Tài liệu Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường EU: LỜI NÓI ĐẦU
Đất nước ta được thiên nhiên ưu đãi có một mạng lưới sông ngòi dày đặc và một bờ biển dài với những loài thuỷ sản phong phú và có giá trị cao. Chính vì vậy mà ngành thuỷ sản xuất khẩu của nước ta rất phát triển, mỗi năm đóng góp rất lớn cho nền kinh tế. Do đó, thị trường xuất khẩu là một vấn đề rất quan trọng, ảnh hưởng rất lớn tới kim ngạch xuất khẩu của ngành. Trong các thị trường xuất khẩu, EU là một thị trường rất tiềm năng với kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam hằng năm ... Ebook Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường EU
49 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1363 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chỉ đứng thứ hai sau thị trường Nhật Bản. Nhưng hiện nay, xuất khẩu sang thị trường EU đang gặp rất nhiều khó khăn do EU là một thị trường khó tính, đòi hỏi cao về chất lượng, mà vấn đề này đang là một thách thức đối với các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam. Do vậy em đã chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường EU” làm đề tài cho đề án của mình.
Đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam.
Chương II: Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường EU
Chương III: Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường EU.
Chương I: TỔNG QUAN VỀ XUẤT KHẨU THUỶ SẢN CỦA VIỆT NAM
Đặc điểm hàng thuỷ sản và xu hướng tiêu dùng của thế giới
Đặc điểm hàng thuỷ sản
Thuỷ sản là nguồn thực phẩm quan trọng đối với cuộc sống của chúng ta bởi hàng thuỷ sản có những đặc điểm sau:
Hàng thuỷ sản được ưa chuộng: Đối với thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, hàng thuỷ sản là một trong những mặt hàng thực phẩm được ưa thích tiêu dùng. Ngành thuỷ sản cung cấp những sản phẩm quý cho tiêu dùng dân cư, là nguyên liệu để phát triển các ngành khác như công nghiệp chế biến,… Mặt khác, theo kết quả nghiên cứu của các chuyên gia đã khẳng định: hầu hết các loại sản phẩm thuỷ sản đều là các loại thực phẩm dễ tiêu hoá, giàu chất đạm, phù hợp với mọi lứa tuổi, ít gây bệnh về tim mạch, béo phì và ung thư. Về thành phần dinh dưỡng, so với các loại sản phẩm hàng thuỷ sản có ít chất mỡ, nhiều chất khoáng và chất đạm cũng cao.
thịt bò
Cá thu
Cá mối
Cá Hồng
đạm
16,2– 19,2%
18,6%
16,4%
11,8%
mỡ
11 – 28%
0,4%
1,6 – 2,3%
5,9%
chất khoáng
0,8 – 1,0%
1,2%
1,2%
1,4%
Hàng thuỷ sản có giá trị xuất khẩu cao: các mặt hàng thuỷ sản, đặc biệt là sản phẩm đã được chế biến có giá bán cao hơn hàng tươi sống và sơ chế, đem lại giá trị gia tăng cho các nhà xuất khẩu nhờ vào chất lượng cao và phù hợp với thị hiếu đa dạng, phong phú của người tiêu dùng trong nước cũng như thế giới, có ưu thế là giải quyết được nhiều vấn đề về việc làm, đồng thời thu được nguồn ngoại tệ đáng kể cho đất nước, đặc biệt đối với các nước có khí hậu nhiệt đới ẩm với mạng lưới sông ngòi dày đặc như Việt Nam. Như vậy, thúc đẩy xuất khẩu hàng thuỷ sản sẽ có những đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng của toàn ngành nông, ngư nhiệp.
Quá trình sản xuất hàng thuỷ sản phải gắn liền với khâu chế biến và hàng tiêu thụ: thuỷ sản là hàng tươi sống, trong thời gian ngắn nhanh hư hỏng, như vậy cần bảo quản tốt việc sơ chế và chế biến. Như vậy, các thuyền đánh bắt xa bờ phải trang bị công nghệ hiện đại phù hợp với hàng thuỷ sản để đảm bảo độ tươi của hàng thuỷ sản thực sự là vấn đề cấp bách để hàng thuỷ sản có đủ điều kiện xuất khẩu, đảm bảo chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho hàng xuất khẩu.
