Một số giải pháp nhằm thúc đẩy
Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam
Lời mở đầu
Kể từ sau Đại hội đảng lần thứ 6 năm 1986, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xác định nền kinh tế Việt Nam chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Đây là bước mở đường cho kinh tế nước ta hội nhập vào nền kinh tế khu vực cũng như thế giới. Do đó việc tìm ra các giải pháp cụ thể cho sự phát triển của các Ngành kinh tế của Việt Nam nói chung và Ngành T
38 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1323 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
huỷ Sản nói riêng là một yêu cầu rất quan trọng.
Trước năm 1980, Ngành Thuỷ Sản về cơ bản vẫn là một ngành kinh tế tự cấp tự túc thiên về khai thác những tiềm năng sẵn có của thiên nhiên theo kiểu “hái, lượm”: Cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung kéo dài, tiêu thụ theo cách giao nộp sản phẩm đã khiến chúng ta đánh giá thành tích theo tấn tạ bất kể giá trị, tiêu diệt tính hàng hoá của sản phẩm. Điều đó đã dẫn tới sự suy kiệt các động lực thúc đẩy xuất khẩu, đưa ngành đến bờ vực suy thoái vào cuối những năm 70.
Từ năm 1980 đến nay, được mở đầu bằng chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu và thử nghiệm cơ chế “tự cân đối, tự trang trải” mà thực chất là chú trọng nâng cao giá trị sản phẩm làm tạo ra nhằm tạo nguồn đầu tư để tái sản xuất mở rộng đã tạo ra động lực mới cho sự phát triển. Ngành Thuỷ Sản có thể coi là một ngành tiên phong trong quá trình đổi mới, chuyển hướng sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Trong quá trình đó, từ những nghề sản xuất nhỏ bé ngành đã có vị trí xứng đáng và đến năm 1993 đã được Đảng và Nhà Nước chính thức xác định là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Qua 20 năm phát triển, tổng sản lượng của ngành đã tăng gấp 3 lần, giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng 87 lần.
Xuất khẩu thuỷ sản một trong những hoạt động quan trọng của đât nước và Ngành thuỷ sản. Để góp phần giúp Ngành Thuỷ Sản ngày càng phát triển, vươn xa ra các nước trên thế giới, đề án này xin đề cập đến một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng thuỷ sản Việt Nam. Do điều kiện và khả năng có hạn, đề án của em còn rất nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý và giúp đỡ của thày cô.
Em xin chân thành cảm ơn.
Phần I
Một số vấn đề cơ bản về xuất khẩu và
vai trò của xuất khẩu thuỷ sản đối với Việt Nam
I – Khái Niệm, các hình thức và vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân
1 – Khái niệm
Xuất khẩu là một trong những hình thức kinh doanh quan trọng nhất, nó phản ánh quan hệ thương mại, buôn bán giữa các quốc gia trong phạm vi khu vực và thế giới. Cùng với hình thức kinh doanh nhập khẩu, hình thức kinh doanh xuất khẩu thường là hoạt động kinh tế quốc tế cơ bản của một quốc gia, nó là “chiếc chìa khoá” mở ra những giao dịch kinh tế quốc tế cho một quốc gia, tạo ra nguồn thu chi ngoại tệ chủ yếu của một nước khi tham gia vào các hoạt động kinh tế quốc tế.
Kinh doanh xuất khẩu cũng chính là một hoạt động kinh doanh quốc tế đầu tiên của một doanh nghiệp. Hoạt động này được tiếp tục ngay cả khi doanh nghiệp đã đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh của mình.
Kinh doanh xuất khẩu thường diễn ra các hình thức sau: Xuất khẩu hàng hoá hữu hình, hàng hoá vô hình (dịch vụ); xuất khẩu trực tiếp do chính các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu đảm nhận; xuất khẩu gián tiếp (hay uỷ thác) do các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, tổ chức kinh doanh trung gian đảm nhận. Gắn liền với xuất khẩu hàng hoá hữu hình, ngày nay xuất khẩu dịch vụ rất phát triển.
2 – Vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân
- Xuất khẩu khai thác hiệu quả lợi thế tuyệt đối, tương đối của đất nước và kích thích các ngành kinh tế phát triển góp phần tăng tích luỹ vốn, mở rộng sản xuất, tăng thu nhập cho nền kinh tế, cải thiện từng bước đời sống nhân dân
- Xuất khẩu góp phần không nhỏ vào giải quyết công ăn việc làm cho người lao động đồng thời tác động tích cực đến trình độ tay nghề cũng như nhận thức về công việc của công nhân làm hàng xuất khẩu.
- Xuất khẩu cho phép tập trung năng lực sản xuất cho những mặt hàng truyền thống được thế giới ưa chuộng hay những mặt hàng tận dụng được những nguyên liệu có sẵn trong nước hay nước khác không làm được hoặc làm được nhưng giá thành cao.
