Mục lục
Lời nói đầu
Chương 1:Một số vấn đề chung về hoạt động xuất khẩu
1.1 Xuất khẩu và sự cần thiết phải đấy mạnh xuất khẩu
1.2 Các hình thức xuất khẩu
1.2.1 Xuất khẩu trực tiếp
1.2.2 Xuất khẩu uỷ thác
1.2.3 Xuất khẩu tại chỗ
1.2.4 Buôn bán đối lưu
1.2.5 Tạm nhập tái xuất
1.3 Yếu tố sản xuất
1.4 Thị trường xuất khẩu
1.5 Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế Việt Nam
Chương 2 : Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU
2.1 Một số nét chính về thị trườn
60 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1439 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm thúc đẩy Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g dệt may EU
2.1.1 Quy mô thị trường
2.1.2 Tập quán và thị hiếu người tiêu dùng
2.1.3 Kênh phân phối
2.1.4 Chính sách thương mại
2.2 Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU
2.2.1 Tiềm năng phát triển của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường EU
2.2.2 Kim nghạch xuất khẩu và cơ cấu hàng dệt may Việt Nam trên thị trường EU
2.2.3 Phương thức thâm nhập vào thị trường EU
2.2.4 Một số thị trường trong khối EU
2.3 Đánh giá chung về hiệu quả hoạt động xuất khẩu dệt may Việt Nam sang thị trường EU
2.3.1 Những kết quả đạt được
2.3.2 Những ảnh hưởng bất lợi đến hoạt động xuất khẩu dệt may Việt Nam vào thị trường EU
2.3.2.1 Rào cản thuế và tieu chuẩn kỹ thuật
2.3.2.2 Cạnh tranh từ phía Trung Quốc
2.3.2.3 Nguyên phụ liệu cho nghành dệt may
2.3.2.4 Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam
2.3.2.5 Những ảnh hưởng bất lợi khác
Chương3: Các biện pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU
3.1 Định hướng của xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU trong thời gian tới
3.2 Giải pháp từ phía Chính Phủ
3.2.1 Đàm phán với EU
3.2.2 Chính sách từ bộ ,cơ chế của Chính Phủ
3.3 Từ phía hiệp hội dệt may
3.4 Từ phía các doanh nghiệp dệt may
3.5 Mười vấn đề doanh nghiệp cần quan tâm để thành công trong việc xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Lời nói đầu
Hiện nay Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.Việc tổ chức thành công ASEM 5 vừa qau là một minh chứng cho thấy rằng Việt Nam đã và đang tạo dựng được một uy tín tốt trên thế giới với hình ảnh một đất nước thân thiện một môi trường đầu tư tiềm năng và an toàn .
Hội nhập để phát triển kinh tế ,văn hoá ,xã hội là đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ mới.Hội nhập mang lại những cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam .Làm thế nào để cạnh tranh và khẳng định uy tín tạo dựng thương hiệu trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt mà chúng ta là người đi sau trong cuộc chơi này? Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải có chiến lược kinh doanh phù hợp ,liên kết cùng nhau phát triển tăng cường sức cạnh tranh và cũng cần Nhà nước phải có cơ chế chính sách đúng đắn kết hợp với sự hỗ trợ của hiệp hội tạo đà cho các doanh nghiệp đi lên .
Cùng với chiến lược phát triển kinh tế hướng về xuất khẩu của Nhà nước ta thì nghành dệt may là một trong 3 nghành mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân và là nghành xuất khẩu chủ lực ,tiềm năng của Việt Nam .Nhận thức được điều này,Chính Phủ đã đề ra quy hoạch phát triển nghành dệt may với mục tiêu năm 2005 là 4-5 tỷ USD và đạt mức 8-10tỷ USD vào năm 2010.Những thành tích vừa qau cho thấy rằng đất nước ta rất có tiềm năng trong nghành dệt may.Đã có rất nhiều chuyên đề các cuộc thảo luận về việc tìm đối sách cho các doanh nghiệp Việt Nam trong tình hình hiện nay Trong thời gian này nhờ sự chỉ bảo của thầy giáo Trần Đức Hiệp hướng dẫn em nhận thấy đây là một đề tài hay hữu ích nên em đã chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU” Ngoài phần mở đầu và kết luận ,đề tài gồm 3 phần
Phần 1 : Một số vấn đề chung về hoạt đông xuất khẩu
Phần 2 : Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU
Phần 3 : Các biện pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU
Chương 1: Một số vấn đề chung về hoạt động xuất khẩu
1.1. Xuất khẩu và sự cần thiết phải đẩy mạnh xuất khẩu
Trước chủ nghĩa tư bản, phương thức sản xuất kinh tế hầu như chỉ bó hẹp trong phạm vi của từng địa phương và từng quốc gia mà người ta gọi đó là nền kinh tế tự cung, tự cấp. Đến chủ nghĩa tư bản thì sản xuất và lưu thông hàng hoá đã vượt ra ngoài quốc gia, hoà nhập vào thị trường thế giới. Khi mà cuộc cách mạng khoa học công nghệ ngày càng phát triển, các sản phẩm và hàng hoá làm ra ngày càng phong phú, đa dạng hơn. Dù bất kỳ nước nào có tài nguyên thiên nhiên phong phú, trình độ khoa học công nghệ cao cũng không tự mình sản xuất tất cả các mặt hàng đạt tiêu chuẩn quốc tế, đáp ứng đầy đủ nhu cầu của người dân. Vì thế mà tuỳ theo lợi thế của mình, mỗi nước lựa chọn những ngành sản xuất tối ưu, tham gia tích cực vào việc lựa chọn những ngành sản xuất tối ưu đó điều này trở nên cần thiết và đem lại những lợi ích thiết thực cho mỗi quốc gia.
Xuất khẩu là việc bán các hàng hoá, dịch vụ sản xuất ở trong nước ra ngoài nhằm thu ngoại tệ, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tăng tích luỹ cho ngân sách nhà nước và là cơ sở để nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân.
Hoạt động xuất khẩu là một hoạt động phức tạp.Nơi đây diễn ra các quan hệ giao dịch, buôn bán giữa những người có quốc tịch khác nhau trên một thị trường rộng lớn, khó kiểm soát. Hàng hoá được vận chuyển ra khỏi biên giới quốc gia. Đồng tiền thanh toán là ngoại tệ quy định của người xuất khẩu và người nhập khẩu. Các hoạt động giao dịch này phải tuân theo những tập quán, thông lệ và luật lệ quốc tế cũng như mỗi quốc gia hoặc vùng lãnh thổ.
Hoạt động xuất khẩu được tổ chức thực hiện với nhiều nghiệp vụ phức tạp từ việc nghiên cứu thị trường, lựa chọn hàng xuất khẩu, giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng, tổ chức thực hiện hợp đồng cho đến khi hàng hoá chuyển giao quyền sở hữu cho người mua và hoàn thành các thủ tục thanh toán. Mỗi một khâu nghiệp vụ này đều phải được nghiên cứu một cách kỹ lưỡng trên cơ sở tranh thủ các lợi thế, tôn trọng nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi nhằm đảm bảo cho hoạt động xuất khẩu đạt hiệu quả cao nhất cả về mặt kinh tế lẫn xã hội.
1.2 Các hình thức xuất khẩu
Trong thương mại quốc tế hiện nay có rất nhiều loại hình kinh doanh xuất khẩu. Nhưng hình thức xuất khẩu chủ yếu là:
1.2.1 Xuất khẩu trực tiếp
Đây là hình thức xuất khẩu mà các đơn vị xuất khẩu ký kết hợp đồng và trực tiếp bán hàng hoá do mình sản xuất ra hoặc mua của các đơn vị trong nước cho các đối tác nước ngoài. Hình thức này có ưu điểm là đơn vị xuất khẩu tiếp cận với thị trường quốc tế, hiệu quả kinh doanh cao hơn các hình thức khác. Nếu làm tốt thì uy tín của đơn vị ngày càng cao trên thị trường quốc tế. Đội ngũ cán bộ được rèn luyện qua thực tiễn, năng động, sáng tạo và thích ứng với cơ chế kinh tế thị trường ngày càng tốt hơn. Tuy vậy, hình thức đòi hỏi đơn vị phải có số vốn lớn để thực hiện những hợp đồng có giá trị lớn có thể gặp rủi ro do đồng tiền nước đó tăng giá so với đồng ngoại tệ trong hợp đồng xuất khẩu hay hàng bị khiếu nại do kém chất lượng, không đảm bảo thời gian giao hàng.
1.2.2 Xuất khẩu uỷ thác
Trong hình thức này đơn vị xuất khẩu đứng ra với vai trò trung gian xuất khẩu làm thủ tục cần thiết để xuất khẩu và hưởng tỷ lệ nhất định phí uỷ thác theo giá trị hàng hoá xuất khẩu (thường từ 1 - 3% giá trị lô hàng). Ưu điểm của hình thức này là mức độ rủi ro thấp, trách nhiệm ít, người đứng ra xuất khẩu không phải là người đứng ra chịu trách nhiệm cuối cùng. Đặc biệt không cần vốn để mua hàng mà chủ yếu dựa vào uy tín của đơn vị. Tuy hưởng lợi ít nhưng chắc chắn không bị rủi ro.
1.2.3 Xuất khẩu tại chỗ
Đấy là hình thức mới nhưng ngày càng mở rộng trong nền kinh tế "mở cửa". Đặc điểm của hình thức xuất khẩu này là hàng hoá không bắt buộc phải vượt biên giới quốc gia mới đến tay của khách hàng. Các thủ tục xuất khẩu thì đơn giản hơn. Chi phí xuất khẩu cũng như rủi ro thấp hơn. ở Việt Nam thì loại hình này chủ yếu diễn ra trong việc bán hàng hoá cho các khu chế xuất.