Việc khai thác và nuôi trồng thuỷ sản phân tán: việc điều kiện địa lý, khí hậu phù hợp, tiềm năng về biển. Việt Nam có 3260 km bờ biển từ Móng Cái đến Hà Tiên, trải qua 13 vĩ độ, từ 8o23' bắc đến 21o39' bắc. Diện tích vùng nội thuỷ và lãnh hải của Việt Nam rộng 226.000 km2, độ sâu trung bình 1.140 m và vùng biển đặc quyền kinh tế trên 1 triệu km2, rộng gấp 3 lần diện tích đất liền. Việt Nam còn có một mạng lưới sông ngòi dày đặc trong đất liền và ngoài bờ biển có trên 4000 hòn đảo lớn nhỏ trong đó có những hòn đảo có nhiều dân cư như Vân Đồn, Cát Bà, Phú Quốc... Bên cạnh đó khí hậu của Việt Nam là khí hậu nhiệt đới, ẩm ướt quanh năm thích hợp cho nhiều nguồn sinh vật nói chung và nhiều loài thủy sản nói riêng tồn tại và phát triển. Vì vậy, nhà nước cần quan tâm đến việc xây dựng và thực hiện việc quy hoạch phát triển ngành thuỷ sản từ khâu khai thác, nuôi trồng, khai thác đến việc chế biến và tiêu thụ, kể cả tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
Sản phẩm thuỷ sản có tính thời vụ: tính thời vụ là đặc trưng của việc nuôi trồng thuỷ sản, bởi nước ta nằm trong vành đai nhiệt đới Bắc bán cầu và chịu ảnh hưởng của gió mùa châu Á, nên về mùa đông, nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất ở Bắc Bộ từ 13 – 17oC, ở Nam Bộ nhiệt độ từ 25 – 27oC. Ngược lại trong thời kỳ gió mùa xích đạo, nhiệt độ cao và phân bổ đồng đều trong cả nước. Biên độ nhiệt trong năm chênh lệch nhiều giữa hai miền Nam - Bắc, ảnh hưởng nhiều đến việc nuôi trồng thuỷ sản và đánh bắt thuỷ hải sản. Vì thế mùa đông lạnh của miền Bắc không thể nuôi trồng thuỷ sản nên hàng trái vụ thì giá cao còn hàng chính vụ không tiêu thụ được do đặc điểm của khâu chế biến thuỷ sản đánh bắt được phải chế biến nhanh.
Xu hướng tiêu dùng của thế giới
Thuỷ sản được đánh giá là nguồn thực phẩm quan trọng đối với con người. Hàng thuỷ sản chứa nhiều khoáng chất và ít lượng chất béo, rất tốt cho sức khoẻ. Ngày nay, trước sự bận rộn của công việc và vai trò ngoài xã hội, việc giảm thời gian dành cho nấu nướng là xu hướng tất yếu của người phụ nữ. Xu hướng tiêu thụ hiện nay là loại thực phẩm không tốn nhiều thời gian chế biến. Thuỷ sản cũng là một trong các sản phẩm đó. Thuỷ sản tươi sống rất dễ bị hư hỏng và thời gian bảo quản cũng không dài, gây bất lợi cho xuất khẩu. Bên cạnh đó, việc chế biến thuỷ sản tươi sống mất rất nhiều thời gian, không còn phù hợp với những người quá bận rộn. Rất nhiều người nội trợ đã chọn mua những loại thực phẩm chế biến sẵn. Hiện nay, chỉ tính riêng mặt hàng mực, tính sơ sơ đã có: mực hấp, mực cắt khoanh, râu mực, mực ống nguyên con, mực nhồi thịt, chả mực thìa là... Ngay như cá, nếu trước kia các nhà sản xuất thường để cả con, bán cân, thì nay cá được cắt thành từng khúc, chế biến theo nhu cầu, mục đích của người mua, như các loại: đầu cá hồi làm sạch, basa cắt khúc, basa filê, basa cuộn lá chanh, basa kho tộ, điêu hồng filê, cá thu cắt khúc…
Do quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá con người luôn tất bật với công việc nên thời gian vào bếp rất ít, cộng với việc thuỷ sản dễ bị hư hỏng. Vì vậy xu hướng tiêu dùng hàng thuỷ sản đã chế biến tăng lên. Chính việc đưa ra nhiều mặt hàng tiện dụng có giá trị gia tăng cao, giúp cho người phụ nữ ngày nay bớt dần áp lực, vất vả trong việc bếp núc, đang và sẽ tạo nên nhu cầu tiêu thụ rất lớn.
Các doanh nghiệp hiện nay cũng đang chuyển sang chế biến sẵn các mặt hàng thuỷ sản phục vụ cho người tiêu dùng. Chỉ tính với Việt Nam thị trường thực phẩm chế biến, sơ chế vài năm gần đây đang có tốc độ phát triển từ 20- 40% mỗi năm. Do vậy ngành công nghiệp chế biến lại có cơ hội phát triển, giải quyết được nhiều vấn đề về lao động, tận dụng được hết giá trị sử dụng của mặt hàng, lợi nhuận cao.
Bên cạnh việc xu hướng tiêu dùng các loại sản phẩm chế biến sẵn, người tiêu cùng cũng có xu hướng mua các loại sản phẩm đã qua sơ chế như các loại cắt khúc, mực làm sẵn để giảm thời gian vào bếp. Chính vì vậy các loại thuỷ sản đã qua sơ chế cũng rất được ưa chuộng.
Các loại thuỷ sản có mùi vị trung tính, dễ dàng kết hợp với các món ăn khác cũng được tiêu thụ nhiều như các loại tôm, các động vật thân mềm.
Đặc điểm của thị trường EU
EU là một trong 3 thị trường xuất nhập khẩu thuỷ sản lớn nhất thế giưói cùng với Nhật Bản và Mỹ. Đặc điểm nổi bật của hoạt động thương mại thuỷ sản của các nước EU là kinh doanh xuất nhập khẩu thuỷ sản chủ yếu được diễn ra trong nội bộ các nước thành viên của khối(83%). EU chỉ xuất khẩu một tỉ lệ nhỏ sản phẩm sang Nhật Bản, Thụy Sĩ, một phần nhỏ sang Mỹ và một số thị trường khác.