- Thông qua hoạt động xuất khẩu đã thúc đẩy phát triển quan hệ đối ngoại với tất cả các nước nhất là với các nước trong hu vực Đông Nam á, nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường Quốc tế.
II - các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu
1- Khả năng của doanh nghiệp
Khả năng của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu là tổng hợp sức mạnh từ các nguồn lực hiện có và có thể huy động của doanh nghiệp. Khả năng này được thể hiện thông qua nguồn nhân lực, khả năng tài chính, năng lực sản xuất, kinh nghiệm sản xuất, uy tín của doanh nghiệp trên thị trường.... Trong những nhân tố này có nhân tố có thể đo lường được nhưng cũng có những nhân tố không thể đo lường được
Trước tiên khả năng của doanh nghiệp được thể hiện ở nguồn nhân lực. Không gì có thể phủ nhận vai trò đặc biệt quan trọng của con người trong quá trình sản xuất. Nguồn nhân lực là tài sản vô cùng quý báu, là yếu tố then chốt quyết định sự thành công của doanh nghiệp trong hiện tại và tương lai. Bên cạnh đó, với một ban quản lý, lãnh đạo và điều hành giàu kinh nghiệm, doanh nghiệp sẽ xác định được cho mình những bước đi đúng đắn, tiết kiệm chi phí, nâng cao năng suất lao động, phát huy tối đa các nguồn lực ... mang lại hiệu quả kinh tế cao cho doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp phải làm tốt từ công tác tuyển chọn, bố trí các công việc hợp lý cho từng lao động, có chính sách khuyến khích lao động, chế độ đãi ngộ thoả đáng... Không một doanh nghiệp nào có thể thành công mà không có một đội ngũ lao động có trình độ tay nghề tốt, nhiệt tình với công việc.
Thứ hai là khả năng tài chính của doanh nghiệp. Đây là một trong những vấn đề gây nhiều khó khăn cho các nhà quản lý trong việc hoạch định các đường lối, chính sách. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, năng lực tài chính biểu hiện cho sự giàu có của một doanh nghiệp. Nguồn tài chính hùng hậu sẽ trở thành chỗ dựa vững chắc cho sự phát triển của doanh nghiệp. Tài chính được coi là phương tiện, vũ khí sắc bén giúp doanh nghiệp đương đầu với các đối thủ cạnh tranh. Nếu không có nguồn tài chính vững vàng, doanh nghiệp sẽ rất dễ bị các đối thủ hùng mạnh hơn thôn tính hoặc phải tự rút lui khỏi thị trường.
Một doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu thì không những phải có nguồn nhân lực tốt, khả năng tài chính vững vàng mà còn cần có cả khả năng sản xuất, kinh nghiệm sản xuất kinh doanh và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Khả năng sản xuất được biểu hiện qua năng lực sản xuất, trình độ công nghệ, tay nghề của người lao động... Năng lực sản xuất thể hiện khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường của doanh nghiệp. Với công nghệ tiên tiến, hiện đại doanh nghiệp sẽ sản xuất được những sản phẩm chất lượng cao, tính năng ưu việt cung cấp cho thị trường. Kinh nghiệm sản xuất kinh doanh giúp doanh nghiệp dự báo được nhu cầu thị trường trong từng thời điểm từ đó giúp doanh nghiệp có thể chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tránh tình trạng sản xuất tràn lan trong khi nhu cầu của thị trường không nhiều, gây tồn kho quá nhiều sản phẩm, ứ đọng vốn. Uy tín của doanh nghiệp trên thị trường sẽ quyết định sản lượng hàng bán của doanh nghiệp. Nhìn chung các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam chưa tạo dựng được uy tín tốt đối với khách hàng vì nhiều lý do khách quan nên nhiều khi bị đối tác nước ngoài với kinh nghiệm dày dặn chèn ép nhiều về gía cả và các điều kiện khác liên quan.
2 - Môi trường kinh doanh
2.1 – Môi trường luật pháp
Một trong những bộ phận của môi trường bên ngoài ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh Quốc tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng của doanh nghiệp là hệ thống luật pháp. Vì vậy, hoạt động kinh doanh xuất khẩu trước hết đòi hỏi các nhà quản lý, các nhà kinh doanh phải quan tâm và nắm vững luật pháp: luật quốc tê, luật của từng quốc gia mà doanh nghiệp đang và sẽ xuất khẩu hàng hoá của mình cũng như các mối quan hệ luật pháp tồn tại giữa các nước này và giữa các nước trong khu vực nói chung.
