PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Ở Việt Nam cũng như các nước trên Thế Giới, các DNVVN có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước. Cùng với việc đóng góp cho xã hội khối lượng hàng hóa lớn và giải quyết nhiều việc làm cho người lao động, các DNVVN còn tạo nên nguồn thu nhập ổn định cho một bộ phận dân cư, khai thác các nguồn lực và tiềm năng tại chỗ của địa phương. Mặt khác, DNVVN giữ vai trò hỗ trợ bổ sung cho các DN lớn tạo thành mối liên kết
75 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1631 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại tỉnh Đồng Tháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cùng hợp tác, cùng cạnh tranh và cùng nhau phát triển.
Hiện nay, trong nền kinh tế các nước trên Thế Giới các DNVVN thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số các DN. Ở nước ta số lượng các DNVVN chiếm tỷ trọng khoảng 95,4% (nguồn kinh tế và dự báo T6/2007, trang 21) theo tiêu chí dưới 300 lao động, đặc biệt trên địa bàn Đồng Tháp, là một tỉnh Nông nghiệp thì số lượng đó càng cao hơn.
Đồng Tháp là một tỉnh thuộc ĐBSCL, là một vùng mạnh về Nông nghiệp, thủy sản và cũng là nơi có nhiều tiềm năng về nguồn nguyên liệu nên sự phát triển DNVVN lại càng được sự quan tâm của nhà nước và các cấp chính quyền địa phương. Tuy nhiên, trong thời gian qua, sự phát triển và hoạt động của DNVVN ở Đồng Tháp còn gặp nhiều khó khăn và chưa phát huy được hết những tiềm năng của mình. Một trong những nguyên nhân của sự khó khăn xuất phát từ chính sự yếu kém của các DNVVN như: chưa có hoạch định chiến lược kinh doanh, vốn, marketing hỗn hợp, thương hiệu, trình độ kỹ năng trong quản trị doanh nghiệp… và mặt khác là do cơ chế chính sách cũng như sự hỗ trợ của nhà nước chưa rõ ràng và chưa được quan tâm thỏa đáng. Do vậy, việc tìm ra hệ thống các giải pháp nhằm thúc đẩy phát DNVVN tại tỉnh Đồng Tháp là vấn đề cấp bách và có ý nghĩa thực tiễn nhằm tận dụng được những cơ hội do hội nhập Kinh Tế Quốc Tế mang lại khi nước ta đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại Thế Giới WTO.
Xuất phát từ nhận thức trên, tôi chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển DNVVN tại tỉnh Đồng Tháp” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Đề tài hướng đến các yêu cầu và mục tiêu sau:
1/ Làm rõ cơ sở lý luận chung về DNVVN, vai trò DNVVN trong nền kinh tế Việt Nam nói chung và tại tỉnh Đồng Tháp nói riêng.
2/ Phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động của các DNVVN tại tỉnh Đồng Tháp trong thời gian qua.
3/ Dựa vào hai cơ sở lý luận và thực tiễn, để đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển DNVVN tại tỉnh Đồng Tháp.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là chỉ nghiên cứu các DNVVN trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp.
4. Phương Pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề tài là phương pháp phân tích thống kê phân tích, tổng hợp, mô tả, so sánh. Trên cơ sở thiết lập bảng câu hỏi để lấy số liệu nghiên cứu thực tế 100 DNVVN trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp, tham khảo ý kiến chuyên gia để đưa ra hướng giải quyết cho đề tài.
5. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được chia làm ba chương .
Chương I: Cơ sở lý luận chung về doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chương II : Thực trạng hoạt động DNVVN tại tỉnh Đồng Tháp trong thời gian qua.
Chương III : Một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển DNVVN tại tỉnh Đồng Tháp.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
Khái niệm DNVVN:
Khái niệm DNVVN ở các nước trên thế giới:
Khái niệm DNVVN hiện nay ở các nước trên thế giới chỉ mang tính chất tương đối, nó thay đổi theo từng giai đọan phát triển kinh tế xã hội từng nước. Tiêu thức phân loại thường được sử dụng là: số lao động thường xuyên với sản xuất doanh thu, lợi nhuận, giá trị gia tăng, nhưng hai tiêu thức thường sử dụng nhất là : vốn và lao động. có nước chỉ dùng một tiêu thức, nhưng có một số nước dùng một vài tiêu thức để xác định DNVVN. Một số nước dùng tiêu thức chung cho tất cả các ngành nghề, nhưng cũng có một số nước lại dùng tiêu thức riêng cho từng ngành nghề để xác định DNVVN.
Bảng 1: Tiêu thức xác định DNVVN ở một số nước trên Thế giới
Nước
Phân loại
Số lao động
Số vốn
Doanh thu
Nhật Bản
Chế tác
Bán buôn
Bán lẻ
Dịch vụ
1 – 300
1 – 100
1 – 50
1 – 100
300 triệu yên
0 – 100 triệu yên
0 – 50 triệu yên
1 – 100 triệu yên
Thái Lan
Công nghiệp nhỏ
Công nghiệp vừa
0 – 50
51 – 200
< 50 triệu Bath
50 – 200 triệu Bath
Philipin
Doanh nghiệp nhỏ
Doanh nghiệp vừa
10 – 99
100 - 199
1,5 – 15 triệu pexo
15 – 60 triệu pexo
Không quan trọng
Indonesia
Doanh nghiệp siêu nhỏ
Doanh nghiệp nhỏ
Doanh nghiệp vừa
1 – 4
5 – 19
20 - 99
Không quan trọng
0 – 20.000 USD
20.000 – 100.000 USD
-
0 – 100.000 USD/năm
100.000 – 500.000 USD/năm
Canada
Công nghiệp và dịch vụ
< 500
< 20 triệu đôla Canada/năm
Hồng Kông
Công nghiệp
Dịch vụ
< 100
< 50
Australia
Chế tác nhỏ
Chế tác vừa
Dịch vụ nhỏ
Dịch vụ vừa
< 100
100 – 199
< 20
20 – 199
Hàn Quốc
Chế tác, khai thác nhỏ,vận tải
Xây dựng
Thương mại và dịch vụ
0 – 300
0 – 200
0 – 20
Nguồn : GSTS Nguyễn Đình Hương(2002), giải pháp phát triển DNVVN, NXB chính trị Quốc Gia.
Căn cứ vào tiêu thức xác định DNVVN nêu trên có thể khái quát thành những quan niệm sau:
+ Quan niệm thứ nhất: tiêu chuẩn đánh giá xếp loại DNVVN phải gắn với đặc điểm từng ngành đồng thời phải tính đến số lượng vốn và lao động được thu hút vào hoạt động SXKD, Nhật Bản là nước theo quan niệm này.
