Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay hoạt động xuất khẩu trở nên vô cùng quan trọng trong hoạt động thương mại đối với bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới. Thông qua hoạt động xuất khẩu, các quốc gia khai thác được lợi thế của mình trong phân công lao động quốc tế, tạo nguồn thu ngoại tệ quan trọng cho đất nước, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và đặc biệt là tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Đối với Việt Nam, hoạt động xuất khẩu thực sự có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp
104 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1281 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm thúc đẩy Xuất khẩu hàng nông sản của Công ty HAPROSIMEX SAIGON, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xây dựng và phát triển kinh tế, tạo tiền đề vững chắc để thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Có đẩy mạnh xuất khẩu, mở cửa nền kinh tế Việt Nam mới có điều kiện thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội và ổn định đời sống nhân dân.
Từ đặc điểm nền kinh tế là một nước nông nghiệp với dân số chủ yếu tham gia vào hoạt động nông nghiệp, Việt Nam đã xác định nông sản là mặt hàng xuất khẩu quan trọng nhằm tạo nguồn thu ban đầu cực kỳ cần thiết cho phát triển kinh tế đất nước. Chính vì vậy nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích sự tham gia của các Công ty trong lĩnh vực xuất khẩu hàng nông sản. Mặt hàng nông sản là một trong những mặt hàng được Công ty SX-DV&XNK Nam Hà Nội (HAPROSIMEX SAIGON) chú trọng trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của mình. Qua thực tế thực tập tốt nghiệp tại Công ty HAPROSIMEX SAIGON cho thấy Công ty đã tìm ra cho mình hướng đi đúng trong hoạt động xuất khẩu, góp phần đưa nền kinh tế đất nước phát triển. Song bên cạnh những thành công mà Công ty đã đạt được vẫn còn những hạn chế nhất định trong việc xuất khẩu mặt hàng nông sản đặc biệt là hoạt động thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng nông sản của công ty còn nhiều bất cập. Vì vậy tôi đã chọn đề tài " Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản tại Công ty HAPROSIMEX SAIGON" làm đề tài để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Trên cơ sở tổng kết những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động xuất khẩu, phân tích và đánh giá tình hình xuất khẩu hàng nông sản của Công ty trong giai đoạn 1998 - 2002 để đưa ra một số kiến nghị và giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng nông sản của Công ty HAPROSIMEX SAIGON.
3. Đối tượng nghiên cứu: hoạt động kinh doanh mặt hàng nông sản xuất khẩu của công ty HAPROSIMEX SAIGON
4. Phạm vi nghiên cứu: kết quả kinh doanh mặt hàng nông sản xuất khẩu của công ty giai đoạn 1998-2002
5. Kết cấu của Luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề lí luận cơ bản về xuất khẩu và sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu nông sản của việt Nam
Chương II: Thực trạng xuất khẩu nông sản của công ty SX-DV&XNK Nam Hà Nội (HAPROSIMEX SAIGON).
Chương III: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của công ty HAPROSIMEX SAIGON.
Chương I
Những vấn đề lí luận cơ bản về Xuất khẩu và sự Cần
thiết phải thúc đẩy xuất khẩu nông sản của việt Nam
I. Cơ sở lý luận của xuất khẩu
Các lý thuyết về Thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế ra đời từ hàng ngàn năm nay và quy mô của nó ngày càng mở rộng trong nền kinh tế thế giới hiện đại. Các học giả đã bỏ ra nhiều công sức vào việc lý giải nguyên nhân, những điều kiện cần thiết cũng như lợi ích đạt được từ thương mại quốc tế. Cơ sở của thương mại quốc tế bắt nguồn từ đâu? Trong trao đổi thương mại quốc tế ai được lợi và khi nào được lợi? Giữa quốc gia phát triển cao với quốc gia phát triển thấp hơn có nên trao đổi thương mại hay không? Bằng cách nào mà thu được lợi ích trong thương mại quốc tế? Có nhiều lý thuyết khác nhau đề cập đến những vấn đề này, ban đầu là trường phái trọng thương, tiếp theo là lý thuyết tuyệt đối, lý thuyết về lợi thế tương đối...ở đây chỉ xin trình bày một số nội dung cơ bản của các lý thuyết trên nhằm tạo nên những cơ sở lý luận cho những nghiên cứu tiếp theo.
Lý thuyết của trường phái trọng thương
Lý thuyết trọng thương là nền tảng cho các tư duy kinh tế từ năm 1500 đến năm 1800. Lý thuyết này cho rằng sự phồn vinh của một quốc gia được đo bằng bằng lượng tài sản mà quốc gia đó cất giữ và thường được tính bằng vàng. Theo lý thuyết này, Chính phủ phải là người trực tiếp tham gia vào việc trao đổi hàng hoá giữa các nước để đạt được sự gia tăng của cải của mỗi nước. Từ đó đi tới chính sách là phải tăng cường xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu và nếu thành công họ sẽ nhận được giá trị thặng dư mậu dịch được tính theo vàng từ các nước khác. Những người trọng thương cho rằng thương mại quốc tế chỉ có lợi cho một bên và gây thiệt hại cho bên kia, nói cách khác là quốc gia nào xuất khẩu được nhiều thì có lợi, còn quốc gia nào nhập khẩu nhiều thì bị thiệt hại. Đến giai đoạn cuối trường phái trọng thương có điều chỉnh quan niệm của họ và cho rằng có thể tăng cường mở rộng nhập khẩu nếu như qua đó thúc đẩy việc xuất khẩu nhiều hơn nữa, tức là nếu cán cân thương mại vẫn nghiêng ngày càng nhiều về phía xuất khẩu. Lý luận của trường phái trọng thương là một bước tiến đáng kể trong tư tưởng về kinh tế học vì nó đánh giá được tầm quan trọng của xuất khẩu và nhấn mạnh vai trò của Chính phủ trong việc thúc đẩy xuất khẩu. Những tư tưởng này đã góp phần quan trọng vào việc mở rộng thương mại quốc tế.
Nhìn chung quan điểm của trường phái trọng thương ít tình lý luận và thường chỉ mới được nêu ra dưới hình thức những lời khuyên thực tiễn về chính sách kinh tế, nặng tính kinh nghiệm vì dựa trên cơ sở những quan sát đối với các hoạt động buôn bán của nước Anh và Hà Lan vào thời gian bấy giờ. ảnh hưởng của lý thuyết trọng thương đã bị mờ nhạt đi sau năm 1800.
1.2. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith
Không như trường phái trọng thương, AdamSmith cho rằng: “sự giàu có của mỗi quốc gia phụ thuộc vào số hàng hoá và dịch vụ có sẵn hơn là phụ thuộc vào vàng”. Theo Adam Smith, nếu thương mại không bị hạn chế theo nguyên tắc phân công thì các quốc gia có lợi ích từ thương mại quốc tế - nghĩa là mỗi quốc gia có lợi thế về mặt điều kiện tự nhiên hay do trình độ sản xuất phát triển cao sẽ sản xuất ra những sản phẩm nhất định mà mình có lợi thế với chi phí thấp hơn so với các nước khác. Ông phê phán sự phi lý của lý thuyết trọng thương và chứng minh rằng: mậu dịch sẽ giúp cả hai bên đều gia tăng tài sản. Theo ông, nếu mỗi quốc gia đều chuyên môn hoá vào những ngành sản xuất mà họ có lợi thế tuyệt đối, thì họ có thể sản xuất được những sản phẩm có chi phí thấp hơn so với nước khác để xuất khẩu, đồng thời lại nhập khẩu về những hàng hoá mà nước này không sản xuất được hoặc sản xuất được nhưng chi phí sản xuất cao hơn giá nhập khẩu. Nhờ sự chuyên môn hoá các nước có thể gia tăng hiệu quả của họ do người lao động lành nghề, do công việc của họ được lặp lại nhiều lần, người lao động không phải mất thời gian trong việc chuyển sản xuất sản phẩm này sang sản phẩm khác, do làm một công việc lâu dài, người lao động sẽ có nhiều kinh nghiệm và có các sáng kiến, các phương pháp làm việc tốt hơn. Mặc dù Adam Smith cho rằng, thị trường chính là nơi quyết định nhưng ông vẫn nghĩ lợi thế của một nước có thể là do lợi thế tự nhiên hay do nổ lực cả nước đó.
Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo
Theo lý thuyết này, mỗi quốc gia có nhiều hiệu quả thấp hơn so với các nước khác trong việc sản xuất các loại sản phẩm mà vẫn có thể tham gia vào hoạt động xuất khẩu vì nó có thể tạo ra lợi ích không nhỏ mà nếu bỏ qua quốc gia đó sẽ mất đi cơ hội để phát triển. Nói cách khác trong điểm bất lợi vẫn có những điểm thuận lợi để khai thác khi tham gia vào hoạt động xuất khẩu, những quốc gia có hiệu quả thấp trong việc sản xuất ra các loại hàng hoá sẽ có thể chuyên môn hoá sản xuất hàng hoá ít bất lợi nhất để trao đổi với các quốc gia khác và nhập về những hàng hoá mà việc sản xuất ra nó gặp rất nhiều khó khăn và bất lợi. Từ đó tiết kiệm được nguồn lực của mình và thúc đẩy sản xuất trong nước.
Cái cốt lõi của quy luật lợi thế so sánh của D.Ricardo chính là sự khéo léo lựa chọn kiểu kết hợp giữa cái ưu thế của mình và cái ưu thế của nước khác nhằm đạt được hiệu quả tối đa. Chính thông qua trao đổi thương mại quốc tế khi mà có thể lựa chọn kiểu kết hợp này, khai thác lợi thế tuyệt đối và cả lợi thế tương đối của mỗi nước. Khi xây dựng lý thuyết lợi thế tương đối, D.Ricardo dựa trên một số giả thiết đã được đơn giản hoá như: thế giới chỉ có 2 quốc gia, chỉ sản xuất 2 mặt hàng, mỗi quốc gia có lợi thế về sản xuất 1 mặt hàng, lao động có thể di chuyển tự do trong mỗi nước nhưng không di chuyển giữa 2 nước, chi phí sản xuất không đổi, chi phí vận chuyển bằng 0, thương mại hoàn toàn tự do...
Trên cơ sở nghiên cứu một số lý thuyết về thương mại quốc tế điển hình, chúng ta có thể nhận thấy được rằng hoạt động xuất khẩu là một trong những nội dung chính của các lý thuyết này. Hoạt động xuất khẩu có vai trò quan trọng tác động đến sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Vì thế mà các quốc gia đều luôn coi hoạt động xuất khẩu là hoạt động quan trọng có tính chiến lược của mình.
Khái niệm hoạt động xuất khẩu
Xuất khẩu là một bộ phận của hoạt động ngoại thương, là việc buôn bán hàng hoá và dịch vụ cho một quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán với nguyên tắc ngang giá. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hay đối với cả hai quốc gia.
Hoạt động xuất khẩu được diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện kinh tế, từ xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng đến hàng hoá sản xuất, từ máy móc thiết bị cho đến các công nghệ kỹ thuật cao, từ hàng hoá hữu hình cho đến hàng hoá vô hình. Tất cả các hoạt động trao đổi này đều nhằm mục đích đem lại lợi ích cho các quốc gia tham gia. Hoạt động này còn diễn ra trong phạm vi rất rộng cả về không gian và thời gian. Nó có thể chỉ diễn ra trong một ngày hay kéo dài hàng năm, có thể diễn ra trên phạm vi lãnh thổ của một hay nhiều quốc gia.
Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được lợi thế của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Việc trao đổi hàng hoá mang lại lợi ích cho các quốc gia, do đó các quốc gia đều tích cực tham gia mở rộng hoạt động này. Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của ngoại thương đã xuất hiện từ rất lâu và ngày càng phát triển.
Nếu xem xét dưới góc độ các hình thức kinh doanh quốc tế thì xuất khẩu là hình thức cơ bản đầu tiên mà các doanh nghiệp thường áp dụng khi bước vào lĩnh vực kinh doanh quốc tế. Mọi công ty luôn hướng tới xuất khẩu những sản phẩm và dịch vụ của mình ra nước ngoài . Do vậy mà xuất khẩu được xem như chiến lược kinh doanh quan trọng của các công ty.
Có nhiều nguyên nhân khuyến khích các công ty thực hiện xuất khẩu trong đó có thể là:
+ Sử dụng khả năng vượt trội ( hoặc những lợi thế) của công ty.
+ Giảm được chi phí cho 1 đơn vị sản phẩm do nâng cao khối lượng sản xuất.
+ Nâng cao được lợi nhuận của công ty.
+ Giảm được rủi ro do tối thiểu hoá sự dao động của nhu cầu.
Khi một thị trường chưa bị hạn chế bởi thuế quan, hạn ngạch, các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật.. hay năng lực của các tổ chức kinh doanh quốc tế chưa đủ thực hiện các hình thức cao hơn thì hình thức xuất khẩu được lựa chọn vì ở xuất khẩu lượng vốn ít hơn, rủi ro thấp hơn và thu được hiệu quả kinh tế cao trong thời gian ngắn.
Các hình thức xuất khẩu
Xuất khẩu trực tiếp
Trong hình thức này, các nhà xuất khẩu trực tiếp giao dịch và ký kết hợp đồng bán hàng cho các doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài được nhà nước và Pháp luật cho phép. Với hình thức này không có sự tham gia của bất kỳ một tổ chức trung gian nào
Hình thức xuất khẩu trực tiếp có ưu điểm là:
-Các doanh nghiệp có thể liên hệ trực tiếp và đều đặn với khách hàng, với thị trường nước ngoài, nhờ đó biết được yêu cầu của khách hàng và tình hình bán hàng ở đó nên có thể chủ động trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
- Tận dụng được hết tiềm năng, lợi thế để sản xuất hàng xuất khẩu.
- Lợi nhuận thu được không phải phân chia, giảm được chi phí trung gian.
Nhưng trong hình thức xuất khẩu trực tiếp này đòi hỏi các doanh nghiệp xuất khẩu phải có một số các điều kiện: có khối lượng hàng hoá lớn, thị trường ổn định, có năng lực thực hiện xuất nhập khẩu.
