của bộ tài chính. Từ đó cung cấp một cách đầy đủ, kịp thời, chính xác những thông tin toàn cảnh về tình hình tài chính của Xí nghiệp. Đây là căn cứ để lãnh đạo đề ra biện pháp, đường lối phát triển phù hợp của Xí nghiệp. Do quy mô hoạt động của Xí nghiệp là không lớn nên hiện nay phòng tài vụ của Xí nghiệp có 4 cán bộ với nhiệm vụ chuyên môn khá thành thạo, một người có thể đảm nhận nhiều công việc khác nhau( kế toán làm công việc gì thì kiêm luôn kế toán tổng hợp công việc đó). Tại phòng tài vụ áp dụng hình thức kế toán NKCT. Phòng tài vụ được tổ chức như sơ đồ số 3: Kế toán trưởng : Là người quản lý tài sản cố định và các quĩ của Xí nghiệp, xác định kết quả kinh doanh thông qua công cụ kế toán để quản lý. Kế toán trưởng có trách nhiệm phân loại tài sản hiện có, tính khấu hao tài sản cố định hàng tháng theo phương thức khấu hao bình quân; là người lập, giữ sổ TSCĐ của toàn Xí nghiệp, theo dõi tình hình tăng giảm TSCĐ. Ngoài ra kế toán trưởng còn theo dõi tình hình tăng giảm nguồn vốn kinh doanh, các quĩ của Xí nghiệp, cộng thêm số liệu của kế toán vật liệu gửi sang kế toán trưởng lập báo cáo kết quả kinh doanh và báo cáo tài chính theo quý và đưa lên cho giám đốc duyệt. Sơ đồ 3: Mô hình tổ chức bộ máy của phòng tài vụ Xí nghiệp in i - ttxvn Kế toán trưởng Kiêm kế toán Kế toán tổng Kết toán thanh tổng hợp, kế hợp chi phí toán, kiểm toán toán TSCĐ, tính giá thành, tiền lương, kế Thủ quỹ nguồn vốn và kế toán vật tư toán doanh thu xác định kết thành phẩm quả kinh doanh Kế toán vật liệu: là người theo dõi các công cụ dụng cụ kiểm tra, tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm. Khi vật liệu, công cụ dụng cụ mua về nhập kho, căn cứ vào hoá đơn GTGT và các chứng từ hợp lệ khác nhau đã được giám đốc và kế toán trưởng ký duyệt, người kế toán vật liệu theo dõi và quản lý bằng hình thức ghi sổ kế toán. Kế toán tiền lương: hàng tháng căn cứ vào bảng thanh toán tiền lương và sổ lương toàn Xí nghiệp do bộ phận lao động tiền lương tính toán gửi lên, kế toán tiến hàn lập bảng phân bổ tiền lương và BHXH, từ đó làm căn cứ để tính chi phi tiền lương của toàn Xí nghiệp. Kế toán doanh thu: có nhiệm vụ theo dõi các khoản thu trong ngày cuối tháng báo cáo cho kế toán trưởng. Hàng ngày khi nhận được hợp động in do phòng kế hoạch gửi lên để xuất hàng cho khách. Kế toán doanh thu tiến hành lập hoá đơn GTGT từ đó làm căn cứ ghi sổ theo dõi. Thủ quỹ : Chịu trách nhiệm về quỹ tiền mặt của Xí nghiệp. Hàng ngày, căn cứ vào các phiếu thu, chi hợp lệ thủ quỹ tiến hành nhập hoặc xuất quỹ tiền mặt, đồng thời ghi chép vào sổ quỹ tiền mặt. Sổ quỹ tiền mặt được lập trung cho cả năm, có cộng và rút số dư hàng ngày và số dư cuối tháng. Thủ quỹ là người giao dịch với ngân hàng cùng với kế toán thanh toán. Hàng tháng thủ quỹ cùng với kế toán tiền mặt đối chiếu số liệu, lập báo cáo tồn quỹ và gửi số liệu cho kế toán trưởng. 