Mỗi quốc gia có một hệ thống pháp luật riêng để điều chỉnh các hoạt động kinh doanh quốc tế, nó gồm luật thương mại quốc tế (luật xuất nhập khẩu hàng hoá...), luật thuế, pháp luật ngân hành... Giữa các nước thường tiến hành ký kết các hiệp định, hiệp ước và dần dần hình thành nên luật khu vực và luật quốc tế. Thực tế thế giới trong những năm qua có thể khẳng định rằng chỉ trên cơ sở nắm chắc hệ thống luật pháp của từng quốc gia và các hiệp định giữa các nước mới cho phép doanh nghiệp xuất khẩu đưa ra những quyết định đúng đắn trong việc lựa chọn quốc gia, khu vực kinh doanh, mặt hàng kinh doanh... và ở đâu, cái gì là chủ yếu nhằm tăng lợi nhuận và hạn chế rủi ro.
Trên phạm vi một quốc gia, doanh nghiệp xuất khẩu muốn xâm nhập vào trước hết phải tìm hiểu hệ thống luật pháp của quốc gia đó. Các chế độ thường rơi vào một trong ba hệ thống luật pháp sau: hệ thống luật pháp theo tập quán ( thường luật), hệ thống luật dân sự (dân luật) và hệ thống luật chính trị thần quyền (giáo luật).
2.2 – Môi trường chính trị
Môi trường chính trị đang và sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh , đặc biệt là với hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Tính ổn định về chính trị của các quốc gia sẽ là một trong những nhân tố thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động trong môi trường nước ngoài. Không có sự ổn định về chính trị sẽ không có điều kiện để ổn định và phát triển kinh tế, lành mạnh hoá xã hội. Chính vì vầy khi tham gia kinh doanh trên thị trường quốc tế, các doanh nghiệp phải am hiểu môi trường chính trị ở các quốc gia, ở các nước trong khu vực mà doanh nghiệp muốn hoạt động.
Sự ổn định về chính trị được biểu hiện ở chỗ: thể chế, quan điểm chính trị được đa số nhân dân đồng tình hay không, hệ thống chính trị, đặc biệt là Đảng cầm quyền có đủ uy tín và độ tin cậy đối với nhân dân và các doanh nghiệp, công ty trong nước và nước ngoài hay không...
Trên bình diện quốc tế, các công ty thường chú ý nghiên cứu đến các hình thức khác nhau của chính phủ,tức là phải hiểu rõ xem chính phủ đó được thành lập và hoạt động theo hình thức nào, dân chủ hay chuyên chính. Chính hình thức dân chủ hay chuyên chế trong điều hành của chính phủ có ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động kinh doanh quốc tế. Nó cho phép công ty mở rộng hay thu hẹp phạm vi, mức độ hoạt động của mình trong từng môi trường khác nhau, đối với từng thị trường và đối tác khác nhau.
2.3 Môi trường kinh tế
Hoạt động trong môi trường kinh doanh quốc tế, các doanh nghiệp buộc phải có những kiến thức nhất định về kinh tế. Các kiến thức về kinh tế sẽ giúp các nhà quản lý, kinh doanh xác định được: một mặt những ảnh hưởng của doanh nghiệp đối với chính phủ nước chủ nhà và nước sở tại, mặt khác, cũng thấy được ảnh hưởng của những chính sách kinh tế đối với hoạt động của một doanh nghiệp.
Tính ổn định hay bất ổn định về kinh tế và chính sách kinh tế của một quốc gia nói riêng, của các quốc gia trong khu vực và thế giới nói chung, có tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường nước ngoài. Tính ổn định về kinh tế, trước hết và chủ yếu là ổn định nền tài chính quốc gia, ổn định tiền tệ, khống chế lạm phát. Đây là điều mà các doanh nghiệp kinh doanh rất quan tâm và ái ngại vì nó liên quan trực tiếp đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ở nước ngoài.
Hệ thống kinh tế có vai trò cực kỳ quan trọng. Nó được thiết lập nhằm phân phối tối ưu nguồn tài nguyên khan hiếm, tạo cho những người sử dụng phải cạnh tranh với nhau. Dựa trên tiêu thức phân bố các nguồn lực và cơ chế điều hành nền kinh tế, có thể phân nền kinh tế thế giới thành các nhóm nước đi theo mô hình kinh tế thị trường, kinh tế chỉ huy và kinh tế hỗn hợp.
Trong nền kinh tế thị trường, các nguồn tài nguyên được phân bố và quản lý bởi khách hàng. ở đây có hai chủ thể đóng vai trò rất quan trọng là cá nhân và doanh nghiệp trong đó cá nhân sở hữu các nguồn là tiêu dùng sản phẩm còn các doanh nghiệp lại sử dụng nguồn lực và cung cấp các sản phẩm. Chính phủ điều tiết thị trường thông qua các chính sách tài chính, dùng các loại hàng hoá, dịch vụ và tăng trưởng về cung tiền tệ. Chính phủ cũng tác động vào quá trình lưu thông hàng hóa thông qua chính sách bảo hộ mậu dịch ở các mức độ khác nhau.