Xuất khẩu uỷ thác
Trong hình thức này, đơn vị xuất khẩu (bên nhận ủy thác) nhận xuất khẩu một lô hàng nhất định với danh nghĩa của mình và nhận được một khoản thù lao theo thỏa thuận với đơn vị có hàng xuất khẩu (bên ủy thác). Xuất khẩu uỷ thác được áp dụng trong trường hợp một doanh nghiệp có hàng hoá muốn xuất khẩu, nhưng vì doanh ngiệp không được phép tham gia trực tiếp vào hoạt động xuất khẩu hoặc không có điều kiện để tham gia. Theo hình thức này, quan hệ giữa người bán và người mua được thông qua người thứ ba gọi là trung gian (người trung gian phổ biến trên thị trường là đại lý và môi giới).
Ưu điểm của hình thức này là:
- Giúp cho các doanh nghiệp có thể xuất khẩu được những mặt hàng mà họ có khả năng sản xuất nhưng không có điều kiện thực hiện xuất khẩu.
- Đơn vị có hàng xuất khẩu (bên uỷ thác) không phải bỏ ra một khoản vốn lớn để đầu tư trực tiếp ra nước ngoài do đó rủi ro trong kinh doanh là không cao.
- Những người trung gian hiểu biết thị trường, luật pháp, tập quán địa phương nhờ đó họ có khả năng đẩy mạnh việc buôn bán và giảm bớt rủi ro cho người uỷ thác
Nhược điểm của hình thức này:
- Lợi nhuận bị phân chia
- Thông tin chậm hoặc đôi khi thiếu chính xác.
- Bên uỷ thác không trực tiếp liên hệ với khách hàng và thị trường nước ngoài nên không chủ động trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
Do đó nên sử dụng các hình thức xuất khẩu uỷ thác trong các trường hợp cần thiết như: khi thâm nhập vào thị trường mới hoặc khi đưa ra thị trường một loại sản phẩm mới...để tránh rủi ro cao
Buôn bán đối lưu.
Đây là phương thức giao dịch mà trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán hàng đồng thời là người mua, lượng hàng hoá mang trao đổi có giá trị tương đương. Mục đích của hình thức này không nhằm thu về một khoản ngoại tệ mà nhằm thu về một lượng hàng hoá có giá trị bằng giá trị lô hàng xuất khẩu. Hình thức xuất khẩu này giúp doanh nghiệp tránh được sự biến động của tỉ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối đồng thời có lợi khi các bên không có đủ ngoại tệ để thanh toán cho lô hàng nhập khẩu của mình.Có rất nhiều loại hình buôn bán đối lưu như: hàng đổi hàng, trao đổi bù trừ, chuyển giao nghĩa vụ , mua lại sản phẩm
Gia công xuất khẩu (gia công quốc tế)
Là hình thức xuất khẩu, trong đó một bên (gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của bên khác (gọi là bên đặt gia công) để chế tạo ra thành phẩm giao lại cho bên đặt gia công và qua đó thu được một khoản phí như thỏa thuận của cả hai bên.
Ưu điểm của hình thức này là giúp bên nhận gia công tạo công ăn việc làm cho người lao động, nhận được các thiết bị công nghệ tiên tiến để phát triển sản xuất. Đây là hình thức được áp dụng phổ biến ở các nước đang phát triển có nguồn nhân lực dồi dào, có tài nguyên thiên nhiên phong phú. Đối với nước đặt gia công cũng được hưởng lợi vì họ tận dụng được nguồn nhân công rất lớn với giá rẻ, tận dụng được nguồn nguyên vật liệu sẵn có của bên nước nhận gia công.
Xuất khẩu theo nghị định thư:
Đây là hình thức mà doanh nghiệp xuất khẩu theo chỉ tiêu mà nhà nước giao cho để tiến hành xuất khẩu một hoặc một số loại hàng hóa nhất định cho chính phủ nước ngoài trên cơ sở nghị định thư đã được ký giữa hai chính phủ. Hình thức này cho phép doanh nghiệp tiết kiệm được các khoản chi phi trong việc nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng. Mặt khác, thực hiện hình thức này thường không có rủi ro trong thanh toán.
3.6. Xuất khẩu tại chỗ
Là hình thức kinh doanh mà hàng xuất khẩu không cần vượt qua biên giới quốc gia nhưng khách hàng vẫn có thể mua được. ở hình thức này doanh nghiệp không cần phải đích thân ra nước ngoài đàm phán trực tiếp với người mua mà chính người mua lại tìm đến với doanh nghiệp do vậy doanh nghiệp tránh được những thủ tục rắc rối của hải quan, không phải thuê phương tiện vận chuyển, không phải mua bảo hiểm hàng hóa. Hình thức này thường được áp dụng với nước có thế mạnh về du lịch, có nhiều tổ chức nước ngoài đóng tại quốc gia đó.
Nội dung chính của hoạt động xuất khẩu hàng hoá: bao gồm các bước
Bước 1
Nghiên cứu thị trường
Bước 2
Lập kế hoạch xuất khẩu
Bước 3
Đàm phán và ký kết
hợp đồng xuất khẩu
Bước 4
Thực hiện hợp đồng
xuất khẩu
Bước 5
Thanh lý hợp đồng
xuất khẩu
Hình 1 : Các bước thực hiện xuất khẩu hàng hoá
4.1. Nghiên cứu tiếp cận thị trường:
4.1.1. Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu (bán gì?)
Đây là một trong những nội dung cơ bản và cần thiết đầu tiên, các doanh nghiệp có ý định gia nhập vào thị trường thương mại quốc tế thì trước tiên phải xác định được mặt hàng mà mình sẽ đưa ra. Mục đích của việc lựa chọn mặt hàng xuất khẩu là để lựa chọn được những mặt hàng kinh doanh phù hợp năng lực và khả năng của doanh nghiệp đồng thời đáp ứng được nhu cầu thị trường, từ đó mới mang lại hiệu quả cao trong kinh doanh.
Mặt hàng được lựa chọn ngoài yêu cầu phải đạt tiêu chuẩn phù hợp với thị trường quốc tế còn phải phù hợp với khả năng cung ứng của doanh nghiệp. Chính điều này đòi hỏi phải có sự phân tích, đánh giá kỹ khả năng nội tại của doanh nghiệp cũng như dự đoán được thuận lợi và khó khăn của doanh nghiệp khi đưa mặt hàng này vào thị trường quốc tế. Khi lựa chọn mặt hàng xuất khẩu các nhà kinh doanh phải chú ý nghiên cứu những vấn đề sau:
Mặt hàng thị trường đang cần là gì ? Để trả lời câu hỏi này đòi hỏi các nhà doanh nghiệp phải nhạy bén, biết sử dụng, thu thập, phân tích thông tin về thị trường xuất khẩu, vận dụng được các quan hệ bán hàng để từ đó có được thông tin cần thiết về mặt hàng, chủng loại, quy cách, mẫu, mã...
Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó như thế nào? Việc tiêu dùng các mặt hàng thường tuân theo một tập quán tiêu dùng nhất định, phụ thuộc vào thời gian tiêu dùng, thị hiếu tiêu dùng, quy luật biến động của quan hệ cung cầu của mặt hàng đó.
Mặt hàng đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống? Chu kỳ sống của mỗi sản phẩm bao gồn bốn giai đoạn: triển khai, tăng trưởng, bão hoà, suy thoái. Do vậy, nhà xuất khẩu đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống để từ đó có biện pháp thích hợp nhằm tăng doanh thu.
4.1.2. Lựa chọn thị trường xuất khẩu (bán ở đâu)
Việc lựa chọn thị trường để xuất khẩu phức tạp hơn nhiều so với việc nghiên cứu thị trường trong nước, bởi ngoài việc nghiên cứu về quy luật vận động của thị trường... còn phải nghiên cứu một số vấn đề khác như: điều kiện tiền tệ, tín dụng điều kiện vận tải (của thị trường nước ngoài mà mình hướng tới)...Việc lựa chọn thị trường phải chú ý một số vấn đề sau:
Thị trường và dung lượng thị trường: nhà xuất khẩu phải tìm hiểu và nắm được các thông tin về các nhân tố làm thay đổi thị trường và dung lượng thị trường như:
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hóa được giao dịch trên phạm vi thị trường nhất định trong một thời gian nhất định. Dung lượng thị trường thường biến động do chịu ảnh hưởng của ba nhóm nhân tố sau:
-Nhóm nhân tố làm dung lượng thị trường thay đổi có tính chu kỳ: Đó là sự vận động của tình hình kinh tế các nước xuất khẩu, tính thời vụ trong sản xuất, lưu thông và phân phối hàng hoá. Việc nghiên cứu ảnh hưởng này có ý nghĩa quan trọng quyết định việc định thời gian, địa điểm và đối tác giao dịch.
-Nhóm các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến dung lượng thị trường, các nhân tố thuộc nhóm này rất nhiều, chúng ảnh hưởng đến dung lượng thị trường rất dài. VD: tiến bộ khoa học cong nghệ, chế độ chính sách của nhà nước, thị hiếu và tập quán của người tiêu dùng
-Nhóm các nhân tố ảnh hưởng có tính tạm thời tới dung lượng thị trường bao gồm sự đầu cơ trên thị trường gây đột biến về cung cầu và sự biến động của các chính sách chính trị-xã hội và các yếu tố biến động của thiên nhiên.
Vấn đề biến động giá cả trên thị trường.
Việc phân tích và xác định xu hướng biến động giá cả trên thị trường quốc tế là cơ sở để giúp các nhà sản xuất xác định được mức giá tối ưu cho mặt hàng xuất khẩu. Do đó, người xuất khẩu phải nắm vững và có đầy đủ thông tin về sự biến động giá cả của hàng hoá trên thị trường quốc tế cũng như giá nguồn hàng cung cấp trong nước để có biến pháp thích hợp tăng hiệu qủa trong việc xuất khẩu hàng hoá.
Trong kinh doanh quốc tế, việc xác định giá cả của hàng hoá càng trở nên phức tạp, do hàng hoá vận chuyển trong thời gian dài và qua các nước, các khu vực khác nhau với những điều kiện khác nhau (thuế quan, chi phí vận chuyển...). Để thích ứng với sự biến động của giá cả thị trường, các nhà kinh doanh phải luôn linh hoạt trong việc định giá cho hàng hoá. Thông thường các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu thường định giá bán hàng hoá dựa trên ba căn cứ vào:
-Căn cứ vào giá thành và các chi phí khác (chi phí vận chuyển, mua bảo hiểm, chi phí bao bì, đóng gói...)
- Căn cứ vào sức mua và nhu cầu của người tiêu dùng.
-Căn cứ vào giá cả hàng hoá cạnh tranh.
4.1.3. Lựa chọn đối tác kinh doanh (bán cho ai?)
Trong hoạt động xuất khẩu, để có thể thâm nhập vào thị trường nước ngoài một cách thuận lợi, hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro, doanh nghiệp phải thông qua một hay nhiều công ty đang hoạt động trên thị trường đó, họ có kinh nghiệm thị trường mình cần hướng tới cũng như địa vị pháp lý để đảm bảo cho hai bên hoạt động một cách thuận lợi.
Nhưng khi lựa chọn đối tác cần phải chú ý tới:
- Quan điểm kinh doanh của đối tác
- Lĩnh vực kinh doanh của đối tác
- Khả năng về tài chính.
- Uy tín và mối quan hệ của đối tác kinh doanh.
- Những người đại diện cho Công ty kinh doanh và phạm vi trách nhiệm của họ đối với Công ty nếu người giao dịch trực tiếp là đại diện của Công ty.
Khi lựa chọn đối tác giao dịch, phương án tối ưu là trực tiếp giao dịch, ký kết hợp đồng với bạn hàng kinh doanh hạn chế những hoạt động trung gian. Nên ưu tiên những bạn hàng đã có quan hệ làm ăn quen thuộc. Trong một số trường hợp có thể sử dụng các trung gian nếu xét thấy cần thiết và có hiệu quả đó là khi chúng ta thâm nhập vào thị trường mới.
Việc lựa chọn đối tác sáng suốt và chính xác là cơ sở vững chắc để dẫn đến thành công trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ.
4.2. Xây dựng kế hoạch xuất khẩu
Dựa vào kết quả thu được từ việc nghiên cứu thị trường, các đơn vị kinh doanh xuất khẩu cần xây dựng một kế hoạch kinh doanh cụ thể. Đây là bước chuẩn bị trên giấy tờ, dự đoán về diễn biến của quá trình xuất khẩu hàng hoá cũng như mục tiêu sẽ đạt được khi thực hiện quá trình này. Kế hoạch kinh doanh là phương án hoạt động cụ thể của doanh nghiệp nhằm đạt được các mục tiêu xác định trong kinh doanh.
Nội dung của công việc xây dựng kế hoạch kinh doanh gồm:
Đánh giá tổng quát về thị trường và đối tác buôn bán, dựa trên những kết quả phân tích về thị trường và đối tác để từ đó rút ra các mặt thuận lợi và những khó khăn của Công ty khi tham gia vào quan hệ buôn bán này.
Lựa chọn mặt hàng, thời gian, địa điểm và điều kiện cũng như phương thức kinh doanh. Bước này đòi hỏi phải chi tiết cụ thể dựa trên phân tích các thông tin có liên quan.
Đề ra các mục tiêu cụ thể khi tiến hành kinh doanh các mục tiêu này có thể là mục tiêu về doanh số, lợi nhuận, mục tiêu về uy tín... Đây là bước thực hiện cần thiết bởi vì phải xác định rõ mục tiêu thì từ đó mới có cơ sở để xây dựng các biện pháp cụ thể để đạt mục tiêu đã đề ra.
Xây dựng các biện pháp, cách thức thực hiện để đạt mục tiêu đề ra. Đó là các biện pháp trong nước (đầu tư vào sản xuất, cải tiến bao bì, chất lượng sản phẩm, tăng giá thu mua...), các biện pháp ở ngoài nước (quảng cáo, tăng cường quan hệ bạn hàng, lập chi nhánh ở nước ngoài...) trên cơ sở phân tích khả năng tài chính của doanh nghiệp
Một kế hoạch kinh doanh có khoa học dựa trên cơ sở phân tích chuẩn xác và đúng dắn về thị trường, bạn hàng cũng như về nội lực của Công ty mình sẽ góp phần vào thành công trong kinh doanh.