2- thực trạng về sản xuất kinh doanh trong các năm vừa qua. 2.1- Tình hình trang thiết bị cơ sở vật chất kỹ thuật. Tính đến cuối năm 2002, tổng số vốn của Xí nghiệp in I - TTXVN là 24.999.559.693(đ). Qua thời gian tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, các loại TSCĐ trong Xí nghiệp đã được thay thế đổi mới rất nhiều, nhiều loại máy móc thiết bị mới được lắp đặt. Tuy nhiên vẫn còn một số bộ phận máy móc không thể hoạt động hết công suất do đã qua sử dụng nhiều năm ( đây là bộ phận máy móc do Xí nghiệp mua lại hoặc nhập khẩu đã qua sử dụng nhiều măn) gây khá nhiều khó khăn trong việc vận hành hoạt động sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp. Xí nghiệp cũng đã áp dụng tiến bộ của khoa học vào sản xuất và quản lý bộ máy làm việc cũng như bộ máy quản lý tài chính của Xí nghiệp. Các loại máy móc thiết bị Xí nghiệp đang dùng đề là những loại máy móc thiết bị hiện đại phù hợp với yêu cầu kỹ thuật cua ngành in và đảm bảo được yêu cầu của chất lượng sản phẩm. Như máy tính Đông Nam á , máy ín OFFSET, máy xén 2, máy xén ba mặt của Wohlenberg do Đức sản xuất , máy phơi bản của Đức sản xuất, máy cuốn 4/4 nhãn hiệu Toshiba do nhật sản xuất v.v. Trong năm 2001 do Nha nước đầu tư đổi mới thiết bị một máy in cuốn và Xí nghiệp tự trang trang bị thêm một số máy móc. Để xây dựng nhà máy in mới ở Khương Đình cho nên đã phải phá bỏ hoàn toàn khu nhà kho cũ ở đó để xây dựng khu nhà in mới. 2.2- Tình hình hoạt động động kinh doanh qua một số năm. Trong thời gian qua, hoạt động sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp in I - TTXVN đã đạt được những kết quả nhất định, được biểu hiện qua biểu 1: Biểu 1 : Khái quát tình hình kế quả kinh doanh Đơn vị tính: Nghìn đồng Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 1. Doanh thu thần 10.519.680 10.737.584 11.543.788 2. Giá vốn bán hàng 9.438.391 10.010.841 10.409688 3. Lợi nhuận gộp 1.081.289 726.743 1.134.100 4. Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh 203.299 -52.053 165.757 5. Tổng lợi nhuận trước thuế 139.759 -36.711 462.118 6. Thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp 44.722 0 147.878 7. Lợi nhuận sau thuế 95.036 0 314.240 8. Thu nhập bình quân đầu người 984/1ng/1th 1.066/1ng/1th 1.220/1ng/1th Qua số liệu thu được ta có thể đánh giá tình hình Xí nghiệp trong những năm qua vẫn chưa có sự ổn định. Tuy nhiên đến năm 2002 Xí nghiệp đã khẳng định được tình hình sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp đã có xu hướng đi lên thông qua chỉ tiêu doanh thu thần và lợi nhuận trước thuế. Tổng nguồn vốn tăng lên do Xí nghiệp đầu tư thêm một số lớn máy móc các loại từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, và xây dựng nhà máy in mới ở khương đình( năm 2001), vốn vay ngân hàng và từ quỹ khấu hao của Xí nghiệp nhằm nâng cao trình độ năng lực sản xuất và mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp. Do công việc kinh doanh có hiệu quả nên mức lương bình quân của công nhân viên trong Xí nghiệp đã tăng lên đáng kể. Tuy nhiên để đạt được những kết quả trên công ty đã phải vượt qua những thách thức không nhỏ trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Cùng với sự phát triển của đất nước, nhu cầu về ngành in ngày càng được mở rộng, đòi hỏi sự đáp ứng của các nhà in không chỉ về mặt số lượng mà đặc biệt là về chất lượng in của các sản phẩm in ấn. Để đáp ứng yêu cầu của xã hội, có rất nhiều cơ sở in đã được thành lập với máy móc trang thiết bị hiện đại, tiên tiến. Điều này tạo ra sự cạch