1.2.4 Buôn bán đối lưu
Là phương thức giao dịch buôn bán mà trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu. Người bán đồng thời là người mua. Lượng hàng hoá trao đổi luôn tương đương với nhau về giá trị. ở đây mục đích xuất khẩu không phải thu về một khoản ngoại tệ mà nhằm thu về một lượng hàng hoá cần thiết có giá trị xấp xỉ lô hàng xuất khẩu. Buôn bán đối lưu chủ yếu xuất hiện ở các nước có nhu cầu nhập khẩu cao trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế. Nước ta có nhu cầu nhập khẩu lượng lớn về máy móc thiết bị của một số nước công nghiệp phát triển nên đã yêu cầu các nước này phải nhập khẩu một số mặt hàng của ta do khó khăn về thị trường xuất khẩu như: gạo, cà phê, hàng thực phẩm...
1.2.5 Tạm nhập tái xuất
Là hình thức hàng hoá xuất khẩu đi qua một số nước trung gian rồi mới đến nước nhập khẩu. Trong hoạt động này, nước tái xuất sẽ thu được một khoản chênh lệch giữa khoản tiền bỏ ra để nhập khẩu và khoản tiền thu được khi xuất khẩu. Ngoài ra có thể hưởng thu nhập do sử dụng đồng tiền chiếm dụng vì đã thu của nước nhập khẩu nhưng chưa thanh toán cho nước xuất khẩu.
1.2.6 Gia công quốc tế
Là hình thức trong đó bên nhận gia công sẽ nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của bên đặt gia công để sản xuất ra thànhphẩm giao lại cho bên đặt gia công và hưởng phí gia công .Hình thức này ở nước ta diễn ra chủ yếu trong lĩnh vực gia công dệt may,hàng giàydép .Hình thức này tạođiều kiện cho người lao động có công việc làm,thu nhập và tiếp cận với công nghệ mới.Mặt khác,chúng ta không phải bỏ nhiều vốn không lo thị trường tiêu thụ.
1.3 Nhân tố sản xuất
Để có xuất khẩu thì phải có nền sản xuất hàng hoá có trình độ phát triển nhất định. Xuất khẩu chỉ có thể đẩy mạnh được trên cơ sở phát triển của sản xuất. Nhân tố sản xuất ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu trên những khía cạnh sau: Sản lượng hàng hoá nhiều hay ít? Chất lượng hàng hoá có đáp ứng được các tiêu chuẩn xuất khẩu hay không? Giá cả hàng hoá có đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế? Mặt hàng đó thị trường quốc tế có nhu cầu như thế nào? Tất cả những điều đó đã đòi hỏi sản xuất phải gắn với thị trường, tức phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường để định hướng sản xuất. Thông thường mỗi quốc gia cũng như từng địa phương đều tập trung xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực trên cơ sở tiềm năng thế mạnh của mình. Một mặt hàng được coi là xuất khẩu chủ lực cần có ba yếu tố cơ bản sau đây:
- Có thị trường tiêu thụ tương đối ổn định và luôn cạnh tranh được trên thị trường đó.
- Có nguồn lực để tổ chức sản xuất và sản xuất với chi phí thấp để tăng sức cạnh tranh và thu được lợi nhuận khi xuất khẩu.
-Mặt hàng đó chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu.
Chúng ta cũng cần nhận thức rằng mặt hàng xuất khẩu chủ lực không phải là cố định. Mặt hàng này, ở thời điểm này là mặt hàng xuất khẩu chủ lực nhưng ở thời điểm khác có thể không còn là chủ lực nữa. Muốn xây dựng mặt hàng xuất khẩu chủ lực đòi hỏi mỗi quốc gia và từng địa phương có những biện pháp thúc đẩy sản xuất phát triển đúng hướng.
1.4 Nhân tố thị trường
Thị trường là nơi diễn ra các quá trình trao đổi, mua bán các hàng hoá và dịch vụ. Thông qua thị trường ta có thể nắm bắt được quy luật vận động của hàng hoá. Trên thị trường mỗi loại hàng hoá có quy luật vận động riêng thông qua sự thay đổi về cung cầu và giá cả của hàng hoá đó. Khi nắm được quy luật của thị trường ta biết được khả năng cung cấp và tiêu thụ của thị trường, thái độ của người tiêu dùng. Nhưng điều quan trọng hơn là ta nắm được xu thế phát triển của thị trường, từ đó có những hình thức và giải pháp hợp lý để thâm nhập thị trường. Khi nghiên cứu nhân tố thị trường ảnh hưởng đến xuất khẩu cần nghiên cứu vấn đề dung lượng thị trường của từng loại hàng hoá. Đó là khối lượng của một loại hàng hoá nào đó được giao dịch trên thị trường trong một thời gian nhất định. Dung lượng thị trường chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác như chính sách của nhà nước, thị hiếu, tập quán tiêu dùng. Một thực tế cho thấy là chỉ khi nào nghiên cứu vững thị trường xuất khẩu thì chúng ta mới có các giải pháp tích cực để mở rộng khả năng tiêu thụ hàng hoá xuất khẩu trên thị trường ấy cũng như phát triển sản xuất phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của thị trường
1.5 Vai trò của xuất khẩu
Xuất khẩu là hoạt động cơ bản và chủ yếu đối với mỗi quốc gia nếu quốc gia đó muốn tồn tại và phát triển, thể hiện qua những nội dung sau:
1.5.1 Đẩy mạnh xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu ngày càng tăng, cân bằng cán cân thanh toán quốc tế
Nhập khẩu và xuất khẩu là hai mặt không thể tách rời trong hoạt động ngoại thương của mỗi quốc gia. Mở rộng xuất khẩu thu ngoại tệ nhiều để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu ngày càng tăng của các nước đang phát triển như nước ta. Đồng thời thông qua nhập khẩu góp phần phát triển sản xuất trong nước phục vụ cho xuất khẩu. Đối với nước ta, nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá và một phần hàng hoá tiêu dùng trong nước chưa sản xuất được hoặc không có lợi thế ngày càng tăng.
1.5.2 Xuất khẩu góp phần phát huy các lợi thế so sánh của đất nước. Thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội
Ngày nay, các nhà kinh tế học hiện đại đều cho rằng thương mại quốc tế đem lại lợi ích cho tất cả các quốc gia khi mở cửa giao lưu kinh tế với bên ngoài cho dù các nguồn lực sản xuất có lợi thế tuyệt đối hay không. Nước ta có nhiều tiềm năng cho xuất khẩu như: Nước ta nằm ở khu vực kinh tế phát triển năng động của thế giới có sức thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Bờ biển dài hàng nghìn kilômét có tiềm năng lớn về khai thác xuất khẩu của sản phẩm từ biển như hải sản, dầu thô và thuận lợi trong giao lưu kinh tế quốc tế bằng vận tải đường biển. Đất đai phì nhiêu, khí hậu nhiệt đới gió mùa nên có tiềm năng sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm nông sản như: gạo, cà phê, hạt tiêu, cao su. Nước ta cũng có một lực lượng lao động dồi dào, cần cù, chịu khó, thông minh là điều kiện tốt để phát triển các mặt hàng xuất khẩu cần nhiều lao động như: may mặc, giầy dép, lắp ráp điện tử. Với những tiềm năng trên lợi thế của nước ta đang được khai thác và phát huy hiệu quả, trong tương lai nước ta sẽ có nhiều mặt hàng xuất khẩu sẽ được khai thác tốt hơn, tốc độ tăng trưởng nhanh hơn và đạt hiệu quả kinh tế cao hơn. Điều này càng khẳng định vai trò quan trọng của xuất khẩu trong việc khai thác và phát huy các lợi thế so sánh.
1.5.3 Xuất khẩu góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, giữ vững trật tự an ninh xã hội
Giải quyết việc làm cho người lao động là vấn đề quan trọng ở nước ta được Đảng và nhà hết sức quan tâm. Đấy là chỉ tiêu được đặt ra trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm của cả nước và từng địa phương. Bên cạnh biện pháp đưa người Việt Nam đi lao động ở nước ngoài thì mở rộng xuất khẩu sẽ tăng qui mô sản xuất hoặc xây dựng mới các cơ sở sản xuất, thu hút đông đảo lực lượng lao động. Chỉ xét riêng mặt hàng thủ công mỹ nghệ là những mặt hàng thuộc nghề truyền thống, được sản xuất bởi các nghệ nhân, thợ thủ công có tay nghề tinh xảo và độc đáo truyền từ đời này sang đời khác thì nếu xuất khẩu được 1 triệu USD sẽ thu hút được 3500 - 4000 lao động chuyên nghiệp/năm. Với kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đạt được trong năm 250 triệu USD thì số lao động sản xuất trong ngành này khoảng 850 - 1000 ngàn người. Nếu tính một phần là lao động nông dân thì tổng số lao động thu hút vào sản xuất khoảng 1,5 - 2 triệu người. Đấy không chỉ là con số có ý nghĩa về mặt kinh tế như tạo việc làm, tăng thu nhập chính đáng cho người lao động, xoá đói giảm nghèo mà còn có ý nghĩa lớn về chính trị xã hội trong điều kiện nước ta hiện nay như đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực, tệ nạn xã hội góp phần đảm bảo trật tự an toàn - xã hội.
Nhìn chung lực lượng lao động tham gia vào sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu có đời sống tương đối ổn định và ngày càng được cải thiện. Đồng thời do yêu cầu đòi hỏi của thị trường, trình độ khoa học - kỹ thuật, tay nghề của người lao động cũng không ngừng được nâng cao.
1.5.4 Xuất khẩu góp phần mở rộng và tăng cường kinh tế đối ngoại
Xuất khẩu là hoạt động của kinh tế đối ngoại có quan hệ tác động qua lại và phụ thuộc vào các yếu tố khác của kinh tế đối ngoại. Đẩy mạnh xuất khẩu sẽ kéo theo nhu cầu khác như: vận tải, quốc tế, du lịch, đầu tư nước ngoài, thông tin liên lạc. Ngược lại những quan hệ trên khi đã được mở rộng và phát triển lại tạo điều kiện cho xuất khẩu.