Trong nền kinh tế chỉ huy tập trung, Chính phủ là người trực tiếp điều phối các hoạt động của các khu vực kinh tế khác nhau. Chính phủ xác định các mục tiêu sản xuất kinh doanh, dịch vụ, giá cả... Vì vậy, sự phản ứng và thích nghi của các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế ở môi trường này thường khó khăn đòi hỏi phải tính toán và cân nhắc để đưa ra những quyết định lựa chọn một cách thận trọng nhằm đề phòng và tránh các rủi ro không đáng có.
Trong nền kinh tế hỗn hợp, xu hướng chung là Chính phủ nên can thiệp ở mức độ giới hạn vào kinh tế thị trường. Chính phủ can thiệp vào kinh doanh bằng hai cách: một là sở hữu trực tiếp, hai là Chính phủ tác động vào việc hình thành và đưa ra các quyết định quản lý. Chính sự can thiệp của Chính phủ nhiều hay ít vào nền kinh tế tạo ra những thuận lợi, khó khăn và cơ hội kinh doanh khác nhau cho doanh nghiệp. Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp phải sớm phát hiện ra những cơ hội hoặc thách thức mới trong kinh doanh để từ đó có sự điều chỉnh các hoạt động cho thích ứng, nhằm tránh những đảo lộn lớn trong quá trình vận hành, duy trì và đạt những mục đích đã định trong kinh doanh.
2.4 Môi trường văn hoá và con người
Doanh nghiệp phải cân nhắc sự khác nhau giữa nhóm dân tộc và xã hội để dự đoán, điều hành các mối quan hệ và hoạt động của mình. Sự khác nhau về con người làm gia tăng các hoạt động kinh doanh khác nhau ở nhiều quốc gia trên thế giới. Điều đó buộc các nhà hoạt động quản lý, các nhà kinh doanh phải có sự am hiểu về văn hoá nước sở tại, văn hoá của từng khu vực trên thế giới.
Văn hoá được hiểu như một tổng thể phức tạp, bao gồm ngôn ngữ, niềm tin, nghệ tuật, đạo đức, phong tục và tất cả các khả năng mà con người có được. Văn hoá quy định hành vi của mỗi con người, thông qua mối quan hệ giữa người với người trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong môi trường văn hoá, những nhân tố nổi lên đóng vai trò cực kỳ quan trọng là tập quán, lối sống, tôn giáo và ngôn ngữ. Các nhân tố này được coi là những “hàng rào chắn” các hoạt động giao dịch kinh doanh. Môi quốc gia thậm chí trong từng vùng ở mỗi quốc gia, các dân tộc khác nhau có tập quán (sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng...) có lối sống và ngôn ngữ riêng do đó các nhà kinh doanh cần phải biết rõ và hành động như thế nào cho phù hợp với từng hoàn cảnh của môi trường mới. Thị hiếu, tập quán của người tiêu dùng còn có ảnh hưởng rất lớn đến nhu cầu, vì mặc dù hàng hoá có chất lượng tốt nhưng nếu không được người tiêu dùng ưa chuộng thì khó được họ chấp nhận. Tôn giáo cũng có liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động hàng ngày của các ca nhân và tổ chức trong xã hội. Vì vậy các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế cần phải hiểu biết các loại tôn giáo và vai trò của chúng trong xã hội nơi mà các doanh nghiệp tổ chức các hoạt động kinh doanh.
2.5 Môi trường cạnh tranh
Mỗi doanh nghiệp, mỗi ngành kinh doanh hoạt động trong môi trường và điều kiện kinh doanh không giống nhau và môi trường này luôn luôn thay đổi khi chuyển từ nước này sang nước khác. Hoạt động kinh doanh ở nước ngoài một số doanh nghiệp có khả năng nắm bắt nhanh cơ hội và biến thời cơ thuận lợi thành thắng lợi. Nhưng cũng có không ít những doanh nghiệp luôn gặp phải những khó khăn, thử thách và rủi ro cao vì phải đương đầu cạnh tranh với những công ty quốc tế có nhiều lợi thế và tiềm năng hơn.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ đã góp phần làm tăng khả năng cạnh tranh của một công ty. Sự can thiệp và giúp đỡ nhiều hay ít của một Chính phủ trong một chừng mực nhất định đã thúc đẩy hay cản trở hoạt động kinh doanh, đồng thời cũng thúc đẩy hoặc kìm hãm việc áp dụng những thành tựu của cánh mạng khoa học và công nghệ ở doanh nghiệp. Việc áp dụng có hiệu quả những thành tựu của khoa học , công nghệ tiên tiến sẽ góp phần giúp doanh nghiệp giảm bớt các rủi ro trong hoạt động kinh doanh quốc tế. Ngày nay, với bối cảnh của nền kinh tế thế giới, cạnh tranh quốc tế đang tiếp tục mở rộng và phát triển. Sự tác động mạnh mẽ của những xu hướng vận động chủ yếu của nền kinh tế thế giới đã và đang thúc đẩy hầu hết các công ty lớn của nhiều quốc gia tham gia mạnh mẽ vào hoạt động kinh doanh quốc tế.