tranh gay gắt trong thi trường in ấn trên toàn quốc cung như trên địa bàn Hà Nội ( trên địa bàn Hà Nội hiện có khoảng 400 cơ sở in công nghiệp và khoảng hơn 5000 cơ sở in tư nhân, in lưới hoặc các cơ sở in sự nghiệp). Mặt khác trong cơ chế mới, Xí nghiệp in I -TTXVN phải tự tìm nguồn vốn để đầu tư vào máy móc thiết bị hiện đại bởi các loại máy cũ đã không thể đáp ứng được yêu cầu hiện đại, Xí nghiệp cũng phải tìm cách mở rộng lượng khách hàng đặt in, không chỉ in trong lĩnh vực in của TTXVN đặt in mà cò phải thu hút nhiều đối tượng khác. Với sự cố gắng nỗ lực hết mình của toàn thể các bộ công nhân viên trong toàn Xí nghiệp của những năm gần đây đã đạt được một số thành tựu đáng kể. Bằng chứng là doanh thu của Xí nghiệp không gừng tăng lên ( năm 2000 tổng doanh thu đạt hơn 10 tỷ thì đến năm 2002 đã tăng lên gần 12 tỷ đồng, tăng gần 20% so với năm 2000). Mặt khác do Xí nghiệp chỉ sản xuất theo đơn đặt hàng, ngoài việc in chủ yếu cho hãng thông tấn xã Viết Nam ra Xí nghiệp ít tiếp cận với thị trường nên Xí nghiệp cũng đã tìm các biện pháp mới để thu hút khách hàng như tham gia đấu thầu, hay công việc nghiên cứu kỹ các hợp đồng in để có thể hoàn thành tốt công việc trong hợp đồng. Sản phẩm làm ra của Xí nghiệp không chỉ đạt về mặt kỹ thuật mà còn phải cả về mặt mĩ thuật. Xí nghiệp cũng đã thu hút được một số lượng khách hàng thường xuyên như: Tạp chí gia đình ngày nay, báo tuổi trẻ, báo diễn đàn doanh nghiệp v.v Một trong những thuận lợi của Xí nghiệp là được phép in độc quyền cho Thông tấn xã Việt Nam như các ấn phẩm tin tức và các tài liệu tham khảo v.v phục vụ Chính Phủ, đây chính là đơn đặt hàng lớn nhất và ổn định nhất trong nhiều năm qua. Qua tình hình thực tế Xí nghiệp in I - TTXVN đã có những bước chuyển biến khá tích cực. Biểu hiện cụ thể qua chỉ tiêu lợi nhuận, chỉ tiêu quan trọng nhất trong hoạt động của Xí nghiệp : lợi nhuận sau thuế của năm 2001 vẫn cò âm do Xí nghiệp đang tăng cường chi phí để đầu tư xây dựng mới nhà in để mở rộng sản xuất, tạo cơ hội mới trong sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp, thì đến năm 2002 chỉ sau đó có một năm lợi nhận sau thuế của Xí nghiệp 314.240.236 (đ) ngay trong dai đoạn Xí nghiệp vẫn còn đang xây dựng khu nha in mới ở Khương Đình. Tuy mức lợi nhuận của Xí nghiệp năm 2001 là âm nhưng mức lương cho công nhân viên trong Xí nghiệp vẫn được đảm bảo điều này là động lực để cho Xí nghiệp tiếp tục hoạt động và không lâm vào tình thế đình chệ trong sản xuất do công nhân thiếu lương hoặc được nhận mức lương quá thấp lên bị bóc lột sức lao động. Nhưng cũng chỉ sau đó có một năm Xí nghiệp đã có doanh thu và bên cạnh đó là lương của công nhân viên trong Xí nghiệp cũng được tăng lên từ mức 1.066 nghìn đồng lên 1.220 nghìn đồng. Để xem xét kỹ hơn hoạt động của Xí nghiệp ta cần đi sâu tìm hiểu các nguyên nhân đã dẫn đến sự thúc đẩy quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong những năm gần đây: Thứ nhất : Do trên thị trường đã suất hiện nhiều loại giấy có chất lượng tốt, với sự cạnh tranh về giá thành ngày càng khốc liệt do đó nguồn vật liệu chính là giấy ( nguyên liệu đầu vào của Xí nghiệp ) có chi phí giảm dần. Mặt khác Xí nghiệp có một trung tâm