1.5.5 Xuất khẩu tạo điều kiện biến đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá ,hiện đại hoá
Một cơ cấu kinh tế đổi mới được gọi là năng động ,có hiệu quả và tốc độ phát triển cao khi nó đáp ứng yêu cầu sau .
- Phản ánh được đúng đắn những thành tựu của khoa học công nghệ hiện đại mà nhân loại trên thế giới đang sáng tạo ra ,phù hợp với thực tiễn nước ta .
- Thích nghi được với xu thế phát triển của nền kinh tế thị trường thế giới trong đó nền kinh tế thị trường là một bộ phận ,tham gia tích cực vào sự phân công lao động và thương mại quốc tế
- Sản phẩm hàng hoá và dịch vụ sản xuất ra có khả năng đứng vững trên thị trường trong nước và quốc tế .
- Có tốc độ tăng trưởng cao và bền vững .
- Đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao .
Những yều cầu nói trên của đổi mới cơ cấu kinh tế chỉ có thể đạt được nếu quán triệt quan điểm “ Hướng về xuất khẩu ’’.Thông qua xuất khẩu tạo điều kiện cho các nghành kinh tế phát triển .Mặt khác góp phần thúc đẩy khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển,đổi mới công nghệ,nâng cao năng lực sản xuất tập trung cho những nghành,những lĩnh vực có điều kiện thuận lợi hoà nhập với kinh tế khu vực và thế giới.Về cơ cấu hàng hoá xuất khẩu,Đảng ta chủ trương “ Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu trên thị trường.Giảm tỷ trọng sản phẩm thô và sơ chế,tăng tỷ trọng sản phẩm chế biến sâu và tinh trong hàng xuất khẩu.Tăng nhanh xuất khẩu dịch vụ.Nâng cao tỷ trọng phần giá trị gia tăng trong giá trị hàng xuất khẩu ’’.Yêu cầu này bắt buộc các cơ sở sản xuất phải đầu tư chiều sâu,nâng cao tỷ trọng công nghiệp dịch vụ trong cơ cấu kinh tế.Đây là yếu tố tác động mạnh nhất,tích cực nhất đối với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá.
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU
2.1 Một số nét chính về thị trường dệt may EU
Liên minh châu Âu (EU) là một tổ chức gồm các quốc gia châu Âu, được thành lập với mục đích đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế và tăng cường hợp tác giữa các nước thành viên. Trụ sở của EU đóng tại Brussels, Bỉ.
EU chính thức thành lập ngày 1 tháng 11 năm 1993. Đây là kết quả của việc hình thành một loạt các tổ chức hợp tác châu Âu mà bắt đầu là Cộng đồng than thép Châu Âu (ECSC) năm 1952 và sau cùng là cộng đồng năng lượng nguyên tử và cộng đồng kinh tế Châu Âu (EEC) hợp nhất thành cộng đồng Châu Âu (EC) năm 1967. Các thành viên của EC bao gồm: Bỉ, Đan Mạch, Pháp, Đức, Hy Lạp, Italia, Luxembourg, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Anh và Tây Ban Nha. Năm 1991, chính phủ của 12 quốc gia thành viên EC đã ký hiệp ước Maastricht hình thành liên minh Châu Âu. Năm 1995 các quốc gia gồm: áo, Phần Lan và Thuỵ Điển gia nhập EU, tăng số thành viên EU lên 15 nước. Cũng trong năm này, một loạt các quốc gia Đông Âu đã nộp đơn xin gia nhập EU nhưng mãi đến năm 2002, EU mới quyết định chấp nhận 10 quốc gia gồm: Séc, Hungary, Ba Lan, Slovenia, Slovakia, Latvia, Estonia, Lithuania, Malta, Síp. Đến 1/5/2004, 10 quốc gia này chính thức trở thành thành viên của EU nâng tổng số thành viên lên 25 quốc gia (Bảng 1.0).
Bảng 1.0: Thời gian tham gia vào EU của các quốc gia thành viên
Năm
Số quốc gia mới
Tên quốc gia
1957
6
Pháp,Đức,Italia, Bỉ, Hà Lan, Lucxambourg
1973
3
Liên hiệp Anh, Ailen, Đan Mạch
1981
1
Hy Lạp
1986
2
Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha
1995
3
áo, Thuỵ Điển, Phần Lan
1/5/2004
10
Séc, Hungary, Ba Lan, Slovenia, Slovakia, Latvia, Estonia, Lithuania, Malta và Síp
(Nguồn:www. eurunion.org)
Về an ninh
EU lấy NATO và liên minh phòng thủ Tây Âu làm 2 trụ cột chính nhằm giảm dần sự phụ thuộc vào Mỹ. Sau chiến tranh lạnh, hợp tác an ninh giữa EU và Mỹ đang diễn ra theo chiều hướng mới đó là: giảm vai trò chi phối của Mỹ, tăng cường tính tích cực chủ động của EU, vì vậy công thức 26+1 (25 nước EU, Mỹ và Nga) cùng với việc mở rộng EU sang Trung và Đông Âu đang là cơ hội tăng cường sức mạnh của EU, giảm dần vai trò lá chắn của Mỹ. Việc hình thành liên minh kinh tế, tiền tệ nhằm nhất thể hoá kinh tế, xã hội, chính trị, xây dựng một Châu Âu thống nhất vào thế kỷ 21 là thách thức lớn đối với Mỹ.
Về chính trị-xã hội
Tại EU đang diễn ra quá trình chính trị hoá các nhân tố kinh tế, an ninh (tức là kết hợp các phương tiện kinh tế, quân sự nhằm đạt tới các mục tiêu chính trị). Đặc trưng chủ yếu nhất của Châu Âu ngày nay là quá trình Châu Âu hoá, hợp nhất hoá, thống nhất các đường biên giới quốc gia nhằm tăng cường quyền lực và quản lý chung. Đồng thời, EU đang đẩy mạnh hợp tác trên bình diện quốc tế và khu vực bằng việc ký kết các hiệp định song và đa biên
Các nước thành viên EU thực hiện một chính sách chung về lao động, bảo hiểm, môi trường, năng lượng, giáo dục và y tế. Hiện nay chỉ còn vài bất đồng về bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ dân sự và giải quyết nạn thất nghiệp
Về kinh tế
Tốc độ tăng trưỏng kinh tế của EU khá ổn định, GDP hàng năm tăng từ 1,8% đến 2,7% suốt từ 1995 đến 2001 và không bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính 1997-1998. Đây là nguyên nhân làm cho thương mại và kinh tế của EU phát triển chắc chắn, tạo sức mạnh cho nền kinh tế thế giới.
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của EU năm 1998 là 8.482 tỷ USD (chiếm 19,8% GDP toàn cầu), năm 2002 đạt 8.600 tỷ USD (khoảng 20% GDP toàn cầu) GDP năm 2003 đạt 8.643 tỷ USD tăng 0,5% so với năm 2002. Có thể thấy ngay, EU là một trong những khu vực kinh tế có GDP lớn nhất thế giới, cao hơn 13% so với Mỹ và 38% so với Nhật, Trong đó các nước như Đức, Pháp, Italia, và liên hiệp Anh chiếm gần 72% tổng GDP của EU.
Tuy nhiên GDP bình quân đầu người của EU lại thấp hơn so với Nhật và Mỹ (năm 1998 là 23.089 USD, năm 2002 đạt trên 24.000 USD). Điều này là do thu nhập bình quân của các quốc gia trong EU không đồng đều. Trong khi Lucxembourg và Đan Mạch có thu nhập trên 30.000 USD thì Bồ Đào Nha và Hy Lạp lại thấp hơn con số này rất nhiều (8.390 USD và 9.143 USD).
2.1.1. Quy mô thị trường
a. Dân số
Về dân số, Đức là nước có dân đông nhất trong các nước thành viên. Dân số Đức năm 1998 là 82,1 triệu người sau đó là Anh, Italia và Pháp. Tổng dân số EU hiện nay khoảng 451 triệu người (số dân gấp 3 lần Nhật Bản và hơn thị trưòng Nhật Bản khoảng 43%) (Bảng 1.2)
Bảng 2 Quy mô dân số các nước thành viên EU năm 2004N
Đơn vị: triệu người
TT
Quốc gia
Tổng dân số
1
Đức
82
2
Anh
58.6
3
Pháp
60.4
4
Italia
57.6
5
Tây Ban Nha
39.4
6
Hà Lan
15.8
7
Hy Lạp
10.5
8
Bỉ
10.2
9
Bồ Đào Nha
10.8
10
Thuỵ Điển
8.9
11
áo
8.1
12
Đan Mạch
5.3
13
Phần Lan
5.1
14
Ai Len
3.7
15
Luxembourg
0.429
16
Séc
10.3
17
Hungary
10.2
18
Ba Lan
38.6
19
Slovenia
2
20
Slovakia
5.4
21
Latvia
2.3
22
Estonia
1.36
23
Lithuania
3.5
24
Malta
0.4
25
Síp
0.9
Tổng
451.789
Nguồn: www.eu2004.ie
Với một quy mô dân số tương đối lớn lại có thu nhập cao, EU sẽ là một thị trường lý tưởng cho tất cả các nhà xuất khẩu trong đó có các nhà xuất khẩu Việt Nam.
b. Nhu cầu tiêu dùng
EU có nền thương mại lớn thứ 2 thế giới, là thị trường xuất khẩu lớn nhất và thị trường nhập khẩu lớn thứ 2 (sau Mỹ) . Hàng năm EU nhập khẩu một lượng lớn hàng hoá từ khắp các nước trên thế giới. Kim ngạch nhập khẩu không ngừng được gia tăng từ 622,48 tỷ USD năm 1994 lên tới 2298 tỷ USD năm 2000 và 2400 tỷ USD năm 2002 trong đó 60% là nhập khẩu giữa các quốc gia thành viên và 40% là nhập khẩu từ ngoài EU(khoảng 900 tỷ). Giá trị nhập khẩu từ các quốc gia đang phát triển là 321,72 tỷ, chiếm 14% trong tổng nhập khẩu năm 2002 của EU.
