Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng cà phê của VN

Lời mở đầu Trong những năm qua, xuất khẩu của Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc cả về kim ngạch xuất khẩu và giá trị sản lượng. Năm 2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 50 của Tổ chức Kinh tế Thế giới ( WTO ). Việc gia nhập WTO vừa tạo ra nhiều cơ hội cho Việt Nam trong công cuộc hội nhập kinh tế toàn cầu nhưng cũng đặt ra nhiều thử thách cho nền kinh tế Việt Nam. Cà phê là một trong những mặt hàng xuất khẩu mạnh của Việt Nam. Hiện nay, xuất khẩu cà phê chưa tương x

doc24 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1341 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng cà phê của VN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ứng với tiềm năng của ngành cà phê Việt Nam. Đẩy mạnh phát triển ngành cà phê xuất khẩu Việt Nam là một công việc cần thiết để góp phần nâng cao hơn nữa xuất khẩu của Việt Nam. Chuyên đề nghiên cứu xin đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng cà phê của Việt Nam sau khi nghiên cứu hiện trạng của ngành cà phê Việt Nam hiện nay. Trong quá trình nghiên cứu, do còn nhiều hạn chế về con người và nguồn tài liệu, chuyên đề không tránh khỏi có những thiếu sót, mong thầy giáo xem xét và chỉ bảo hướng dẫn để em có thể hoàn thiện hơn nữa chuyên đề nghiên cứu của mình. Em xin chân thành cảm ơn ! Sinh viên Đàm Tiến Thành 1. Sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng cà phê của Việt Nam 1.1 Vị trí của mặt hàng cà phê trong xuất khẩu của Việt Nam và thế giới Kể từ khi nền kinh tế Việt Nam chuyển sang cơ chế thị trường, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng của Việt Nam sang nhiều thị trường trên thế giới đã tăng lên đáng kể. Một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là cà phê. Hiện nay, cà phê đã là 1 trong 5 mặt hàng thuộc câu lạc bộ xuất khẩu 1 tỷ USD, theo dự kiến, xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong năm 2007 sẽ đạt 1,5 tỷ USD. Trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam, cà phê là mặt hàng chủ lực trong xuất khẩu nông sản. Trong 10 tháng năm 2007, xuất khẩu cà phê của nước ta đạt 972,65 nghìn tấn với trị giá 1,467 tỷ USD, tăng 44,58% về lượng và  tăng 86,71% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái. Tính đến thời điểm nói trên, kim ngạch từ xuất khẩu cà phê chiếm tới 13 % tổng sản lượng xuất khẩu nông sản - đứng đầu trong nhóm các mặt hàng này, vượt qua mặt hàng gạo (đạt 1,283 tỷ USD), và đứng thứ 6 về kim ngạch trong số các mặt hàng xuất khẩu của cả nước. Bên cạnh đó, Việt Nam là nước có sản lượng cà phê Robusta cao nhất trên thế giới. Về xuất khẩu cà phê nhân, Việt Nam là nước có kim ngạch xuất khẩu lớn thứ 2 sau Braxil. Sản lượng xuất khẩu niên vụ 06/07 của Việt Nam là hơn 18 triệu bao so với gần 29 triệu bao cà phê xuất khẩu của Braxil. Xuất khẩu cà phê hiện chiếm khoảng 13% tổng giá trị xuất khẩu nông sản Việt Nam, và trở thành nước xuất khẩu cà phê vối lớn nhất thế giới, chiếm tới 43% thị phần cà phê toàn cầu. 1.2 Tiềm năng của ngành cà phê xuất khẩu Việt Nam Trong vài năm trở lại đây, thị trường cà phê được giá trở lại nên bà con nông dân đã đầu tư và khôi phục trở lại những trang trại cà phê, cà phê sinh trưởng tốt và đem lại thu hoạch khá cao. Nước ta hiện có 500.000 ha càphê, năng suất bình quân 17 tạ/ha, sản lượng 836.000 tấn. Diện tích trồng tăng không chỉ ở các tỉnh Tây Nguyên mà còn ở các tỉnh Đông Nam Bộ và vùng Đông Trường Sơn. Riêng tại Đắc Lắc – địa phương có diện tích và sản lượng lớn nhất toàn quốc, cà phê chiếm tới 60% GDP của tỉnh và chiếm tới 50% kim ngạch xuất khẩu cà phê của nước ta. Trong đó, tỉ lệ cà phê vối ( Robusta) chiếm tới 95%. Cà phê robusta ở Việt Nam phần lớn được trồng trên đất đỏ bazan có độ phì nhiêu cao, nhất là có tính vật lý lý tưởng, tại các tỉnh Tây Nguyên có độ cao 450 - 600 m. Bởi vậy, cà phê robusta Việt Nam vừa có chất