+ Quan niệm thứ hai: tiêu chuẩn đánh giá xếp loại các DNVVN không phân biệt theo ngành nghề mà chỉ cần căn cứ vào số lao động và vốn thu hút vào kinh doanh, các nước theo quan niệm này gồm có: Thái Lan, Philipin …
+ Quan niệm thứ ba: tiêu chuẩn đánh giá xếp loại DNVVN ngoài tiêu thức về lao động hay vốn kinh doanh còn quan tâm đến doanh thu hàng năm của DN, theo quan điểm này có Canada, Indonesia…
+ Quan niệm thứ thứ tư: căn cứ vào tiêu thức số lượng lao động tham gia hoặc có phân biệt ngành nghề, hoặc không có phân biệt ngành nghề. Theo quan niệm này có một số nước như: Hồng Kông, Australia, Hàn Quốc…
Khái niệm DNVVN ở Việt Nam:
Trong thời gian qua ở Việt Nam để hỗ trợ cho các DNVVN, một số cơ quan nhà nước, một số tổ chức đã đưa ra nhiều tiêu thức phân loại DNVVN có thể tổng hợp như sau:
1/ Ngân hàng công thương Việt Nam thì định nghĩa, DNVVN là các DN có dưới 500 lao động, có vốn cố định nhỏ hơn 10 tỷ đồng, có vốn lưu động nhỏ hơn 8 tỷ đồng và doanh thu hàng tháng nhỏ hơn 20 tỷ đồng, sự xác định nhằm phân lọai đối tượng cho vay vốn và số vốn cho vay đối với các doanh nghiệp.
2/ Dự án VPE/US/95/004 hỗ trợ DNVVN ở Việt Nam do UNIDO tài trợ coi doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có lao động dưới 30 người, vốn đăng ký dưới 1 tỷ. Cũng theo dự án này, doanh nghiệp vừa có lao động từ 31 đến 200 người và vốn đăng ký dưới 5 tỷ đồng.
3/ Quỹ hỗ trợ DNVVN thuộc chương trình VN-EU: doanh nghiệp được quỹ này hỗ trợ gồm các DN có số công nhân từ 10 đến 500 người và vốn điều lệ từ 50 ngàn đến 300 ngàn USD.
4/ Ngày 20/06/1998 tại công văn số 681/CP-KTN của chính phủ đã tạm thời qui định thống nhất tiêu chí xác định DNVVN là DN có vốn điều lệ dưới 5 tỷ và có số lao động bình quân hàng năm dưới 200 người. Công văn nêu rõ các bộ, ngành, địa phương có thể căn cứ vào tình hình cụ thể mà có thể áp dụng cả hai hoặc một trong hai tiêu thức trên.
5/ Nghị định 90/2001 của chính phủ cho rằng: “DNVVN là các cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”. Căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội của ngành, địa phương, trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai tiêu chí vốn và lao động hoặc một trong hai tiêu chí đó.
Với những mục đích khác nhau và vào những thời điểm khác nhau nên việc đưa ra những tiêu thức để phân loại, xác định DNVVN của các tổ chức, cơ quan nhà nước và các cá nhân cũng khác nhau và cũng chỉ mang tính ước lệ. Bản thân các tiêu chí đó chưa đủ để xác định thế nào là DN vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay. Như vậy, theo nghị định 90/2001/NĐ-CP khu vực DNVVN ở Việt Nam bao gồm:
+ Các DNNN có qui mô vừa và nhỏ được thành lập và đăng ký theo luật DNNN.
+ Các công ty CP, công ty TNHH, DNTN và HTX được thành lập và hoạt động theo luật DN, luật HTX đáp ứng được hai hoặc một trong hai tiêu thức mà nghị định 90/2001/NĐ-CP đưa ra.
+ Các DN có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập và hoạt động theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đáp ứng được hai hoặc một trong hai tiêu thức mà nghị định 90/2001/NĐ-CP đưa ra.
Kinh nghiệm phát triển DNVVN ở một số nước:
+Đài Loan:
- Nền Công Nghiệp của Đài Loan được đặc trưng chủ yếu bởi các xí nghiệp vừa và nhỏ (chiếm tỷ lệ gần 90% tổng số doanh nghiệp ở vùng lãnh thổ này). Ở Đài loan, loại xí nghiệp vừa và nhỏ tối thiểu phải có từ 5-10 công nhân, vốn trung bình là 1,6 triệu USD là rất phổ biến.
- Các chính sách của chính quyền chủ yếu đặt mục tiêu là gia tăng khả năng sản xuất của các DNVVN và cải thiện các hỗ trợ về tài chính, sản xuất, quản lý, kế toán và tiếp thị. Chính quyền xúc tiến tổ chức hệ thống nhà máy vệ tinh nhằm nâng cấp chất lượng sản phẩm, cải thiện chuyên môn hóa sản phẩm và đẩy nhanh phát triển công nghiệp nhờ sự hợp tác tốt hơn giữa các doanh nghiệp hiện tại.
- Chính quyền Đài Loan duy trì một hệ thống các tổ chức công cộng và tư nhân sâu rộng được tổ chức phối hợp chặt chẽ với nhau để cung cấp hỗ trợ tập trung về quản lý, tài chính và công nghệ cho các DNVVN. Điều này tỏ ra có hiệu quả vì mặt trái của cơ cấu qui mô nhỏ truyền thống là sự khó khăn trong cuộc tiếp thu công nghệ và thực hiện nghiên cứu và phát triển. Chính quyền đã đầu tư nhiều cho việc truyền bá các thông tin về công nghệ thông qua các tổ chức khác nhau và cố gắng thúc đẩy chuyển giao công nghệ thông qua quan hệ với các công ty nước ngoài.
- Để tạo nguồn vốn, Đài loan đã thành lập “Quỹ phát triển DNVVN”để giúp các doanh nghiệp này cải thiện môi trường kinh doanh, đẩy mạnh hợp tác với nhau, đồng thời hướng dẫn cho quỹ tự phát triển nhằm thúc đẩy các DNVVN phát triển lành mạnh. Quỹ này cấp tín dụng cho các DNVVN với lãi suất thấp hơn bình thường của ngân hàng, nhằm giúp các DN phát triển theo chuyên ngành hoặc chuyển hướng ngành nghề của các doanh nghiệp.
- Về tầm vĩ mô, Đài Loan theo đuổi các chính sách khuyến khích xuất khẩu để cố gắng tạo một môi trường kinh doanh ổn định, khuyến khích đầu tư từ các nguồn vốn trong và ngoài nước. Trong lĩnh vực này, vai trò của của công ty thương mại vừa và nhỏ được tăng cường mạnh mẽ vì đây là đầu mối để khu chế tạo của Đài Loan tiếp cận thị trường bên ngoài.
+ NHẬT BẢN
Từ sau chiến tranh Thế Giới thứ II, Nhật Bản đặc biệt quan tâm đến phát triển các DNVVN vì đây là khu vực đem lại hiệu quả kinh tế cao và giải quyết được nạn thất nghiệp. Chương trình “hiện đại hóa” các DNVNN trở thành một nhiệm vụ và một loạt các chính sách về nhiều mặt được ban hành, thể hiện trước mắt là luật cơ bản về DNVVN năm 1993 (basic law on small enterprises) qui định những vấn đề có tính nguyên tắc để hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ hoạt động như nhà cung cấp các bộ phận cấu kiện cho các doanh nghiệp lớn hoặc thực hiện hoạt động gia công.
Một trong những biện pháp quan trọng để hỗ trợ phát triển DNVVN là khuyến khích mở rộng đầu tư, đồng thời cũng phải ghi nhận rằng Chính phủ và các hiệp hội đã dành những khoảng kinh phí lớn cho chương trình hiện đại hóa các DNVVN . Năm 1980, Nhật Bản đầu tư 243.375 tỷ yên, đến năm 2000 lên tới 2.129.239 tỷ yên, nhưng nguồn kinh phí của Chính phủ chỉ chiếm 12,6%, còn lại là của các hiệp hội, ngân hàng. Nguồn tài chính trên tập trung trên bốn lĩnh vực chính:
1) Xúc tiến hiện đại hóa DNVVN; 2) Hiện đại hóa các thể chế quản lý DNVVN; 3) Các hoạt động tư vấn cho DNVVN; 4) Các giải pháp tài chính cho DNVVN. Về tổ chức Nhật Bản thiết lập “hội đồng các doanh nghiệp nhỏ”, đây là tổ chức tư vấn trực thuộc Thủ tướng hoạt động chuyên cho các DNVVN.