4.3. Đàm phán và ký kết hợp đồng xuất khẩu
Đàm phán và kí kết hợp đồng xuất khẩu là một trong những khâu quan trọng của hoạt động xuất khẩu. Nó quyết định đến khả năng, đều kiện thực hiện những công đoạn mà doanh nghiệp thực hiện trước đó, đồng thời cũng quyết định đến tính khả thi hay không khả thi của các kế hoạch kinh doanh của các doanh nghiệp.
Việc đàm phán phải căn cứ vào nhu cầu thị trường, vào đối thủ cạnh tranh, khả năng, điều kiện và mục tiêu của doanh nghiệp cũng như mối quan hệ giữa doanh nghiệp và đối tác. Nếu đàm phán diễn ra tốt đẹp thì kết quả của nó là hợp đồng sẽ được kí kết. Một cam kết trong hợp đồng sẽ là những pháp lý quan trọng, vững chắc và đáng tin cậy để các bên thực hiện đúng lời cam kết của mình.
Đàm phán có thể được thực hiện thông qua thư tín, qua điện thoại hay gặp gỡ trực tiếp và được tiến hành qua các bước sau: chào hàng, hoàn giá, xác nhận và chấp nhận
Khi ký kết hợp đồng cần lưu ý các điểm sau:
- Văn bản hợp đồng thường do một bên soạn thảo, bên kia cần xem xét kỹ lưỡng và cho ý kiến, nên dùng ngôn ngữ mà hai bên cùng thông thạo.
- Người ký hợp đồng phải có đủ thẩm quyền và phải chịu trách nhiệm về nội dung đã ký.
- Hợp đồng cần phải được trình bày rõ ràng, nội dung phải phản ánh đúng sự thoả thuận, không để tình trạng mập mờ suy luận nhiều cách khác nhau.
- Các điều khoản trong hợp đồng phải tuân thủ đúng pháp luật quốc tế, cũng như pháp luật của các bên tham gia ký kết.
4.4. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu
Sau khi đã ký kết hợp đồng, người xuất khẩu sẽ tổ chức thực hiện hợp đồng mình đã ký kết. Căn cứ vào nội dung hợp đồng, doanh nghiệp tiến hành sắp xếp các công việc phải làm, ghi thành bảng theo dõi tiến độ thực hiện hợp đồng
Kiểm tra chất lượng hàng XK
Chuẩn bị hàng XK
Thuê tầu
Xin giấy phép XK
Giải quyết tranh chấp
Thanh toán hợp đồng
Giao hàng
Làm thủ tục hải quan
Mua bảo hiểm
Hình 2 : Các bước tiến hành việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu
4.4.1. Xin giấy phép xuất khẩu hàng hoá
Đây là vấn đề quan trọng đầu tiên về mặt pháp lý để tiến hành các khâu khác trong quá trình xuất khẩu hàng hoá với xu hướng mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, Nhà nước tạo diều kiện thuận lợi cho các đơn vị sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu.
4.4..2. Chuẩn bị hàng xuất khẩu
Bước nay bao gồm các khâu nghiên cứu lựa chọn nguồn hàng, lựa chọn khu vực đặt hàng, địa điểm tập kết giao hàng, phương thức mua bán nhằm có được hàng đúng chất lượng, đúng thời gian và thuận tiện cho vấn đề tài chính, huy động vốn. Việc thu gom hàng được tập trung thành lô hàng xuất khẩu thông qua việc mua đứt bán đoạn , gia công, hàng đổi hàng, đại lý thu mua, hoặc nhận uỷ thác xuất khẩu. Công tác thu mua là một công đoạn quan trọng, do đó cần xây dựng công tác thu mua hợp lý thông qua các đại lý các chi nhánh của mình. Như vậy sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm dược chi phí thu mua, nâng cao năng suất và hiệu quả thu mua.
Đóng gói bao bì hàng xuất khẩu có một ý nghĩa quan trọng bởi nó đảm bảo được phẩm chất hàng hoá khi vận chuyển, tạo điều kiện nhận biết và phân loại hàng hoá, đông thời gây ấn tượng có thể làm người mua thích thú. Trong kinh doanh quốc tế người ta dùng nhiều loại bao bì khác nhau, thông thường được phân loại theo dụng cụ của nó như: hòm, bao, kiện, ...
Kẻ kí mã hiệu hàng hoá xuất khẩu: kí mã hiệu là những kí hiệu bằng chữ, bằng số hoặc bằng vẽ hình được ghi trên bao bì nhằm thông báo những thông tin cần thiết cho việc giao nhận, bốc dỡ, bảo quản. Kí mã hiệu cần phải sáng sủa, rõ ràng, dễ đọc, không phai mờ, không ảnh hưởng tới phẩm chất của hàng hoá.
4.4.3. Kiểm tra chất lượng hàng hoá xuất khẩu
Đây là công việc cần thiết, nhằm bảo đảm quyền lợi của nhà nhập khẩu, ngăn chặn kịp thời các hậu quả xấu, phân định trách nhiệm rõ ràng của các khâu trong sản xuất tạo nguồn hàng và đảm bảo uy tín cho nhà xuất khẩu.
Trước khi xuất khẩu, các nhà xuất khẩu phải có nghĩa vụ kiểm nghiệm và kiểm dịch hàng hoá. Việc kiểm tra chất lượng hàng hoá do hai bên tự chịu trách nhiệm thông qua hợp đồng. Cơ quan nhà nước có chức năng kiểm tra chất lượng hàng hoá xuất khẩu, có quyền thu hồi giấy phép về tự kiểm tra hàng hoá đó đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu tự kiểm nghiệm mà không làm đúng chức năng của mình. Việc kiểm tra có thể tiến hành ở cửa khẩu hoặc tại cơ sở, tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng loại hàng hoá.
4.4.4. Thuê tàu
Trong quá trình thực hiện hơp đồng mua bán ngoại thương việc thuê tàu, chở hàng dựa vào các căn cứ sau:
+ Những điều khoản hợp đồng mua bán
+ Điều kiện vận tải.
Tuỳ theo điều kiện hàng đối lưu, người ta có thể thuê khứ hồi hoặc chuyên chở liên tục. Nếu hàng hoá không có khối lượng lớn thí người ta thường đăng kí ( lưu cước ) chỗ của một tàu chọ để chở hàng. Thông thường trong nhiều trường hợp doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu thường uỷ thác việc thuê tàu, lưu cước cho một công ty vận tải thuê tàu như: Letfracht, Transimex...
4.4.5. Mua bảo hiểm
Chuyên chở hàng hoá bằng đường biển thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất. Vì vậy trong kinh doanh quốc tế bảo hiểm hàng hoá đường biển là loại bảo hiểm phổ biến nhất. Căn cứ vào các điều khoản, phương thức vận chuyển mà nhà xuất khẩu hay nhập khẩu tiến hành mua bảo hiểm hay không. Hợp đồng bảo hiểm có thể chia thành:
+ Hợp đồng bảo hiểm bao
+ Hợp đồng bảo hiểm chuyến
Tuỳ theo phương thức mua bán của nhà kinh doanh xuất khẩu mà sẽ mua bảo hiểm nào. Khi kí kết hợp đồng bảo hiểm cần nắm vững các điều kiện bảo hiểm sau:
- Bảo hiểm mọi rủi ro ( Điều kiện bảo hiểm A)
- Bảo hiểm có bồi thường tổn thất riêng ( Điều kiện bảo hiểm B)
- Bảo hiểm miễn bồi thường tổn thất riêng (Điều kiện bảo hiểm C)
4.4.6. Làm thủ tục hải quan:
+ Khai báo hải quan: chủ hàng phải khai báo hải quan đầy đủ các chi tiết cần thiết về hàng hoá lên tờ khai. Việc kê khai này đòi hỏi phải trung thực và chính xác.
+ Kiểm tra hải quan: các hàng hoá xuất khẩu qua biên giới đều phải làm thủ tục hải quan. Thủ tục hải quan là công cụ để quản lý hành vi buôn bán theo pháp luật của Nhà nước, chống hành vi buôn.
+ Thực hiện các quyết định của hải quan: đây là khâu cuối cùng của thủ tục hải quan, các doanh nghiệp phải nghiêm túc thực hiện quyết định này
4.4.7. Giao hàng
Thực hiện các điều kiện giao hàng trong trường hợp hợp đồng đến thời hạn giao hàng, các nhà xuất khẩu phải làm thủ tục giao hàng theo các bước sau:
- Căn cứ vào chi tiết hàng xuất khẩu để lập bảng đăng kí chuyên chở
- Xuất trình bảng đăng kí chuyên chở cho người vận tải để lấy tờ hồ sơ xếp hàng và bố trí các phương tiện xếp hàng lên tàu.
-Lấy biên lai thuyền phó và đổi lấy vận đơn ( phải có vận đơn hoàn hảo có thể chuyển nhượng). Vận đơn có giá trị là cơ sở để xử lý các tranh chấp có thể xảy ra đồng thời nó được chuyển về bộ phận kế toán để làm chứng từ thanh toán.
4.4.8. Thanh toán hợp đồng
Thanh toán là khâu trọng tâm, là kết quả cuối cùng của tất cả các giao dịch trong kinh doanh nên thủ tục này thường rất phức tạp.
Có nhiều phương thức thanh toán nhưng trong xuất khẩu người ta chủ yếu sử dụng các phương thức sau:
+ Thanh toán bằng hình thức chuyển tiền ._..
+ Thanh toán bằng thư tín dụng ( L/C), đây là một loại giấy mà ngân hàng hứa bảo đảm hoặc hứa trả tiền. Thanh toán bằng L/C là phương thức đảm bảo hợp lý thuận tiện, an toàn và hạn chế rỉu ro cho cả hai bên.
+ Thanh toán bằng phương thức nhờ thu. Nếu hợp đồng xuất khẩu quy định thanh toán bằng phương thức này sau khi giao hàng, bên xuất khẩu phải hoàn thành việc lập chứng từ cho ngân hàng để uỷ thác.
4.4.9. Giải quyết tranh chấp
Trong trường hợp có tranh chấp xảy ra, hai bên nên tìm cách hoà giải, khắc phục trong sự hợp tác thiện chí, giúp đỡ lẫn nhau. Nếu không tự giải quyết được thì hai bên phải giải quyết tranh chấp của mình thông qua Trọng tài quốc tế, Toà án quốc tế.
4.5. Thanh lý hợp đồng xuất khẩu
Sau khi đã thực hiện xong hợp đồng, nếu không có vướng mắc hoặc khiếu nại gì, hai bên sẽ tiến hành thanh lý hợp đồng. Thanh lý hợp đồng xuất khẩu phải được làm thành văn bản và có đầy đủ chữ ký của cả hai bên. Nội dung của thanh lý hợp đồng phải nêu rõ hai bên đã thực hiện đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ mà hợp đồng đã quy định. Sau khi thanh lý hợp đồng hai bên không có quyền khiếu nại về việc thực hiện hợp đồng.
II. thúc đẩy xuất khẩu1. Khái niệm thúc đẩy xuất khẩu
Thúc đẩy xuất khẩu là tổng hợp các biện pháp, cách thức mà doanh nghiệp sử dụng để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hoá của mình thông qua các hình thức xuất khẩu khác nhau nhằm gia tăng sản lượng xuất khẩu, tăng mạnh kim ngạch xuất khẩu, đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu và mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hoá dựa trên khả năng của doanh nghiệp như tài chính, trình độ lao động, trình độ công nghệ...
Thúc đẩy xuất khẩu là một trong những hoạt động quan trọng không thể thiếu đối với các doanh nghiệp thực hiện kinh doanh xuất khẩu, giúp các doanh nghiệp có thể tăng lợi nhuận kinh doanh, mở rộng được quy mô hoạt động.
2. Nội dung thúc đẩy xuất khẩu
2.1.Nội dung thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp
Thúc đẩy xuất khẩu thực chất là hoạt động làm cho xuất khẩu được đẩy mạnh hơn so với tình trạng trước đó. Tuỳ thuộc vào mục tiêu, chức năng và nhiệm vụ cũng như khả năng tài chính của mình mà mỗi doanh nghiệp có những mục tiêu riêng cho hoạt động thúc đẩy xuất khẩu.
2.1.1. Tăng nhanh sản lượng và kim ngạch xuất khẩu
Các doanh nghiệp thực hiện các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu nhằm tăng nhanh sản lượng xuất khẩu hàng hóa của doanh nghiệp sang thị trường nước ngoài, tích cực khai thác thị trường xuất khẩu thông qua các hình thức xuất khẩu đa dạng như xuất khẩu trực tiếp, xuất khẩu uỷ thác... Bên cạnh việc tăng nhanh sản lượng xuất khẩu phải đi kèm với tăng mạnh kim ngạch xuất khẩu sao cho tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu phải nhanh hơn tốc độ tăng sản lượng. Muốn vậy doanh nghiệp cần phải xác định được những mặt hàng doanh nghiệp có lợi thế cũng như phải dự đoán được tình hình biến động của những mặt hàng đó ở thị trường thế giới để có những đối phó kịp thời, tiến hành các biện pháp quảng cáo khuyếch trương sản phẩm, thực hiện tốt các dịch vụ sau bán để khuyến khích khách hàngtiêu thụ sản phẩm của mình từ đó tăng mạnh kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp.
2.1.2. Đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu
Để tăng nhanh sản lượng hàng hoá xuất khẩu và kim ngạch xuất khẩu, doanh nghiệp cần đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, mẫu mã phù hợp với sở thích và tập quán tiêu dùng của từng thị trường. Ngoài ra, do sự biến động của tình hình cung cầu, giá cả hàng hoá xuất khẩu vì vậy để hạn chế được rủi ro và tăng kim ngạch xuất khẩu thì việc đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu đối với doanh nghiệp là rất cần thiết. Doanh nghiệp có thể thực hiện đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu theo hai cách, đó là: đa dạng hoá các mặt hàng vào nhiều thị trường hoặc chỉ tập trung vào một vài thị trường cụ thể. Hai cách này doanh nghiệp đều phải nghiên cứu thị trường để tìm ra những mặt hàng mà doanh nghiệp có thể kinh doanh, sau đó tìm hiểu mặt hàng đó về nhu cầu thị trường, giá cả, tình hình cung - cầu, nguồn hàng có thể mua, cách thức bảo quản, vận chuyển, tìm và lựa chọn đối tác làm ăn. Khi có được nguồn hàng, bạn hàng, doanh nghiệp sẽ tiếp tiến hành các công việc còn lại của quá trình xuất khẩu.