lượng cao, vừa rất phù hợp cho chế biến cà phê pha trộn và cà phê hoà tan. Chất lượng cà phê Robusta Việt Nam cũng được công nhận là ngon nhất thế giới. Cà phê Robusta được ưu chuộng trên rất nhiều thị trường các nước nhập khẩu. 1.3 Những vấn đề được giải quyết khi đẩy mạnh xuất khẩu 1.3.1 Diện tích trồng trọt lớn, đảm bảo đời sống kinh tế và việc làm cho nông dân. Với hơn nửa triệu ha cà phê hàng năm tạo việc làm cho hơn 600 nghìn nông dân và đảm bảo cuộc sống cho hơn một triệu người dân ở vùng nông thôn miền núi và Tây Nguyên, cây cà phê có một vị trí quan trọng trong cơ cấu cây trồng của nước ta. Việc xuất khẩu cà phê không chỉ đem lại lợi ích cho Nhà Nước và doanh nghiệp mà còn góp phần rất lớn trong việc ổn định kinh tế xã hội và đời sống nhân dân. 1.3.2 Cà phê đứng vị trí thứ 6 trong các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam Vượt qua gạo, cà phê chiếm tới 13 % xuất khẩu nông sản và đứng vị trí thứ 6 trong các mặt hàng của Việt Nam, góp phần không nhỏ vào sự phát triển của nền kinh tế, đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn. Tình hình và kim ngạch xuất khẩu cà phê có ảnh hưởng lớn tới xuất khẩu của Việt Nam. Thúc đẩy xuất khẩu cà phê sẽ giúp Việt Nam đạt được mục tiêu xuất khẩu 58 tỷ USD vào năm 2008 và đạt được những chỉ tiêu kinh tế xã hội khác. 1.3.3 Việt Nam là nước có sản lượng lớn thứ 2 trên thế giới nhưng mức tiêu thụ trong nước rất thấp. Theo ông Đoàn Triệu Nhạn, Phó Chủ tịch Hiệp hội Cà phê- Ca cao Việt Nam, bình quân các nước thành viên của Tổ chức cà phê quốc tế (ICO) tiêu thụ nội địa mỗi năm lên đến 25,16% sản lượng, trong khi Việt Nam (là thành viên của Tổ chức) hiện nay chỉ mới đạt 5% sản lượng thu hoạch. Đây là mức tiêu thụ quá thấp so với tiềm năng của thị trường trong nước. Việc tiêu thụ thấp một phần do trước đây, sản lượng cà phê thấp, để đủ nhu cầu trong nước, các cơ sở chế biến đã pha trộn nhiều tạp chất, hình thành nên sở thích của người uống. Hiện nay, cà phê nguyên chất không hợp với khẩu vị của người dùng. Mặt khác, do thói quen và tập quán của dân ta thường uống nước chè, vối hay nước trắng khi đi làm ruộng, rẫy, cà phê vừa khó uống và tốn nhiều thời gian, phức tạp trong khâu pha chế. Số lượng người thường xuyên uống cà phê ít, chủ yếu tập trung ở những khu đô thị, thành phố. Vì vậy, khi tiêu thụ trong nước thấp, xuất khẩu là nhu cầu tất yếu để đảm bảo sản xuất trong nước và đảm bảo việc tiêu thụ cà phê thu được. 2. Thực trạng xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong thời gian qua 2.1 Sản lượng và chất lượng cà phê xuất khẩu 2.1.1 Sản lượng Hiện nay Việt Nam là nước thứ 2 trên thế giới về kim ngạch xuất khẩu cà phê. Tính đến đầu tháng 11/2007, sản lượng xuất khẩu cà phê vượt ngưỡng 1 triệu tấn hàng, đạt giá trị kim ngạch khoảng 1,55 tỷ USD, tăng 43% sản lượng nhưng tăng tới 84 % về giá trị sản lượng so với cùng kì năm trước. Hiệp hội cà phê ca cao Việt nam dự báo trong năm nay , kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam đạt mức 1,8 tỷ USD. Về giá, từ đầu năm đến nay, giá cà phê xuất khẩu Việt Nam tăng khá do giá cà phê trên thế giới tăng. Hiện nay, giá cà phê xuất khẩu đạt xấp xỉ 1800USD/ tấn, tăng 80-100USD/tấn, và là mức cao nhất trong 9 năm rở lại đây. Tuy vậy, giá cà phê Việt Nam vẫn còn thấp hơn so với các nước xuất khẩu cà phê khác vào khoảng 50 – 70 USD/ tấn. Năm 2006, giá cà phê Robusta của Việt Nam là 1188 USD, trong khi giá thị trường London là 1.317.7 USD, và giá chỉ thị ICO là 1.489,2 USD; gần nhất vào tháng 9/2007, sự chênh lệch giá tương ứng vẫn là 1.582 USD - 1.835,8 USD - 2045,9 USD. Trong cơ cấu xuất khẩu thì Việt Nam xuất khẩu chủ yếu là cà phê Robusta, giá thường thấp hơn cà phê chè ( Arabica) 30 % và Robusta cũng chỉ chiếm tới 30% lượng sản phẩm rang xay. 2.1.2 Chất lượng cà phê xuất khẩu Chất lượng cà phê Robusta Việt Nam được coi là tốt nhất thế giới nhưng lại không đồng đều, đặc biệt là tỉ lệ bị thải loại