Cơ cấu nhập khẩu của EU: sản phẩm thô chiếm 29,74% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng năm, sản phẩm chế tạo chiếm trên 67,19%, các sản phẩm khác chiếm gần 3,07%. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu phải kể đến là nông sản chiếm 11,79%, khoáng sản chiếm 17,33%, máy móc chiếm khoảng 24,27%, thiết bị vận tải chiếm trên 8%...Các thị trường nhập khẩu chính của EU là Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, ASEAN, OPEC.
Một số mặt hàng EU có nhu cầu nhập khẩu cao trong năm 2003 và cũng là mặt hàng mà Việt Nam có lợi thế là: giày dép (9,2 tỷ EURO), dệt may (51,4 tỷ EURO), thuỷ sản (11 tỷ EURO), nông sản rau quả (65,3 tỷ EURO) và thủ công mỹ nghệ (13 tỷ EURO).
2.1.2 Tập quán và thị hiếu tiêu dùng
EU là một thị trường thống nhất trong đó người, vốn, hàng hoá và dịch vụ được tự do lưu thông giữa 25 nước thành viên. Tuy nhiên EU lại được tạo bởi 25 quốc gia có những phong tục, tập quán, đặc điểm văn hoá xã hội và tôn giáo khác nhau. Chẳng hạn, doanh nghiệp Pháp chủ yếu quan tâm đến giá cả và họ thích gắn mác lên hàng hoá theo kiểu Pháp. Doanh nghiệp Đức không chấp nhận mua hàng qua catalo trong khi các doanh nghiệp Anh lại rất quan tâm đến chất lượng và rất sòng phẳng, luôn tuân theo những luật lệ một cách chính xác. Mặc dù vậy, thị trường EU cũng có những yêu cầu và tập quán khá thống nhất, ưa chuộng hàng có nguồn gốc tự nhiên, đảm bảo an toàn như: thuỷ hải sản phải đảm bảo vệ sinh, không nhiễm độc môi trường; hàng may mặc và giày dép có chất lượng và hợp thời trang, không có nguồn gốc hoá chất (tối kỵ chất AZO-dyes), mẫu mã thay đổi liên tục, xu hướng dùng giày vải thay cho giày da đang thịnh hành.
Mức sống của Châu Âu cao nên vấn đề là chất lượng, mẫu mã, chủng loại chứ không phải là giá cả. Người dân EU chấp nhận giá cao khi hàng đạt yêu cầu thị hiếu và chất lượng theo ý họ. Hàng hoá của các nước đang phát triển Châu á trong đó có Việt Nam, Trung Quốc, Indonesia, Thái Lan, Malaysia và các nước ASEAN khác là loại chất lượng trung bình, phù hợp với người dân có mức sống trung bình (khoảng 65-70% dân số) và nhóm người có mức sống thấp (khoảng 10% dân số). Xu hướng tiêu dùng thay đổi từ hàng bền trước đây nay sang hàng sử dụng ngắn ngày, rẻ hơn chút ít, nhưng chất liệu tự nhiên (dùng bông sợi tự nhiên không phải sợi tổng hợp, đồ gỗ chứ không phải đồ nhựa)
2.1.3. Kênh phân phối
Hệ thống phân phối EU về cơ bản cũng giống như hệ thống phân phối của một quốc gia, bao gồm mạng lưới bán buôn và mạng lưới bán lẻ. Tham gia vào hệ thống phân phối này là các công ty xuyên quốc gia, hệ thống các cửa hàng, siêu thị, các công ty bán lẻ độc lập…
Hình thức tổ chức phổ biến nhất của các kênh phân phối trên thị trường EU là theo tập đoàn và không theo tập đoàn. Kênh phân phối theo tập đoàn có nghĩa là các nhà sản xuất và nhà nhập khẩu của một tập đoàn chỉ cung cấp hàng hoá cho hệ thống các cửa hàng và siêu thị của tập đoàn này mà không cung cấp hàng cho hệ thống bán lẻ của tập đoàn khác. Còn kênh phân phối không theo tập đoàn thì ngược lại, các nhà sản xuất và nhà nhập khẩu của tập đoàn này ngoài việc cung cấp hàng hoá cho hệ thống bán lẻ của tập đoàn mình còn cung cấp hàng hoá cho hệ thống bán lẻ của tập đoàn khác và các công ty bán lẻ độc lập.
Rất ít trường hợp các siêu thị lớn hoặc các công ty bán lẻ độc lập mua hàng trực tiếp từ các nhà xuất khẩu nước ngoài. Mối quan hệ bạn hàng giữa các nhà buôn và bán lẻ trên thị trường EU không phải là ngẫu nhiên mà phần lớn là do có quan hệ tín dụng và mua cổ phần của nhau. Các nhà bán buôn và bán lẻ trong hệ thống phân phối của EU thường có quan hệ làm ăn lâu đời và rất ít khi mua hàng của các nhà cung cấp không quen biết cho dù giá hàng có rẻ hơn nhiều, vì uy tín kinh doanh với khách hàng được họ đặt lên hàng đầu mà muốn giữ được điều này thì hàng phải đảm bảo chất lượng và nguồn cung cấp ổn định. Họ liên kết với nhau chặt chẽ thành một chuỗi mắt xích trong kinh doanh bằng các hợp đồng kinh tế. Các cam kết trong hợp đồng được giám sát nghiêm ngặt bởi các chế tài của luật kinh tế. Việc đổ bể hợp đồng nhập khẩu sẽ kéo theo sự đổ bể của các hợp đồng cung ứng nội địa. Vì vậy mà các nhà nhập khẩu của EU yêu cầu rất cao về việc tuân thủ chặt chẽ các điều khoản của hợp đồng, đặc biệt là chất lượng và thời gian giao hàng.
2.1.4 Chính sách thương mại
a. Chính sách thương mại nội khối
Chính sách thương mại nội khối của EU tập trung vào việc xây dựng và vận hành thị trường chung Châu Âu nhằm xoá bỏ việc kiểm soát biên giới quốc gia, biên giới hải quan (cụ thể là xoá bỏ tất cả hàng rào thuế quan và phi thuế quan) để tự do lưu thông hàng hoá, dịch vụ, vốn và lao động, điều hoà các chính sách kinh tế và xã hội của các nước thành viên.
Để hàng hoá được tự do lưu thông trong thị trường chung, các nước thuộc EU đều thoả thuận tiến hành phương châm 4 xoá. Đó là: (1) xoá bỏ hoàn toàn mọi loại thuế quan đánh vào hàng xuất nhập khẩu giữa các nước thành viên; (2) xoá bỏ hạn ngạch áp dụng trong thương mại nội khối; (3) xoá bỏ tất cả các “biện pháp tương tự” hạn chế số lượng, các biện pháp hạn chế dưới hình thức là các quy chế và quy định về cấu thành sản phẩm, đóng gói, tiêu chuẩn công nghệ và an toàn kỹ thuật thông qua vận dụng hai nguyên tắc điều hoà và công nhận lẫn nhau; (4) xoá bỏ tất cả các rào cản về thuế giữa các nước thành viên thực chất là việc đổi mới thủ tục thu thuế, chuyển chức năng kiểm soát thuế từ biên giới thuế tới các hãng.
Việc tự do lưu chuyển của dịch vụ có thể được thực hiện theo các cách: (1) tự do cung cấp dịch vụ; (2) tự do hưởng các dịch vụ; (3) tự do chuyển tiền bằng điện tín; (4) công nhận lẫn nhau các văn bằng.
Để đảm bảo tự do lưu thông của lao động, các nước EU nhất trí đảm bảo các quyền sau cho công dân của họ : (1) tự do đi lại về mặt địa lý; (2) tự do di chuyển vì nghề nghiệp; (3) nhất thể hoá xã hội; (4) tự do cư trú.
Để thực hiện việc tự do lưu chuyển về vốn trong nội bộ khối, EU áp dụng các biện pháp như: tháo dỡ tất cả các hạn chế về ngoại hối; thống nhất luật pháp và các nguyên tắc quản lý thị trường vốn của các nước thành viên; thanh toán tự do (việc thanh toán có thể thực hiện bằng bất cứ đồng tiền quốc gia của một thành viên nào)
b. Chính sách ngoại thương
Tất cả các nước thành viên EU cùng áp dụng một chính sách ngoại thương đối với các nước ngoài khối. Uỷ ban châu Âu là người đại diện duy nhất cho liên hiệp trong đàm phán, ký kết các Hiệp định thương mại và dàn xếp tranh chấp trong các lĩnh vực này.
Chính sách ngoại thương của EU được dựa trên các nguyên tắc: không phân biệt đối xử, minh bạch, có đi có lại và cạnh tranh công bằng.
Các biện pháp được áp dụng phổ biến trong chính sách này là thuế quan, hạn ngạch, hàng rào kỹ thuật, chống bán phá giá và trợ cấp xuất khẩu
2.2. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU
EU là thị trường xuất khẩu hàng dệt may theo hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam. Từ năm 1980, chúng ta đã xuất khẩu hàng dệt may sang EU. Mối quan hệ này bắt ._.đầu từ ngày 11/1990, quan hệ giữa Việt Nam và EU được bình thường hoá. Tháng 12/1992 Việt Nam đã ký kết Hiệp định buôn bán hàng dệt may với EU có hiệu lực từ ngày 1/1/1993 và được bổ sung điều chỉnh vào ngày 11/8/1995. Với hiệp định này, hàng dệt may xuất qua EU đã tăng từ 130 triệu USD năm 1992 lên 249 triệu USD năm 1993. Ngày 17/7/1995 tại Brussel đã ký chính thức Hiệp định hợp tác giữa Việt Nam và EU, trong đó EU dành cho Việt Nam quy chế tối huệ quốc (MFN) và quy chế ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP). Hiệp định mà EU ký mới nhất là ngày 15/6/2000, hai bên đã cam kết mở cửa thị trường cho hàng may mặc xuất khẩu, do vậy tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu vào EU lên 40% trong tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước những mới chỉ bằng 0,5% kim ngạch nhập khẩu của EU. Hiệp định này đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng là nền tảng cho việc thúc đẩy quan hệ Việt Nam-EU trên nhiều lĩnh vực như: kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học kỹ thuật, giáo dục, môi trường, phòng chống ma tuý…Hiệp định cũng được quy định hai bên dành cho nhau quy chế tối huệ quốc để tạo điều kiện cho trao đổi thương mại phù hợp với những điều khoản của Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch.