kỹ thuật chế bản, nên đáp ứng được hầu hết các yêu cầu về kỹ thuật của khách hàng nên khách hàng cảm thấy thuận tiện hơn trong khi ký hợp đồng, trong khâu chế bản Xí nghiệp cũng tiết kiệm được thời gian trong khâu chế bản từ đó tạo điều kiện có thể giao hàng nhanh cho khách Thứ hai : Đội ngũ lao động trong công ty phân lớn còn trẻ, khoẻ và nhiệt tình hăng hái trong công việc đang dần được tiếp thu các công nghệ in mới. Mặt khác sự đảm bảo về mặt vật chất tinh thần của công nhân viên ngày càng tăng (mức lương bình quân liên tục tăng trong vài năm gần đây), cùng với việc chăm sóc chu đáo của ban lãnh đạo Xí nghiệp đã tạo ra không khi hưng phấn, hăng say lao động sản xuất của toàn bộ công nhân viên trong Xí nghiệp. Thứ ba : Do có sự đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp như: tăng cường công tác nâng cao chất lượng sản phẩm đầu tư máy móc mới để nâng cao công suất in của máy cũng như áp dụng thành quả khoa học vào công việc in của Xí nghiệp. Hơn nữa sự hiên đại hoá hệ thống máy móc, nâng cao khả năng đảm bảo về mặt chất lượng sảm phẩm đã tạo được liềm tin cho khách hàng điều đó làm tăng thêm nhiêu đơn đặt hàng cho Xí nghiệp. Do đó mà lợi nhuận của Xí nghiệp ngày càng tăng qua các năm. Tuy nhiên Xí nghiệp cũng gặp phải một số kho khăn đòi hỏi cần biện pháp thích hợp để giải quyết kịp thời: Thứ nhất : Việc quản lý vật liệu, công cụ dụng cụ tại kho là chưa tốt gây ra tình trạng chất lượng vật tư hàng hoá không đảm bảo cho quá trình sản xuất. Hơn lữa Xí nghiệp thường xuyên sử dụng một lượng giấy khá lớn trong khi đó Xí nghiệp vẫn dự trữ một lượng giấy không nhiều điều này có thể gây khó khăn cho sản xuất khi thị trường nguyên liệu giấy trở nên hiếm và có biến động. Điều đó có thể gây tình trạng không đủ giấy và lam chậm tiến độ sản xuất, ảnh hưởng tới thời gian giao hàng cho khách hàng. Điều này có thể gây khó khăn cho sản xuất khi thị trường nguyên liệu giấy trở nên hiếm và có biến động. Điều đó có thể gây tình trạng không đủ giấy và làm chậm tiến độ sản xuất, ảnh hưởng tới thời gian giao hàng cho khách hàng. Thứ hai : Hiệu quả sử dụng vốn cố định của Xí nghiệp là chưa cao do các loại máy móc tuy mới nhập về nhưng lại không đồng bộ, việc đánh giá giá trị thực của máy khi mua về là chưa chính xác dẫn đến việc tính khâu hao chưa phản ánh đúng được giá trị hao mòn của máy trong thời gian sử dụng. Thứ ba : Các khoản phải thu của Xí nghiệp có xu hướng tăng nên, điều này làm vốn của Xí nghiệp bị chiếm dụng. Tổng các khoản phải thu của Xí nghiệp đầu năm 2002là 2.305,2 triệu đồng và tới cuối năm các khoản phải thu của Xí nghiệp đã tăng lên 2.314,1 triệu đồng. Điều này làm cho vốn của Xí nghiệp bị ứ đọng và vốn đưa vào lưu thông được ít, vì vậy đây là vấn đề hiện thời đòi hỏi có biện pháp giải quyết kịp thời. Trên đây là một vài nét sơ lược về tình hình hoạt động của Xí nghiệp in I - TTXVN qua một số năm. Mặc dù cò gặp nhiều khó khăn nhưng không thể phủ nhận những kết quả đạt được của Xí nghiệp. Đó là tăng cường mở rộng sản xuất, đầu tư thêm máy móc thiết bị hiện đại, đổi mới dây chuyền san xuất theo chiều sâu, dần nâng cao trình độ tay nghề và đời sống của người lao động v.v đó là những điều kiện cơ bản để