là cao nhất thế giới. Từ tháng 10/2006 – 3/2007 tổng số cà phê bị loại của Việt Nam chiếm 88% tổng số cà phê bị thải loại trên thế giới. Do thói quen lâu nay, nông dân Việt Nam đã để lẫn cà phê quả xanh với quả chín, cũng như chưa quan tâm đúng mức đến việc phơi khô cà phê. Mặt khác, do 2 bên người mua và người bán cà phê ở Việt Nam đều thoả thuận áp dụng tiêu chuẩn cũ TCVN 4193:93, chỉ chú ý tỉ lệ phần trăm hạt đen, vỡ, do đó người ta không thể tính số lỗi như hạt mốc, hạt chưa chín và mẩu cây vụn, sạn nhỏ... Để đảm bảo chất lượng, cà phê xuất khẩu phải được phân loại theo phương pháp tính số lỗi, có như thế Việt Nam mới có cơ sở ghi chứng chỉ xuất xứ đầy đủ (hiện nay, Việt Nam vẫn nằm ngoài danh sách 28 nước xuất khẩu cà phê đã báo cáo chất lượng cho Tổ chức Cà phê Quốc tế). 2.2 Thị trường xuất khẩu Hiện nay, cà phê Việt Nam đã xuất khẩu sang gần 70 nước và vùng lãnh thổ. Trong đó phải kể đến 10 nước nhập khẩu hàng đầu cà phê Việt Nam gồm: Đức, Hoa Kỳ, Tây Ban Nha, Italia, Bỉ, Ba Lan, Pháp, Hàn Quốc, Anh, Nhật Bản. Nhóm 10 nước này chiếm thị phần rất lớn tới ¾ khối lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam. Thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam vẫn ổn định, trong đó Đức tiếp tục giữ vị trí số 1 về nhập khẩu cà phê của Việt Nam với thị phần khoảng 14%. Tiếp theo là các nước như Mỹ, Italia, Tây Ban Nha, Thuỵ Sỹ. Thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam ngày càng mở rộng, ngoài các nước ở châu Âu và Hoa Kỳ, cà phê Việt Nam còn xuất khẩu sang vùng Trung Cận Đông, châu Phi, một số nước trong Hiệp hội ASEAN và vùng Trung Mỹ. 2.3 Các đối thủ cạnh tranh trong xuất khẩu cà phê của Việt Nam Hiện nay, Việt Nam xuất khẩu cà phê thứ 2 thế giới, đứng đầu là Braxil, sau Việt Nam là các nước Colombia, Indonesia, Guatemala, Honduras, Costa Rica… 2.3.1 Xuất khẩu cà phê của Brazil : Brazil là nước có sản lượng thu hoạch và kim ngạch cà phê xuất khẩu lớn nhất thế giới. Theo thông báo của Hội đồng xuất khẩu cà phê nhân Brazil hôm 05/11, Brazil đã xuất khẩu 2,51 triệu bao cà phê nhân loại 60kg trong tháng 10, giảm 2% so với 2,56 triệu bao xuất khẩu 1 năm trước đó. Khối lượng xuất khẩu tháng 10 bao gồm 2,27 triệu bao cà phê nhân arabica, giảm 2,1% so với 2,32 triệu bao cùng kỳ năm trước. Cà phê robusta xuất khẩu cũng giảm 1,4% từ 222.967 bao của tháng 10/06 xuống còn 238.309 bao. Tính chung cho ngành xuất khẩu cà phê của Brazil, tổng khối lượng xuất ra trong tháng 10/07 đã tăng 0,3% lên 2,79 triệu bao, với kim ngạch tăng tới 26,6% lên 423,2 triệu USD so với cùng kỳ năm trước. 2.3.2 Xuất khẩu cà phê của Guatemala: Xuất khẩu cà phê của Guatemala trong tháng 10 – tháng đầu tiên của niên vụ 2007/08 đạt 111.146 bao loại 60kg, tăng 14,15% so với cùng kỳ năm ngoái. Anacafe cho biết trong tháng 10 năm 2006, xuất khẩu của Central American Arabica là 97.369 bao. 2.3.3 Xuất khẩu cà phê của Costa Rica: Theo tổ chức cà phê Costa Rican, xuất khẩu cà phê trong tháng 10 của nước này đạt 34.018 bao loại 60 kg, giảm 12,2% so với cùng kỳ năm ngoái. 2.3.4 Xuất khẩu cà phê của Honduras: Tổ chức cà phê Honduras cho biết xuất khẩu cà phê của nước này trong tháng 10 đạt 47.488 bao loại 60kg, tăng 88%.  Nước sản xuất cà phê lớn thứ 2 Trung Mỹ này đang có kế hoạch tăng gấp đôi sản lượng cà phê xuất khẩu hàng năm lên khoảng 7,7 triệu bao loại 60kg vào năm 2010/2011 nhờ giá sản xuất thấp và nguồn đất trồng rộng. 3. Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong thời gian tới 3.1 Nâng cao chất lượng sản phẩm Chất lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam không có tính đồng đều, đây là một điểm yếu lớn của cà phê Việt Nam. Để nâng cao chất lượng sản phẩm, chúng ta có thể thực hiện một số công việc như sau: 3.1.1 Áp dụng tích cực các hệ thống quản lý chất lượng Các cơ sở doanh nghiệp trồng và chế biến cà phê hiện nay gần như không tuân theo một tiêu chuẩn nào cả. Trước đây có áp dụng tiêu chuẩn cũ TCVN 4193:93, nay không còn phù hợp với tình hình mới, không kiểm soát được chất lượng cà phê. Đến năm 2005, Việt Nam đã ban hành Tiêu chuẩn cà phê xuất khẩu TCVN 4193:2005, áp dụng phân loại theo cách tính lỗi để phù hợp với cách phân loại của Hội đồng Cà phê Thế giới. Tuy nhiên đây là một tiêu chuẩn mang tính tự nguyện, không bắt buộc nên không được nhiều cơ sở thực hiện. Hiện nay mới chỉ có 10% các doanh nghiệp áp dụng tiêu chuẩn này, tương đương 1 – 1,5 % lượng xuất khẩu. Ngày 1/10/2007, Bộ Công Thương đã ra văn bản yêu cầu thực hiện theo tiêu chuẩn mới này. Vì phải trang bị máy móc và thay đổi quy trình thu mua chế biến nên các cơ sở đã phản ứng với quyết định trên. Nhưng đây là một biện pháp cần được áp dụng triệt để nhằm nâng cao chất lượng của cà phê xuất khẩu. Với việc áp dụng này, có thể sẽ giảm lượng xuất khẩu do phải loại bỏ nhiều cà phê kém hơn, nhưng về lâu dài, điều này sẽ có lợi cho các doanh nghiệp trong việc khẳng định chất lượng cà phê Việt Nam. Ngành cà phê Việt Nam cũng cần xây dựng các tiêu chuẩn kĩ thuật khác, xây dựng lộ trình và cách thức tiến hành áp dụng để có thể có tác dụng tốt nhất trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Ngoài tiêu chuẩn trong nước, các cơ sở và doanh nghiệp thu hái, chế biến cà phê cũng cần phải nghiên cứu và áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng quốc tế như các quy định của Hội đồng Cà phê Thế giới ( ICO). 3.1.2 Tuyên truyền và thay đổi thói quen trong trồng trọt, thu hoạch và chế biến Hiện nay, đa phần các cơ sở trồng trọt, chế biến và xuất khẩu đều không tuân thủ các quy định, điều kiện về thu hái, chế biến và bảo quản cà phê. Theo tập quán cũ của người trồng trọt, cà phê tới mùa thu hoạch đều được thu hái rất đại trà, cả hạt xanh hạt chín, không có sự chọn lọc. Khâu phơi và bảo quản theo cách thức ủ đống, phơi trên sân đất làm cho cà phê bị giảm chất lượng đáng kể. Bên cạnh đó, cơ chế thu mua cũng làm cho người dân không chú trọng đến chất lượng cà phê trong thu hoạc, phơi sấy và phân loại. Ngoài ra, việc trồng cây cà phê còn sử dụng nhiều phân hóa học và thuốc trừ sâu, ảnh hưởng đến chất lượng thu hoạch. Ngành cà phê khuyến cáo các nhà sản xuất nên sử dụng phân hữu cơ thay cho phân hóa học, đây cũng là một hướng mới tiến bộ trong kĩ thuật trồng cây cà phê. Vì vậy, để có thể nâng cao chất lượng cà phê, các cơ quan và doanh nghiệp cần đẩy mạnh việc tuyên truyền và hướng dẫn các kĩ thuật tiêu chuẩn trong trồng trọt và thu hái, dần từng bước thay đổi những thói quen không tốt này. 3.1.3 Đổi mới công nghệ và áp dụng các kĩ thuật tiên tiến trong khâu chế biến sau thu hoạch Trong những năm gần đây công nghiệp sơ chế cà phê ở Việt Nam đã có nhiều tiến bộ. Người ta đã trang bị thêm nhiều thiết bị mới chất lượng tốt trong chế biến. Tuy nhiên với cà phê Arabica thì chế biến vẫn còn là một việc làm có nhiều khó khăn, đặc biệt là ở khâu đầu tiên lột vỏ quả, làm sạch nhớt. Nhiều nơi có khó khăn vì lượng nước sạch dùng cho chế biến quá lớn và nó cũng dẫn đến khó khăn về xử lý nước thải không gây ô nhiễm môi trường. Các chuyên gia nước ngoài trong chương trình GTZ của Đức và dự án ba bên của các tập đoàn nước ngoài thực hiện ở Công ty hồ tiêu Tân Lâm - Quảng Trị đã đạt kết quả tốt trong khâu xử lý nước thải. Và việc nghiên cưu khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp EakMat ở ĐakLak đang nghiên cứu sử dụng máy làm sạch nhớt kiểu Penagos rất tiết kiệm nước của Colombia cũng hứa hẹn nhiều triển vọng. Nước ta cũng có kế hoạch triển khai dự án nâng cao chất lượng thông qua việc ngăn ngừa nấm mốc trong khâu bảo quản. Ngoài ra cũng cần đổi mới trang thiết bị tiên tiến, phù hợp cho việc thực hiện các quy định và tiêu chuẩn của Nhà nước như TCVN 4193: 2005, và các quy định của Ủy ban chất lượng cà phê , thuộc ICO. Hiện tại Việt Nam có khoảng 150 doanh nghiệp chuyên chế biến cà phê xuất khẩu, nhưng số doanh nghiệp có công nghệ chế biến hiện