+HÀN QUỐC
Hàn Quốc cũng rất quan tâm đến phát triển DNVVN và coi đó như một bộ phận của cơ cấu kinh tế. Để tạo cơ sở pháp lý cho sự tồn tại và phát triển của các DNVVN cũng như sự ưu tiên hỗ trợ thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp này, Chính Phủ Hàn Quốc đã ban hành hàng loạt các sắc luật (12 sắc luật) về DNVVN. Các sắc luật nhằm tập trung vào giải quyết các vấn đề sau:
Thiết lập khái niệm khung về DNVVN theo sắc luật cơ bản của Hàn Quốc về DNVVN phân loại DNVVN theo 2 nhóm ngành.
+ Trong ngành chế tạo, khai thác, xây dựng, doanh nghiệp có vốn đầu tư dưới 0,6 triệu USD và số lao động thường xuyên dưới 300. Nếu chỉ số lao động dưới 20 người là doanh nghiệp nhỏ.
+Trong thương mại: DNVVN là có lao động dưới 5 người được coi là nhỏ và từ 6-20 người là vừa.
Tuy nhiên, vẫn có nhiều ngoại lệ trong từng lĩnh vực. Chẳng hạn, trong sản xuất linh kiện ô tô, linh kiện điện tử, số công nhân là 1000 vẫn coi là DNVVN, trong ngành khai khoán, sản xuất săm lốp, xe đạp, kính đeo, đồ chơi phải có lao động từ 700 trở lên. Ngành đồ hộp, dệt, nhuộm, in phải có 500 lao động. Trong ngành du lịch, sửa chữa ô tô phải có đến 200 lao động.
Như vậy, tiêu thức phân loại quy định khá linh hoạt phụ thuộc vào nhóm ngành hoạt động, tính chất hoạt động để quy định cho phù hợp với chính sách khuyến khích hỗ trợ phát triển các ngành cần thiết trong từng thời kỳ.
Khẳng định về mặt pháp lý các DNVVN.
Khuyến khích và đưa ra các giải pháp nhằm hỗ trợ thúc đẩy phát triển các DNVVN.
Thành lập các tổ chức tín dụng, chức năng chủ yếu là cung cấp vốn, chuyển giao công nghệ cho các DNVVN.
+Viện phát triển công nghiệp Hàn Quốc có chức năng chính là đào tạo tư vấn cho DNVVN.
+Trung tâm năng suất Hàn Quốc với nhiều chức năng là đào tạo cung cấp chuyển giao công nghệ tư vấn cho DNVVN.
+Hội nghiên cứu các DNVVN có chức năng chủ yếu đào tạo chủ doanh nghiệp cung cấp và chuyển giao công nghệ.
1.3. Vai trò của các DNVVN
1.3.1. Vai trò của các DNVVN ở Việt Nam:
+ Đóng góp quan trọng vào GDP và tốc độ tăng trưởng kinh tế:
DNVVN ngày càng đóng góp nhiều hơn vào tổng GDP. Do số lượng doanh nghiệp ngày càng lớn và phân bổ rộng khắp trong hầu hết các ngành, lĩnh vực. Ngoài ra, tốc độ tăng trưởng sản xuất của khu vực DNVVN cũng thường cao hơn so với các khu vực doanh nghiệp khác. Nếu tính theo doanh thu của các doanh nghiệp cả nước tỷ trọng doanh thu của khu vực DNVVN theo qui mô lao động (dưới 300 lao động) năm 2004-2006 là 81,5 % -86,5% . Điều đó chứng tỏ các DNVVN có đóng góp lớn vào việc gia tăng sản lượng và tăng trưởng kinh tế
Bảng 2: Tỷ trọng doanh thu DNVVN trong nền kinh tế:
Năm
Toàn bộ doanh thu
(tỷ đồng)
Tỷ trọng doanh thu DNVVN
(%)
Chia ra theo quy mô lao động (%)
Dưới 5 người
Từ 5 – 200 người
Từ 200 – 300 người
2003
364.844
86,5
4,9
74,2
4,4
2004
485.104
82,0
4,2
70,6
7,3
2005
640.087
81,5
4,4
72,5
4,6
Nguồn: Tổng cục Thống kê năm 2006
Về đóng góp vào GDP :từ chổ tỷ lệ GDP của khu vực DNVVN không đáng kể vào đầu những năm 1990, đến nay tỷ lệ này khoảng từ 24% đến 25,5%. Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực thì đây là mức thấp nhất.
+ Làm tăng hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế:
Sự ra đời của các DNVVN đã làm tăng tính cạnh tranh của nền kinh tế. Với sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành, lĩnh vực sẽ làm giảm tính độc quyền và buộc các doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh, phải liên tục đổi mới để tồn tại và phát triển. Với tính linh hoạt của mình, các DNVVN cũng sẽ tạo sức ép cạnh tranh thậm chí với cả các công ty lớn, các tập đoàn xuyên quốc gia. Đồng thời nhiều DNVVN đóng vai trò là vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, thúc đẩy quá trình chuyên môn hóa và phân công lao động trong sản xuất làm tăng hiệu quả của chính các DNVVN cũng như các công ty hợp tác.
+ Tạo ra nhiều việc làm mới, giảm bớt áp lực về việc làm và thất nghiệp.
Hiện nay, do tỷ lệ dân số cao trong những năm trước đây, hàng năm Việt Nam có khoảng 1,4 triệu người gia nhập vào lực lượng lao động. Vấn đề giải quyết việc làm cho những người này là rất cấp thiết. Bên cạnh đó, khu vực DNNN hiện đang thực hiện sắp xếp lại nên không những không thu hút thêm lao động mà còn tăng thêm số lao động dôi dư. Khu vực đầu tư nước ngoài mỗi năm cũng chỉ tạo ra khoảng 30.000 chổ làm mới, một tỷ lệ không đáng kể. Như vậy, phần lớn số người tham gia lực lượng lao động này trông chờ vào khu vực nông thôn và khu vực DNVVN.
Các DNVVN đã tạo nhiều việc làm mới với tốc độ tăng trưởng cao. Nếu không kể hộ kinh doanh cá thể thì khu vực DNVVN chiếm 7% lực lượng lao động trong các ngành kinh tế, hay 20% lực lượng lao động phi nông nghiệp, hoặc 85,2% số lao động trong khu vực doanh nghiệp. Nếu kể cả hộ kinh doanh cá thể thì khu vực DNVVN chiếm khoảng 19% lực lượng lao động làm việc trong tất cả các ngành kinh tế (nguồn: xây dựng chiến lược hỗ trợ phát triển DNVVN ở Việt Nam đến năm 2010, Bộ kế Hoạch Đầu Tư, năm 2006). Các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, chủ yếu là các DNVVN có mức tăng trưởng cao về lao động trong những năm qua. Số lao động tại khu vực này đã tăng 2,36 lần trong năm 2004 so với thời điểm năm 1997, so với 1,06 và 1,35 lần của các khu vực doanh nghiệp nhà nước và hộ kinh doanh cá thể.