2.1.3. Mở rộng thị trường xuất khẩu
Thị trường là khâu quyết định của xuất khẩu. Trong quá trình kinh doanh xuất khẩu hàng hoá, để tồn tại và phát triển bền vững mỗi doanh nghiệp không thể chỉ tăng trưởng dựa vào những thị trường hiện có mà cần phải vươn tới những thị trường mới. Mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp chính là việc khai thác tốt thị trường hiện tại, thúc đẩy việc đưa những sản phẩm hiện tại và những sản phẩm mới của doanh nghiệp vào tiêu thụ ở những thị trường mới. Do vậy để thúc đẩy xuất khẩu doanh nghiệp phải có các biện pháp duy trì và mở rộng được thị trường xuất khẩu hàng hoá của mình. Muốn vậy các doanh nghiệp phải tích cực nghiên cứu thị trường nước ngoài :
-Thu thập thông tin và xử lý các thông tin về tình hình cung cầu, giá cả, thị hiếu tiêu dùng, dung lượng thị trường, khả năng cạnh tranh của mặt hàng
-Tham gia các cuộc hội thảo, hội chợ, triển lãm quốc tế để giới thiệu sản phẩm của doanh nghiệp với khách hàng nước ngoài.
2.1.4.Nâng cao hiệu qủa xuất khẩu
Nâng cao hiệu qủa xuất khẩu là việc doanh nghiệp áp dụng các biện pháp nhằm tăng doanh thu, tăng lợi nhuận thu được trên cùng một lượng hàng hoá xuất khẩu. Để đạt được điều này, doanh nghiệp phải tiến hành các chính sách đầu vào hợp lý như giảm chi phí, cải tiến thiết bị, máy móc, công nghệ sản xuất để nâng cao năng suất, giảm mức tiêu hao nguyên vật liệu, nâng cao chất lượng hàng hoá...
2.2. Nội dung thúc đẩy xuất khẩu của Nhà nước
2.2.1. Khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu
Gốc rễ của hoạt động xuất khẩu là nền sản xuất trong nước. Chỉ có trên cơ sở có một khối lượng sản phẩm lớn có chất lượng cao và giá cả phải chăng được sản xuất ra thì mới có cơ sở vật chất vững chắc cho việc thúc đẩy xuất khẩu. Để khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu Nhà nước áp dụng các biện pháp sau:
-Xây dựng nền kinh tế theo mô hình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, khẳng định con đường phát triển là phải đưa nền kinh tế tham gia mạnh mẽ vào thị trường thế giới, tập trung các nguồn lực sản xuất vào những ngành có lợi thế để tạo ra những hàng hoá đủ sức cạnh tranh. Mô hình này đã được áp dụng khá thành công ở Hàn Quốc, Đài Loan, Hôngkông, Singapo.
-Có chính sách khuyến khích ứng dụng khoa học và công nghệ mới vào sản xuất các mặt hàng xuất khẩu, ưu tiên nhập khẩu thiết bị và vật tư cho việc sản xuất hàng xuất khẩu cũng như tập trung những lượng vốn đầu tư lớn trong và ngoài nước vào các ngành hàng và nhóm hàng tiêu dùng để xuất khẩu
2.2.2. Khuyến khích về tài chính để hỗ trợ thúc đẩy xuất khẩu
a, Trợ cấp xuất khẩu: là hình thức khuyến khích xuất khẩu bằng cách Nhà nước giành sự ưu đãi về mặt tài chính cho xuất khẩu thông qua trợ cấp trực tiếp hoặc gián tiếp.
Trợ cấp trực tiếp là thực hiện sự ưu đãi cho các nhà kinh doanh sản xuất hàng xuất khẩu được sử dụng đầy đủ với giá hạ các công trình hạ tầng như điện, nước, phương tiện thông tin liên lac, phương tiện vận tải... cũng như thực hiện trợ giá xuất khẩu. Trợ cấp của các Chính phủ đặc biệt lớn cho lĩnh vực nông sản như năm 1996, 1997 số tiền trợ giá cho nông sản xuất khẩu chỉ riêng của EU đã bằng 80% tổng số tiền trợ giá của tất cả các thành viên thuộc WTO.
Trợ cấp gián tiếp là hình thức Nhà nước sử dụng các biện pháp kinh tế vĩ mô kết hợp với bảo hộ bằng các biện pháp quản lý hành chính để hỗ trợ cho xuất khẩu. Chính phủ sử dụng biện pháp gián tiếp như điều hoà cung cấp bằng cách hỗ trợ về tài chính và thông qua hệ thống kho đệm của Chính phủ, đẩy mạnh việc mua hàng vào lúc giá rẻ. Ngoài ra còn sử dụng các biện pháp giảm thuế hoặc miễn thuế xuất khẩu, giúp các nhà xuất khẩu tìm kiếm thị trường, đầu tư vào khoa học kỹ thuật...
Mục đích của trợ cấp là giúp các nhà kinh doanh giảm được chi phí hàng hoá xuất khẩu để bán hàng với giá hạ, tăng cường sức cạnh tranh cho hàng xuất khẩu. Mức độ trợ cấp phụ thuộc vào 2 yếu tố:
+Chính sách khuyến khích đối với từng mặt hàng
+Mức độ cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu
b,Tín dụng xuất khẩu:
Nhà nước đảm bảo tín dụng xuất khẩu: là hình thức khuyến khích xuất khẩu bằng cách Nhà nước đứng ra lập quỹ bảo hiểm xuất khẩu, quỹ này thực hiện việc gánh vác rủi ro, mạo hiểm mà các nhà xuất khẩu bán hàng hoá cho nước ngoài với phương thức thanh toán trả chậm hoặc tín dụng dài hạn. Tác dụng của hình thức đảm bảo tín dụng xuất khẩu là:
-Khi khả năng thanh toán ngay đối với hàng nhập khẩu có giá trị lớn bị hạn chế thì việc bán chịu, bán trả chậm với lãi suất nhẹ cho phép tăng khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu. Việt Nhà nước lập ra các quỹ bảo hiểm xuất khẩu cho phép thương nhân mạnh dạn bán chịu cho khách hàng. Nhờ vậy gia tăng được kim ngạch xuất khẩu
-Nâng được giá hàng xuất khẩu vì giá bán chịu hàng hoá =giá bán trả tiền ngay + phí tổn trả chậm
Hiện nay hình thức Nhà nước đảm bảo tín dụng xuất khẩu được thực hiện khá phổ biến ở nhiều nước trên thế giới để mở rộng xuất khẩu, thâm nhập thị trường mới.
Nhà nước thực hiện tín dụng xuất khẩu: là hình thức mở rộng xuất khẩu bằng cách Nhà nước cho bên nước ngoài vay vốn với quy mô lớn (lãi suất ưu đãi) để bên nước vay sử dụng số tiền đó mua hàng hoá của nước cho vay. Nguồn vốn vay thường lấy từ ngân sách Nhà nước và việc cho vay thường kèm theo các điều kiện kinh tế và chính trị có lợi cho nước cho vay. Tác dụng của hình thức này là giúp cho thương nhân đẩy mạnh xuất khẩu vì có sẵn thị trường tiêu thụ hàng và giúp cho việc mở rộng quan hệ kinh tế và văn hoá giữa nước cho vay và nước được vay. Tuy nhiên hình thức này khiến một số nước nghèo sẽ bị lệ thuộc nhiều hơn vào các nước giàu có vì khi bán chịu một mặt hàng thường kèm theo các điều kiện chính trị, mặt khác việc mua hàng tràn lan sẽ dẫn tới những tác động có tính chất phá hại nền sản xuất trong nước.
Chính sách tỷ giá hối đoái (TGHĐ) để thúc đẩy xuất khẩu:
Tỷ giá hối đoái là sức mua của một đồng tiền so với đồng tiền khác. Sức mua của đồng tiền là khả năng thanh toán của một đơn vị tiền tệ với một khối lượng hàng xuất khẩu nhất định gắn liền với thanh thanh toán quốc tế. Trong thanh toán quốc tế người ta thường sử dụng những đồng tiền mạnh như USD để thanh toán. Nếu tỷ giá hối đoái tăng, tương đương với giá trị ngoại tệ tăng so với nội tệ khi đó hoạt động xuất khẩu sẽ được khuyến khích. Ngược lại nếu tỷ giá hối đoái giảm sẽ kìm hãm sự phát triển của hoạt động xuất khẩu.
3. Một số chỉ tiêu đánh giá hoạt động thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp
3.1. Chỉ tiêu định tính
Để đánh giá hoạt động thúc đẩy xuất khẩu của một doanh nghiệp tiến hành ra sao, hiệu qủa ở mức độ nào, cần phải dựa vào một số chỉ tiêu đánh giá sau:
3.1.1. Mặt hàng kinh doanh
Nếu doanh nghiệp thực hiện thúc đẩy xuất khẩu trên cơ sở đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, khi đó chỉ tiêu đánh giá sẽ là số lượng các mặt hàng kinh doanh tăng thêm trên một hoặc nhiều thị trường của doanh nghiệp. Việc xét số lượng mặt hàng tăng thêm phải được thực hiện trong một thời gian nhất định mà doanh nghiệp đã đặt ra để đạt được mục tiêu của mình. Số lượng các mặt hàng tăng thêm đó là nhiều hay ít sẽ phản ánh thực trạng hoạt động thúc đẩy xuất khẩu diễn ra có tốt không, có đạt được mục tiêu và hiệu quả mà doanh nghiệp đã đặt ra không.
3.1.2. Thị trường xuất khẩu
Khi doanh nghiệp thực hiện thúc đẩy xuất khẩu thì thường hướng tới mục tiêu mở rộng thị trường xuất khẩu cho những loại hàng hoá nhất định. Số lượng thị trường tăng thêm chính là chỉ tiêu đánh giá hoạt động thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp. Việc xâm nhập được vào những thị trường mới của doanh nghiệp sẽ giúp doanh nghiệp tăng thêm bạn hàng và những mối quan hệ làm ăn. Vì vậy, mở rộng thị trường xuất khẩu cũng chính là mở rộng cơ hội kinh doanh cho doanh nghiệp, từ đó kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp được tăng thêm và thu được nhiều lợi nhuận hơn
3.2. Chỉ tiêu định lượng
Đây là các chỉ tiêu có thể lượng hoá, tính toán rõ được trên cơ sở các báo cáo kinh doanh của doanh nghiệp và là những chỉ tiêu trực tiếp đánh giá hoạt động thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp.
3.2.1. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu
Kim ngạch xuất khẩu là chỉ tiêu phản ánh thực trạng và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp có tốt hay không. Kim ngạch xuất khẩu tăng lên biểu hiện khối lượng kinh doanh của doanh nghiệp đó tăng lên. Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào kim ngạch không thôi thì cũng chưa phản ánh được tình trạng thực của doanh nghiệp. Để chứng tỏ doanh nghiệp đó phát triển nhanh hay chậm phải dựa vào tốc độ tăng của kim ngạch xuất khẩu của năm sau so với năm trước. Nếu tốc độ tăng kim ngạch của năm sau luôn cao hơn năm trước có thể khẳng định hoạt động thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp đó có hiệu quả. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu được tính như sau:
Nếu ký hiệu :
V0: kim ngạch xuất khẩu của năm trước
V1: kim ngạch xuất khẩu năm sau
T: tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu
Thì ta có: T = (V0/V1)* 100%
3.2.2. Thị phần của doanh nghiệp
Doanh nghiệp có thể thúc đẩy xuất khẩu với mục tiêu tăng thị phần xuất khẩu trên thị trường nhất định. Để tăng thị phần, doanh nghiệp sẽ sử dụng các chính sách giá cả mềm dẻo, giảm chi phí đầu vào để thu được hiểu quả theo quy mô, khi đó lượng hàng hoá tiêu thị được của doanh nghiệp sẽ tăng cao, chiếm tỷ trọng lớn trên thị trường. Vì vậy, để đánh giá hoạt động thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp đó người ta dựa trên thị phần của doanh nghiệp có được tại thị trường nhất định. Chỉ tiêu này được thể hiện như sau:
Gọi X là thị phần của doanh nghiệp trên thị trường nhất định
X= Giá trị hàng hoá của doanh nghiệp đã tiêu thụ trên thị trường đó *100%
Tổng giá trị hàng hoá tiêu thụ của toàn thị trường
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp
4.1. Các nhân tố khách quan
4.1.1. Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế của thị trường nước ngoài có tác động lớn tới việc thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp vì nó quyết định sự hấp dẫn thị trường xuất khẩu. Môi trường kinh tế của các quốc gia là khác nhau vì vậy mức độ thúc đẩy xuất khẩu trên từng thị trường cũng khác nhau.
-Đối với nền kinh tế tự cấp tực túc: người dân tiêu thụ hầu hết sản phẩm làm ra và trao đổi để lấy hàng hoá và dịch vụ khác. Đây là thị trường ít hấp dẫn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu nên việc thúc đẩy xuất khẩu không thực hiện được.
-Đối với nền kinh tế đang CNH: công nghiệp chế biến chiếm từ 10-20% tổng sản phẩm quốc dân. CNH tạo ra một tầng lớp giàu có mới và một tầng lớp trung lưu đang phát triển, có nhu cầu về nhiều loại hàng hoá mới. Đây là thị trường khá hấp dẫn đối với các doanh nghiệp, tạo cơ hội cho doanh nghiệp thực hiện thúc đẩy xuất khẩu
-Đối với nền kinh tế CNH: xuất khẩu nhiều hàng công nghiệp chế biến và vốn đầu tư. Các hoạt động công nghiệp chế biến rộng lớn và đa dạng cùng một tầng lớp trung lưu đông đảo tạo nên thị trường hấp dẫn đối với mọi loại sản phẩm. Do vậy việc thúc đẩy xuất khẩu khá thuận lợi.