đại chỉ đếm trên đầu ngón tay. Bởi để có được nhà máy chế biến cà phê với công nghệ hiện đại, số vốn đầu tư không dưới 7 tỉ đồng, chỉ có những doanh nghiệp có diện tích trồng tập trung mới hy vọng làm được điều này. 3.2 Đổi mới cơ cấu cây trồng và đa dạng hóa sản phẩm 3.2.1 Đổi mới cơ cấu giống cà phê Ngành cà phê Việt Nam chủ trương đổi mới phương hướng sản xuất cà phê theo hai hướng : - Giảm bớt diện tích cà phê Robusta. Chuyển các diện tích cà phê phát triển kém, không có hiệu quả sang các loại cây trồng lâu năm khác như cao su, hồ tiêu, hạt điều, cây ăn quả và cả cây hàng năm như bông, ngô lai... - Mở rộng diện tích cà phê Arabica ở những nơi có điều kiện khí hậu đất đai thật thích hợp. Mục tiêu cuối cùng trong chiến lược này là giữ tổng diện tích cà phê không đổi ở mức hiện nay, hoặc giảm chút ít, nằm trong khoảng từ 450.000 ha đến 500.000 ha, nhưng cơ cấu chủng loại cà phê cần thay đổi thay đổi, trong đó: + Cà phê Robusta 350.000 ha - 400.000 ha (giảm 100.000 - 150.000 ha) + Cà phê Arabica (100.000 ha tăng 60.000 ha so với kế hoạch cũ trồng 40.000 ha bằng vốn vay của cơ quan phát triển Pháp) + Tổng sản lượng cà phê đảm bảo ở mức 600.000 tấn tương đương 10 triệu bao so với hiện nay giảm 5 triệu bao và đó là 5 triệu bao cà phê Robusta. Tham khảo từ kinh nghiệm trong nước và quốc tế cho thấy sự chuyển dịch cơ cấu này là hợp lý đối với nông nghiệp Việt nam cũng như với thị trường cà phê quốc tế. Mấy năm nay sản lượng cà phê Robusta trên thế giới tăng lên nhanh chóng, vụ 2000/01 đạt tới 44,8 triệu bao tăng tới 12,2 triệu bao so với vụ trước và chiếm tới 38% tổng sản lượng cà phê. Đó là một tỷ lệ hoàn toàn không thích hợp với thị hiếu và tập quán tiêu dùng cà phê thế giới. Việt nam dự kiến giảm 5 triệu bao cà phê Robusta là một con số rất có ý nghĩa. Chúng ta cũng biết rằng trong thời điểm này sản lượng cà phê Robusta của Braxin vẫn tiếp tục tăng lên nhanh chóng. Tất nhiên tiến độ chuyển dịch này nhanh hay chậm cũng còn tuỳ thuộc vào khả năng cung cấp tài chính của nhà nước cho nông dân vì đây cũng là một việc làm tốn kém và đòi hỏi một sự chuyển giao kỹ thuật đầy đủ, chu đáo. Ngoài ra vấn đề đổi giống mới tốt hơn cho các vườn cà phê cũng là một khâu quan trọng cần được đầu tư và cũng cần thời gian. Theo chúng tôi đây cũng là một chương trình trung hạn của ngành cà phê Việt nam. Bên cạnh đó, cần tiến hành nghiên cứu giống và trồng những giống có hiệu quả cao. Viện Khoa học Kỹ thuật nông- lâm nghiệp Tây Nguyên đã lai tạo, tuyển chọn 19 giống cà phê mới, trong đó có 9 giống cà phê vối, 10 giống cà phê chè có năng suất, chất lượng hạt cà phê thương phẩm cao, kháng bệnh đưa vào sản xuất đại trà, góp phần tăng sức cạnh tranh đối với cà phê Việt Nam trên thị trường thế giới. Đối với 9 giống cà phê vối gồm TR4, TR5, TR6, TR7, TR8 sau 3 năm thực hiện ghép cải tạo thay các giống cà phê cũ ở các vườn cà phê tại các xã Ea Kpam, huyện Cư M'Gar, Đoàn Kết, huyện Krông Búk (tỉnh Đắc Lắc), Công ty cà phê Ia Sao (Gia Lai), Nông trường cà phê Đắc Uy 4 (Kon Tum), Trạm nghiên cứu thực nghiệm Đơn Dương (Lâm Đồng) đều cho năng suất từ 2,7 đến 7,3 tấn cà phê nhân/ha. Đặc biệt, các giống cà phê này sinh trưởng khoẻ, cây cao trung bình, phân cành nhiều, quả chín màu đỏ cam, hoặc huyết dụ, vàng cam, đều có hạt cỡ lớn, đạt loại I trên 65%, kháng cao đối với bệnh gỉ sắt. Đối với cà phê chè, Viện đã tiến hành lai tạo nhiều cặp lai giữa các giống cà phê chè Catimor và các giống cà phê hoang dại có nguồn gốc từ Ethiopia, kết quả đã chọn được 10 giống lai gồm TN1, TN2...đến TN10, trong đó, hai giống lai TN1, TN2 đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho phép khu vực hoá. Các giống cà phê chè lai mới được tuyển chọn này cây sinh trưởng khoẻ, phân cành nhiều, đạt năng suất từ 4 đến 5 tấn cà phê nhân/ha, kích cỡ hạt lớn, trọng lượng 100 nhân trên 15 - 17gram, kháng cao đối với bệnh gỉ sắt... Hiện nay, các giống cà phê lai tạo, mới tuyển chọn này đang được Viện Khoa học Kỹ thuật nông- lâm nghiệp Tây Nguyên sản xuất đáp ứng nhu cầu về phát triển cũng như cải tạo, thay thế giống mới trong các vườn cà phê già cỗi, hoặc cà phê giống cũ trồng thực sinh năng suất thấp tại các tỉnh Tây Nguyên. 