Sản lượng xuất khẩu thủy sản của EU
Tên nước
1990
1995
2000
2003
2004
EU-25
5.649.497
6.090.814
6.262.869
EU-15
3.474.905
4.709.596
5.320.027
5.659.320
5.818.816
Ailen
183.367
295.154
217.497
261.445
255.520
Anh
367.122
431.806
397.022
500.650
495.144
Áo
627
4.602
3.863
10.114
12.316
Bỉ
123.141
147.698
168.468
Bồ Đào Nha
96.205
104.247
98.735
117.069
116.470
Đan Mạch
767.164
1.262.550
1.216.172
1.198.442
1.178.373
Đức
360.392
505.806
568.101
550.076
568.606
Hà Lan
783.310
806.707
808.858
957.175
1.038.053
Hy Lạp
15.066
35.382
83.632
93.465
96.704
Italy
97.383
128.275
141.660
126.220
128.918
Lucxămbua
5.268
2.627
2.094
Pháp
354.877
391.469
485.950
488.566
516.038
Phần Lan
3.298
11.794
16.300
10.540
18.903
Tây Ban Nha
280.125
480.292
841.431
884.610
864.513
Thuỵ Điển
110.508
175.169
312.397
310.624
358.698
Các thành viên mới của EU
Ba Lan
103.016
110.893
104.470
Extônia
89.569
118.863
102.774
Hungary
6.594
4.928
8.323
Latvia
15.073
67.208
74.505
Litva
5.268
2.627
2.094
Manta
2.084
3.395
1.470
Séc
12.630
13.887
15.352
Síp
736
566
2.567
Xlovenia
2.520
2.237
3.042
Xlovakia
641
866
431
(Nguồn: eurostat)
· Bảng: Giá trị xuất khẩu thủy sản của EU
(đơn vị tính: triệu ECU/EUR )
Tên nước
1990
1995
2000
2003
2004
EU-25
12.863
13.962
14.191
EU-15
6.262
8.092
12.442
13.335
13.461
Ailen
204
275
332
384
385
Anh
718
880
1.180
1.305
1.327
Áo
2
14
9
30
36
Bỉ
546
686
719
Bồ Đào Nha
232
225
319
337
344
Đan Mạch
1.708
2.201
2.842
2.799
2.776
Đức
445
652
1.126
1.093
1.050
Hà Lan
1.055
1.194
1.697
2.058
1.979
Hy lạp
70
139
326
310
331
Italy
192
279
422
420
428
Luxămbua
25
20
19
Phần Lan
12
18
17
12
11
Pháp
764
775
1.231
1.214
1.242
Tây Ban Nha
542
954
1.857
2.041
2.070
Thuỵ điển
136
199
511
628
744
Các thành viên mới của EU
Ba Lan
216
271
356
Extônia
81
112
95
Hungary
10
9
6
Latvia
33
66
76
Litva
27
83
104
Manta
9
32
14
Séc
30
40
45
Síp
7
4
22
Xlovenia
7
7
7
Xlovakia
2
3
4
(Nguồn eorostat
Mặt hàng chính
Các sản phẩm xuất khẩu chính là cá ngừ, cá tuyết và cá bơn tươi hoặc ướp lạnh. Năm 2004, tổng giá trị thủy sản xuất khẩu của các nước thành viên EU đạt giá trị 14 triệu EUR.
Bên cạnh cá tươi hoặc ướp lạnh, việc xuất khẩu cá cắt khúc to và các loại cá philê (tươi, ướp lạnh hay đông lạnh), cá đã chế biến hay bảo quản và các loài giáp xác cũng đóng vai trò quan trọng trong ngoại thương thủy sản của EU.
Nhập khẩu thủy sản
Tình hình chung
EU là là một trong những thị trường nhập khẩu thủy sản lớn nhất thế giới với sản lượng là 9,7 triệu tấn với giá trị 23.791 triệu EUR (số liệu năm 2004). Tây Ban Nha, Pháp, Đức, Italy và Anh là những thị trường nhập khẩu chính, giá trị nhập khẩu thủy sản hàng năm vượt 1 tỷ USD và các nước này cũng chiếm gần 80% giá trị nhập khẩu thủy sản của EU. Tuy nhiên, như trên đã trình bày, phần lớn sản phẩm thuỷ sản được nhập khẩu từ các nội bộ các nước trong khối. Ngoài ra, để bổ sung một số sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ, chủ yếu là các sản phẩm thuỷ sản nước ấm, EU cũng nhập khẩu thuỷ sản từ hơn 180 nước khác trên thế giới.