4.1.2. Môi trường văn hoá
Mỗi nước đều có những tập tục, quy tắc, kiêng kỵ riêng. Chúng được hình thành theo truyền thống văn hoá của mỗi nước và có ảnh hưởng to lớn tới tập tính tiêu dùng của khách hàng nước đó. Tuy sự giao lưu văn hoá giữa các nước đã làm xuất hiện khá nhiều tập tính tiêu dùng chung cho mọi dân tộc, song những yếu tố văn hoá truyền thống vẫn còn rất bền vững, có ảnh hưởng rất mạnh đến thói quen và tâm lý tiêu dùng. Do vậy yếu tố văn hoá có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp. Bởi vậy muốn khách hàng ở các quốc gia khác nhau tiêu dùng sản phẩm của mình thì doanh nghiệp phải xuất khẩu những mặt hàng có mẫu mã, kiểu dáng, mầu sắc phù hợp với văn hoá của từng thị trường nhất định. Nếu doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường những sản phẩm mang những yếu tố trái với quan niệm, thói quen tiêu dùng, tín ngưỡng của dân cư thì sản phẩm sẽ trở nên lạc lõng và có thể bị tẩy tray ở thị trường đó.
4.1.3. Môi trường chính trị, luật pháp
Các quốc gia rất khác nhau về môi trường chính trị- luật pháp. Đây là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó khi xem xét khả năng thúc đẩy xuất khẩu sang một thị trường nước ngoài cần chú ý đến một số các nhân tố sau:
-Thái độ đối với nhà kinh doanh nước ngoài: nếu Chính phủ nước ngoài dễ dãi, khuyến khích thực sự đối với các doanh nghiệp nước ngoài như giảm các luật lệ về cấp giấy phép và các quy định liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu thì việc thúc đẩy xuất khẩu sẽ thuận lợi hơn. Ngược lại, Chính phủ các nước nước sẽ đưa ra những yêu cầu về hạn ngạch nhập khẩu, hạn chế sử dụng ngoại tệ... sẽ gây khó khăn lớn cho các doanh nghiệp nước ngoài thúc đẩy hoạt động xuất khẩu vào những thị trường này.
-Sự ổn định chính trị: ở những nơi có sự bất ổn chính trị cao hay xảy ra chiến tranh thì việc thúc đẩy xuất khẩu sẽ gặp không ít khó khăn và rủi ro.
-Sự điều tiết tiền tệ: những quy định về quản lý ngoại hối cũng có thể gây khó khăn cho các nhà xuất khẩu. Nếu Chính phủ nước ngoài quản lý ngoại hối chặt chẽ thì các nhà xuất khẩu sẽ khó khăn trong thúc đẩy xuất khẩu. Ngoài ra một chế độ tỷ giá hối đoái biến động mạnh ở thị trường nước ngoài cũng tạo nên các rủi ro cao cho các nhà xuất khẩu.
-Các quy định mang tính chất bắt buộc về pháp luật và quản lý như việc cấm đoán hoặc kiểm soát đối với một số hàng hoá dịch vụ nước ngoài, cấm một số phương thức hoạt động thương mại, các kiểu kiểm soát về giá cả, các tiêu chuẩn mang tính bắt buộc... có ảnh hưởng rất lớn đến việc thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp.
4.1.4. Môi trường cạnh tranh
Sự hấp dẫn của thị trường nước ngoài còn chịu ảnh hưởng quan trọng của mức độ của cạnh tranh trên thị trường đó. Với thị trường nước ngoài có mức độ cạnh tranh thấp thì việc thúc đẩy xuất khẩu sẽ thuận lợi hơn. Ngược lại với những thị trường có mức độ cạnh tranh cao, gay gắt thì việc thúc đẩy xuất khẩu sẽ khó càng khó khăn hơn, trong trường hợp xấu nhất doanh nghiệp buộc phải rút lui khỏi thị trường. Muốn thành công trên thị trường này đòi hỏi sản phẩm của doanh nghiệp phải có chất lượng tốt, giá hợp lý và có biện pháp quảng cáo hữu hiệu
4.2. Các nhân tố chủ quan
4.2.1. Khả năng tài chính của doanh nghiệp
Khả năng tài chính là một trong những nhân tố quyết định sức mạnh của doanh nghiệp trong thời đại ngày nay. Nếu có tiềm lực tài chính mạnh, doanh nghiệp sẽ có thể đầu tư đổi mới công nghệ, thu hút lao động có chất lượng cao, mở rộng quy mô hoạt động. Ngoài ra khi có tiềm lực mạnh về tài chính doanh nghiệp có trong thể thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của mình thông qua việc cấp tín dụng cho khách hàng qua hình thức mua trả chậm. Như vậy có thể nói hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng lớn bởi khả năng tài chính của doanh nghiệp.
4.2.2. Uy tín của doanh nghiệp
Uy tín của doanh nghiệp chính là tình cảm, là sự tin tưởng mà khách hàng dành cho doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp đã có uy tín cao, đối với khách hàng nhiều khi họ mua hàng dựa trên uy tín của doanh nghiệp chứ không hoàn toàn dựa trên chất lượng hàng của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp đã có uy tín trên thị trường thì việc thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường này sẽ thuận lợi.
4.2.3. Hình ảnh của sản phẩm
Vì sản phẩm là đối tượng được trực tiếp tiêu dùng, được đánh giá về chất lượng, mẫu mã nên nó chính là nhân tố quyết định khiến người tiêu dùng mau sản phẩm. Để thúc đẩy xuất khẩu doanh nghiệp phải làm sao khiến cho khách hàng nước ngoài ngày càng mua nhiều sản phẩm của doanh nghiệp. Sản phẩm có chất lượng cao, kiểu dáng đẹp, giá cả phải chăng sẽ giúp cho doanh nghiệp duy trì được những khách hàng ở thị trường hiện tại và có thêm những khách hàng ở thị trường mới. Chính sản phẩm là yếu tố tạo vị thế cho doanh nghiệp trên thị trường xuất khẩu.
4.2.4. Chất lượng nguồn nhân lực của doanh nghiệp
Con người là chủ thể của mọi hoạt động xã hội và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp suy đến cùng cũng là do con người và vì con người. Bởi vậy con người luôn được đặt ở vị trí trung tâm khi xem xét đến các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp. Một đội ngũ lao động vững vàng trong chuyên môn, có kinh nghiệm trong buôn bán quốc tế, có khả năng ứng phó linh hoạt trước biến động của thị trường và đặc biệt có lòng say mê trong công việc luôn là đội ngũ lý tưởng để giúp doanh nghiệp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá. Ngược lại, nếu nguồn nhân lực của doanh nghiệp yếu kém về chất lượng và hạn chế về số lượng thì doanh nghiệp sẽ luôn trong tình trạng bị động và kinh doanh kém hiệu quả vì vậy doanh nghiệp sẽ bị trở ngại lớn khi thúc đẩy. Như vậy, nhân lực quyết định hoạt động của doanh nghiệp nên doanh nghiệp muốn hoạt động có hiệu quả nhất thiết phải quan tâm tuyển chọn đội ngũ lao động thực sự có năng lực, đồng thời chú trọng đến công tác quản lý nhằm tạo động lực cho người lao động trong doanh nghiệp làm việc có hiệu quả.
III. Sự cần thiết phải thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản của việt Nam
1. Thúc đẩy xuất khẩu là điều kiện để mở rộng quy mô xuất khẩu, từng bước tăng trưởng và phát triển
Trong quá trình hội nhập kinh tế hiện nay, đẩy mạnh hoạt động thương mại quốc tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng trong nền kinh tế mở là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách. Nó mở ra những cơ hội mới cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng trên thế giới. Nhờ có hoạt động thúc đẩy xuất khẩu mà các doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất, mở rộng quy mô xuất khẩu, từng bước tăng trưởng và phát triển, từ đó đáp ứng nhu cầu không chỉ của một thị trường nhỏ hẹp nào đó mà còn đáp ứng nhu cầu của nhiều thị trường khác với những đơn hàng có giá trị lớn. Thúc đẩy xuất khẩu còn làm tăng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu, tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng quy mô, duy trì sự ổn định và tăng trưởng cao.
Bên cạnh đó, mỗi doanh nghiệp không chỉ kinh doanh một số mặt hàng cụ thể trên những thị trường nhất định vì thị trường luôn luôn biến động không ngừng, nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng cũng vậy, nên hoạt động thúc đẩy xuất khẩu sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng thị trường, đa dạng hoá chủng loại sản phẩm, tăng thị phần và sự ảnh hưởng của doanh nghiệp trên thị trường... do đó có thể giảm thiểu được các rủi ro có thể xảy ra trong kinh doanh.
Ngoài ra, doanh nghiệp có thể nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu để thu được lợi nhuận cao hơn, tăng số vòng quay của vốn, tăng lượng thu ngoại tệ từ đó giúp doanh nghiệp có điều kiện đầu tư xuất khẩu các hàng hoá thiết yếu khác, nhập về những công nghệ hiện đại để nâng cao hiệu quả sản xuất và thúc đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tạo cho doanh nghiệp một thế và lực mới...
2. Toàn cầu hoá và hội nhập đòi hỏi các quốc gia phải tăng cường xuất khẩu ra thị trường quốc tế
Hiện nay, làn sóng toàn cầu hoá và liên kết khu vực đang diễn ra mạnh mẽ, hội nhập và tự do hoá thương mại đang trở thành trào lưu lôi cuốn tất cả các nước trên thế giới. Trong xu thế đó, Việt Nam cũng đang tích cực tham gia, song những đóng góp trên thị trường thế giới còn nhỏ vì vậy thúc đẩy xuất khẩu là việc làm cần thiết để nâng cao vị thế quốc gia cũng như nâng cao vị thế của sản phẩm Việt Nam trên thị trường quốc tế. Toàn cầu hoá và hội nhập cho phép các doanh nghiệp được hưởng các chế độ chính sách ưu đãi của các nước dành cho Việt Nam trong đàm phán song phương và đa phương, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thâm nhập vào thị trường dễ dàng hơn.
Mặt khác, toàn cầu hoá và hội nhập còn giúp cho doanh nghiệp có nhiều cơ hội kinh doanh hơn, mở rộng quan hệ với các đối tác nước ngoài, học tập phong cách quản lý, tiếp thu tiến bộ khoa học và công nghệ quản lý kinh doanh, xoá bỏ tư duy cũ, tích luỹ nhiều kinh nghiệm qua đó giúp doanh nghiệp hình thành được tác phong kinh doanh hiện đại. Vì vậy khi thực hiện thúc đẩy xuất khẩu các doanh nghiệp sẽ tận dụng triệt để các điều kiện thuận lợi mà toàn cầu hoá và hội nhập đem lại từ đó không ngừng phát triển hơn lên, góp phần đẩy mạnh nền kinh tế đất nước.
3. Việt Nam có nhiều tiềm năng trong sản xuất và xuất khẩu nông sản
Với xuất phát điểm là một nước nông nghiệp nên đối với sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản, Việt Nam có tiềm năng khá lớn. Nếu như được đầu tư một cách đồng bộ, hợp lý, lâu dài sẽ hứa hẹn trở thành một trung tâm sản xuất và xuất khẩu nông sản lớn, tiềm năng này thể hiện ở:
3.1. Về đất đai
Tiềm năng đất nông nghiệp của cả nước là 10 - 11,157 triệu ha, trong đó khoảng gần 8 triệu ha cây trồng hàng năm (riêng trồng lúa khoảng 5,4 triệu ha) và 2,3 triệu ha trồng cây lâu năm. Hiện nay Việt Nam mới chỉ sử dụng hết 65% quỹ đất nông nghiệp, trong đó đất trồng cây hàng năm là 5,6 triệu ha, trồng cây lâu năm là 86 vạn ha, ngoài ra 33 vạn ha đồng cỏ tự nhiên và 17 ha mặt nước.
Chất lượng đất ở Việt Nam có tầng dày, kết cấu tơi xốp, chất dinh dưỡng cung cấp cho cây trồng khá cao, nhất là phù xa, đất xám, chủng loại đất cũng rất phong phú với 64 loại thuộc 14 nhóm. Những điều kiện này kết hợp với nguồn nhiệt ẩm dồi dào sẽ là cơ sở tốt để phát triển nhiều loại cây trồng, thâm canh tăng vụ nếu chúng ta biết khai thác khoa học, hợp lý.
3.2. Về khí hậu
Khí hậu Việt Nam là khí hậu nhiệt đới gió mùa do ảnh hưởng khá sâu sắc của chế độ gió mùa Châu á. Khí hậu Việt Nam có tính đa dạng, phân biệt rõ ràng từ B ắc xuống Nam, với 1 mùa đông lạnh ở miền Bắc và khí hậu kiểu Nam á ở Tây Nguyên, Đông Nam bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Đây chính là điều kiện thuận lợi để Việt Nam đa dạng hoá các loại cây trồng nông sản. Hơn nữa, tiềm năng nhiệt ẩm và gió khá dồi dào, phân bổ tương đối đồng đều trong nước. Với số giờ nắng cao, cường độ bức xạ lớn, tài nguyên nhiệt nước ta được xếp vào loại giàu. Với độ ẩm tương đối trong năm cao hơn 80%, lượng mưa lớn (trung bình từ 1800 - 2000mm/năm). Kết hợp với nguồn nhiệt giàu có, đây là thuận lợi đối với việc sinh trưởng và phát triển của nhiều loại sinh vật, đặc biệt là đối với một số loại cây trồng như lúa nước, Cà phê, Cao su,Chè..
3.3. Về nhân lực
Với dân số hơn 80 triệu người, cơ cấu dân cư trẻ và có hơn 70% dân số sống bằng sản phẩm nông nghiệp. Có thể nói nguồn nhân lực cho nông nghiệp là rất dồi dào. Bên cạnh đó, người Việt Nam có đặc điểm là cần cù, thông minh, sáng tạo, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học công nghệ, có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp...Đây là những thuận lợi lớn cho Việt Nam để vươn lên một nền sản xuất nông nghiệp tiên tiến, hiện đại, tạo nguồn nông sản dồi dào cho tiêu dùng và xuất khẩu.