Trước đây, trong quá trình hợp tác với từng thành viên EU, đã có quy chế tối huệ quốc giữa nước ta với từng thành viên. Hiện nay EU với tư cách là một tổ chức khu vực rộng lớn và hình thành đầu tiên cũng dành cho Việt Nam quy chế tối huệ quốc. Quy chế này sẽ tạo điều kiện cho hàng hoá của Việt Nam xuất nhập vào EU thuận lợi hơn. Việt Nam hiện xuất khoảng 200 triệu USD hàng dệt may sang EU mỗi năm. Bắt đầu từ 1994 cho tới nay, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam đã vươn lên chiếm vị trí thứ 2 trong số 10 mặt hàng xuất khẩu thu được nhiều ngoại tệ nhất của Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam xuất khẩu chủ yếu là gia công chiếm 80% và có khoảng 70% kim ngạch xuất khẩu sang EU thông qua các thị trường lớn như: Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Singapore tái xuất. Việt Nam đang cố gắng để tăng cao lợi nhuận từ việc xuất khẩu hàng may mặc bằng cách giảm gia công may mặc, xuất khẩu FOB, sử dụng hiệu quả hạn ngạch và tận dụng tối đa lợi thế từ việc tháng 8/2001 EU đã thông qua chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập đối với hàng Việt Nam với mức thuế quan ưu đãi là 9,1% so với mức thuế trước là 10,7%. Ngày 1/5 vừa qua, EU đã kết nạp thêm 10 thành viên mới nâng tổng số thành viên EU lên con số 25. Trước khi được kết nạp vào EU các nước này đều buôn bán phi hạn ngạch với Việt Nam và sau ngày 1/1/2005 khi EU dỡ bỏ hạn ngạch cho các thành viên WTO thì các nước này vẫn dành cho Việt Nam quy chế này. Đây là cơ hội buôn bán tốt cho các nhà xuất khẩu Việt Nam và tạo sự tin tưởng, uy tín đối với các đối tác là thành viên mới trong khối EU, bạn hàng trung thành là điều mà các nhà xuất khẩu dệt may hướng tới khi mà sau ngày 1/1/2005 việc cạnh tranh là hết sức khó khăn.
2.2.1 Tiềm năng phát triển của hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU
Điều này được chứng tỏ qua dung lượng thị trường, năng lực sản xuất dệt may tại thị trường EU và khuynh hướng thời trang trong thời gian tới để thấy được tiềm năng của thị trường EU cho hàng may mặc
Kim ngạch nhập khẩu dệt may vào EU hàng năm lên tới trên 60 tỷ USD hàng năm, là nơi nhập khẩu nhiều nhất về hàng dệt may trên thế giới sau Mĩ. Trong khi đó theo số liệu năm 2002, Việt Nam xuất sang thị trường EU là 550 triệu USD, có nghĩa là chưa tới 1% của dung lượng thị trường.
Sản xuất trang phục tại EU trong năm 2000 tiếp tục giảm. Tuy nhiên với mức giảm 5% chỉ giảm bằng một nửa so với năm 1999. Trong năm 2000 sản lượng sụt giảm mạnh ở mức 9.6%, đây là mức sụt giảm lớn nhất trong thập kỷ 1990.
Số lượng lao động trong ngành may giảm 3.7% trong năm 2000, chỉ còn 1.5 triệu, trong số đó khoảng 1/3 làm việc trong lĩnh vực hàng dệt kim. Số lượng doanh nghiệp cũng giảm. Sau một sự sụt giảm mạnh về doanh số tại EU trong ngành trang phục và trong sản xuất hàng dệt kim năm 1999 (tương ứng ở mức –4.8% và -3.4%), giá trị sản xuất trong năm 2000 tăng trong cả 2 khu vực trên ở mức 3.8% và 3.1%, bất chấp có sự suy giảm trong sản xuất. Lý do cho sự tăng trưởng này là do tiêu dùng tăng lên trong thị trường nội địa và xuất khẩu sang Hoa Kỳ tăng cũng như một vài thị trường Châu á được khuyến khích bởi sự suy yếu của đồng Euro đã tạo ra một thị trường người mua tại năm này.
Bảng1.7. Tỉ phần theo doanh thu của các công ty trang phục lớn năm 1999-2004
Hạng
Công ty
Quốc gia
Nhóm sản phẩm
1999 triệu US$
2004 triệu US$
% 1999/2004
1
LVMH-Group
Pháp
Thời trang hàng da
2,450
2,950
+20.4%
2
Adidas-Salomon AG
Đức
Trang phục thể thao
2,350
2,005
-12.8%
3
Benetton-Group
ý
Trang phục gia đình
2,110
1,860
-11.8%
4
Gruppo Marzatotto
ý
Trang phục dệt thoi nam/nữ
1,100
1,125
+2.3%
5
Levi Strauss Europe
Bỉ
Trang phục jean
1,360
1,100
-19.1%
6
Nike Europe
Hà Lan
Trang phục thể thao
985
1,005
+2.0%
7
Giorgio Armani
ý
Trang phục nam và nữ
925
955
+3.2%
8
Maz Mara Fashion Group
ý
Trang phục nữ và đồ lót
935
910
-2.7%
9
Groupe Andrộ
Pháp
Trang phục nữ
820
760
-7.3%
10
Escada-Gruppe
Đức
Trang phục nữ và đồ may
700
665
-5.0%
11
Esprit Europe
Đức
Trang phục gia đình và đồ may
565
650
+15.0%
12
Multiline
Đức
áo sơ mi
710
640
-9.9%
Nguồn TextilWirtschaft
Bảng 1.8. Chỉ số dựa trên sản lượng của ngành trang phục EU 1999-2004
1999
2000
2001
2002
2003
2004
%
99-04
%
99-04
áo
100
77.8
78.2
67.6
67.6
60.3
-10.9
-39.7
Bỉ/Lux
100
65.4
54.1
37.5
37.5
31.9
-14.9
-68.1
Đan Mạch
100
104.2
102.8
93.0
93.0
88.4
-4.9
-11.6
Phần Lan
100
97.8
95.3
89.2
89.2
82.0
-8.1
-18.0
Pháp
100
74.7
69.5
59.3
59.3
49.8
-16.0
-50.2
Đức
100
85.8
81.4
71.0
71.0
64.7
-9.0
-35.3
Hi lạp
100
82.9
77.9
79.1
79.1
79.9
1.0
-20.1
Ireland
100
99.4
100.9
91.2
91.2
60.8
-33.3
-39.2
ý
100
100.6
100.6
91.5
91.5
91.7
0.2
-8.3
Hà Lan
100
90.2
81.1
75.1
75.1
77.9
3.7
-22.1
Bồ Đào Nha
100
108.6
116.9
110.2
110.2
96.7
-12.3
-3.3
Tây Ban Nha
100
97.7
100.6
95.8
95.8
93.0
-2.9
-7.0
Thuỵ Điển
100
103.7
98.8
81.5
81.5
71.5
-12.2
-28.5
Anh
100
91.6
84.6
74.2
74.2
72.0
-2.9
-28.0
EU (15)
100
91.4
89.0
79.7
79.7
75.8
-5.0
-24.2
Nguồn Eurostat
Sản xuất tại EU có sự phục hồi nhẹ năm 2000, sau lần sụt giảm năm 1999, nhiều năm trước đó tương đối ổn định. Chỉ có 2 quốc gia sản xuất ít hơn là Hi Lạp và Hà Lan là có sản lượng sản xuất tăng. Sản xuất tại các quốc gia chính như Đức, Anh và Pháp giảm trong thời kỳ được khảo sát, trong khi đó Bỉ đã phải đối mặt với sự suy giảm nghiêm trọng so với năm 1999.
Sản xuất tại EU về sản lượng giảm 24% trong giai đoạn 1995-2000 và 44% trong giai đoạn 1990-2000. Các nước như Bỉ, Pháp, Ireland, áo, Đức, Anh, Thụy Điển và Hi Lạp cho thấy sự sụt giảm lớn trong sản xuất trong vòng 5 năm trở lại đây. Điều này chứng tỏ các nước đang có chiến lược phát triển sản xuất bên ngoài, tận dụng lao động rẻ và gần các nguồn nguyên liệu trên thế giới. Đây là cơ hội cho các nước đang phát triển thực hiện chiến lược hướng theo xuất khẩu của mình.
Các khuynh hướng thời trang
Theo một khảo sát của Kurt Salmon Associates (KSA) các khuynh hướng thời trang sau đây được mong chờ sẽ tiếp tục hoặc sẽ là những khuynh hướng mới trong thế kỷ 21:
Thời trang sẽ không còn được đề nghị bởi những nhà thiết kế mà được định hướng bởi sự mong mỏi về sự tiện lợi, tính cá nhân, sự linh hoạt và những đường may tinh sảo.
Thời trang cũng được định hướng bởi thể thao, film ảnh, các sự kiện âm nhạc, nghệ thuật và văn hoá trẻ. Giới trẻ thường không kiên định tuy nhiên các nhãn hiệu trở nên rất quan trọng trong các lựa chọn của giới trẻ.
Chu kỳ thời trang trở nên ngắn hơn với thị trường giới trẻ với “các đặc điểm sử dụng của các sản phẩm” hơn là chỉ mang tính thời trang. Giới trẻ thích các sản phẩm trang phục thể thao năng động mà sẽ họ nhận ra với những biểu tượng thể thao mà họ thích.
Phong cách trở nên một dòng chảy ngày càng mạnh với hình ảnh mềm hơn, và như một kết quả, vải trở nên rất quan trọng – và với điều đó thì nhu cầu tạo ra các đặc tính sử dụng và thẩm mỹ của vải sẽ thu hút người tiêu dùng.