· Bảng: Sản lượng nhập khẩu của EU (đơn vị: tấn)
Tên nước
1990
1995
2000
2003
2004
EU-25
9.193.205
10.057.917
9.640.792
EU-15
6.779.497
7.575.794
8.591.529
9.454.333
9.000.378
Ailen
67.480
67.946
64.534
64.334
55.750
Anh
974.533
880.725
869.053
897.414
910.090
Áo
69.077
59.650
54.760
63.812
73.700
Bỉ
288.011
288.562
315.385
Bồ Đào Nha
224.827
287.053
338.655
371.407
348.023
Đan Mạch
640.596
926.524
1.217.350
1.617.944
1.322.191
Đức
1.151.367
1.148.082
1.169.608
1.076.138
1.017.875
Hà Lan
694.144
873.153
796.430
836.394
727.079
Hy Lạp
87.287
106.139
163.433
188.621
174.950
Italy
723.310
735.813
838.486
918.607
930.833
Luxămbua
14.197
10.049
9.357
Pháp
886.008
919.601
1.029.220
1.082.320
1.106.745
Phần Lan
114.995
107.213
89.969
93.214
102.408
Tây Ban Nha
719.218
1.005.387
1.443.906
1.657.080
1.569.960
Thuỵ Điển
161.329
154.299
213.918
288.438
336.314
Các thành viên mới của EU
Ba Lan
277.204
251.478
290.471
Extônia
41.790
44.159
38.976
Hungary
46.732
43.912
35.758
Latvia
35.135
35.057
30.382
Litva
58.288
72.921
84.611
Manta
17.113
31.031
27.014
Séc
65.321
62.145
68.192
Síp
16.047
17.506
22.835
Xlovenia
14.123
13.639
15.887
Xlovakia
29.924
26.737
26.288
(Nguồn: eurostat)
Theo số liệu thống kê sơ bộ, sản lượng thủy sản nhập khẩu tiếp tục giảm trong năm 2005 so với năm 2004.
· Bảng : Giá trị nhập khẩu của của EU
(đơn vị tính: triệu ECU/EUR)
Tên nước
1990
1995
2000
2003
2004
EU-25
22.645
24.182
23.791
EU-15
12.524
14.791
21.969
23.411
22.918
Ailen
80
76
124
109
111
Anh
1.056
1.517
2.383
2.245
2.284
Áo
119
146
179
216
242
Ba Lan
282 354
242 770
Bỉ
1.138
1.226
1.243
Bồ Đào Nha
479
604
963
1.009
1.017
Đan Mạch
921
1.278
1.942
1.929
1.851
Đức
1.506
1.950
2.560
2.420
2.246
Hà Lan
665
949
1.372
1.587
1.483
Hy lạp
166
181
356
Italy
1.963
1.918
2.812
3.219
3.146
Luxămbua
77
68
67
Phần Lan
109
94
132
162
166
Pháp
2.298
2.497
3.329
3.427
3.402
Tây Ban Nha
1.762
2.362
3.831
4.452
4.216
Thuỵ Điển
355
418
771
931
1.053
Các thành viên mới của EU
Ba Lan
329
344
417
Extônia
23
46
47
Hungary
40
50
42
Latvia
25
28
30
Litva
58
84
98
Manta
22
28
26
Séc
83
91
94
Síp
32
33
42
Xlovenia
30
34
41
Xlovakia
33
33
35
(Nguồn trích: eurostat)
Mặt hàng thủy sản nhập khẩu
Nhập khẩu thủy sản của một số nước thành viên EU
ü Anh
Tuy có điều kiện thuận lợi trong việc đánh bắt hải sản (chiếm tới 1/5 sản lượng hải sản của EU), nhưng Anh vẫn phải nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu trong nước. Nhập khẩu tôm của Anh không lớn so với cá do thói quen tiêu dùng của người Anh là thích ăn các loại cá đã qua chế biến (như cá rán, cá viên,…), mặt hàng tôm chủ yếu để phục vụ cộng đồng người châu Á sinh sống ở Anh, được nhập khẩu từ Ailen (chiếm khoảng 22% kim ngạch nhập khẩu), Bănglađét (14,4%), Ấn Độ (13,4%), Đan Mạch (8%), ….
ü Đức
Hằng năm, lượng tôm nhập khẩu vào Đức đáp ứng khoảng 2/3 nhu cầu thị trường nội địa thông qua hệ thống nhập khẩu của trên 150 công ty vào 7 chuỗi siêu thị lớn, 10 ngàn nhà bán lẻ và gần 1 ngàn nhà hàng lớn nhỏ. Tôm nhập khẩu vào Đức khá đa dạng về chủng loại từ trên 80 nước, trong đó chủ yếu từ Banglađét, Ấn Độ, Bỉ, Anh, Inđônêxia,… Nhập khẩu tôm nước ấm vào Đức dưới dạng đông lạnh (không đầu, bóc vỏ hoặc cả vỏ) và các dạng chế biến chín sẽ tiếp tục gia tăng trong thời gian tới do ngày càng có nhiều hộ gia đình ở Đức ăn thuỷ sản và tôm. Tôm cũng là mặt hàng được tiêu thụ mạnh ở hệ thống các nhà hàng tại Đức hiện nay.
ü Hy lạp
Theo thống kê gần đây nước cung cấp thủy sản cho Hy Lạp nhiều nhất là Đan Mạch với 32.700 tấn, Italy 14.900 tấn, Hà Lan 12.400 tấn. Nhập khẩu từ Đan Mạch chủ yếu gồm bột cá làm thức ăn chăn nuôi.
ü Italy
Tổng sản lượng thủy sản của Italy chỉ vào khoảng 0,6 triệu tấn/năm, trong khi với 57 triệu người và hàng chục triệu khách du lịch, Italy phải nhập khẩu hàng năm từ 0,9-1 triệu tấn thủy sản. Italy là nước nhập khẩu thủy sản lớn thứ 5 thế giới và thứ 3 của EU. Giá trị nhập khẩu thủy sản của Italy đạt kỷ lục là 2,8 tỷ USD năm 1998 và giảm xuống 2,54 tỷ USD năm 2000 (giảm 9,5%); năm 2001 đạt 2,72 tỷ USD, tăng 7,3% so với năm 2000; năm 2002 đạt 2,9 tỷ USD, tăng 7,0% so với năm 2001. Giá trị nhập khẩu của Italy ổn định trong năm 2003 (3.219 triệu EUR) và năm 2004 (3.149 triệu EUR). Thị trường nhập khẩu thủy sản của Italy hầu như ít biến động trong nhiều năm qua. Giá trị nhập khẩu thủy sản năm 2000 chiếm 10,5% giá trị nhập khẩu lương thực thực phẩm và 1,1% tổng giá trị nhập khẩu của Italy.