Chính hoạt động kinh doanh quốc tế đã đẩy các công ty buộc phải đương đầu với nhiêù đối thủ cạnh tranh mới. Theo Michael Porter công ty cần quan tâm tới 5 sức mạnh bên ngoài. Đó là:
1. Những người mới đi vào sản xuất kinh doanh ở ngành đó;
2. Những người mua;
3. Những người cung cấp;
4. Những sản phẩm và dịch vụ thay thế;
5. Sự cạnh tranh của các công ty hiện tại;.
Chính sức ép cạnh tranh của các đối thủ này đối với công ty đã làm cho giá cả và các “yếu tố đầu vào” và “yếu tố đầu ra” biến động theo những xu hướng khác nhau. Tình hình này đòi hỏi công ty phải linh hoạt điều chỉnh các hoạt động của mình nhằm giảm thách thức, tăng thời cơ giành thắng lợi trong cạnh tranh. Muốn vậy, công ty cần nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường, đưa nhanh ra thị trường những sản phẩm mới chất lượng cao, mẫu mã phù hợp, giá cả hợp lý...
III – Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu
1 – Tín dụng xuất khẩu
Nhà nước hoặc tư nhân dành cho nước ngoài những khoản tín dụng để mua hàng của nước mình hay can thiệp vào lĩnh vực tín dụng mà còn tạo ra những điều kiện tín dụng xuất khẩu ưu đại hơn so với những điều kiện tín dụng ở thị trường trong nước. Điều đó làm tăng khả năng xuất khẩu. Trong những năm gần đây, tín dụng xuất khẩu thường phát triển theo những hướng sau:
- Quy mô tín dụng ngày càng tăng;
- Tăng quy mô tín dụng xuất khẩu của nhà nước;
- Tăng những tín dụng dài hạn và trung hạn;
- Tăng cấp tín dụng trực tiếp cho nhà nhập khẩu nước ngoài (không thông qua ngân hàng tín dụng);
- Giảm bớt phần tín dụng xuất khẩu của nhà xuất khẩu;
2 – Nhà nước đảm bảo tín dụng xuất khẩu
Nhà nước đảm bảo sẽ gánh vác mọi rủi ro xảy ra đối với khoản tín dụng mà nhà xuất khẩu nước mình dành cho nhà nhập khẩu nước ngoài. Có hai loại rủi ro xảy ra đối với khoản tín dụng:
- Rủi ro kinh tế: khả năng tài chính của người mua không đủ để thanh toán khoản tín dụng;
- Rủi ro chính trị: những sự kiện xảy ra ngoài khả năng tài chính khiến cho người mua không thể thanh toán được khoản tín dụng.
Bảo đảm tín dụng xuất khẩu khiến cho nhà xuất khẩu yên tâm và mở rộng xuất khẩu. Hiện nay tín dụng xuất khẩu được thực hiện với thời hạn 5-7 năm. Để nhà xuất khẩu quan tâm đến việc thu tiền của người mua, Nhà nước không đảm bảo hoàn toàn mà chỉ một phần nhất định khoảng 80-90% của khoản tín dụng.
3 – Trợ cấp xuất khẩu
Đó là những ưu đãi về tài chính mà Nhà nước dành cho nhà xuất khẩu khi họ xuất khẩu được hành hoá ra thị trường nước ngoài. Mục đích của trợ cấp xuất khảu là làm tăng thu nhập của nhà xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh và thúc đẩy việc xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài.
Trợ cấp xuất khẩu có thể thực hiện dưới hình thức trực tiếp như tiền thưởng xuất khẩu, áp dụng tỷ giá khuyến khích đối với ngoại tệ thu được do xuất khẩu... hoặc dưới hình thức gián tiếp như dùng ngân sách nhà nước để tuyên truyền quảng cáo, giúp đỡ về kỹ thuật, tạo điều kiện cho các giao dịch xuất khẩu...
IV – Vai trò của mặt hàng Thuỷ sản và xuất khẩu Thuỷ sản đối với Việt Nam
Thủy sản là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam, có giá trị ngoại tệ xuất khẩu đứng hàng thứ tư trong các ngành kinh tế quốc dân (sau dầu, gạo và hàng may mặc).
Thuỷ sản đóng vai to quan trọng trong việc cung cấp thực phẩm cho nhân loại, không những thế nó còn là một ngành kinh tế tạo công ăn việc làm cho nhiều cộng đồng dân cư đặc biệt ở những vùng nông thôn và ven biển. ở Việt Nam, nghề khai thác và nuôi trồng thuỷ sản cung cấp công ăn việc làm thường xuyên cho khoảng 1,1 triệu người, tương ứng với 2,9% lực lượng lao động có công ăn việc làm. Thuỷ sản cũng có những đóng góp đáng kể cho sự khởi động và tăng trưởng kinh tế chung của nhiều nước.