Người tiêu dùng muốn một tủ quấn áo được đơn giản hơn, linh hoạt hơn và tốn ít tiền hơn. Do vậy mọi người có nhu cầu ít hơn các loại trang phục nghi thức và nhiều thường phục hơn, bằng các loại vải mềm hơn. Và quan trọng nhất là người tiêu dùng tìm kiếm những loại sợi và vải sang trọng để kết hợp vào phong cách không sang trọng.
Có một khuynh hướng rõ ràng đối với thường phục, nhưng không phải là loại thường phục mang tính cẩu thả, đó là phong cách thoải mái và chuyên nghiệp. Có ít sự phân biệt trong tủ quần áo; mọi người tìm kiếm các loại trang phục có tính linh hoạt và có thể sử dụng cho nhiều mục đích mà có thể mặc khi đã gấp lại.
Giới trẻ cũng tìm kiếm các nhãn hiệu mang tính phong cách sống. Họ tìm điều này trong trang phục thể thao, mà có thể sử dụng như trang phục mặc lúc rảnh rỗi. Đối với giới trẻ, sự thức tế là thời trang. Điều này đã hấp dẫn tới những nhãn hiệu hàng đầu của Hoa Kỳ là người đưa ra thời trang trên thế giới.
Trước hết, ta có thể nhận thấy điểm chung này nhất trong các phong cách thời trang tại thị trường EU đó là giản tiện và là phương tiện để thể hiện cá nhân, quan tâm tới chất liệu độc đáo. Điều này là rất phù hợp cho sự khai thác tối ưu sự đa dạng trong chất liệu tại Việt Nam. Sự đặc biệt trong chất liệu luôn gợi cho người Châu Âu tính tò mò và thích thú. Và xu hướng tiết kiệm cũng thể hiện trong tủ quần áo của họ, muốn đa dạng và thay đổi liên tục, hướng nhiều về thường phục. Điều này là rất thuận lợi cho ngành dệt may của những nước đang phát triển, có chi phí rẻ và khả năng thích ứng rất tốt với xu hướng thời trang. Hơn thế nữa sự giảm xút trong ngành dệt may EU báo hiệu một xu hướng ra bên ngoài. Sản xuất tại các nước đang phát triển và tái xuất về thị trường EU. Đây là điều khăng định EU đang và sẽ là mảnh đất giàu tiềm năng cho hàng dệt may tại các nước đang phát triển.
2.1.2 Kim nghạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trên thị trường EU
EU là thị trường xuất khẩu hàng dệt may theo hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam. Từ năm 1980, chúng ta đã xuất khẩu hàng dệt may sang EU và đặc biệt phát triển mạnh kể từ khi có Hiệp định buôn bán hàng dệt may. Cụ thể, sau khi Hiệp định này được ký kết ngày 15/12/1992 và có hiệu lực vào năm 1993. Từ chỗ hầu như bị cấm vận, nhóm hàng này của Việt Nam xuất khẩu vào EU đến năm 1999 đã đạt 555.1 triệu USD và năm 2000 tăng lên 609 triệu USD (theo số liệu thống kê của Tổng cục hải quan Việt Nam). Hiện nay, xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường này chiếm 34%-38% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may hàng năm của Việt Nam.
Hiệp định buôn bán hàng dệt may từ khi được thực hiện cho đến nay đã hai lần được gia hạn và điều chỉnh tăng hạn ngạch. Theo Hiệp định này, hàng năm Việt Nam được xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU với số lượng 21.938 tấn-23000 tấn. Số cat chịu sự quản lý bằng hạn ngạch ở một số cat “nóng” và nâng mức chuyển đổi hạn ngạch giữa các cat lên 27%. Tháng 3/2000, Việt Nam đã đàm phán với EU thay đổi thời hạn điều chỉnh Hiệp định dệt may đến hết năm 2002 thay vì năm 2000. Đồng thời tăng hạn hàng dệt may 16 cat của Việt Nam xuất khẩu vào EU: trọng lượng tăng 4324 tấn, đạt mức trên 26% so với hạn ngạch cơ sở của 16 cat; đơn vị sản phẩm tăng khoảng 15 triệu, đạt mức tăng 25%; trị giá sản phẩm tăng khoảng 120 triệu USD, đạt khoảng 20% so với năm 1999; nâng kim ngạch xuất khẩu vào EU năm 2000 lên khoảng 750 triệu USD; tính tỉ lệ tăng bình quân 16 cat đạt 55%.
Cùng với những ưu đãi ngày càng nhiều từ phía EU dành cho Việt Nam trong Hiệp định buôn bán hàng dệt may sửa đổi, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào EU tăng nhanh, năm 1993 đạt 259 triệu USD, năm 1997 đạt 410 triệu USD và cao nhất 2000 lên tới 609 triệu USD, nhưng do những khó khăn cạnh tranh trong tình hình mới con số này đã giảm xuống 559 triệu USD năm 2001 và năm 2002 là 540 triệu USD (theo số liệu thống kê của Vinatex). Thị trường EU chiếm tỷ trọng 46.7% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam năm 1995, năm 1998 con số này là 48.1%. Còn theo số liệu thống kê của EU, năm 1996 đạt 405,8 triệu USD, năm 1997 đạt 466,1 triệu USD, năm 1998 lên đến 578,7 triệu USD.
+ Tình hình xuất khẩu theo mặt hàng chủ lực của dệt may sang EU năm2004
Bảng 2.1. Tổng hợp tình hình XK hàng dệt may sang EU năm 2004
STT
Chủng loại
Đơn vị tính
Hạn
ngạch
Số
lượng
Tỷ lệ %
so với HN
Kim ngạch
USD
Giá bình quân
I. Các chủng loại hàng xuất khẩu cần có thông báo giao hạn ngạch
1
Cat. 4
Chiếc
28,047,913
18,175,461
64.80%
34,135,754.27
1.88
USD/Chiếc
2
Cat. 6
Chiếc
11,737,760
8,723,628
74.32%
51,952,459.70
5.96
USD/Chiếc
3
Cat. 14
Chiếc
708,100
582,346
82.24%
2,919,289.71
5.01
USD/Chiếc
4
Cat. 41
Tấn
1,690.51
1,398.87
82.75%
2,011,887.74
1,438.22
USD/Tấn
II. Các chủng loại có áp dụng HN nhưng thực hiện cấp E/L tự động
1
Cat. 5
Chiếc
10,300,450
7,557,570
73.37%
42,747,648.03
5.66
USD/Chiếc
2
Cat. 7
Chiếc
8,634,890
3,829,325
44.35%
11,416,850.97
2.98
USD/Chiếc
3
Cat. 8
Chiếc
27,567,581
12,340,675
44.77%
66,611,559.44
5.40
USD/Chiếc
4
Cat. 9
Tấn
1,137.77
655.53
57.62%
3,428,905.56
5,230.76
USD/Tấn
5
Cat. 10
Đôi
2,583,974
1,838,396
71.15%
3,036,753.33
1.65
USD/Đôi
6
Cat. 12
Đôi
4,189,134
206,312
4.92%
78,974.19
0.38
USD/Đôi
7
Cat. 13
Chiếc
16,337,660
10,534,382
64.48%
10,346,921.27
0.98
USD/Chiếc
8
Cat. 15
Chiếc
1,399,729
931,721
66.56%
13,211,217.38
14.18
USD/Chiếc
9
Cat. 18
Tấn
2,136.86
499.95
23.40%
3,245,975.50
6,492.59
USD/Tấn
10
Cat. 20
Tấn
307.41
201.69
65.61%
2,847,397.31
14,117.86
USD/Tấn
11
Cat. 21
Chiếc
24,444,340
11,289,286
46.18%
160,051,099.89
14.18
USD/Chiếc
12
Cat. 26
Chiếc
3,134,580
679,279
21.67%
2,961,021.36
4.36
USD/Chiếc
13
Cat. 28
Chiếc
9,984,230
5,336,756
53.45%
11,474,140.39
2.15
USD/Chiếc
14
Cat. 29
Bộ
1,070,340
685,790
64.07%
4,779,504.15
6.97
USD/Bộ
15
Cat. 31
Chiếc
11,878,160
4,884,305
41.12%
16,271,356.72
3.33
USD/Chiếc
16
Cat. 35
Tấn
1,619.81
328.67
20.29%
1,014,484.97
3,086.60
USD/Tấn
17
Cat. 39
Tấn
301.77
190.42
63.10%
2,667,621.41
14,009.07
USD/Tấn
18
Cat. 68
Tấn
1,111.55
449.51
40.44%
5,879,347.31
13,079.34
USD/Tấn
19
Cat. 73
Bộ
2,782,510
696,536
25.03%
4,340,221.97
6.23
USD/Bộ
20
Cat. 76
Tấn
2,643.60
1,669.80
63.16%
17,218,757.11
10,311.89
USD/Tấn
21
Cat. 78
Tấn
2,960.18
2,030.03
68.58%
37,653,369.17
18,548.17
USD/Tấn
22
Cat. 83
Tấn
988.61
783.18
79.22%
9,645,636.65
12,316.00
USD/Tấn
23
Cat. 97
Tấn
489.27
210.38
43.00%
1,326,513.35
6,305.26
USD/Tấn
24
Cat. 118
Tấn
315.02
85.45
27.13%
2,527,566.65
29,578.27
USD/Tấn
25
Cat. 161
Tấn
720.55
27.98
3.88%
135,999.54
4,861.00
USD/Tấn
III. Các chủng loại hàng không áp dụng hạn ngạch
1
Cat. 1
Tấn
287.10
614,873.05
2,141.65
USD/Tấn
2
Cat. 2
Tấn
51.02
239,594.71
4,695.65
USD/Tấn
3
Cat. 3
Tấn
183.68
470,777.99
2,563.02
USD/Tấn
4
Cat. 16
Bộ
454,238
4,020,977.99
8.85
USD/Bộ
5
Cat. 17
Chiếc
135,276
2,095,496.87
15.49
USD/Chiếc
6
Cat. 19
Chiếc
28,354
34,828.67
1.23
USD/Chiếc
7
Cat. 22
Tấn
227.10
543,569.96
2,393.51
USD/Tấn
8
Cat. 23
Tấn
39.19
96,453.24
2,461.10
USD/Tấn
9
Cat. 24
Bộ
8,427,407
5,630,011.31
0.67
USD/Bộ
10
Cat. 27
Chiếc
1,822,375
5,447,191.22
2.99
USD/Chiếc
11
Cat. 33
Tấn
12,523.05
16,301,484.38
1,301.72
USD/Tấn
12
Cat. 36
Tấn
0.15
5,740.00
38,523.49
USD/Tấn
13
Cat. 37
Tấn
8.00
30,270.52