Các mặt hàng nhập khẩu chính của Italy là cá ngừ đóng hộp, mực đông lạnh, tôm và cá philê đông lạnh. Các nước cung cấp chủ yếu các sản phẩm này cho Italy là Thái Lan, Achentina, Êcuađo, Đan Mạch, Ấn Độ,…..
ü Pháp
Hiện nay, Pháp là nước nhập khẩu thủy sản lớn thứ tư thế giới và thứ nhì trong khối EU. Giá trị nhập khẩu thủy sản hàng năm chiếm 11,5% giá trị nhập khẩu lương thực thực phẩm và 1% tổng giá trị nhập khẩu của Pháp. Có 3 nhóm sản phẩm thủy sản nhập khẩu chính của thị trường Pháp là cá tươi và cá, giáp xác, nhuyễn thể đông lạnh; và thủy sản đóng hộp, thủy sản tẩm bột,... Trong các mặt hàng nhập khẩu thì cá philê đông lạnh chiếm tỷ trọng lớn nhất, tiếp theo là tôm đông lạnh. Tiêu thụ tôm của Pháp phụ thuộc chủ yếu vào nguồn nhập khẩu. Hàng năm, Pháp nhập khẩu trên dưới 600 triệu euro tôm các loại, chiếm 20% trong tổng số 3,21 tỷ euro kim ngạch nhập khẩu thuỷ sản của nước này. Pháp nhập khẩu khá nhiều chủng loại tôm khác nhau, lớn nhất là tôm đông lạnh thuộc họ Penaeus, từ 10 thị trường chủ yếu, trong đó đáng lưu ý là Mađagasca, Braxin, Hà Lan,…
Hai mặt hàng cá philê đông lạnh và tôm đông lạnh chiếm gần 26% giá trị nhập khẩu thủy sản của Pháp năm 2000. Song nhập khẩu đang có xu hướng giảm.
Bảng : Giá trị nhập khẩu hai sản phẩm thủy sản chính của Pháp
(Đơn vị: triệu đôla)
Sản phẩm
2000
2001
2002
Cá đông lạnh
428
442
451
Tôm đông lạnh
410
417
406
(Tạp chí Seafood, số 2/2002)
ü Tây Ban Nha
Tây Ban Nha là nước nhập khẩu thủy sản lớn thứ ba thế giới, đứng đầu EU. Năm 2000, giá trị nhập khẩu là 3,35 tỷ USD, tăng 24,5% so với mức năm 1991, nhưng còn kém mức kỷ lục 3,5 tỷ USD năm 1997; năm 2001đạt 3,71 tỷ USD, tăng 10,7% so với năm 2000 và năm 2002 đạt 3,85 tỷ USD, tăng 3,77% so với năm 2001. Giá trị nhập khẩu của Tây Ban Nha bằng 16,8% giá trị nhập khẩu thủy sản toàn EU. Tây Ban Nha nhập khẩu chủ yếu là các sản phẩm tôm đông lạnh, cá tươi và đông lạnh, nhuyễn thể, cá hun khói và cá đóng hộp. Tôm đông lạnh là sản phẩm chính với sản lượng cao nhất hàng năm đạt 9,0 đến 9,6 tấn.
Các thị trường nhập khẩu chính của Tây Ban Nha là Trung Quốc, Achentina, Colombia, Ấn Độ, Thái Lan và Malaixia,….
Bảng : Giá trị nhập tôm đông lạnh của Tây Ban Nha (2000-2002)
(Đơn vị: triệu đôla)
Năm
2000
2001
2002
Giá trị
596
611
608
(Nguồn: Seafood số.4, 2002)
Nhóm các thành viên EU ở Bắc Âu
Các nước thành viên EU thuộc Bắc Âu đều có biển, nguồn hải sản tương đối phong phú, có nghề đánh bắt hải sản truyền thống nên có thế mạnh về xuất khẩu hải sản (trong đó có tôm, nhất là các loại tôm nước lạnh). Nhập khẩu tôm của các nước này chủ yếu có tính chất bổ sung chủng loại cho nhau giữa các nước trong khu vực. Nhập khẩu từ khu vực châu Á không lớn do sức tiêu thụ của các nước này khá thấp (do dân số ít, khách du lịch đến Bắc Âu không đông và người dân không có tập quán ăn nhiều hải sản)
Xuất khẩu thuỷ sản và cơ cấu sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam
Hoạt động xuất khẩu thuỷ sản
Đặc điểm của thị trường sản phẩm thuỷ sản
Là một thị trường đa dạng và đa cấp thị trường
Thuỷ sản là một ngành sản xuất nông nghiệp chuyên môn hoá hẹp, sản xuất nhiều loại thuỷ sản như: các loại cá, tôm các loại, nhuyễn thể các loại và các loại thuỷ hải sản. Mặt khác, nhờ môi trường điều kiện rất thuận lợi cho việc phát triển ngành thuỷ sản với nhiều loại phong phú trên các thuỷ vực nước ngọt, nước lợ, nước mặn bao gồm cả việc nuôi trồng, khai thác và đánh bắt. Các loại sản phẩm thuỷ sản đa dạng về số lượng cũng như hình thức chế biến.