Không những là nguồn thực phẩm, thuỷ sản còn là nguồn thu nhập trực tiếp và gián tiếp cho một bộ phận dân cư làm nghề khai thác, nuôi trồng, chế biến và tiêu thụ cũng như các ngành dịch vụ cho nghề cá như: cảng, bến, đóng sửa tàu thuyền, sản xuất nước đá, cung cấp dầu nhớt, cung cấp các thiết bị nuôi, cung cấp bao bì... và sản xuất hàng tiêu dùng cho ngư dân. Theo ước tính có tới 150 triệu người trên thế giới sống phụ thuộc hoàn toàn hay một phần vào ngành thuỷ sản.
Thuỷ sản là một ngành xuất khẩu mạnh của Việt Nam. Hoạt động xuất khẩu thuỷ sản hàng năm đã mang về cho ngân sách nhà nước một khoản ngoại tệ lớn, rất quan trọng trong việc xây dựng và phát triển đất nước. Các sản phẩm thuỷ sản được xuất khẩu ra nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, góp phần nâng cao vị trí của Việt Nam nói chung và Ngành Thuỷ Sản Việt Nam nói riêng trên trường quốc tế.
Với những vai trò hết sức to lớn như trên và những thuận lợi, tiềm năng vô cùng dồi dào của Việt Nam cả về điều kiện tự nhiên và con người, phát triển nghề nuôi trồng, khai thác và chế biến thuỷ sản phục vụ tiêu dùng trong nước và hoạt động xuất khẩu là một trong những mục tiêu sống còn của nền kinh tế Việt Nam.
Phần II
Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản việt nam trong thời gian qua
I - Tình hình nuôi trồng ,khai thác và chế biến Thuỷ sản
1 – Tình hình nuôi trồng
Nuôi trồng Thuỷ sản thời gian qua phát triển với tốc độ khá nhanh, thu được hiệu qủa Kinh tế – Xã hội đáng kể, từng bước góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế ở các vùng ven biển, nông thôn và góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập và xoá đói giảm nghèo.
1.1 - Thế mạnh của nuôi trồng Thuỷ sản
Nước ta có 3.260 km bờ biển với gần 1 triệu km2 thềm lục địa bao gồm mặt nước trong vũng, vịnh ven bờ, hơn 3.000 đảo và quần đảo, 112 cửa sông, cửa lạch thuận tiện cho tàu thuyền ra vào. Nhiệt độ vùng biển tương đối ấm và ổn định quanh năm, thích hợp cho sự sinh trưởng của các loài Thuỷ sản nước mặn, nước lợ. Thêm vào đó hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt cho phép nuôi trồng tôm, cá và các loại Thuỷ sản khác đã tạo cho ngành Thuỷ sản Việt Nam thế mạnh trong nuôi trồng
Nuôi trồng Thuỷ sản Việt Nam rất phong phú và đa dạng. Theo điều tra sơ bộ của ngành Thuỷ sản, riêng cá nước ngọt có 544 loài, cá nước lợ, nước mặn cũng có 186 loài. Trong đó nhiều loại đặc sản có giá trị xuất khẩu cao, được ưa chuộng trên thị trường quốc tế. Phương thức nuôi trồng cũng rất đa dạng tạo cho sản phẩm thêm phong phú
1.2 - Hiện trạng nuôi trồng
Nuôi trồng Thuỷ sản Việt Nam thời gian qua phát triển với tốc độ nhanh, thu được hiệu quả Kinh tế – Xã hội đáng kể , từng bước góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế ở các vùng ven biển, nông thôn và góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập và xoá đói, giảm nghèo.
1.2.1 – Diện tích nuôi
Năm 1998, diện tích các loại mặt nước đã được sử dụng chiếm 37% tiềm năng, trong đó mặt nước ao hồ nhỏ và vùng triều đã sử dụng quá ngưỡng an toàn sinh thái, riêng phần diện tích ruộng trũng và mặt nước lớn là có thể phát triển thêm vì hiện nay mới sử dụng được 27%. Diện tích sử dụng vùng triều đã đạt 44%, một số địa phương đang gia tăng. Việc phát triển nuôi ở các vùng trên triều và cao triều các vùng đất nông nghiệp trên triều hiệu quả thấp.