+ DNVVN có vai trò to lớn trong việc phát huy tiềm năng huy động mọi nguồn lực xã hội vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Dựa vào ưu thế của mình, các DNVVN khởi sự thành lập với số vốn nhỏ nhưng có khả năng thu hồi vốn nhanh, có khả năng hy vọng vốn tự có hay vay mượn của bạn bè, thân nhân trong gia đình, sử dụng và tận dụng các tiềm năng về nguồn vốn, lao động và nguyên vật liệu sẵn có tại chổ, theo ước tính vốn đầu tư của DNVVN chiếm tới 70% vốn đầu tư toàn xã hội. Các DNVVN do ít vốn, quản lý đơn giản, linh hoạt và dễ thích nghi với điều kiện biến đổi của thị trường nên thường được thành lập và hoạt động tại địa phương có nguồn nguyên liệu tại chổ hay vùng phụ cận để dễ dàng sử dụng, dễ được cung cấp với giá rẽ và đỡ tốn chi phí vận chuyển. Do vậy, các DNVVN có khả năng sản xuất một khối sản phẩm, dịch vụ tương đối lớn đáp ứng cho nhu cầu của xã hội với giá rẽ hơn và thuận lợi hơn.
+DNVVN là nhân tố quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu từ nông ngiệp và sản xuất nhỏ lên nền sản xuất CNH-HĐH.
Việc nhiều doanh nghiệp, chủ yếu là các DNVVN được thành lập tại các vùng nông thôn, vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, sẽ làm giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp và tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ. Mặc khác, sau một thời gian thành lập và hoạt động, các doanh nghiệp làm ăn thuận lợi đều có xu hướng phát triển bằng cách nâng cao năng lực sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường và trong những điều kiện thuận lợi nhất định các DNVVN có thể từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn và từ tận dụng máy móc thiết bị cũ, sữa chữa lại tiến tới đổi mới trang thiết bị, cải tiến hệ thống dây chuyền sản xuất, đào tạo lại người lao động nhằm nâng cao tay nghề, nâng cao năng lực trình độ quản lý. Sự đổi mới tới mức độ nào đó nhất định sẽ dẫn đến đổi mới công nghệ, điều đó góp phần vào quá trình CNH-HĐH đất nước trên cả chiều rộng lẫn chiều sâu.Việc phát triển các DNVVN cũng đưa đến việc tổ chức lại sản xuất, hợp lí hoá sự phân công hợp tác xã hội.
+DNVVN là tiền đề tạo ra một môi trường văn hoá kinh doanh mang tính kinh tế thị trường, tạo ra những nhà kinh doanh giỏi.
Đây là điều rất cần thiết đối với Việt Nam hiện nay. Chúng ta đã ở trong giai đoạn kinh tế kế hoạch hóa tập trung khá lâu. Vì vậy, môi trường văn hóa kinh doanh mang tính thị trường gần như không tồn tại hoặc không có cơ hội phát triển, đội ngũ doanh nhân giỏi, có khả năng điều hành các doanh nghiệp trong điều kiện quốc tế hóa và hội nhập kinh tế quốc tế rất hạn chế. Vì vậy, việc tạo ra môi trường văn hoá kinh doanh mang tính thị trường cũng như một đội ngũ kinh doanh giỏi là điều kiện cực kỳ quan trọng để Việt Nam có thể hội nhập thành công.
Bảng 3: Đánh giá vai trò các DNVVN ở Việt Nam
Vai trò của các DNVVN ở Việt Nam
Tỷ lệ %
- Góp phần tăng trưởng kinh tế
- Tạo việc làm và tăng thu nhập
- Tính năng động và hiệu quả của nền kinh tế
- Tham gia đào tạo đội ngũ các nhà kinh doanh giỏi
51,7
88,5
83,2
63,2
Nguồn: TS. Lê Xuân Bá (2007), DNVVN Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.
1.3.2. Vai trò DNVVN tại tỉnh Đồng Tháp:
Vai trò của DNVVN tỉnh Đồng Tháp thể hiện các mặt sau:
Một là: Doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần quan trọng tạo công ăn việc làm cho người lao động , tăng thu nhập cho dân cư tại địa phương.
Theo số liệu thống kê Đồng Tháp năm 2007, dân số Đồng Tháp có khoảng 1.667.804 người, trong đó khoảng 40% là lao động nông nghiệp, hàng năm phải giải quyết công ăn việc làm mới trên 40.000 người. Vai trò giải quyết việc làm của các DNVVN không chỉ là số lao động thường xuyên ở các doanh nghiệp, mà còn là sự tạo điều kiện để lao động ngoài doanh nghiệp có việc làm thông qua các hoạt động như cung ứng đầu vào, tiếp nhận đầu ra phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh chính của các DNVVN. Bên cạnh đó các DNVVN cũng tạo ra một số lượng công việc thời vụ rất lớn, mà có thể sử dụng nguồn lao động nhàn rỗi ở mỗi gia đình góp phần tạo ra thu nhập cho các hộ gia đình, nhất là các ngành nghề truyền thống như: thủ công mỹ nghệ, mây tre đan lát, dệt chiếu, đồ gốm …Đặc biệt tỉnh Đồng Tháp là vùng có nguồn nguyên liệu rất dồi dào, rõ ràng sự phát triển của các DNVVN có vai trò rất lớn trong việc tạo ra nhiều công ăn việc làm và giải quyết nạn thất nghiệp cho người dân tại tỉnh Đồng Tháp.
Hai là: DNVVN có vai trò quan trọng trong quá trình CNH-HĐH và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương.
Quá trình phát triển DNVVN cũng là quá trình cải tiến máy móc thiết bị, nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu thị trường dẫn đến nhu cầu đổi mới công nghệ, mở rộng các mối quan hệ giữa cung ứng và tiêu thụ, từ đó phát triển thêm nhiều ngành nghề mới làm cho quá trình CNH-HĐH đất nước không chỉ ở chiều sâu mà ở cả chiều rộng. Trong những năm gần đây được sự hỗ trợ của Sở khoa học công nghệ trong việc đổi mới công nghệ và nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, có nhiều doanh nghiệp trên địa bàn được trang bị và xây dựng hệ thống quản lý chất lượng như ISO 9001:2000, HACCP, GMP …Tương tự các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực gạch ngói được trang bị công nghệ lò nung Hoffman công nghệ Đức, giải quyết ô nhiễm môi trường.
Ba là: phát triển DNVVN tạo điều kiện tận dụng triệt để các nguồn lực xã hội.
DNVVN thường được bắt đầu từ một nguồn vốn rất hạn hẹp và chủ yếu từ người dân, ít có sự trợ giúp từ bên ngoài. Vốn đầu tư cho các DNVVN thường vài ba trăm triệu, thậm chí chưa đến một trăm triệu, vì vậy nó có khả năng thu hút vốn từ một số ngành nghề trong dân cư rất lớn. Hơn nữa, có một số ngành nghề mà chỉ có khu vực DNVVN hoạt động thì mới có hiệu quả cao như các ngành nghề truyền thống, sử dụng tay nghề độ tinh xảo như: nghề trồng hoa cảnh, cây cảnh ở Thị Xã Sađéc, nghề dệt chiếu ở Định An, Định Yên Lấp Vò, nghề sản xuất đồ gốm ở Châu Thành, dệt khăn choàng ở Hồng Ngự…
Bốn là: DNVVN phát triển tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của nông thôn.