Cũng giống như các thị trường hàng hoá khác, thị trường thuỷ sản bao gồm nhiều cấp: cấp cơ sở, cấp địa phương, cấp trong nước và cấp nước ngoài.
Thị trường sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu nước ta những năm gần đây rất phát triển và sôi động. Các sản phẩm thuỷ sản chiếm được vị thế cao trên thị trường thế giới, nhất là EU, Mỹ, Nhật… và kim ngạch tăng liên tục. Như vậy thuỷ sản của Việt Nam có vị thế khá cao trong thương mại thuỷ sản thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh việc tạo được chỗ đứng trên các thị trường tiềm năng thì thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam cũng gặp phải rất nhiều khó khăn mà khó khăn lớn nhất là đáp ứng được chất lượng của sản phẩm khi xuất khẩu. Thị trường Nhật Bản và EU là hai thị trường khó tính nhất của thuỷ sản Việt Nam. Đối với thị trường EU, tỷ lệ Thị trường sản phẩm thuỷ sản nước ta vừa mang tính phân tán rộng lại vừa có tính tập trung quy mô lớn.
Thị trường sản phẩm thuỷ sản phát triển không đồng đều giữa các vùng và giữa các khu vực trong cả nước.
Quan hệ cung - cầu sản phẩm thuỷ sản trên thị trường từng bước ổn định hơn.
Cơ cấu sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu
(nguồn: trung tâm tin học, Bộ Thuỷ Sản)
Từ nhiều năm nay, các mặt hàng thủy sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vẫn là tôm, cá tra, cá biển, nhuyễn thể, các loại thủy sản đông lạnh và các loại thủy sản khô. Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu của nước ta ngày càng bổ sung thêm các mặt hàng có giá trị như cá ngừ, nghêu và một số đặc sản khác.
Con tôm đang được phát triển nuôi rất rầm rộ trên toàn thế giới, sản lượng tôm ngày càng tăng, đến nay theo ước tính có thể đạt gần 3 triệu tấn, thỏa mãn tương đối tốt nhu cầu tiêu thụ chung của thế giới.
Trong bối cảnh nguồn cung dồi dào, con tôm có thể nói là mặt hàng cạnh tranh gay gắt nhất trong các mặt hàng thuỷ sản thương mại trên thế giới, con tôm Việt Nam đã phải nỗ lực rất nhiều để duy trì tiềm năng xuất khẩu. 9 tháng đầu năm 2007, xuất khẩu tôm đạt gần 112 nghìn tấn, trị giá trên 1,067 tỷ USD, chỉ tăng rất nhẹ 1,2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2006. Xuất khẩu tôm vẫn giữ vị trí là mặt hàng xuất khẩu số một, chiếm 39,4% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản của nước ta. Xuất khẩu tôm tăng trưởng nhẹ là kết quả của nhiều yếu tố như sản lượng tôm nguyên liệu trong nước không tăng, giá tôm nguyên liệu luôn giữ mức cao so với nhiều nước sản xuất tôm trong khu vực và giá thành sản xuất nói chung tăng. Xu hướng của nhiều doanh nghiệp chế biến hiện nay là tăng tỷ trọng sản phẩm tôm giá trị gia tăng, phù hợp với nhu cầu của các thị trường lớn như Nhật và Mỹ.
Vị trí mặt hàng xuất khẩu lớn thứ 2 là cá tra. Mấy năm gần đây con cá tra thể hiện rõ tiềm năng to lớn trên vùng sông nước Đồng bằng sông Cửu Long, tạo nên sức tăng trưởng nhảy vọt của xuất khẩu thủy sản Việt Nam. 9 tháng đầu năm 2007, xuất khẩu cá tra đạt trên 272,7 nghìn tấn, trị giá trên trên 709 triệu USD, tăng khá mạnh 37,2 % về giá trị so với cùng kỳ năm 2006. xuất khẩu cá tra chiếm 26,2% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản. Hiện nay, EU, Đông Âu và một số nước Bắc Mỹ vẫn có nhu cầu cao đối với philê cá tra đông lạnh, đây là sự thay thế thích hợp cho philê cá thịt trắng hiện đang sụt giảm dần sản lượng trên phạm vi toàn thế giới. Vì vậy, kết hợp với tiềm năng công suất nuôi đang tăng mạnh trong nước, giá nguyên liệu đang ở mức vừa hợp lý, xuất khẩu cá tra sẽ tiếp tục lập kỷ lục mới trong những năm tiếp theo.
Xuất khẩu cá ngừ cũng đạt được tiến bộ lớn, đạt trên 39,2 nghìn tấn, trị giá trên trên 111 triệu USD, với sức tăng trưởng khá cao 27,8% so với cùng kỳ năm 2006. Đơn giá của cá ngừ đại dương khá cao, vì vậy đây cũng là đối tượng sản phẩm thu hút sự đầu tư phát triển của các ngư dân và doanh nghiệp chế biến xuất khẩu.