Theo điều tra và quy hoạch của Bộ Thuỷ sản:
Bảng 1. Diện tích các loại hình mặt nước nuôi trồng
Thuỷ sản năm 1998
Loại hình
Diện tích
Diện tích có khả
Diện
tích đã nuôi
Mặt nước
Tiềm năng (ha)
năng nuôi (ha)
DT (ha)
Tỷ lệ sử dụng so
với tiềm năng (%)
Ao,hồ nhỏ
120.000
113.000
82.696
69
Mặt nước lớn
340.946
198.220
98.977
29
Ruộng trũng
579.970
306.003
154.217
27
Vùng triều
660.002
414.417
290.400
44
Tổng số
1.700.918
1.031.640
626.290
37
Bảng 2. Diện tích nuôi thuỷ sản năm 1998
phân theo vùng sinh thái
Vùng
Diện tích
D.Tích có
Diện
tích đã nuôi
sinh thái
tiềm năng (ha)
k/năng nuôi (ha)
DT (ha)
Tỷ lệ sử dụng so
với tiềm năng (%)
Trung du miền núi
140.642
136.380
71.653
51
ĐB sông Hồng
183.714
121.286
71.092
39
Ven biển miền Trung
193.430
110.234
54.560
28
Tây nguyên
85.000
38.000
9.612
11
Đông Nam Bộ
133.000
73.730
45.600
34
ĐB sông Cửu Long
964.410
552.000
373.813
39
Tổng cộng
1.700.178
1.031.630
626.330
37
1.2.2 – Loại hình nuôi
* Nuôi thuỷ sản nước ngọt
- Nuôi cá ao hồ nhỏ: Là một nghề có tính truyền thống gắn với nhà nông, từ phong trào ao cá Bác Hồ đến phong trào VAC. Xu hướng diện tích ao đang bị thu hẹp do nhu cầu phát triển xây dựng nhà ở. Đối tượng cá nuôi khá ổn định: trắm, chép, trôi, mè, trê lai, rô phi... nguồn giống sinh sản hoàn toàn chủ động. Năng suất cá nuôi đạt bình quân trên 3 tấn/ha.
Nghề nuôi thuỷ sản ao hồ nhỏ đã phát triển mạnh. Đặc biệt, tôm càng xanh là một mũi nhọn để xuất khẩu và tiêu thụ trong nước, nhất là ở các thành phố, trung tâm dịch vụ, góp phàn điều chỉnh cơ cấu canh tác ở các vùng ruộng trũng. Tăng thu nhập và giá trị xuất khẩu.
Vấn đề khó khăn là sự phụ thuộc của năng suất vào điều kiện thời tiết, khí hậu cộng với vấn đề trình độ của người nuôi chưa được giải quyết thích hợp đã dẫn đến sự không ổn định của sản lượng nuôi. Các giống đã đưa vào nuôi là: lươn, ếch, ba ba, cá sấu... Tuy nhiên, do thiếu quy hoạch, không chủ động nguồn giống, thị trường không ổn định... đã hạn chế khả năng phát triển.
- Nuôi cá mặt nước lớn: Đối tượng nuôi thả chủ yếu là cá mè, ngoài ra còn thả ghép cá trôi, cá rô phi... Do khó khăn trong khâu bảo vệ và giá cá mè thấp nên lượng cá thả vào hồ nuôi có xu hướng giảm.
Hình thức nuôi chủ yếu hiện nay là lồng bè và kết hợp với khai thác cá trên sông, trên hồ. Hình thức này đã tận dụng được diện tích mặt nước, tạo ra việc làm, tăng thu nhập, góp phần ổn định đời sống của những người sống trên sông, ven hồ. ở các tỉnh phía Bắc và miền Trung, đối tượng nuôi chủ yếu là trắm cỏ, qui mô lồng nuôi khoảng 12-24m3, năng suất 400-600 kg/lồng. ở các tỉnh phía Nam, đối tượng nuôi chủ yếu là cá basa, cá lóc, cá bống tượng, cá he. Quy mô lồng, bè nuôi lơn, trung bình khoảng 100 – 150 m3/bè, năng suất bình quân 15-20 tấn/bè
- Nuôi cá ruộng trũng: Tổng diện tích ruộng trũng có thể đưa vào nuôi cá theo mô hình cá-lúa khoảng 580.000ha. Năm 1998, diện tích nuôi cá khoảng 154.200ha. Năng suất và hiệu quả nuôi cá ruộng trũng khá lớn. Đây là một hướng cho việc chuyển đổi cơ cấu trong nông nghiệp, tăng thu nhập cho người lao động, xoá đói giảm nghèo ở nông thôn.
* Nuôi tôm nước lợ
Nuôi thuỷ sản nước lợ được phát triển rất mạnh thời kỳ qua, đã có bước chuyên từ sản xuất nhỏ tự túc sang sản xuất hàng hoá, mang lại giá trị ngoại tệ cao cho nền kinh tế quốc dân và thu nhập đáng kể cho người lao động.
Những năm gần đây tôm được nuôi ở khắp các tỉnh ven biển trong cả nước, nhất là tôm sú. Diện tích nuôi tôm năm 1998 khoảng 290.000 ha. Đối tượng nuôi là tôm sú, tôm he, tôm bạc thẻ, tôm nương, tôm rảo, song chủ yếu là tôm sú. Tôm được nuôi trong ao đầm theo mô hình khép kín, nuôi trong ruộng và nuôi tôm trong rừng ngập mặn.