Các DNVVN có thể xây dựng ở những vùng nông thôn để tận dụng nguồn nguyên liệu tại địa phương và phục vụ cho thị trường hạn chế của địa phương đó. DNVVN có lợi thế là linh hoạt hơn các doanh nghiệp lớn trong việc định vị trí và do đó có thể phân bổ hợp lý trên địa bàn. Trên cơ sở đó sẽ tạo nên bước phát triển nông thôn và tạo cầu nối giữa nông thôn và thành thị, rút ngắn cách biệt giữa nông thôn và thành thị. Nhờ sự phát triển của các DNVVN trên các lĩnh vực kinh tế xã hội như: sự phát triển của các doanh nghiệp thủy nông đã góp phần đáng kể vào điện khí hóa nông nghiệp nông thôn, phát triển giao thông nông thôn. Sự phát triển của các doanh nghiệp cơ khí sữa chữa đã đẩy nhanh tốc độ cơ giới hóa nông nghiệp từ khâu làm đất đến khâu thu hoạch. Sự phát triển của các doanh nghiệp xay xát- gạch ngói đã tạo điều kiện cho nông dân tiêu thụ sản phẩm, thu hút lao động nhàn rỗi trong nông thôn, sự phát triển các doanh nghiệp chế biến thủy sản đã đưa nghề nuôi thủy sản xuất khẩu trong nông thôn tăng rất nhanh trong những năm gần đây.
Năm là: DNVVN góp phần gia tăng GDP của tỉnh và là nguồn tăng trưởng kinh tế
Đồng Tháp là một tỉnh nông nghiệp với sản lượng lúa hàng năm đạt 2,4 triệu tấn, cung cấp cho xuất khẩu 316.000 tấn gạo. Phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đang dần trở thành thế mạnh thật sự, đóng góp quan trọng cho nền kinh tế của tỉnh. Năm 2007, giá trị sản xuất công nghiệp 3.280 tỷ đồng, đóng góp cho ngân sách của tỉnh từ các DNVVN cũng tăng dần. Năm 2004 là 600 tỷ đồng đến năm 2007 là 800 tỷ đồng, chiếm hơn 19% tổng thu thuế trong toàn tỉnh.
Sáu là: DNVVN có tính linh hoạt, dễ thích nghi với điều kiện biến động của thị trường
Sự hình thành, tồn tại và phát triển của DNVVN rất nhạy cảm với bối cảnh quốc tế. Nó phản ứng nhanh trước sự chuyển biến mạnh về sản phẩm, dịch vụ, quy trình sản xuất và thị trường. Những năm gần đây do sự phát triển nhanh của sản phẩm thủy sản đông lạnh, thức ăn thủy sản, số lượng doanh nghiệp thuộc lĩnh vực này tăng rất nhanh, nếu như năm 2006 có 179 đơn vị với sản lượng 133.622 tấn, trong đó có 47.568 tấn cho xuất khẩu thì đến năm 2007 đã có 239 đơn vị với sản lượng 241.707 tấn, trong đó xuất khẩu đạt 119.129 tấn.
DNVVN có khả năng khai thác những khoảng trống của thị trường như: có thể nhận thầu, ủy thác lại các doanh nghiệp lớn và có thể hoạt động ở nhiều lĩnh vực : công nghiệp, dịch vụ, thương mại, bán lẽ, vận tải …
Bảy là: DNVVN đã và đang góp phần đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện được một đội ngũ những nhà doanh nghiệp làm ăn thành đạt ngày càng gia tăng.
Thông qua thực tiễn kinh doanh, thông qua thực tế của thương trường mà các doanh nghiệp sẽ được đào tạo, tôi luyện và sàn lọc để ngày càng tạo ra được nhiều nhà doanh nghiệp, nhiều cán bộ quản lý có chất lượng cho tỉnh và cho cả nước. Có những doanh nghiệp giữ quy mô hoạt động vừa và nhỏ của mình bởi vì nó phù hợp với khả năng kinh doanh và ngành nghề đang theo đuổi, nhưng cũng có doanh nghiệp phát triển lên thành doanh nghiệp lớn. Dù ở quy mô nào, DNVVN cũng là vườn ươm nhân tài cho công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. Phải xóa bỏ mọi sự kỳ thị, phân biệt hoặc đối xử với doanh nhân nhất là doanh nhân trong khu vực dân doanh. Đây là những người rất đáng tôn vinh vì họ dũng cảm bỏ vốn đầu tư kinh doanh trong điều kiện nhiều khó khăn bất trắc hiện nay.
Nói tóm lại, DNVVN hiện có vai trò rất quan trọng trong việc góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng, phát triển kinh tế xã hội của mỗi Quốc gia trên Thế Giới, cũng như tại Việt Nam nói chung hay tỉnh Đồng Tháp nói riêng. Sự phát triển của các DNVVN kéo theo khai thác và phát huy triệt để các nguồn lực xã hội, tạo ra nhiều công ăn việc làm, giải quyết nạn thất nghiệp, nâng cao đời sống của người lao động góp phần xóa đói giảm nghèo, đồng thời sự phát triển của các DNVVN cũng kéo theo sự phát triển kinh tế xã hội ở các vùng nông thôn, tạo ra được sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực phù hợp với từng giai đoạn phát triển của tỉnh Đồng Tháp và của cả nước. Bên cạnh đó, sự phát triển của các DNVVN cũng là nơi đào tạo ra được nhiều nhà doanh nghiệp tiêu biểu thành đạt, góp phần to lớn vào quá trình thực hiện thành công sự nghiệp CNH-HĐH đất nước trong thời gian sắp tới.
TÓM TẮT CHƯƠNG 1
Đề tài trình bày khái quát về DNVVN ở các nước trên Thế giới cũng như ở Việt Nam và một số kinh nghiệm phát triển DNVVN của một số nước trên thế giới như: Đài Loan, Nhật Bản, Quốc …
Doanh nghiệp vừa và nhỏ tỉnh Đồng Tháp có vị trí vai trò rất quan trọng được thể hiện qua các mặt: thu hút lao động, là nguồn tăng trưởng kinh tế của địa phương, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo điều kiện phát triển nông thôn … Trên cơ sở nền tảng lý luận để từ đó phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của các DNVVN tại tỉnh Đồng Tháp ở chương 2 của đề tài.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DNVVN TẠI TỈNH ĐỒNG THÁP TRONG THỜI GIAN QUA.
2.1. Một số đặc điểm của tỉnh Đồng Tháp
2.1.1. Đặc điểm về tự nhiên và dân số
2.1.1.1. Vị trí địa lý:
Đồng Tháp là một tỉnh nằm trong vùng trũng của lưu vực sông Cửu Long, phía Bắc giáp Preyveng (Campuchia), Nam giáp Vĩnh Long, Đông giáp Long An và Tiền Giang, Tây giáp Long An và Cần Thơ. Tổng diện tích tự nhiên là 3.238 km2 được chia thành : một Thành Phố Cao Lãnh, một Thị Xã Sađéc và 9 huyện. Đồng Tháp có đường biên giới quốc gia dài 52 km với 4 cửa khẩu, có cảng Đồng Tháp nối tỉnh với Campuchia và biển Đông, vị trí trên đã tạo cho tỉnh cơ hội để phát triển nền kinh tế mở, hướng tới xuất khẩu.