3.2.2 Tăng cường các hoạt động chế biến sau thu hái Hầu hết cà phê xuất khẩu của nước ta hiện nay là nguyên liệu thô. Tỉ lệ xuất khẩu nguyên liệu thô quá cao trong khi công nghiệp chế biến trong nước chưa phát triển sẽ khiến ngành cà phê lao đao khi thị trường thế giới có biến động .Thêm nữa, việc xuất khẩu thô làm giảm giá trị của sản phẩm cà phê, không tương xứng với chất lượng sản phẩm. Nếu chúng ta đẩy mạnh công tác chế biến sau thu hái, cà phê xuất khẩu không những sẽ bớt chịu sự tác động quá mạnh của tình hình thị trường thế giới, mà còn nâng cao giá trị của sản phẩm, giúp tăng giá bán và tính cạnh tranh. Giống như những mặt hàng khác, sản phẩm cà phê sau khi được chế biến sẽ có giá trị gia tăng lớn hơn nhiều so với sản phẩm nguyên liệu thô. Chúng ta có nhiều cà phê xấu, kém bị thải loại ở các cảng châu Âu, là do bán cà phê ở dạng “xô” phân loại theo tiêu chuẩn cũ TCVN 4193-93. Bản tiêu chuẩn này chỉ đánh giá cà phê xuất khẩu rất đơn giản theo 3 chỉ tiêu về phần trăm lượng ẩm, hạt đen vỡ và tạp chất, mà không xếp hạng theo số lỗi trong cà phê. Bởi thế, khách hàng mua cà phê xô với giá thấp, sau đó chọn lọc cà phê tốt (khá nhiều) rồi bán giá cao, thu lợi nhuận cao hơn so với mua cà phê đã phân loại. Việc tăng cường khâu chế biến và phân loại sẽ đem lại hiệu quả kinh doanh cao hơn việc xuất khẩu “xô” như hiện nay. Vì thế, để nâng cao hiệu quả xuất khẩu cà phê, nâng cao giá trị kim ngạch xuất khẩu, các doanh nghiệp và cơ sở cần đẩy mạnh thực hiện các công tác chế biến sau thu hái với những kĩ thuật tiên tiến, đáp ứng nhu cầu sản phẩm cà phê qua chế biến của thị trường. 3.2.3 Đa dạng hóa các sản phẩm cà phê xuất khẩu Ngoài việc xuất khẩu đơn thuần cà phê nguyên liệu thô Robusta, Việt Nam cần thực hiện việc đa dạng hóa các sản phẩm xuất khẩu nhằm đảm bảo thị trường và sản lượng xuất khẩu được nâng cao. Hiện có hai nhà máy sản xuất cà phê hoà tan đang hoạt động, một là Nhà máy cà phê Biên Hoà thuộc VINACAFE, một là của Nestle Thái Lan.Vấn đề là tìm thị trường mở rộng thị trường tiêu thụ để tạo điều kiện mở rộng sản xuất. Vấn đề cà phê dạng lỏng đóng hộp cũng đang được xem xét.  Sản xuất cà phê hữu cơ là một phương hướng của ngành cà phê Việt nam, cần được quan tâm. Tiềm năng để sản xuất cà phê hữu cơ lớn vì phía Bắc Việt nam có một vùng núi rộng lớn điều kiện khí hậu thích hợp cho cà phê Arabica sinh trưởng phát triển. Đồng bào dân tộc thiểu số ở đây ít sử dụng phân hoá học và thuốc trừ sâu. Đó là điều kiện thuận tiện để phát triển sản xuất cà phê hữu cơ. Thu nhập từ cà phê hữu cơ cao hơn sẽ khuyến khích nông dân tham gia sản xuất mặt hàng này. Vấn đề ở đây lại là việc cấp chứng chỉ cà phê hữu cơ và thị trường tiêu thụ làm sao cho thuận tiện và có hiệu quả cho nông dân. Việt nam cũng có nhiều vùng có khả năng sản xuất cà phê thơm ngon. Nếu có chủ trương tổ chức sản xuất tốt cộng với chế biến tốt hoàn toàn có thể đưa ra thị trường những mặt hàng cà phê hảo hạng như cà phê Buôn Ma Thuột. Ngoài cà phê nhân là mặt hàng chính , ngành cà phê Việt Nam nên định hướng đầu tư đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu :cà phê bột ,cà phê đắc sản , cà phê hoà tan , … 3.3 Hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh Mặc dù chi phí lao động của ngành cà phê Việt nam tương đối thấp so với nhiều nơi khác vì GDP bình quân trên đầu người cũng thấp, và năng suất cà phê Việt nam cũng vào loại cao trên thế giới nhưng giá thành cà phê Việt nam vẫn chưa thấp đến mức có thể cạnh tranh được. Nguyên nhân chủ yếu là do nông dân Việt nam với mong muốn đạt năng suất cao nhất đã tăng đầu tư phân bón, nước tưới lên mức rất cao đã làm giảm hiệu quả của đầu tư và nâng cao giá thành sản xuất.   