3.4. Các chính sách của Nhà nước
Ngoài những yếu tố thuận lợi trên, với quan điểm của Đảng và Nhà nước coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu chính vì vậy việc sản xuất, chế biến và xuất khẩu nông sản cũng được chú trọng. Nhà nước quan tâm việc ưu đãi đầu tư trong nước và nước ngoài vào lĩnh vự sản xuất nông sản nhất là đối với cây trồng lâu năm như cà phê, cao su đã tạo được động lực mới cho sự phát triển ngành này.
Với tiềm năng to lớn của mình, triển vọng sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản ở Việt Nam trong những năm tới là sáng sủa. Vì vậy, thúc đẩy xuất khẩu nông sản sẽ giúp khai thác có hiệu quả các tiềm lực sẵn có, tạo công ăn việc làm cho người nông dân, tăng thêm thu nhập cho người lao động góp phần xoá đói giảm nghèo và giải quyết các vấn đề xã hội khác ở nông thôn, tăng thu nhập quốc dân, tạo nguồn ngoại tệ mạnh phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế.
4. Thực trạng xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong những năm qua
Khi nhu cầu thị trường nội địa không lớn, sức mua và năng lực tài chính thanh toán của đại bộ phận dân cư hạn chế, nhu cầu về các chủng loại hàng hoá cao cấp chưa cao thì xuất khẩu nông sản hàng hoá là lối thoát duy nhất hợp lý, hoàn toàn phù hợp với xu thế quốc tế hoá, khu vực hoá nền kinh tế.
4.1. Sản lượng xuất khẩu nông sản của Việt Nam
Bảng 1: Sản lượng xuất khẩu một số mặt hàng nông sản của Việt Nam
ĐV:1000tấn,%
STT
Mặt hàng
1998
1999
2000
2001
2002
So sánh
99/98
00/99
01/00
02/01
1
Gạo
3.730
4.508
3.500
3.550
3.242
120,86
77,64
101,43
91,32
2
Cà phê
382
482
733
910
718,6
126,18
152,07
124,15
78,97
3
Cao su
191
265
273
300
447,6
138,74
103,02
109,89
149,2
4
Lạc nhân
87
56
76
78
80
64,37
135,71
105,26
102,6
5
Chè
33
36
56
58
65
109,09
155,55
103,57
112,1
6
Điều nhân
25,7
18,4
34
40,9
62,2
71,60
184,78
120,29
152,08
7
Hạt tiêu
15,1
34,8
37
56,1
76,6
230,46
106,32
151,62
136,54
Nguồn: Vụ TM-DV- Bộ KH&ĐT (Thời báo kinh tế Việt Nam)
Trong những năm qua hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam có chất lượng ngày càng được cải thiện, tuy nhiên do chịu sự tác động lớn của tình hình cung, cầu hàng nông sản trên thị trường thế giới nên kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam tăng, giảm không ổn định.
Hiện nay các mặt hàng như: gạo, cà phê, cao su, lạc nhân, chè... đã vươn lên trở thành các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. So với tốc độ phát triển bình quân trên thế giới thì ba mặt hàng trên của Việt Nam có tốc độ phát triển cao và có nhiều mặt hàng đã vươn lên đứng vị trí cao trong số các nước tham gia xuất khẩu trên thị trường thế giới. Chẳng hạn: từ năm 1998, Việt Nam đã vươn lên vượt Mỹ về xuất khẩu gạo, chỉ đứng sau Thái Lan. Cà Phê Việt Nam hiện nay đang vượt Indonexia về số lượng xuất khẩu, vươn lên đứng vị trí số 3 trong số các nước xuất khẩu, chỉ đứng sau Brasin và Colombia. Cao su cũng đứng vào danh sách 10 nước xuất khẩu hàng đầu của thế giới. Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng này so với tiềm năng phát triển của ngành và so với kết quả xuất khẩu hàng nông sản của một số quốc gia trên thế giới thì kết quả đạt được còn khiêm tốn
4.2. Kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam
Bảng 2 : Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông sản chủ yếu của Việt Nam
Đơn vị tính: triệu USD,%
STT
Mặt hàng
2000
2001
2002
So sánh
KH 2003
Quý I/2003
01/00
02/01
1
Gạo
667
588
725
88,16
123,30
725
146
2
Cà phê
501
200
323
39,92
161,5
420
152
3
Cao su
166
350
269
210,84
76,86
350
87
4
Hạt tiêu
78
91
107
116.67
117,58
120
18,2
5
Hạt điều
92
117
209
127,17
178,63
240
42
6
Lạc nhân
58
79
202
136,21
255,70
230
3,4
7
Chè
30,6
38
45
124,18
118,42
9,3
Nguồn: Tạp chí Thương Mại
Cùn._.định sản xuất.
Tiếp theo là khâu chế biến và bảo quản: hiện nay công ty chưa có cơ sở sản xuất chế biến hàng nông sản nên chất lượng phụ thuộc vào nhiều chất lượng hàng thu mua. Mà thực tế là chất lượng hàng nông sản từ các hộ gia đình, cơ sở sản xuất nhìn chung là thấp. Vì vậy để nâng cao chất lượng sản phẩm công ty cần đầu tư xây dựng các cơ sở chế biến của riêng mình hoặc liên doanh với các cơ sở khác để thành lập các xí nghiệp chế biến để chủ động nguồn hàng xuất khẩu. Thực hiện tốt việc này sẽ góp phần tăng tỷ lệ sản phẩm chế biến sau, giảm tỷ lệ sản phẩm sơ chế, từ đó công ty sẽ tăng được lợi nhuận, uy tín cũng như mở rộng khả năng thâm nhập thị trường. Việc tăng cường đầu tư cho các cơ sở sản xuất và chế biến là để góp phần nâng cao chất lượng hàng nông sản, từ đó góp phần thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản
Nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ công nhân viên
Bất kỳ một công ty nào dù có vốn lớn, có trang thiết bị hiện đại, mà nguồn nhân lực không đảm bảo cho yêu cầu sản xuất, quản lý, kinh doanh thì công ty đó cũng không thể phát triển được bởi con người là chủ thể quyết định sự thành công hay thất bại của công ty. Với mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay đòi hỏi công ty phải có những cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ giỏi, năng động sáng tạo, không chỉ thành thạo ngoại ngữ mà còn cần phải có những am hiểu nhất định về lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán của các nước bạn hàng. Do vậy, để tồn tại và phát triển thì buộc mỗi công ty phải chăm lo đào tạo và phát triển nguồn nhân lực một cách thường xuyên, liên tục. Sau đây là một số giải pháp để nâng cao năng lực chuyên môn của cán bộ công nhân viên:
-Tổ chức các lớp học, khoá học đào tạo nghiệp vụ xuất nhập khẩu cho cán bộ các phòng ban, có chế độ bồi dưỡng khuyến khích cán bộ theo học.
-Tạo điều kiện cho các cán bộ công ty tham gia dự các buổi hội thảo, các khoá huấn luyện ngắn ngày về nghiệp vụ ở bên ngoài hoặc mời chuyên gia đến nói chuyện với cán bộ công nhân viên.
-Thường xuyên hoán đổi công tác của cán bộ giữa 2 miền Nam - Bắc để tích luỹ thêm kinh nghiệm
-Đào tạo đội ngũ nhân viên kỹ thuật làm nhiệm vụ giám định hàng hóa.
-Bố trí để các nhân viên trẻ, có năng lực, năng động nhưng còn thiếu kinh nghiệm trong công ty cùng làm việc với những nhân viên lớn tuổi và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn để các nhân viên trẻ học hỏi thêm kinh nghiệm.
Có được đội ngũ lao động tốt là điều kiện cần đối với bất kỳ một công ty nào. Tuy nhiên để đội ngũ lao động này làm việc một cách có hiệu qủa, trung thành với công ty thì công ty cần phải có chế độ khen thưởng hợp lý, xử phạt nghiêm minh đối với những trường hợp làm tổn hại đến toàn công ty. Ngoài ra công ty cần cất nhắc những cá nhân làm việc có hiệu quả lên những vị trí cao nhằm nêu gương, tạo động lực cho những cá nhân khác.
Kiến nghị với Nhà nước :
Hỗ trợ có hiệu quả cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản
2.1.1. Tổ chức tốt việc thu thập thông tin, xử lý thông tin cho các doanh nghiệp
Thông tin chiếm một vị trí quan trọng trong thành công hay thất bại đối với mỗi công ty. Theo KEMCHIONMAE - một chuyên gia kinh tế xuất sắc của Nhật bản thì “ Bí quyết đảm bảo sức mạnh kinh doanh của một Công ty trước hết là thông tin”. Thông tin chính xác, đầy đủ về thị trường, về đối thủ cạnh tranh trong lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp đó chính là tiền đề cho sự phát triển, cho khả năng chi phối thị trường và thành công.
Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản ở Việt Nam đều gặp khó khăn trong việc thu thập thông tin, tìm kiếm thị trường xuất khẩu. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do:
-Do quy mô của thị trường quốc tế lớn hơn rất nhiều so với thị trường trong nước, mặt khác thị trường nông sản thế giới lại thường xuyên biến động rất phức tạp nên đòi hỏi về thông tin thị trường phải rất nhanh và chính xác trong khi việc tiếp nhận các thông tin này ở các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn rất chậm, thiếu thông tin, độ chính xác lại không cao. Vì vậy, nhiều khi các doanh nghiệp bị động lúng túng trong điều hành xuất khẩu nông sản.
-Các doanh nghiệp đã nỗ lực thu thập thông tin qua báo chí, phương tiện thông tin đại chúng, mạng Internet nhưng các thông tin có ích cho công tác thúc đẩy xuất khẩu còn ít.
Do vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong kinh doanh nông sản xuất khẩu, thời gian tới Nhà nước nên hỗ trợ doanh nghiệp theo hướng:
-Nhà nước nên tổ chức cung cấp định kỳ hàng năm, hàng quý các ấn phẩm về thị trường nông sản thế giới, xu thế diễn biến của các thị trường cho các doanh nghiệp. Trong đó có những trang giành riêng nói về thị trường hàng nông sản trên các phương diện: sức mua, nhu cầu tiêu thụ hàng nông sản ở từng quốc gia, khu vực, các mặt hàng đang được khách hàng quốc tế ưa chuộng, giá cả các mặt hàng nông sản trên thị trường xuất khẩu.
-Nhà nước cần xây dựng kênh thông tin thương mại thông suốt từ các cơ quan thương vụ Việt Nam ở nước ngoài, BộThương Mại đến các Sở Thương Mại và các doanh nghiệp. Nếu có bất kỳ sự biến động nào trên thị trường xuất khẩu nông sản, thông tin có thể truyền trực tiếp từ một trong các tổ chức Nhà nước nói trên tới các doanh nghiệp trong thời gian ngắn nhất. Đồng thời doanh nghiệp cũng nên thường xuyên liên hệ với Bộ Thương Mại, Sở Thương Mại để thu thập những thông tin mới.
-Ngoài việc cung cấp thông tin theo phương thức hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức Nhà nước có thể thực hiện thương mại hoá thông tin và áp dụng các phương thức linh hoạt khác nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể, kịp thời của các doanh nghiệp. Chẳng hạn như Bộ Thương Mại và Sở Thương Mại có thể mở các văn phòng tư vấn cho doanh nghiệp về phương thức thâm nhập thị trường xuất khẩu hàng nông sản theo từng thị trường nhất định.
- Đồng thời Nhà nước cần xây dựng một trung tâm cung cấp thông tin chuyên ngành về thị trường nông sản trong và ngoài nước cho các các công ty hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản.
2.1.2. Hỗ trợ các doanh nghiệp đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại
Để giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản có thể thúc đẩy xuất khẩu thì Nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại vì đây là hoạt động đem lại hiệu quả cao nhưng lại đòi hỏi chi phí lớn vì thế nên vai trò của Bộ Thương Mại và Sở Thương Mại rất quan trọng.
-Bộ Thương Mại và Sở Thương Mại nên tổ chức nhiều hơn nữa các hội chợ triển lãm có chất lượng chuyên ngành về hàng nông sản tại Việt Nam và mời khách nước ngoài đến tham quan giới thiệu sản phẩm. Đây chính là cơ hội tốt để các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản tiếp xúc với khách hàng quốc tế, quảng cáo về mặt hàng "thế mạnh" của doanh nghiệp, mở ra những mối làm ăn mới. Trong thời gian diễn ra hội chợ nên có các hình thức như phỏng vẫn trực tiếp hay phát phiếu thăm dò ý kiến khách hàng quốc tế về sản phẩm của từng doanh nghiệp.
-Đồng thời Bộ và Sở Thương Mại nên tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam đưa các mặt hàng nông sản đi tham gia các hội chợ, triển lãm quốc tế. Tại đây doanh nghiệp có thể vừa chào hàng, ký kết hợp đồng xuất khẩu, gặp gỡ nhiều khách hàng, vừa có được cái nhìn tổng quan về các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản trên thế giới từ đó thấy được điểm mạnh và điểm yếu so với họ. Nhờ đó sẽ giúp cho các doanh nghiệp trong nước thấy được cần phải nâng cao chất lượng, khắc phục những yếu kém của hàng Việt Nam so với các nước khác và học hỏi những kinh nghiệm kinh doanh của các nước có thế mạnh trong lĩnh vực này như Thái Lan, Mỹ...
-Mặt khác Nhà nước cần nâng cao trách nhiệm của Bộ Thương Mai, các cơ quan thương vụ Việt Nam ở nước ngoài, Cục xúc tiến thương mại, trung tâm thông tin thương mại... trong công tác nghiên cứu thị trường, cung cấp thông tin và kết quả nghiên cứu thị trường cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản. Hỗ trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ra nước ngoài khảo sát, tìm kiếm thị trường và bạn hàng xuất khẩu. Cần duy trì việc tổ chức hàng năm hội nghị tham tán thương mại và tiếp xúc giữa tham tán thương mại với các doanh nghiệp.