thực hiện quá trình bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh tại Xí nghiệp. Còn sau đâu là tình hình quản lý sử dụng và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Xí nghiệp in I - TTXVN 3- tình hình quả lý sử dụng và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Xí nghiệp in I - TTXVN 3.1- Tình hình huy động vốn và hiệu quả sử dụng vốn của Xí nghiệp in I - TTXVN Tổng số vốn của Xí nghiệp in I - TTXVN tính đến ngày 31 /12 / 2002 là 24.999.559.693 đồng giảm 4% so với đầu năm trong đó vốn lưu động 6.809.453.070 đồng chiếm 27,24% trong tổng số vốn của Xí nghiệp, còn vốn cố định 18.190.106.622 đồng chiếm 82,76%. Biểu2 : Phân tích cơ cấu vốn qua các năm Đơn vị : Triệu đồng Chỉ tiêu Cuối năm 2000 Cuối năm 2001 Cuối năm 2002 Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng 1. vốn lưu động 4.379 39,05% 5.795 22,56% 6.809 27,24% 2. Vốn cố định 6.835 60,95% 19.888 77,44% 18.190 82.76% Tổng cộng 11.214 100% 25.683 100% 24.999 100% * Về tình hình huy động vốn kinh doanh của Xí nghiệp in I - TTXVN : Nguồn vốn của Xí nghiệp hình thành chủ yếu từ các nguồn sau: - Từ ngân sách nhà nước - Từ nguồn vay ngân hàng - Vốn tự bổ sung Là một Xí nghiệp thuộc sự quản lý của TTXVN với mục tiêu chủ yếu là in các ấn phẩm phục vụ cho công tác chính trị của Chính phủ, Xí nghiệp in thường xuyên được sự hỗ trợ về vốn kinh doanh của Ngân sách Nhà nước cũng như TTXVN trong quá trình hoạt động. Trong năm 2000 Xí nghiệp đã trình dự án mở rộng quy mô sản suất, đầu tư vào TSCĐ và được chấp thuận với tổng số vốn ngần 17 tỷ đồng và đã được cấp vào năm 2001. Sau khi được cấp Xí nghiệp đã tiến hàn xây dựng khu nhà in mới ở Khương Đình, nên Xí nghiệp đã phải phá bỏ hoàn toàn khu nhà kho cũ để xây dựng nhà máy in mới. Nguồn vốn của Xí nghiệp còn hình thành từ nguồn vay nợ ngân hàng. Tính đến ngày 31/ 12/ 2002 nguồn vay ngắn hạn của Xí nghiệp là 1165,3 triệu đồng chiếm 4,7% tổng nguồn vốn và nợ dài hạn 210 triệu đồng chiếm 0,84% tổng nguồn vốn của Xí nghiệp. Như vậy với nguồn vay nợ của Xí nghiệp là không đáng kể trong tổng nguồn vốn của Xí nghiệp. Biểu 3 : Tình hình tăng giảm vốn chủ sở hữu năm 2002 Đơn vị : Nghìn đồng Chỉ tiêu Số đầu kỳ Tăng trong kỳ Giảm trong kỳ Số cuối kỳ I. Nguồn vốn kinh doanh 1. Ngân sách nhà nước 2. Tự bổ sung Vốn liên doanh vốn cổ phần II. Các quỹ Quỹ phát triển kinh doanh Quý dự trữ Quỹ khen thưởng Quý trợ cấp 21.947 19.627 2.317 610.365 520.123 77.888 12.354 21.947 19.627 2.317 610.365 520.123 77.888 12.354 Tổng cộng 22.557 22.557 Ngoài ra hàng năm Xí nghiệp còn tự bổ sung một lượng vốn từ lợi nhuận để lại Xí nghiệp tiến hành đầu tư một số TSCĐ từ quỹ khấu hao của Xí nghiệp. Tình hình tăng giảm vốn chủ sở hữu của Xí nghiệp cụ thể như biểu 3: * Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của công ty : Trong năm 2002 số vòng quay tổng vốn kinh doanh đã tăng đáng kể so với năm 2001( 1.01 so với 0,99 . Điều này chứng tỏ sự quan tâm của Xí nghiệp đến công tác quản lý và sử dụng vốn tột hơn năm 2001, sự đóng góp của một đồng vốn trong việc tạo ra một đồng doanh thu trong quá trình luân chuyển vốn đã tăng. Mặc dù doanh thu thu._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33561.doc