Đồng Tháp nằm gần địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam (TP.HCM-Bình Dương-Đồng Nai-Bà Rịa Vũng Tàu), một vùng kinh tế rất quan trọng ở phía Nam và cả nước, là vùng cung cấp các sản phẩm công nghiệp, đồng thời là vùng tiêu thụ sản phẩm nông thủy sản lớn của vùng ĐBSCL. Nếu phương án phát triển giao thông vùng ĐBSCL và Đồng Tháp Mười của Chính phủ sớm triển khai như: xây dựng quốc lộ N1, đường Hồ Chí Minh, cầu Cao Lãnh, cầu Vàm Cống, mở rộng quốc lộ 54, thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Đồng Tháp Mười gắn chặt chẽ với các tỉnh ĐBSCL, TP.HCM và địa bàn trọng điểm phía Nam.
2.1.1.2. Dân số và lao động
Dân số của tỉnh Đồng Tháp năm 2007 có khoảng 1.667.804 người, chiếm khoảng 9,54% so với dân số ĐBSCL và khoảng 2,07% so với cả nước, là một trong những tỉnh có dân số khá đông của ĐBSCL, với tỷ lệ tăng dân số tự nhiên bình quân mỗi năm trên 50.000 người. Khu vực thành thị 287.871 người (chiếm 17,2%), nông thôn là 1.379.933 người (chiếm 82,8%), giới tính nam là 813.404 (chiếm 48,7%), nữ là 850.340 (chiếm 51,3%).
Bảng 4: Dân số trung bình phân theo huyện thị, Thành phố năm 2007
ĐVT: Người
Các chỉ tiêu
Tổng số
Phân giới tính
Phân theo vùng
Nam
Nữ
Thành thị
Nông thôn
Thành phố Cao Lãnh
151.027
73.498
77.529
86.374
64.653
Thị Xã Sađéc
103.211
50.211
53.000
68.118
35.093
Huyện Tân Hồng
81473
41.909
39.564
10.797
70.676
Huyện Hồng Ngự
224.619
109.283
115.336
31.608
193.011
Huyện Tam Nông
99.047
48.257
50.790
9.943
89.104
Huyện Thanh Bình
162.444
78.893
83.551
14.137
148.307
Huyện Tháp Mười
128.184
62.350
65.834
18.717
109.467
Huyện Cao Lãnh
206.194
100.119
106.075
13.667
192.517
Huyện Lấp Vò
181.502
88.329
93.173
11.744
169.758
Huyện Lai Vung
164.552
79.995
84.597
8.583
155.969
Huyện Châu Thành
165.511
80.660
84.891
14.173
151.378
Tổng số
1.667.804
813.464
854.340
287.871
1.379.993
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Đồng Tháp năm 2007
Dân số trong độ tuổi lao động khoảng 1.069.000 người, lượng lao động đang tham gia làm việc trong ngành kinh tế năm 2007 khoảng 855.812 người, chiếm ._.khoảng 79% lao động trong độ tuổi lao động. Trong đó lao động nông, lâm nghiệp là 639.731 người, lao động thủy sản là 52.450, lao động công nghiệp là 56.332 người. Mặc dù tỉnh có lực lượng lao động dồi dào nhưng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo còn thấp, chủ yếu là lao động giản đơn năng suất kém. Tỷ lệ lao động có tay nghề so với lao động trong độ tuổi của tỉnh khoảng 3% (ĐBSCL khoảng 4%, cả nước 10%). Vì vậy vấn đề đặt ra là người lao động phải được đào tạo và đào tạo lại để thích nghi với cơ chế thị truờng và đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh trong xu thế hội nhập.
Bảng 5: Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế tỉnh Đồng Tháp
ĐVT: Người
Các chỉ tiêu
2004
2005
2006
2007
1. Ngành nông, lâm nghiệp
621.192
627.930
634.895
639.731
2. Ngành thủy sản
20.312
26.152
31.843
52.450
Ngành công nghiệp
39.524
45.384
51.699
56.332
Ngành khác
97.324
112.723
139.395
147.299
Tổng
778.352
812.189
857.832
895.812
Nguồn: niên giám thống kê tỉnh Đồng Tháp năm 2007
2.1.1.3. Thuận lợi và khó khăn
+ Thuận lợi:
Đồng Tháp có một phần đường biên giới Quốc Gia Việt Nam-Campuchia, là một con đường vận chuyển hàng hóa đi vào Campuchia ngắn nhất trong khu vực ĐBSCL, với cửa khẩu Dinh Bà đã trở thành cửa khẩu cấp quốc tế và thành lập khu kinh tế cửa khẩu, nên cơ hội trao đổi thương mại trực tiếp với các địa phương của bạn rất thuận lợi.
Hàng năm tỉnh có một lượng lớn phù sa bồi đắp nên đất đai phần lớn màu mỡ phì nhiêu, thuận lợi cho việc đa dạng hóa cây trồng và nuôi trồng thủy sản, được xem là một vựa lớn về lúa, nông sản, thủy sản của cả nước, cung cấp tiêu thụ nội tỉnh, trong nước và quốc tế. Do vậy tỉnh có nhiều cơ hội phát triển công nghiệp chế biến nông sản, thủy sản cho hiện tại và tương lai.
Nguồn lao động dồi dào với tiền lương thấp, gắn bó với địa phương, nếu được đào tạo và đào tạo lại một cách quy củ từ khâu học văn hóa đến khâu học nghề thì nguồn lao động của tỉnh có thể đối mặt với những thách thức của quá trình đổi mới, phát triển đi lên vững chắc.
Chính sách thu hút vốn đầu tư của tỉnh thông thoáng và năng động, tỉnh đã ban hành một số cơ chế, chính sách khuyến khích để tạo mọi điều kiện để các nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh tế có thể phát triển sự nghiệp của mình trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp.
+ Khó khăn:
Điểm xuất phát của nền kinh tế tỉnh thấp, cơ cấu kinh tế còn mang nặng thuần nông, khả năng thu hút vốn kể cả trong và ngoài nước khó khăn, mặc dù tỉnh có những chính sách, cơ chế rất linh hoạt, nhưng do hạ tầng cơ sở còn trong tình trạng yếu kém, thiếu đồng bộ, chưa đủ đáp ứng cho nền kinh tế sản xuất hàng hóa và phát triển dịch vụ trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của thị trường.
Cơ sở hạ tầng, giao thông không thuận lợi, nằm xa tuyến giao thông bộ chính của ĐBSCL, đất đai phần lớn có kết cấu yếu không thuận lợi cho việc xây dựng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp. Do đó tỉnh bị đẩy ra khỏi các trung tâm kinh tế khu vực, tạm thời chưa có sức hấp dẫn đầu tư nước ngoài.
Nghèo về tài nguyên khoáng sản, trừ cát và đất sét, cơ cấu ngành nghề của tỉnh chỉ giới hạn một số ngành như: chế biến lương thực, thực phẩm, thủy sản, dược phẩm, sản xuất vật liệu xây dựng, cần phát triển mạnh các ngành công nghiệp sử dụng nguyên liệu ngoại nhập nhằm tạo thêm lực đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung của tỉnh.
Nguồn lao động có tay nghề không nhiều, không cao, phong cách làm việc vẫn mang đậm nét thuần nông, vì vậy sẽ rất khó khăn khi tuyển và sử dụng hiệu quả lao động trong các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Lũ hàng năm mang lại nhiều nguồn lợi, nhưng lũ lớn làm thiệt hại tài sản, tuyến giao thông, cơ sở hạ tầng. Mặc khác, việc xây dựng các khu dân cư và cơ sở hạ tầng có khả năng sử dụng lâu dài trong vùng lũ và ảnh hưởng lũ yêu cầu vốn và kỹ thuật cao, đang là vấn đề nan giải của tỉnh.