-Chi phí cho hoạt động quảng cáo và giới thiệu sản phẩm Việt Nam nói chung và sản phẩm của HAPROSIMEX nói riêng ở thị trường nước ngoài rất lớn và để xây dựng thành công thương hiệu doanh nghiệp phải bỏ ra một số tiền lớn cho công tác tiếp thị quảng cáo sản phẩm mà không phải doanh nghiệp nào cũng làm được. Vì vậy, Nhà nước nên có chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp một phần chi phí này.
2.1.3. Hỗ trợ về vốn cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản
Nông sản là mặt hàng mà việc sản xuất, thu mua mang tính thời vụ đậm nét với chu kỳ sản xuất tương đối dài, trong khi đó hoạt động sản xuất lại diễn ra suốt năm và được giá cao ở các kỳ giáp vụ. Vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp xuất khẩu phải có lượng vốn đủ lớn, đủ sức thu mua trong vụ thu hoạch và dự trữ xuất khẩu trong cả năm.
Tuy nhiên có một thực trạng là trong khi các ngân hàng bị ứ đọng vốn nhiều nhưng các doanh nghiệp lại rất khó tiếp cận được với các nguồn vốn này vì khó đáp ứng được những đòi hỏi khắt khe về tài sản thế chấp, thủ tục vay vốn còn phức tạp. Vì vậy, trong thời gian tới Nhà nước cần đưa ra những biện pháp để hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp:
-Nhà nước nên hỗ trợ, ưu đãi cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản như: cho vay với lãi suất ưu đãi, thời hạn cho vay dài. Nếu doanh nghiệp cần vốn để thu gom hàng phục vụ cho xuất khẩu hay xây dựng cơ sở hạ tầng thì Ngân hàng Nhà nước có thể cho doanh nghiệp vay với lãi suất thấp hơn mức quy định chung cho các đối tượng khác. Điều này sẽ góp phần giảm gánh nặng trả lãi cho doanh nghiệp.
-Hiện nay Nhà nước đã thành lập Quỹ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu nhưng thủ tục để xin được vay ưu đãi Quỹ này còn rườm rà có thể mất cơ hội. Vì vậy trong thời gian tới Nhà nước nên đơn giản hoá thủ tục cho vay để phát huy được hiệu quả của Quỹ này.
-Mở rộng các hình thức tín dụng thương mại cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản vay tiền mua nông sản xuất khẩu nhập vật tư ứng trước cho nông dân sản xuất để ổn định đầu vào
Về phía Ngân hàng, Nhà nước cũng cần xem xét lại các quy định về tài sản thế chấp để nó giữ đúng vai trò là tạo điều kiện đảm bảo an toàn cho vay chứ không phải là căn cứ giữa ngân hàng và công ty.
2.1.4. Nhà nước cần lập qũy bảo hiểm xuất khẩu
Để chiếm lĩnh được thị trường nước ngoài nhiều công ty thực hiện hình thức bán chịu hàng cho khách hoặc cho khách áp dụng hình thức mua trả chậm. Việc bán hàng theo cách này giúp công ty tiêu thụ được hàng hóa và lợi nhuận công ty thu được có thể cao hơn so với cách bán hàng trả tiền ngay. Tuy nhiên công ty cũng dễ gặp phải nhiều rủi ro, dễ bị mất vốn. Hơn nữa kinh doanh nông sản xuất khẩu lại là ngành phải chịu nhiều rủi ro cao do thời tiết thất thường, thị trường xuất khẩu nông sản còn bấp bênh thiếu ổn định. Do vậy nhà nước cần lập nên một qũy bảo hiểm xuất khẩu để khuyến khích công ty xuất khẩu hàng hóa của mình đồng thời giúp công ty bảo toàn vốn khi gặp rủi ro.
Ngoài ra bản thân các doanh nghiệp cũng cần phải nhận thức được mức độ rủi ro khi xuất khẩu đặc biệt là hàng nông sản rất dễ bị hư hỏng, nên các doanh nghiệp nên chủ động mua bảo hiểm cho hàng hoá xuất khẩu của Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam để hạn chế rủi ro.
2.2. Nhà nước tăng cường hỗ trợ cho các cơ sở sản xuất và chế biến hàng nông sản
Hoạt động sản xuất và chế biến các mặt hàng nông sản chính là khâu tạo ra hàng cho xuất khẩu. Nó có ảnh hưởng đến quy mô và cơ cấu và chất lượng hàng xuất khẩu. Vì vậy để nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu hàng nông sản thì bên cạnh việc tiếp tục mở rộng diện tích gieo trồng, Nhà nước cần phải đầu tư mạnh cho phát triển sản xuất hàng nông sản theo chiều sâu, từng bước nâng cao chất lượng hàng nông sản. Trong thời gian qua, Nhà nước đã có quan tâm đến các hoạt động sản xuất và chế biến hàng nông sản nhưng chưa nhiều nên chất lượng hàng nông sản của Việt Nam nói chung và của công ty HAPROSIMEX SAIGON nói riêng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu cao của những thị trường khó tính nhưng có khả năng chi trả lớn. Do vậy hiệu quả từ hoạt động xuất khẩu hàng nông sản vẫn chưa cao. Vì vậy trong thời gian tới, Nhà nước cần tăng cường hỗ trợ cho các hoạt động sản xuất và chế hàng nông sản để tạo ra các sản phẩm có hàm lượng giá trị cao, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu. Nhà nước nên tiến hành các biện pháp bao gồm:
2.2.1. Tạo nguồn vốn ban đầu cho nông dân
Đây là việc làm hết sức cần thiết vì để mở rộng được diện tích đất gieo trồng, thay đổi cơ cấu giống cây trồng, áp dụng những tiến bộ khoa học quản lý vào sản xuất... đòi hỏi cần có những chi phí không phải là nhỏ, mà nhiều khi người nông dân không tự trang trải nổi. Thời gian qua, các chương trình trợ giúp vốn cho người dân đã được thực hiện song kết quả thu được còn hạn chế. Nguyên nhân của sự hạn chế này là do việc cho người nông dân vay vốn với lãi suất ưu đãi diễn ra dàn trải, thiếu tập trung. Điều đó dẫn tới mỗi hộ nông dân chỉ có thể vay một vài trăm ngìn đồng, không đủ cho đầu tư sản xuất. Các hội nông dân năng động muốn làm ăn lớn đã chấp nhận đi vay với lãi suất tín dụng thông thường thì lại gặp khó khăn trong vấn đề tải sản thế chấp. Trong khi đó ngân hàng lại có hiện tượng ứ đọng tiền mặt. Vì vậy, Nhà nước nên cải cách cơ chế theo hướng đơn giản hơn nữa các thủ tục cho nông dân vay vốn, thực hiện việc đưa vốn cho vay trực tiếp từng cơ sở để nông dân có thể tiếp cận với vốn một cách hiệu qủa.
2.2.2. Hỗ trợ về giống, phổ biến kiến thức cho người nông dân
Hiện tại, nhiều nông dân Việt Nam chưa hiểu biết đầy đủ về các kiến thức về nông nghiệp như: Giống cây trồng nào phù hợp với loại đất nào, được trồng ở khu vực có điều kiện khí hậu nào và mức độ sử dụng các loại phân bón, thuốc trừ sâu ra sao... để cho ra các loại sản phẩm có chất lượng cao. Vì vậy, có hiện tượng nông dân gieo các loại giống cây trồng cho năng suất cao nhưng chất lượng không đảm bảo, hoặc quá lạm dụng các loại thuốc trừ sâu, phân bón phân bón hoá học. Chính vì vậy nhà nước nên hỗ trợ nông dân các loại giống tốt, cho năng suất cao, chất lượng đồng bộ. Hiện tại ngân sách của nhà nước còn hạn hẹp do vậy nhà nước không thể cung cấp miễn phí giống cho mọi nông dân. Vì vậy, nhà nước có thể sử dụng hình thức bán giống tốt cho nông dân với giá ưu đãi hoặc bán chịu hoặc nông dân, cuối vụ thu hoạch nhà nước sẽ nhận tiền... .Đồng thời nhà nước cũng cần có các chương trình phổ biến kiến thức cho nông dân.
2.2.3. Tổ chức tốt công tác thu mua nông sản cho nông dân
Hoạt động thu hoạch của nông dân mang tính mùa vụ nên quá trình thu hoạch diễn ra một cách dồn dập trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên đối với nông dân khả năng về vốn có hạn, các điều kiện về kho hàng cất giữ sản phẩm hạn chế nên người nông dân phải bán nông sản ngay sau khi thu hoạch. Trong khi đấy nhà nước lại không có khả năng thu mua nông sản cho nông dân, điều này dẫn đến tình trạng nông dân bị tư thương ép phải bán hàng với giá thấp và thực sự không khuyến khích nông dân sản xuất. Đây cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến sự ổn định nguồn hàng xuất khẩu của công ty. Do vậy trong thời gian tới nhà nước cần chuẩn bị kỹ lưỡng về vốn, kho chứa, mạng lưới thu mua hàng cho nông dân... để hạn chế bớt sự ép giá của tư thương đối với nông dân vào những lúc chính vụ. Có như vậy mới khuyến khích được nông dân sản xuất, cung cấp hàng ổn định và có chất lượng cao cho công ty tham gia xuất khẩu.
2.2.4. Tăng cường đầu tư tạo ra các vùng nguyên liệu tập trung
Vùng nguyên liệu tập trung là một vùng mà ở đó tập trung trồng các loại cây phù hợp với điều kiện khí hậu, đất đai, điều kiện kinh tế, xã hội của vùng. Ví dụ: một vùng nguyên liệu trồng mía phải được đặt ở những nơi có loại đất, khí hậu phù hợp với cây mía, có cơ sở hạ tầng thuận để vận chuyển mía từ nơi thu hoạch đến các kho chưa đã và các cơ sở chế biến. Với nguồn lực hạn chế như Việt Nam hiện nay thì đây có thể là một biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng và đồng bộ hoá sản phẩm nông nghiệp. Tuy nhiên, vấn đề là phải xác định được đâu là vùng ưu tiên cho từng mặt hàng.
2.2.5. Đầu tư mạnh cho phát triển công nghiệp chế biến hàng nông sản
Thời gian qua mặc dù số lượng hàng nông sản xuất khẩu của ta tăng nhiều hơn trước nhưng giá trị thu được lại giảm đi, nguyên nhân chủ yếu là do một số nông sản của ta đều xuất khẩu ở dạng thô, chất lượng còn thấp nên giá nông sản xuất khẩu của Việt Nam thường thấp hơn giá quốc tế. Vì vậy, muốn tăng giá trị nông sản thì cần phải đầu tư phát triển thâm canh tăng năng suất và đặc biệt là đầu tư vào khâu công nghiệp chế biến để tăng chất lượng sản phẩm, đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Tuy nhiên, đầu tư cho công tác chế biến sản phẩm đôi khi là quá sức đối với các công ty tham gia xuất khẩu mặt hàng này bởi công việc này đòi hỏi công ty phải bỏ ra một lượng vốn tương đối lớn để nhập khẩu các loại trang thiết bị, máy móc hiện đại. Chính vì vậy Nhà nước nên đầu tư phát triển các cơ sở chế biến hàng nông sản, đẩy mạnh áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất và chế biến, tăng đầu tư cho công nghiệp chế biến, công nghiệp bao bì, mẫu mã để tạo ra các loại sản phẩm nông sản có giá trị hàng lượng công nghệ cao. Chẳng hạn nhà nước sẽ đầu tư lắp đặt các dây chuyền đánh bóng gạo hay dây chuyền tinh chế cà phê thành sản phẩm cuối cùng để sản phẩm xuất khẩu của của công ty có thể đến tận tay người tiêu dùng cuối cùng. Bên cạnh đó Nhà nước nên khuyến khích các công ty xuất khẩu hàng nông sản đã qua chế biến thông qua các chính sách như: giảm thuế xuất khẩu, ưu tiên hạn ngạch xuất khẩu... để thúc đẩy hoạt động chế biến trong nước phát triển.
2.3. Đẩy mạnh cải cách hành chính tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu nông sản
Thủ tục hành chính vẫn là khâu yếu nhất trong quản lý xuất khẩu của Nhà nước, nhiều khi nó là nguyên nhân cản trở hoạt động xuất khẩu, làm chậm tiến độ giao hàng, giảm uy tín và sức cạnh tranh của hàng hoá. Vì vậy trong thời gian tới Nhà nước cần phải đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng:
2.3.1.Công khai hoá và luật pháp hoá: tất cả các quy định của Nhà nước có liên quan đến công việc kinh doanh của các doanh nghiệp. Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh những mảng trống cho kinh doanh xuất nhập khẩu để các doanh nghiệp không bị trở ngại trong kinh doanh.
2.3.2. Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu: trên thực tế, công tác quản lý xuất khẩu của Nhà nước còn một số bất cập với diễn biến của hoạt động xuất khẩu, nhiều khi còn không ít thiếu sót và nhược điểm cần khắc phục và giải quyết. Nhà nước nên tập trung vào giải quyết các vấn đề sau:
-Xóa bỏ cơ chế xin cho trong cấp hạn ngạch xuất khẩu nông sản đối với các nông sản quản lý bằng hạn ngạch.
-Các quy định về quản lý xuất nhập khẩu hiện hành phải được bổ sung, sửa đổi phù hợp để tạo điều kiện cho hoạt động xuất khẩu phát triển thuận lợi. Chẳng hạn như: Nghị định 15 của Chính Phủ về vận tải đường bộ gần đây hạn chế tải trọng xe dưới 18 tấn đang gây ách tắc cho vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu nên đã đội giá thành xuất khẩu lên cao làm cho lợi nhuận của các doanh nghiệp xuất khẩu giảm. Quy định của Nhà nước về toàn bộ tiền hàng xuất khẩu phải qua Ngân hàng mới được hoàn thuế VAT với hàng xuất khẩu cũng đang là ách tắc vì trong thực tế có nhiều trường hợp khách hàng nước ngoài đặt cọc hoặc trả tiếp toàn bộ hoặc một phần trị giá lô hàng bằng USD tiền mặt tại Việt Nam nên gây khó khăn cho doanh nghiệp xuất khẩu.