Một điểm đáng chú ý và lạc quan trong tình hình thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam là mặt hàng mực và bạch tuộc đông lạnh đạt mức tăng trưởng có thể nói là cao nhất trong mấy năm gần đây với 35,5% cao hơn về giá trị so với cùng năm ngoái, đạt 60,4 nghìn tấn, trị giá 205,5 triệu USD, chiếm 7,7% tổng xuất khẩu thuỷ sản của nước ta. Xuất khẩu mặt hàng này đạt được kết quả khả quan một phần là nhờ sản lượng khai thác trong vài năm gần đây đã cải thiện lên khá nhiều.
Xuất khẩu cá các loại là mảng hàng hóa quan trọng luôn giữ mức tăng trưởng khá. Tính đến tháng 9 năm 2007, xuất khẩu cá đạt trên 85 nghìn tấn, trị giá gần 249,1 triệu USD, tăng 17,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2006. Dự đoán, xuất khẩu cá các loại sẽ tiếp tục nhịp độ tiến triển như trong thời gian qua.
Bên cạnh các mặt hàng chủ lực, xuất khẩu hàng khô và hải sản khác chỉ tăng ở mức khiêm tốn về giá trị và có giảm nhẹ về khối lượng. Tuy nhiên, tổng xuất khẩu của các mặt hàng này cũng chiếm một phần đáng kể trong toàn bộ giá trị xuất khẩu của thuỷ sản Việt Nam với giá trị trên 365,6 triệu USD.
Chương II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU
Thị trường thuỷ sản EU
Xu hướng tiêu dùng ở EU
Hiện nay EU là thị trường rộng lớn, gồm 27 quốc gia. Thị trường EU tổng hợp nhiều đặc điểm tiêu dùng của mỗi quốc gia làm cho nhu cầu tiêu dùng hết sức phong phú mang đặc điểm của từng vùng lãnh thổ.
Về mặt hàng tiêu thụ
Các sản phẩm chế biến được tiêu thụ phổ biến ở EU gồm các mặt hàng tươi, cắt khúc, luộc, tẩm bột, đóng hộp hay hun khói. Thị trường EU chia thành hai khu vực chính: Các nước Tây Bắc Âu và các nước Địa Trung Hải. Các nước Tây Bắc Âu ưa chuộng các loài nước lạnh (cá trích, cá thu, cá minh thái, cá bơn, cá hồi). Khu vực Địa Trung Hải ưa chuộng nhuyễn thể chân đầu, nhuyễn thể hai mảnh vỏ và cá tuyết. Cá ngừ, cá hồi, cá bơn và tôm là loài thủy sản được ưa chuộng ở khắp châu Âu.
Về xu hướng tiêu thụ
EU là khu vực chủ yếu nhập khẩu ròng thủy hải sản do sản lượng sản xuất không đáp ứng đủ nhu cầu. Tiêu thụ thủy hải sản bình quân đầu người ở EU rất cao, đứng thứ hai thế giới sau Nhật Bản. Tổng mức tiêu thụ ở thị trường EU mỗi năm vào khoảng 10 triệu tấn, bằng 12% tổng mức tiêu thụ của thế giới. Tây Ban Nha, Pháp, Italia là những thị trường tiêu thụ hải sản lớn nhất ở châu Âu.
Nếu như ở Pháp loại cá tươi và cá phi lê được bán nhiều hơn cá nguyên con thì ở Ba Lan lại chuộng loại mặt hàng này hơn. Đặc biệt người Pháp còn ưa chuộng các loại động vật thân mềm, đặc biệt là hến. Ở thị trường Đức, đến 90% các sản phẩm thủy hải sản tiêu thụ lại là cá. Những động vật có vỏ (trai, sò, tôm, cua…) lại không được tiêu thụ mạnh. Không giống như các nước ở khu vực Địa Trung Hải, hầu hết người tiêu dùng ở Đức quan tâm đến những sản phẩm thủy hải sản được bảo quản và chế biến sẵn. Ở Tây Ban Nha, cá tươi là mặt hàng tiêu thụ nhiều nhất. Tuy nhiên động vật thân mềm, loài giáp xác (tôm, cua) và đặc biệt là mực ống cũng được người tiêu dùng ưa chuộng. Ở Italia, phần lớn hải sản được bán dưới dạng tươi hoặc ướp lạnh, động vật thân mềm đặc biệt phổ biến. Italia cũng là một thị trường quan trọng đối với mực phủ, hiện nay sức tiêu thụ tôm càng và hến có mức tăng trưởng đáng kể.
Người tiêu dùng châu Âu đang chuyển hướng mạnh sang tiêu thụ tôm biển loại nhỏ và tôm pandan nước ấm. Xu hướng này có thể nhận thấy ở hầu hết các nước châu Âu, ngoại trừ Đức. Hiện nay một số loài cá đang được tiêu thụ rất mạnh ở châu Âu như cá tra, cá basa của Việt Nam và cá rô Sông Nile với khối lượng tăng lên nhanh chóng. Những loài thủy hải sản mới này được người tiêu dùng châu Âu ưa chuộng do có mùi vị trung tính và giá thấp.