Việc cần phải làm là tìm công thức đầu tư cho hiệu quả kinh tế cao nhất trong đó giảm thiểu đầu tư vào phân hoá học, thuốc trừ sâu, lượng nước tưới để đạt một năng suất không phải là cao nhất nhưng có mức lợi nhuận tốt nhất. Ngành cà phê Việt nam cũng quan tâm khuyến cáo các nhà sản xuất sử dụng nhiều phân hữu cơ thay cho việc dùng nhiều phân hoá học lâu nay coi đó là một phương hướng tiến bộ trong kỹ thuật. Việc sử dụng quá mức lượng phân bón tại các vùng chuyên canh cà phê thường cao hơn từ 10 – 23% so với yêu cầu dinh dưỡng của cây trồng, dẫn tới chi phí sản xuất cao, vì vậy, việc giảm bớt lượng phân bón tiêu thụ sẽ giúp giảm chi phí, nâng cao tính cạnh tranh. Biện pháp loại bỏ cây che bóng cũng được xem như là một tiến bộ kỹ thuật quan trọng trong nghề trồng cà phê ở Việt Nam và không thể phủ nhận tác dụng tăng năng suất của biện pháp này. Với một số biện pháp đó, giá thành sản phẩm cà phê giảm sẽ giúp nâng cao tính cạnh tranh của cà phê Việt Nam so với sản phẩm của các quốc gia khác. 3.4 Tăng cường xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu cho cà phê Việt Nam và mở rộng thị trường xuất khẩu 3.4.1 Tăng cường xúc tiến thương mại Các doanh nghiệp đã từng sử dụng dịch vụ xúc tiến thương mại đều cho rằng, chất lượng dịch vụ còn ở mức trung bình và tính chuyên nghiệp chưa cao. Theo các DN, hầu hết các hoạt động XÚC TIếN THƯƠNG MạI thường tập trung vào việc duy trì, tìm kiếm và mở rộng khách hàng/thị trường để bán hàng hoá mà doanh nghiệp có chứ chưa gắn liền với hoạt động phân phối sản phẩm để tạo ra những sản phẩm độc đáo của riêng mình. Hiện nay cả nước mới có 50 địa phương thành lập được Trung tâm xúc tiến thương mại, 14 địa phương còn lại chưa có Trung tâm xúc tiến thương mại mà chỉ có bộ phận chuyên trách cấp phòng đảm nhiệm công tác này tại các Sở Thương mại hoặc Sở Thương mại du lịch. Các hoạt động xúc tiến thương mại nhất là xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu vẫn bao gồm các hoạt động tình thế tập trung như hội chợ triển lãm, các đoàn khảo sát thị trường nước ngoài. Tuy nhiên, đại đa số các tổ chức thương mại cũng như các doanh nghiệp không có chiến lược hoặc kế hoạch xúc tiến thương mại cụ thể. Nếu có thì những chiến lược và kế hoạch này cũng không được thực hiện một cách đầy đủ. Do vậy, không ít hoạt động xúc tiến thương mại không có mục tiêu cụ thể, tiến hành một cách bị động, không được chuẩn bị rõ ràng, không có trọng tâm và trọng điểm hoặc chưa gắn với những mặt hàng. Yếu kém này đã làm cho công tác xúc tiến thương mại không hiệu quả. Vậy, điều mà các doanh nghiệp mong chờ nhất hiện nay là một hệ thống chuyên nghiệp, mạnh từ trung ương tới địa phương, trong đó lấy đối tượng khách hàng của mình là các doanh nghiệp làm trung tâm, phải hướng vào thị trường và sản phẩm cụ thể, phương thức triển khai phải chuyên nghiệp, sáng tạo. Cục xúc tiến thương mại đã đưa ra 7 giải pháp để nâng cao hiệu quả của hoạt động xúc tiến thương mại, hỗ trợ DN tăng cường sức cạnh tranh trong điều kiện hội nhập sâu rộng vào WTO như hiện nay. Trong đó, cơ chế chính sách được đặc biệt nhấn mạnh, Chính phủ đang có chủ trương thành lập Quỹ  xúc tiến thương mại - Đầu tư – Du lịch thay thế cho Quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Các khoản chi cho chương xúc tiến thương mại quốc gia sẽ lấy từ Quỹ này. Hệ thống tổ chức theo hướng chuyên nghiệp – năng động - hiệu quả cũng sẽ đặc biệt được chú trọng. Hơn nữa, để tận dụng tối đa các cơ hội tham gia xúc tiến thương mại cho doanh nghiệp, đồng thời tránh tổ chức trùng lặp các hoạt động, các cơ quan xúc tiến thương mại địa phương cần gửi danh mục kế hoạch hoạt động hằng năm và dài hạn về Cục xúc tiến thương mại để tổng hợp thành danh sách các hoạt động xúc tiến thương mại trên cả nước. Danh mục này được đăng trên website của Cục xúc tiến thương mại để các cơ quan và doanh nghiệp cùng tham khảo. Bên cạnh đó, một giải pháp không kém