3,785.66
USD/Tấn
14
Cat. 40
Tấn
0.62
22,949.96
36,956.46
USD/Tấn
15
Cat. 62
Tấn
0.13
1,280.00
10,039.22
USD/Tấn
16
Cat. 66
Tấn
0.00
1.00
500.00
USD/Tấn
17
Cat. 67
Tấn
0.05
2,509.20
53,501.07
USD/Tấn
18
Cat. 72
Tấn
87.70
752,613.65
8,581.43
USD/Tấn
19
Cat. 84
Tấn
49.38
13,055.02
264.41
USD/Tấn
20
Cat. 86
Tấn
0.50
10,518.75
20,982.94
USD/Tấn
21
Cat. 88
Tấn
0.12
2,077.88
18,068.52
USD/Tấn
22
Cat. 90
Tấn
65.94
112,302.82
1,703.06
USD/Tấn
23
Cat. 112
Tấn
0.02
405.62
17,635.65
USD/Tấn
24
Cat. 120
Tấn
3.39
149,962.66
44,256.36
USD/Tấn
25
Cat. 136
Tấn
0.92
13,293.29
14,480.71
USD/Tấn
26
Cat. 141
Tấn
0.09
1,546.00
16,989.01
USD/Tấn
27
Cat. 142
Tấn
0.38
5,760.00
15,000.00
USD/Tấn
28
Cat. 154
Tấn
0.04
390.00
9,750.00
USD/Tấn
29
Cat. 156
Tấn
0.05
667.58
13,351.60
USD/Tấn
30
Cat. 157
Tấn
53.90
338,016.07
6,270.90
USD/Tấn
31
Cat. 159
Tấn
134.33
4,980,559.92
37,077.43
USD/Tấn
32
Cat. 160
Tấn
0.59
21,858.83
37,070.23
USD/Tấn
Tổng kim ngạch XK
567,899,273.20
(Nguồn : Thống kê Bộ thương mại – www.mot.gov.vn)
+ Tỷ trọng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam theo thị trường trong Liên minh là Đức (49.9%), Pháp (10.8%), Hà Lan (10.3%), Anh (9.4%), Bỉ (6.1%), Tây Ban Nha (5.1%). Italia (4.4%), Đan Mạch (2.0%), Thuỵ Điển (1.9%), Áo (1.5%), Phần Lan (0.6%), Ailen (0.4%), Lucxembuorg (0.3%), Hy Lạp (0.2%) và Bồ Đào Nha (0.1%).
Bảng 2.2. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU qua các năm
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Kim ngạch XK
Triệu USD
225
410
521
555
609
559
540
(Nguồn: Thống kê năm 2002 của Vinatex)
Biểu đồ kim ngạch xuất khẩu dệt may vào EU qua các năm
Từ khi Hiệp định hàng dệt may được thực hiện, EU đã trở thành thị trường xuất khẩu hàng may mặc lớn nhất của Việt Nam, Mặc dù kim ngạch xuất khẩu tăng lên rất nhanh, nhưng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU lại đang gặp rất nhiều khó khăn:
Thiếu bạn hàng tiêu thụ trực tiếp, không ký được hợp đồng xuất khẩu trực tiếp với các bạn hàng EU mà phải thông qua trung gian nên gần 80% hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường EU phải gia công qua nước thứ ba, hiệu quả kinh tế thấp. Phần gia công cho các nước khác (không thuộc ASEAN) xuất sang EU thì không được hưởng ưu đãi thuế quan dành cho Việt Nam.
Số lượng hàng hoá EU dành cho Việt Nam còn quá thấp so với nhiều nước và khu vực: chỉ bằng 5% của Trung Quốc, 10-20% của các nước ASEAN.
Số hạn ngạch bị hạn chế thành nhiều nhóm hàng so với các nước khác: Thái Lan có 20 nhóm hàng, Singapore có 8 nhóm hàng, trong kho đó Việt Nam 1993-1995 có 106 nhóm hàng, 1996-1998 có 54 nhóm, từ 1998 có 29 nhóm hàng
Sản phẩm xuất khẩu chỉ tập trung vào một số sản phẩm truyền thống (hàng quen làm dễ thu lợi nhuận) như: áo jacket, áo sơmi và quần tây. Các sản phẩm có yêu cầu kỹ thuật phức tạp, chất lượng cao thì Việt Nam chưa sản xuất được hoặc sản xuất với một tỷ lệ rất thấp.
Cũng giống như mặt hàng giày dép, hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU chủ yếu theo hình thức gia công (chiếm tỷ trọng gần 80%) nên hiệu quả thực tế nhỏ. Nguyên nhân là do:
Ngành dệt may vẫn chưa đạp ứng được nhu cầu về nguyên vật liệu của ngành may.
Sự dễ dãi và ít rủi ro của phương thức gia công nên ngành may tuy phát triển rất nhanh nhưng vẫn là một khu vực sản xuất nhiều tác phong công nghiệp và thiếu khả năng cạnh tranh.
Phương thức phân bổ hạn ngạch chưa hợp lý cũng đã kìm hãm tính năng động và sáng tạo của các doanh nghiệp may.
Những rào cản trong thương mại dệt may tại thị trường EU. Để đẩy mạnh xuất khẩu sang EU trong thời gian tới, ngoài nỗ lực của chính phủ tạo điều kiện cho ngành dệt may phát triển, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần phải cải tiến chất lượng, đa dạng sản phẩm để đáp ứng yêu cầu của thị trường và có thể cạnh tranh được với các sản phẩm của Trung Quốc và các nước ASEAN khác trên thị trường này khi EU huỷ bỏ chế độ hạn ngạch.
Nếu những năm tới chế độ hạn ngạch bị huỷ bỏ, tuy không còn các hạn chế định lượng nhưng đồng thời Việt Nam cũng sẽ không còn được hưởng các ưu đãi về thuế quan, vì vậy đòi hỏi sản phẩm dệt may của ta phải nâng cao khả năng cạnh tranh để duy trì vị trí trên thị trường. Bên cạnh đó, EU là một thị trường đòi hỏi cao về chất lượng và mẫu mốt. Thời trang là một trong những yếu tố quyết định tiêu thụ sản phẩm trên thị trường này. Xu hướng buôn bán nội khu vực giữa các nước EU cũng là một khó khăn cho Việt Nam trong khả năng tăng cường xuất khẩu sang thị trường này.
Xuất khẩu hàng dệt may sang EU vừa qua đã bớt căng thẳng hơn do EU đã tăng thêm hạn ngạch năm 2004, đồng thời tạm thời chưa áp dụng hạn ngạch đối với 10 nước thành viên. Tuy nhiên, mức tăng vào thị trường này cũng không đáng kể, do giá trị xuất khẩu vào thị trường EU-15 khoảng 600-700 triệu USD/năm, khoảng bằng 1/3 xuất khẩu vào thị trường Mỹ và thị trường 10 nước thành viên mới cũng chỉ đạt khoảng trên dưới 100 triệu USD/năm.
Thị trường dệt may năm 2005 khi mà các nước là thành viên WTO được loại bỏ hạn ngạch là một thách thức rất lớn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
2.2.3 Phương thức thâm nhập vào thị trường EU
Xuất khẩu qua trung gian là con đường mà phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam đã áp dụng để thâm nạp thị trường EU ở thời kỳ ban đầu ,mới khai phá thị trường này .Khi đó thị trường EU còn rất mới mẻ và bỡ ngỡ đối với các doanh nghiệp Việt Nam,hơn nữa lại thiếu kinh nghiệm về thương trường nên không thiết lập được quan hệ bạn hàng trực tiếp với các đối tác EU.Do vậy mà các doanh nghiệp đã phải xuất khẩu sang EU qua các bạn hàng trung gian mà chủ yếu là ở Châu á.Hình thức này chỉ thích hợp với thời kỳ đầu khai phá thị trường EU.
Xuất khẩu trực tiếp là con đường chính thâm nhập thị trường EU hiện nay của các doanh nghiệp Việt Nam.Hình thức này thích hợp với thời kỳ sau khai phá,từ giữa thập niên 90 đến nay.Khi quy mô xuất khẩu còn nhỏ bé và các mặt hàng còn phân tán nhưng dễ tạo ra thế bị động đối với các nhà xuất khẩu do khó nắm bắt về thông tin thị trường như thay đổi về chính sách ngoại thương,quy chế xuất khẩu …của EU có ảnh hưởng tới hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam.Ngoài hình thức trên thì đầu tư trực tiếp và liên doanh là hình thức được chú ý trong thời gian tới.Liên doanh có thể dưới hình thức sử dụng giấy phép,nhãn hiệu hàng hoá.Có nghĩa là hàng hoá của mình xuất sang thị trường dưới danh nghĩa của các công ty nước ngoài nổi tiếng.Bởi vì người tiêu dùng tại đây thích và có thói quen sử dụng những nhã hiệu sản phẩm nổi tiếng chất lượng là yếu tố quyết định tiêu dùng đối với phần lớn các mặt hàng được tiêu thụ trên thị trường này chứ không phải là giá cả.Tại thời điểm này hàng hoá Việt Nam chưa có danh tiếng nên rất khó thâm nhập vào thị trường EU.Hơn nữa năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam còn yếu.Do vậy mà liên doanh dưới hình thức sử dụng giấy phép,nhãn hiệu hành hoá,tên sản phẩm có thể sẽ là biện pháp tối ưu nhất để các nhà xuất khẩu Việt Nam thâm nhập vào thị trường này .Đầu tư trực tiếp chưa phải là hướng chính để thâm nhập thị trường EU hiện tại và trong tương lai gần của các nhà doanh nghiệp Việt Nam vì tiềm năng kinh tế còn hạn hẹp.Tuy nhiên hình thức này cần thiết cho giai đoạn phát triển cao hơn của nền kinh tế Việt Nam .