Hướng tới các sản phẩm có lợi cho sức khoẻ: Người tiêu dùng ngày càng thích ứng với dạng sản phẩm an toàn. Họ thích các sản phẩm ít béo và có giá trị dinh dưỡng cao. Thuỷ sản có hàm lượng prôtêin, các vitamin và chất khoáng cao thích hợp cho nhu cầu này. Ngoài ra, các sản phẩm thuỷ sản có chất lượng thường đóng vai trò chống lại các nguy cơ về sức khoẻ. Một trong những trường hợp rõ nét nhất là dầu cá, được biết đến như axít béo Ômega - 3 có tác dụng tích cực trong việc phòng tránh các bệnh tim mạch. Tuy nhiên, thuỷ sản không chỉ hoàn toàn có lợi cho sức khoẻ. Chẳng hạn, một số cảnh báo chính thức đã được đưa ra cho người tiêu dùng, đặc biệt là phụ nữ mang thai cần phải hạn chế một số loài thuỷ sản như cá ngừ và cá kiếm vì hàm lượng thuỷ ngân quá cao. Bên cạnh đó, việc sử dụng các chất kháng sinh trong nuôi tôm và cá đã dẫn đến hàm lượng các chất này trong các sản phẩm cao, ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của thuỷ sản.
Hướng tới sự thuận tiện: Trong những thập kỷ gần đây, thời gian dành cho mua sắm và chế biến món ăn đã bị rút ngắn. Vai trò của phụ nữ trong xã hội ngày càng tăng, nhiều hộ gia đình bận rộn với công việc. Vì vậy, nhu cầu về các sản phẩm tiêu dùng và dễ chế biến sẵn cũng tăng lên. Với xu hướng này thì các sản phẩm thuỷ sản dường như phù hợp hơn cả vì chúng được chế biến dễ dàng và nhanh chóng. Một số dạng sản phẩm thích nghi với xu hướng này như :
Phi lê cá: nhiều người tiêu dùng muốn mua sản phẩm làm sẵn.
Ðóng gói theo khẩu phần ăn: tiện lợi hơn khi chia khẩu phần.
Ðã qua sơ chế: để giảm thời gian nấu.
Dễ dàng chế biến và nấu: giảm thời gian nấu.
Mùi vị trung tính: dễ dàng kết hợp với các món khác.
Về mức tiêu thụ.
Tiêu thụ thuỷ sản theo đầu người của EU-15 rất cao với 26,3 kg/người năm 2002, cao hơn 10 kg so với mức trung bình của thế giới (16,3 kg/người) và cao hơn mức tiêu thụ thuỷ sản bình quân ở Mỹ (21,3 kg /người), Song tiêu thụ thuỷ sản của các nước trong khối EU rất khác nhau. Các nước vùng Ðịa Trung Hải và Xcăngđinavơ là những nước tiêu thụ thuỷ sản chính. Tây Ban Nha và đặc biệt là Bồ Ðào Nha có mức tiêu thụ theo đầu người cao nhất. Tây Ban Nha là nước đông dân cư và cũng là một thị trường quan trọng đối với các sản phẩm thuỷ sản. Tiêu thụ thuỷ sản ở Pháp đạt trên mức trung bình của EU, đứng sau Tây Ban Nha. Ðức và Áo là hai nước xếp sau cùng về mức tiêu thụ thuỷ sản với 14,9 kg và 14,7 kg. Các nước khu vực trung tâm châu Âu có truyền thống tiêu thụ ít thuỷ sản hơn.
Đối với yếu tố giá: khoảng 2 năm trở lại đây, một số nước (Hà Lan, Anh và Pháp) đã trải qua thời kỳ gọi là chiến tranh về giá giữa các nhà bán lẻ. Ðức luôn được xem là thị trường quan tâm tới giá cả. Giá cả tăng khiến người tiêu dùng chuyển sang tiêu thụ các sản phẩm có giá thấp hơn. Trong môi trường cạnh tranh, nhu cầu cho các sản phẩm đơn giản và giá rẻ được thể hiện rõ nét và thành công của các sản phẩm cá vược sông Nile, cá rô phi và cá tra, ba sa của Việt Nam. Những loài này thường có giá rất hấp dẫn
Bên cạnh đó, người tiêu dùng EU có xu hướng tiêu dùng có trách nhiệm với xã hội: Với tư cách là những công dân, người tiêu dùng ở những nước châu Âu thể hiện mối quan tâm của mình về các hoạt động liên quan đến môi trường và xã hội của các công ty sản xuất thực phẩm. Những người này thường thúc ép chính phủ và các công ty quan tâm đến các vấn đề này. Một số vấn đề họ quan tâm đến nhiều nhất là:
Sự khai thác quá mức các ngư trường, sự suy thoái trữ lượng thuỷ sản và sự cạnh tranh giữa các hoạt động khai thác và bảo tồn thiên nhiên.
Các vấn đề về vệ sinh và môi trường khi nuôi như sử dụng kháng sinh, ô nhiễm nguồn nước, sử dụng cá làm thức ăn động vật.
Các khía cạnh xã hội trong nuôi trồng và khai thác như vấn đề về giới, vị thế của các nhà sản xuất thủ công.
Phân đoạn thị trường
Trên thị trường EU hình thành 3 nhóm tiêu dùng chính. Nhóm có khả năng thanh toán cao chiếm 20% dân số nên xu hướng tiêu dùng của nhóm này là thích những hàng hoá có chất lượng tốt, hiếm. nhóm có khả năng thanh toán trung bình chiếm 68% dân số nên xu hướng ti._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12600.doc