phần quan trọng được Cục xúc tiến thương mại đặt ra là tiến hành khảo sát, quy hoạch nhằm đánh giá thực trạng hệ thống hạ tầng kỹ thuật xúc tiến thương mại trên cả nước, sớm chỉ ra cần phải đầu tư những cơ sở hạ tầng nào, ở đâu, quy mô và mức độ đầu tư đến đâu, khi nào cần đầu tư…. Ngoài ra, việc tăng cường  công tác đào tạo, nâng cao chất lượng cán bộ làm công tác xúc tiến thương mại; tăng cường liên kết lẫn phối hợp giữa các cơ quan xúc tiến thương mại, hiệp hội, doanh nghiệp; chú trọng công tác hoạch định, xây dựng chiến lược dài hạn về công tác  xúc tiến thương mại ; phát triển ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại trong hoạt động xúc tiến thương mại … Mới đây, tỉnh Đắc Lắc đã tiến hành nhiều hoạt động nhằm đẩy mạnh việc xúc tiến thương mại như tổ chức Tuần lễ cà phê thường niên tại Đắc Lắc, ngoài ra, còn tổ chức Tuần lễ văn hóa cà phê ở hai thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Tuần lễ văn hoá cà phê này là hoạt động quảng bá, gắn kết kinh tế với văn hoá, đưa kinh tế cà phê vượt qua giới hạn của hoạt động sản xuất, làm thăng hoa giá trị của cây cà phê để xúc tiến thương mại, quảng bá thương hiệu nhằm tăng tiêu thụ cà phê nội địa, vừa đẩy mạnh tiêu thụ cà phê ở nước ngoài, tăng thu nhập cho người trực tiếp sản xuất cà phê. 3.4.2 Xây dựng thương hiệu vững mạnh Để thành công trên thương trường, một doanh nghiệp cà phê phải hội đủ 3 yếu tố: chất lượng sản phẩm, thương hiệu mạnh và hệ thống phân phối hoàn hảo, trong đó, thương hiệu là yếu tố được xác định là quan trọng nhất. Hiện nay cà phê Việt Nam đã có một số thương hiệu trên thị trường quốc tế như Trung Nguyên, Victoria, Inexim, Simexco, Rossi, Vica... Ngày 2-12, Bộ Khoa học Công nghệ đã chính thức công bố thương hiệu cà phê Buôn Ma Thuột, công nhận là tài sản quốc gia và được Nhà nước bảo hộ vô thời hạn. Xây dựng thương hiệu trước hết phải đặt vấn đề quảng bá sản phẩm lên hàng đầu, nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng có điều kiện chi phí cho hoạt động này. Kinh phí càng lớn khi quảng cáo sản phẩm ra nước ngoài. Những trở ngại khác mà các doanh nghiệp đang gặp phải trong quá trình xây dựng thương hiệu như thiếu đội ngũ marketing, thông thạo ngoại ngữ, đặc biệt là thiếu am hiểu thị hiếu tiêu dùng của người nước ngoài. Những cơ chế quản lý trong doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp quốc doanh, chưa cho phép chú trọng hoạt động quảng bá, xúc tiến thương mại, doanh nghiệp cũng còn thiếu hiểu biết về pháp luật sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, việc xây dựng thương hiệu là một nhu cầu, điều kiện tất yếu trong việc phát triển ngành cà phê Việt Nam. Hội nhập kinh tế quốc tế là cả một quá trình lâu dài, ở đó cơ hội và thách thức luôn song hành với nhau. Không có con đường nào khác, nếu muốn giữ vững thị trường quốc tế, Việt Nam phải khẳng định được khả năng cạnh tranh của mình bằng việc xây dựng và phát triển thương hiệu vững mạnh. 3.4.3 Mở rộng thị trường xuất khẩu Đổi mới, nâng cao hiệu quả của việc tiếp thị, tìm kiếm thị trường là một yêu cầu bức thiết của ngành Việt Nam. Hiện nay cà phê Việt Nam được xuất sang trên 70 quốc gia và vùng lãnh thổ nhưng còn thiếu những thị trường truyền thống. Những bạn hàng lâu năm, đáng tin cậy còn chưa thật nhiều. Ngành cà phê Việt nam cũng còn chưa tham gia các thị trường kỳ hạn. Đó là các mặt còn non yếu của ngành cà phê . EU hiện nay vẫn là thị trường tiêu thụ lớn nhất của cà phê Việt Nam, chiếm tới hơn 50% sản lượng xuất khẩu cà phê của Việt Nam. Chúng ta cũng đã xuất khá nhiều sang Hoa Kỳ, nhưng đây là thị trường nhập khẩu cà phê nhiều nhất trên thế giới nên vẫn cón nhiều tiềm năng để các doanh nghiệp có thể mở rộng thị trường kinh doanh của mình. Thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam ngày càng mở rộng, ngoài các nước ở châu Âu và Hoa ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc27973.doc
Tài liệu liên quan