* Nuôi trồng thuỷ sản nước mặn
Nghề nuôi biển có tiềm năng phát triển lớn. Đến nay các nghề nuôi trai lấy ngọc, nuôi cá lồng, nuôi tôm hùm, nuôi thả nhuyễn thể hai mảnh vỏ, trồng rong sụn có nhiều triển vọng tốt. Tuy nhiên do khó khăn về vốn, hạn chế về kỹ thuật công nghệ, chưa chủ động được nguồn giống nuôi, nên nghề nuôi biển thời gian qua còn bị lệ thuộc vào tự nhiên, chưa phát triển mạnh.
1.2.3 Các dịch vụ cho nuôi trồng
* Hệ thống sản xuất giống
- Hệ thống sản xuất giống thuỷ sản nước ngọt: Các loài cá nước ngọt truyền thống hầu hết đã được sản xuất nhân tạo trong thời gian qua. Vấn đề cung cấp giống cho nuôi trồng các đối tượng này tương đối ổn định. Số cơ sở sản xuất cá giống nhân tạo trên toàn quốc hiện nay khoảng 354 cơ sở, hàng năm có khả năng sản xuất khoảng trên 4 tỷ cá giống cung cấp kịp thời vụ cho nhu cầu nuôi trên cả nước. Tuy nhiên, giá cá giống nhất là các loại đặc sản còn cao, chư đảm bảo chất lượng giống đúng yêu cầu và chưa được kiểm soát chặt chẽ.
- Hệ thống sản xuất giống tôm: Giống tôm về cơ bản đã cho đẻ thành công ở cả ba miền Bắc Trung Nam, nhưng sản lượng giống còn thấp. Vấn đề nuôi vỗ tôm bố mẹ thành thục chưa đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng và chất lượng dẫn đến tình trạng khan hiếm nguồn tôm bố mẹ trên cả nước, đặc biệt vào vụ sản xuất chính. Đến nay trên toàn quốc đã có trên 2.125 trại sản xuất và ươm tôm giống, hàng năm sản xuất được khoảng 5 tỷ tôm P15, bước đầu đã đáp ứng một phần nhu cầu tôm giống cho nhân dân.
Hạn chế chủ yếu trong sản xuất giống là sự phân bố không đồng đều các trại giống theo khu vực địa lý đã dẫn đến tình trạng phải vận chuyển con giống đi xa, vừa làm tăng thêm giá thành vừa làm giảm chất lượng giống, chưa có sự phù hợp trong sản xuất giống theo mùa đối với các loài nuôi phổ biến nhất và thiếu các công nghệ hoàn chỉnh để sản xuất giống sạch bệnh.
*Tình hình sản xuất thức ăn
Theo thống kê hiện nay trên toàn quốc có khoảng 24 cơ sở sản xuất thức ăn nhân tạo với tổng công suất 47.640tấn/năm, sản lượng thức ăn đạt được chưa đáp ứng nhu cầu cả về chất lượng và số lượng. Giá thành cao do chi phí đầu vào chưa hợp lý ảnh hưởng đến sức tiêu thụ. Với một số mô hình nuôi bán thâm canh (nuôi tôm) và thâm canh (nuôi cá lồng) thì thức ăn được nhập từ nước ngoài và phải chi trả một lượng ngoại tệ tương đối lớn.
2 – Tình hình khai thác
Khai thác luôn giữ vai trò quan trọng trong ngành thuỷ sản và bảo vệ an ninh chủ quyền trên biển. ở Việt Nam, khai thác thuỷ sản mang tính nhân dân rõ nét. Nghề cá ở khu vực nhân dân chiếm 99% số lượng lao động và 99,5% sản lượng khai thác thuỷ sản.
2.1 - Năng lực khai thác
- Tàu thuyền : Trong giai đoạn 1991 – 2000 số lượng tàu thuyền máy tăng nhanh, ngược lại thuyền thủ công giảm dần. Năm 1991 tàu thuyền máy có 44.347 chiếc, chiếm 59,6%; thuyền thủ công 30.284 chiếc, chiếm 40,4%, đến cuối năm 1998 tổng số thuyền máy là 71.767 chiếc, chiếm 82,4%,, tổng số thuyền thủ công là 15.337 chiếc chiếm 17,6% tổng số tàu thuyền đánh cá.
- Cơ cấu nghề nghiệp khai thác: Nghề nghiệp khai thác thuỷ sản ở nước ta rất đa dạng và phong phú về quy mô cũng như tên gọi, theo thống kê chưa đầy đủ đã có trên 20 loại nghề khác nhau được xếp vào 6 họ nghề chủ yếu; tỷ lệ các họ nghề như sau:
+ Họ lưới kéo chiếm 26%: Phù hợp với nguồn lợi ở vùng biển Đông Nam Bộ
+ Họ lưới vây chiếm 4,3%
+ Họ lưới rê chếm 34,4%: Phù hợp với nguồn lợi ở vịnh Bắc bộ
+ Họ mành vó chiếm 5,6%
+ Họ câu chiếm 13,4%
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35016.doc