2.1.2. Đặc điểm kinh tế xã hội
Những năm gần đây nền kinh tế của tỉnh Đồng Tháp đi dần vào thế ổn định, tăng trưởng từng bước hòa nhập và phát triển theo hướng cơ chế thị trường có sự điều tiết, quản lý vĩ mô của nhà nước. Năm 2007, tổng sản phẩm nội tỉnh (GDP) là 9.770 tỷ đồng (theo giá cố định năm 1994), tốc độ tăng trưởng đạt 15,26%, cao hơn mức trung bình của ĐBSCL(10,4 %) và cả nước (8,48%). Trong đó khu vực nông lâm thủy sản tăng 8,01% làm GDP tăng 4,4%, khu vực công nghiệp xây dựng tăng 31,04% làm GDP tăng 5,23%, khu vực thương mại dịch vụ tăng 19,27% làm GDP tăng 5,6%, kinh tế của tỉnh đã có bước tăng trưởng đột phá và cả ba khu vực đều có tốc độ tăng trưởng vượt kế hoạch. Như vậy, khu vực công nghiệp xây dựng và thương mại dịch vụ có tốc độ tăng trưởng vượt cao, có ảnh hưởng quyết định đến tốc độ tăng trưởng GDP năm 2007. Tuy nhiên, khu vực nông lâm thủy sản mặc dù có tốc độ tăng trưởng thấp hơn hai khu vực còn lại nhưng do chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu GDP nên vẫn giữ vai trò quan trọng.
Để GDP năm 2007 có được tốc độ tăng trưởng cao, trước hết là ngành công nghiệp có thêm một số dự án mới đi vào hoạt động trong năm. Bên cạnh đó, các dự án đi vào hoạt động năm 2006 tiếp tục tăng cường khai thác công suất tạo tốc độ vượt bậc của ngành công nghiệp nói riêng và GDP của tỉnh nói chung. Thứ hai, là sự phát triển mạnh mẽ của ngành thủy sản với sản lượng 226 ngàn tấn, tăng 42,73% so với năm 2006, vừa cung cấp nguyên liệu cho ngành chế biến, vừa duy trì mũi nhọn tăng trưởng cho khu vực nông lâm thủy sản. Thứ ba, là sự phát triển của các ngành sản xuất đã tạo nhu cầu và cơ hội cho sự phát triển của các hoạt động thương nghiệp, dịch vụ, đặc biệt là các dịch vụ vận tải, tài chính, tín dụng … đã tạo ra tốc độ tăng trưởng cao cho toàn khu vực thương maị dịch vụ.
Với tốc độ tăng trưởng trên cơ cấu kinh tế của tỉnh có sự chuyển dịch theo hướng tăng mạnh ngành công nghiệp xây dựng và thương mại dịch vụ, giảm tương đối ngành nông lâm thủy sản. Nhưng sự chuyển dịch còn chậm, nông nghiệp vẫn còn ở mức cao. Nếu theo giá cố định 1994 thì khu vực nông lâm thủy sản chiếm tỷ trọng 51,48% giảm 3,26% so với năm 2006, khu vực công nghiệp xây dựng chiếm tỷ trọng 19,17%, tăng 2,31% và khu vực thương mại dịch vụ chiếm tỷ trọng 29,35%, tăng 1,15% so với năm 2006.
2.2. Thực trạng hoạt động DNVVN trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp trong thời gian qua
2.2.1. Về số lượng doanh nghiệp
Hiện nay ở tỉnh Đồng Tháp có 1.005 doanh nghiệp vừa và nhỏ đang hoạt động, chia theo ngành nghề có 12 đơn vị sản xuất nông lâm thủy sản, 510 đơn vị sản xuất công nghiệp xây dựng, 483 đơn vị thương mại dịch vụ. Nếu phân theo thành phần kinh tế thì có 23 doanh nghiệp nhà nước, 980 doanh nghiệp ngoài quốc doanh là các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp tập thể và 2 đơn vị doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài.
Bảng 6: Số lượng và cơ cấu DNVVN tỉnh Đồng Tháp năm 2007
Loại hình doanh nghiệp
Nông lâm thủy sản
Công nghiệp xây dựng
Thương mại dịch vụ
Tổng số
Số lượng
Tỷ trọng
(%)
- Khu vực nhà nước
- Khu vực ngoài nhà nước
+ Công ty cổ phần
+ Công ty TNHH
+ Doanh nghiệp tập thể
+ Doanh nghiệp tư nhân
- Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
12
2
5
5
12
496
11
131
11
343
2
11
472
9
48
29
386
23
980
22
184
40
734
2
2,3
97,5
2,2
18,3
4,0
73,0
0,2
Tổng
12
510
483
1.005
100,0
Nguồn: Số liệu điều tra DNVVN của cục Thống kê tỉnh Đồng Tháp năm 2007
Từ bảng trên ta thấy khu vực Nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ lệ rất thấp trong tổng số các DNVVN tỉnh Đồng Tháp. Trong khi đó khu vực ngoài nhà nước, doanh nghiệp tư nhân chiếm tỷ trọng cao nhất 73%, kế đến là công ty TNHH 18,3%. Từ đó ta có thể nhận xét rằng:
- Số lượng DNVVN tỉnh Đồng Tháp tuy đông đảo nhưng nhỏ về quy mô, phát triển một cách tự phát, chưa được quy hoạch đồng bộ định hướng phát triển về ngành nghề, địa bàn để khai thác hết tiềm năng.
- Đồng Tháp là một tỉnh nông nghiệp, sản xuất công nghiệp còn ở quy mô nhỏ, các ngành sản xuất phân tán, tự phát, chưa hợp tác liên doanh, liên kết chặt chẽ với nhau, sản xuất chưa ổn định và đạt hiệu quả thấp. Công nghiệp chủ yếu là các ngành nghề lương thực, thực phẩm, may mặc, dược phẩm, sản xuất vật liệu xây dựng …Hoạt động công nghiệp phần lớn phân bổ ở vùng kinh tế phía Nam của tỉnh, trong khi đó vùng nông nghiệp cho ngành chế biến nông thủy sản tập trung ở các huyện phía Bắc.
Biểu đồ 1: Tỷ trọng các loại hình DNVVN tỉnh Đồng Tháp năm 2007
Biểu đồ 2: Tỷ lệ phát triển số lượng DNVVN theo cơ cấu ngành
năm 2005, 2006, 2007
2.2.2. Về ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp
DNVVN tỉnh Đồng Tháp chủ yếu tập trung kinh doanh các ngành nghề sau:
Bảng 7: Ngành nghề kinh doanh của các DNVVN tỉnh Đồng Tháp.
Ngành nghề kinh doanh
Số lượng doanh nghiệp
Tỷ trọng
(%)
+ Nông nghiệp và lâm nghiệp
+ Nuôi trồng thủy sản
+ Công nghiệp khai thác mỏ
+ Công nghiệp chế biến, chế tạo
+ Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng
+ Khai thác, xử lý và cung cấp nước
+ Xây dựng
+ Vận tải kho bãi
+ Khách sạn nhà hàng
+ Tài chính ngân hàng, bảo hiểm
+ Hoạt động kinh doanh bất động sản
+ Hoạt động khoa học và công nghệ
+ Giáo dục và đào tạo
+ Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ
+ Hoạt động nghệ thuật, vui chơi, giải trí
+ Bán buôn, sửa chữa xe có động cơ ô tô, mô tô, đồ dùng gia đình
+ Hoạt động dịch vụ phục vụ cá nhân và cộng đồng.