2.3.4 Một số thị trường trong khối EU.
Thị trường chung Châu Âu gồm có 15 quốc gia nằm ở khu vực Tây và Bắc Âu,tyuy có nhiều điẻm tương đồng về kinh tế văn hoá nhưng mỗi quốc gia có đặc thù riêng về thị hiếu tiêu dùng bởi vậy mà thị trường EU có nhu cầu phong phú và đa dạng về hàng hoá.Chính vì thế mà muốn đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường EU thì bây giờ chúng ta phải có định hướng phát triển thị trường xuất khẩu trong khối .Định hướng chỉ rõ từng thị trường cụ thể trong Liên Minh các doanh nghiệp nên tăng cường xuất khẩu những mặt hàng gì.Có như vậy chúng ta mới củng cố thị phần hiện có và mở rộng thêm thị trường.
Thị trường Đức
Đức là thị trường lớn nhất trong khối EU,với hơn 82 triệu dân (2004) .Đây là thị trường xuất khẩu dệt may lớn nhất của Việt Nam trong Liên Minh,chiếm 49,9% tổng kim nghạch xuất khẩu hàng dệt may của ta sang EU.Đức là thị trường xuất khẩu truyền thống mặt hàng may mặc của Việt Nam.Một số cat được xuất khẩu nhiều như cat4,cat8,cat13,cat21,cat5…
Thị trường Pháp
Pháp là thị trường lớn thứ 2 trong khối EU,với 60,4 triệu người (2004) và là thị trường xuất khẩu dệt may lớn thứ hai của Việt Nam trong Liên Minh.Thị trường này chiếm tỷ trọng 10,8% tổng kim nghạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang EU trong những năm gần đây.Người tiêu dùng Pháp rất ưa chuộng mặt hàng dệt may và các sản phẩm bằng da thuộc.Từ năm 1998 đến nay thì Pháp có nhu cầu lớn về mặt hàng này.Pháp là thị trường tiềm năng cho xuất khẩu của Việt Nam trong khối EU.
Thị trường Anh
Anh là một thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 của Việt Nam trong Liên Minh,với 58,6 triệu dân(2004).Thị trường này chiếm 9,4% tổng kim nghạch xuất khẩu Việt Nam -EU trong thập kỷ qua.Hiện nay mặt hàng dệt may đang dược tiêu thụ mạnh tại Anh .
Thị trường Bỉ
Bỉ là thị trường lớn thứ 8 trong khối EU với 10,2 triệu người tiêu dùng và là thị trường xuất khẩu hàng dệt may lớn thứ 5 trong Liên Minh.Thị trường này chiếm tỷ trọng 6,1% tổng kim nghạch xuất khẩu Việt Nam - EU. Mặc dù không phải là thị trường tiêu thụ sản phẩm dệt may lớn nhưng với tốc độ tăng trưởng kim nghạch xuất khẩu Việt Nam - Bỉ là 42,87% năm đây thực sự là thị trường xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam .Người Bỉ ngày càng có thói quen tiêu dùng hàng Việt Nam.
2.3 Đánh giá chung về hiệu quả hoạt động xuất khẩu dệt may Việt Nam sang thị trường EU.
2.3.1Những kết quả đạt được
Hơn 10 năm qua nghành dệt may xuất khẩu đã trở thành một nghành công nghiệp mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân có những bước tiến bộ vượt bậc trong lĩnh vực xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng bình quân 24,8%/năm .Mặt hàng dệt may đã trở thành một trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong chiến lược phát triển kinh tế ,góp phần thúc đẩy nhanh tự do hoá thương mại.Thị trường EU là thị trường chủ yếu của nghành dệt may Việt Nam .Thị trường có số lượng dân số khá đông,nhu cầu tiêu thụ lớn và đa dạng về hàng may mặc (mức tiêu thụ vải của EU cao hàng đầu thế giới -17kg/người) .Kim nghạch xuất khẩu hàng dệt may vào EU của Việt Nam tăng nhanh,năm 1993 mới chỉ đạt 259 triệu USD,năm 1997 là 410 triệu USD,cao nhất vào năm 2000 đạt 609 triệu USD .Năm 2001,2002 giảm xuống 559 và 540 triệu USD do khó khăn trong cạnh tranh mới.Tuy nhiên thì xuất khẩu dệt may sang thị trường này chiếm 34%-38%tổng kim nghạch xuất khẩu hành dệt may hàng năm của Việt Nam .Tính đến hết năm 2003 thì ngành dệt may Việt Nam đã có khoảng 187doanh nghiệp trong đó có 70 doanh nghiệp dệt và 117 doanh nghiệp may.Ngoài ra Việt Nam còn gần 800 công ty TNHH, cổ phần,doanh nghiệp tư nhân trong đó có 600 đơn vị may và 200 tổ hợp dệt .Việc EU kết nạp thêm 10 thàmh viên sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam xuất khẩu hàng dệt may.Dân số EU tăng 100 triệu dân,lượng quần áo tiêu thụ sẽ mạnh .Sau ngày 1/1/2005 khi EU xoá bỏ hạn nghạch cho các nước thành viên cuả WTO cả Việt Nam thì sẽ có một cuộc cạnh tranh tự do quyết liệt.Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải có chiến lược phát triển đúng đắn thì mới có thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp nước ngoài. Trong năm 2004 với những thoả thuận trong Hiệp định dệt may giữa Việt Nam và EU các doanh nghiệp năng động của Việt Nam đã bứt phá trong xuất khẩu hàng vào thị trường EU nhờ vậy mà kim nghạch xuất khẩu vào thị trường EU 1 tỷ USD.Năm 2005 khi mà Việt Nam được xoá bỏ hạn nghạch thì kim nghạch có thể tăng lên tới 1,2 tỷ USD.Để thực hiện được mục tiêu này cũng như hàng dệt may Việt Nam giành thắng lợi trong cạnh tranh khi hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta cần phải ngiên cứu,đánh giá khả năng cạnh tranh và đưa ra các giải pháp nhằm tăng sức cạnh tranh đối với hàng dệt may .
2.3.2 Những ảnh hưởng bất lợi đến hoạt động xuất khẩu dệt may Việt Nam sang thị trường EU
2.3.2.1 Rào cản thuế và tiêu chuẩn kỹ thuật
Rào cản thuế quan
EU đang thực hiện chương trình mở rộng hàng hoá: đẩy mạnh tự do hoá thương mại (giảm dần thuế quan đánh vào hàng hoá xuất nhập khẩu và tiến tới xoá bỏ hạn ngạch, GSP). Hiện nay, 25 nước thành viên EU cùng áp dụng một biểu thuế quan chung đối với hàng hoá xuất nhập khẩu. Đối với hàng nhập khẩu vào khối, mức thuế trung bình đánh vào hàng công nghiệp chỉ là 2% trong đó có dệt may.
Ngoài ra EU còn sử dụng Chương trình ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP): Theo chương trình này EU chia các sản phẩm được hưởng GSP thành 4 nhóm với 4 mức thuế ưu đãi khác nhau dựa trên mức độ nhậy cảm đối với bên nhập khẩu, mức độ phát triển của nước xuất khẩu và những văn bản thoả thuận đã ký kết giữa hai bên.
Bốn nhóm sản phẩm của các nước đang phát triển được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập của EU như sau:
+ Nhóm 1: Sản phẩm rất nhậy cảm: bao gồm phần lớn là nông sản và một số ít sản phẩm công nghiệp tiêu dùng được hưởng mức thuế GSP bằng 85% thuế suất tối huệ quốc (MFN). Đây là nhóm mặt hàng EU hạn chế nhập khẩu.
+ Nhóm 2: Sản phẩm nhậy cảm: chủ yếu là thực phẩm, đồ uống, hoá chất, nguyên liệu, hàng thủ công hưởng mức thuế GSP bằng 70% thuế suất tối huệ quốc (MFN). Đây là nhóm mặt hàng EU không khuyến khích nhập khẩu.
+ Nhóm 3: Sản phẩm bán nhậy cảm: bao gồm phần lớn thuỷ sản đông lạnh được hưởng mức thuế suất GSP bằng 35% thuế suất tối huệ quốc (MFN). Đây là nhóm mặt hàng EU khuyến khích nhập khẩu.
+ Nhóm 4: Sản phẩm không nhậy cảm: chủ yếu là một số loại thực phẩm, đồ uống , nguyên liệu, nông sản v.v... được hưởng mức thuế GSP bằng 0%-10% thuế suất tối huệ quốc (MFN). Đây là nhóm mặt hàng EU đặc biệt khuyến khích nhập khẩu.
Hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) từ 1/7/1996 cho đến nay. Thuế đánh vào hàng dệt may của Việt Nam hiện nay là từ 6.8% đến 11.2% cho các sản phẩm có mã HS 61.01 đến 61.10 và 62.01 đến 62.06.
Tiêu chuẩn kỹ thuật
Hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật là biện pháp phi thuế quan chính mà EU áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu từ các nước ngoài liên minh, đây là hệ thống bảo hộ bằng rào cản kỹ thuật hiệu quả nhất thế giới hiện nay và hoàn toàn phù hợp với xu thế chung của thương mại thế giới. Hệ thống rào cản kỹ thuật: được cụ thể hoá ở 5 tiêu chuẩn của sản phẩm: tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm, tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng, tiêu chuẩn bảo vệ môi trường và tiêu chuẩn về lao động.
- Đối với tiêu chuẩn chất._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0419.doc