-Hiện nay, thủ tục xuất khẩu của chúng ta vẫn còn rườm rà, phức tạp, gây lãng phí thời gian, công sức cho doanh nghiệp xuất khẩu nhiều khi tỏ ra quan liêu, cửa quyền gây khó dễ cho các doanh nghiệp. Vì vậy trong thời gian tới Nhà nước cần đơn giản hoá các thủ tục xuất khẩu nông sản. Nhà nước nên sớm có chính sách đồng bộ để giảm chi phí xuất khẩu như cải tiến thủ tục, giảm thời gian hoàn thuế VAT với hàng xuất khẩu, giảm các loại chi phí, lệ phí cảng, giảm phí giao thông.
-Tiến tới xoá bỏ việc đánh thuế hàng nông sản xuất khẩu để nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam.
-Hiện nay thủ tục xét duyệt đi công tác khảo sát thị trường nước ngoài rất dài. Cụ thể, công văn đề nghị Sở Thương Mại là 3-4 ngày, Sở ngoại vụ: 3 ngày. Sau khi có quyết định của UBND thành phố làm hộ chiếu từ 5-7 ngày, xin visa là 5 ngày nên tổng cộng gần một tháng. Trong tình hình cạnh tranh hiện tại doanh nghiệp phải rất khẩn trương để đảm bảo thời gian và hiệu quả kinh doanh. Vì vậy, Nhà nước nên có cơ chế mới thông thoáng hơn giúp cho doanh nghiệp rút ngắn thủ tục đi nước ngoài.
-Các Công ty phải có đủ điều kiện về vốn, mạng lưới thu mua, kho tàng để mua hết hàng hoá đặc biệt là nông sản cho người sản xuất. Mặt khác, Bộ thương mại cũng cần phải giám sát chặt chẽ, phối hợp hoạt động giữa các doanh nghiệp nhằm tránh tình trạng tranh giành khách hàng bằng cách hạ giá một cách bất hợp lý, gây thiệt hại cho Công ty cũng như Nhà nước.
2.3.3. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý đồng bộ
Hệ thống các văn bản pháp lý, quy định phải đảm bảo được tính đồng bộ, nhất quán và dễ hiểu trong việc khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế tham gia sản xuất hàng xuất khẩu để tạo nguồn hàng ổn định, lâu dài cho các Công ty chuyên doanh xuất nhập khẩu, tránh tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” khuyến khích xuất khẩu một mặt hàng nào đó nhưng lại không khuyến khích sản xuất mặt hàng đó. Điều này là rất cần thiết để tạo tâm lý ổn định cho doanh nghiệp để họ yên tâm sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, cần sửa đổi, bổ sung các văn bản mới cho phù hợp với tình hình thực tế để hệ thống văn bản pháp lý ngày càng hoàn chỉnh hơn.
2.3.4.Thiết lập chế độ tỷ giá hối đoái thuận lợi cho người xuất khẩu: đây là chính sách có tính chất hỗ trợ, tăng khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu nói chung. Chính sách này cần được phối hợp một cách nhịp nhàng với các chính sách khác, tuỳ theo từng thời kỳ, tạo tỷ giá hối đoái có lợi và không chênh lệch qua lớn so với giá thực tế trên thị trường. Mục đích phá giá đồng bản tệ là để tăng khả năng cạnh tranh quốc tế của đất nước và cải thiện cán cân đối ngoại. Về mặt lý thuyết, việc phá giá tiền tệ làm giảm nhập khẩu và xác lập một tỷ giá thuận lợi hơn cho tăng cường xuất khẩu. khó khăn chủ yếu ở đây là phải xác định một tỷ giá vừa đủ, nhưng cũng vừa ngắn để thu được một hiệu ứng có lợi cho ngoại thương và bảo toàn được đội ngũ bạn hàng. Thành công của biện pháp này đòi hỏi một loạt các chính sách đi kèm nhằm tạo điều kiện dể chuyển những nhân tố tăng trưởng bên trong và bên ngoài và giữ cho nền kinh tế không " suy sụp" trong điều kiện lạm phát. Từ quan điểm này, việc trọn thời điểm để phá giá tiền tệ là hết sức quan trọng.
Kết luận
Việt Nam đang nỗ lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để bắt kịp xu thế phát triển kinh tế của toàn cầu, vì vậy xuất khẩu là một lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Thông qua đó, các quốc gia có được nguồn ngoại tệ để trang trải cho các nhu cầu nhập khẩu của nền kinh tế, góp phần cân đối, duy trì và mở rộng tái sản xuất trong nước, tranh thủ những tiến bộ khoa học và công nghệ của thế giới, đáp ứng nhu cầu không ngừng nâng cao trình độ phát triển kinh tế, xã hội, hoà nhập với nền kinh tế thế giới.
Với tầm quan trọng như vậy, ở nước ta xuất khẩu được đặt vào vị trí trung tâm, làm đòn bẩy cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Thúc đẩy xuất khẩu đã trở thành nhiệm vụ chiến lược của quốc gia trong suốt thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đây là nhiệm vụ đòi hỏi sự cố gắng của Đảng, nhà nước, tất cả các Bộ, ngành và đặc biệt là sự thực hiện của các công ty hiện đang tham gia vào hoạt động xuất khẩu. Trước yêu cầu đó, công ty HAPROSIMEX SAIGON đã tìm cho mình một hướng đi đúng đắn, thúc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu trong đó có mặt hàng nông sản. Công ty luôn coi nông sản là mặt hàng xuất khẩu chiến lược trong những năm tới và tích cực tìm kiếm những biện pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng này.
Nhận thức được điều này, cộng với sự quan tâm lòng mong muốn được đóng góp ý kiến vào sự phát triển chung của công ty tôi mạnh dạn đề xuất một số giải pháp như đã trình bày. Những kiến nghị này chỉ mang tính định hướng khoa học còn thiếu kinh nghiệm thực tiễn nên còn nhiều khiếm khuyết. Bởi vậy em mong nhận được sự góp ý bổ sung từ phía thầy cô và cán bộ trong công ty.
Danh mục Tài liệu tham khảo
I. Giáo trình
Giáo trình “ Kinh doanh quốc tế ”tập I, chủ biên PGS.TS Nguyễn Thị Hường, NXB Giáo dục, 2000.
Giáo trình:"Kinh doanh thương mại", tác giả Bùi Xuân Lưu, NXB Giáo dục, 2000.
Giáo trình “ Kinh tế học quốc tế ” tác giả GS -PTS Tô Xuân Dân, NXB Giáo dục, 1996.
Giáo trình:"Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương", tác giả Vũ Hữu Tửu, NXB Giáo dục,1998
Giáo trình: "Kỹ thuật thương mại quốc tế ", tác giả Đào Thị Bích Hoà, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 1999
Giáo trình “ Marketing quốc tế ”, tác giả PTS Nguyễn Cao Văn, NXB Thống kê, 2000
Giáo trình “ Marketing quốc tế ”, tác giả Nguyễn Xuân Vinh, NXB Bưu điện, năm 2000
Giáo trình:"Nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu" tác giả Trần Văn Chu, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2000
II. Sách
1. Sách:"Đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm rau quả", tác giả Hoàng Tuyết Minh, NXB Nông nghiệp, 2000
2. Sách: “Lương thực Việt Nam - đổi mới hướng xuất khẩu ” Tác giả : Nguyễn Trung Văn, NXB Chính trị Quốc gia, 1999
III. Tạp chí
1. Tạp chí Kinh tế và dự báo.
-Số 04-2000. Bài " Một số giải pháp tạo bước đột phá trong xuất khẩu nông sản ở Việt Nam". Tác giả: TS. Nguyễn Thị Hường
-Số 09-2000. Bài “Nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thị trường thế giới”. Tác giả : Nguyễn Văn Nam .
-Số 01-2001. Bài “Làm gì để nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu”. Tác giả: TS. Nguyễn Thị Hường.
2. Tạp chí kinh tế kế hoạch
-Số 3-2002. Bài “Nhiệm vụ và mục tiêu xuất nhập khẩu năm 2002”
-Số 4-2002. Bài “Tình hình kinh doanh xuất khẩu 3 tháng đầu năm 2002”
-Số 5-2002. Bài “Việt Nam trong tiến trình gia nhập kinh thế thế giới”
-Số 6-2002. Bài “Tình hình xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu trong mấy tháng đầu năm 2002”
3. Tạp chí kinh tế nông thôn: số 01-2003, số 07-2003
4. Tạp chí kinh tế và phát triển
-Số 37-2000. Bài " Về xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam: thực trạng và giải pháp"
-Số 38-2000. Bài “10 năm xuất khẩu hàng nông sản ở Việt Nam từ 1991-2000”. Tác giả : TS Đỗ Đức Hạnh - Trần Mai Phương.
-Số 46-2001. Bài "Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế". Tác giả: Lê Quốc Hội
5. Tạp chí phát triển kinh tế
-Số 105-2000. Bài “ Tìm thị trường cho các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam” Tác giả : TS Lê Khoa .
-Số 107-2000. Bài “ Một số giải pháp cho vấn đề tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp” Tác giả : Th.S Nguyễn Thị Minh Tâm .
-Số 124-2002. Bài “Xuất khẩu Việt Nam năm 2001 - nhìn lại cơ cấu mặt hàng”
6. Tạp chí tài chính
-Số 08-2001. Bài "Tín dụng hỗ trợ xuất khẩu- một giải pháp tài chính phục vụ hoạt động xuất khẩu ở Việt Nam"
-Số 09-2001. Bài "Tiếp tục mở rộng những ưu đãi về thuế để thúc đẩy xuất khẩu'
Bài " Giải pháp tài chính thúc đẩy xuất khẩu"
-Số 11-2001. Bài "Cấp bách kịp thời thúc đẩy hoạt động xuất khẩu"
7. Tạp chí Thương mại
-Số 12-2000. Bài "Một số vấn đề đặt ra đối với xuất khẩu nông sản Việt Nam trong xu thế hội nhập quốc tế và tự do hoá thương mại"
-Số 10-2001. Bài “Thành lập các cơ quan xúc tiến thương mại Việt Nam ở nước ngoài, yêu cầu bức xúc để đẩy mạnh xuất khẩu” .
-Số 28-2001. Bài "Suy nghĩ về giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng Việt Nam vào thị trường Nam Phi"
-Số 37-2002. Bài “Xuất hiện nguy cơ từ việc cà phê tăng giá”
-Số 6-2003. Bài “Xúc tiến thương mại với hội nhập quốc tế”
-Số 07-2003. Bài " Đẩy mạnh xuất khẩu năm 2003”
IV. Các tài liệu khác
Báo cáo hoạt động sản xuất kinh doanh, báo cáo tài chính kế toán của công ty HAPROSIMEX SAIGON các năm 1999-2002.
Mục Lục
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
danh Mục các bảng và hình
STT
Tên bảng
Trang
Bảng 1
Sản lượng xuất khẩu một số mặt hàng nông sản của Việt Nam
31
Bảng 2
Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông sản của Việt Nam
32
Bảng 3
Thị trường tiêu thụ một số mặt hàng nông sản Việt Nam
33
Bảng 4
Tình hình hoạt động của công ty từ năm 1992-1998
38
Bảng 5
Tình hình hoạt động của công ty từ năm 1999-2002
41
Bảng 6
Kết quả hoạt động kinh doanh (1999-2002)
46
Bảng 7
Cơ cấu nguồn vốn kinh doanh
47
Bảng 8
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của công ty
49
Bảng 9
Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu theo thị trường
52
Bảng 10
Cơ cấu lao động của công ty
53
Bảng 11
Kim ngạch xuất khẩu nông sản của công ty
55
Bảng 12
Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản của công ty
56
Bảng 13
Cơ cấu& tốc độ tăng trưởng các mặt hàng nông sản của công ty
57
Bảng 14
Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản theo thị trường
58
Bảng 15
Giá bình quân một số mặt hàng nông sản xuất khẩu của công ty
60
Bảng 16
Kế hoạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam (2005-2010)
74
Bảng 17
Kế hoạch xuất khẩu nông sản của công ty (2003-2005)
75
Bảng 18
Định hướng thị trường xuất khẩu nông sản năm 2003
75
Hình 1
Các bước thực hiện xuất khẩu hàng hoá
9
Hình 2
Sơ đồ bộ máy tổ chức công ty
43
Hình 3
Tốc độ tăng trưởng các mặt hàng xuất khẩu của công ty
51
TT
KDHTD
Phòng
KVTT
Phòng
XNK 3
Phòng
XNK 2
PHòng
XNK1
XN Toàn Thắng
XN Sinh thái
XN Gốm chu đậu
XNLH
Chế biến TP HN
Giám đốc
Các Phó Giám đốc giúp việc
P. KTTC
Các đơn vị SXKD
khu vực Phía Nam
Các đơn vị SXKD
khu vực Hà Nội
P. TCHC
P.Tổng hợp
Phòng
TP
Phòng
QC
Phòng
TCMN
Phòng
NS
Phòng
NK
XN
sx sắt mỹ nghệ
TT
XNK Máy & thiết bị
TT
DV-DL Bốn Mùa
Hình 2: Sơ đồ bộ máy tổ chức quản lý của công ty
Bảng 8: Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng của công ty
Đơn vị tính: 1000 USD
Nhóm hàng
Năm 1998
Năm1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
GT
TT(%)
GT
TT(%)
GT
TT(%)
GT
TT(%)
GT
TT(%)
HàngTCMN
2.346,1
42,44
3.107,6
46,67
5.274,5
52,06
5.278,8
45,89
5.657,4
37,19
Nông sản
3.120,5
56,44
3.350,8
50,31
4.097,1
40,44
5.774,7
50,20
9.245,4
60,77
HàngCN nhẹ
62,0
1,12
201,3
3,02
759,6
7,5
449,5
3,91
311,9
2,04
Tổng
5.528,6
100
6.659,7
100
10.131,2
100
11.503,0
100
15.214,7
100
Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (1998-2002)
Hình 3: Tốc độ tăng trưởng các mặt hàng
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0344.doc