6
6
8
243
13
7
239
32
9
16
2
21
2
5
1
392
3
0,59
0.59
0,79
24,10
1,29
0,69
23.78
3,18
0,89
1,59
0,20
2,08
0,20
0,49
0,10
39,0
0,29
Tổng
1.005
100,0
Nguồn: Số liệu điều tra DNVVN của Cục thống kê tỉnh Đồng Tháp năm 2007
Bảng trên cho thấy, ngành nghề chiếm tỷ trọng cao ở tỉnh Đồng Tháp là bán buôn, sửa chữa xe có động cơ ô tô, mô tô, xe máy, đồ dùng gia đình; thứ hai là ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; sau đó là ngành xây dựng. Trong khi các ngành thuộc hoạt động nghệ thuật, vui chơi giải trí, dịch vụ phục vụ cá nhân cộng đồng chiếm tỷ trọng thấp.
Có thể nhận thấy rằng, các DNVVN tỉnh Đồng Tháp đã chú trọng đến việc khai thác nguồn nguyên liệu sẵn có và cũng là ưu thế của tỉnh để phát triển hoạt động kinh doanh của mình. Điều này không những tiết kiệm được chi phí cho việc vận chuyển và sử dụng nguyên vật liệu mà còn sử dụng được nguồn nhân công rẽ, góp phần giải quyết việc làm giảm tỷ lệ thất nghiệp ở vùng nông thôn.
Như vậy, DNVVN chủ yếu đầu tư vào các ngành ít vốn, quay vòng nhanh để sinh lợi, đồng thời đã bắt đầu chú ý đầu tư vào công nghiệp chế biến, lĩnh vực mà tỉnh Đồng Tháp có lợi thế là nguồn nguyên liệu dồi dào và rẽ như: thủy sản, lau bóng gạo, xay xát, thủ công mỹ nghệ …Hơn nữa, các doanh nghiệp đã chú ý đầu tư vào ngành thương mại dịch vụ, một ngành mà trước đây ít được quan tâm nhưng hiện nay lợi nhuận thu từ ngành này rất cao nên thu hút được các nhà đầu tư. Đặc biệt các DNVVN tỉnh Đồng Tháp đã đóng góp tích cực vào việc khôi phục các làng nghề truyền thống như: mây tre đan xuất khẩu, chiếu đệm, vật liệu xây dựng, chế biến và một số ngành nghề mới đáp ứng thị hiếu ngày càng cao của người tiêu dùng.
Đối với tỉnh Đồng Tháp, làng nghề còn rời rạc, phát huy chưa hết tiềm năng, kỹ xảo kỹ thuật, chưa được tổ chức lại theo cách làm ăn hợp tác tập thể, chủ yếu vẫn là hình thức đơn giản như tổ hợp hay cao hơn là hợp tác xã. Đồng Tháp có một số làng nghề tập trung như: làng nghề mây tre lá ở huyện Cao Lãnh, làng nghề dệt chiếu thảm lát ở Định An-Định yên huyện Lấp Vò, làng nghề nem ở huyện Lai Vung, làng nghề bột ở Sađéc… Các làng nghề nói trên thường tồn tại ở những địa phương có truyền thống lâu đời.Thời gian gần đây, với nhiều lý do khác nhau các làng nghề truyền thống này thường gặp khó khăn về vốn, nguyên vật liệu hoặc sự cạnh tranh với các mặt hàng mới bằng nguyên liệu nhân tạo sản xuất bằng cơ giới hoặc với hàng ngoại nhập.
2.2.3. Về vốn kinh doanh
Sự phát triển mạnh mẽ của các DNVVN đã kéo theo sự gia tăng nguồn vốn huy động để đưa vào sản xuất kinh doanh. Nhưng khó khăn chung hiện nay của các DNVVN ở tỉnh Đồng Tháp là thiếu vốn để phát triển sản xuất kinh doanh, có gần 50% DNVVN ở tỉnh Đồng Tháp có số vốn dưới 0,5 tỷ đồng (xem bảng 6).
Bảng 8: Số lượng DNVVN có vốn dưới 0,5 tỷ đồng
Loại hình doanh nghiệp
Số lượng DNVVN
Số lượng DNVVN có vốn dưới 0,5 tỷ đồng
Tỷ lệ (%)
- Công ty nhà nước
- Công ty cổ phần
- Công ty TNHH
- Doanh nghiệp tư nhân
- Doanh nghiệp tập thể
- Công ty có vốn đầu tư nước ngoài
23
22
184
734
40
2
1
2
49
382
18
0
0,12
0,24
4,9
38
1,8
0
1.005
452
45,06
Nguồn: Số liệu điều tra DNVVN của Cục thống kê tỉnh Đồng Tháp năm 2007
Hầu hết các DNVVN ở Đồng Tháp ban đầu đều dựa vào nguồn vốn tự có, vốn huy động rất ít. Bên cạnh đó, theo số liệu điều tra 100 DNVVN cho thấy hầu hết 100% DN đều trả lời sử dụng vốn tự có là chính cho việc tài trợ kinh doanh của mình, các nguồn vốn bằng hình thức đi vay không phải là chủ yếu trong quá trình kinh doanh của mình. Do hầu hết các chủ DN đều dựa vào tiền tích lũy cá nhân của mình, cộng với tiền tích lũy của gia đình và đôi khi của bạn bè, làm nguồn vốn tích lũy ban đầu và để trang trãi cho họat động sản xuất chính của DN.
Về khả năng tiếp cận vốn vay ngân hàng của DN: một số lớn DN đã thành công khi vay vốn ngân hàng, có 70 DN cho rằng (khá dễ, tương đối dễ), chiếm tương đương là (35% và 35%) đã vay vốn với thủ tục dễ dàng của ngân hàng, chỉ có 22 DN cho là khó, các mức độ còn lại chiếm tỷ trọng rất thấp.
Bảng 9: Khả năng tiếp cận với các khoản vay ngân hàng
ĐVT: doanh nghiệp
Mức độ khó khăn để được vay vốn ngân hàng
Doanh nghiệp
Tỷ trọng
(%)
- Rất dễ
3
0,03
- Khá dễ
35
0,35
- Tương đối dễ
35
0,35
- Khó
22
0,22
- Rất khó
5
0,05
Nguồn: Số liệu điều tra 100 DNVVN tại tỉnh Đồng Tháp năm 2007
- Về mức độ khó khăn chủ yếu để được vay vốn ngân hàng phổ biến nhất là mức vay không đủ đáp ứng yêu cầu, chiếm 39%; ngân hàng thế chấp lớn hơn khả năng của DN, chiếm 17%; thủ tục rườm rà, chiếm 12%; còn hình thức khác chiếm 32%.
2.2.4. Về trình độ máy móc thiết bị, công nghệ
Để có thành công trong một nền kinh tế cao độ như hiện nay, các doanh nghiệp phải thường xuyên đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị, các phương pháp, bí quyết sản xuất. Thế nhưng hầu hết công nghệ đang sử dụng trong các DNVVN Việt Nam nói chung và DNVVN tỉnh Đồng Tháp nói riêng hiện đánh giá là lạc hậu. Đại đa số những người chủ của các DNVVN không có kiến thức, thông tin, kinh nghiệm về những vấn đề liên quan đến lựa chọn, mua và chuyển giao công nghệ. Với nhiều người mua công nghệ chỉ đơn giản là mua máy móc thiết bị, họ không quan tâm hoặc quan tâm không đầy đủ đến các phương pháp, bí quyết sản xuất. Do ảnh hưởng của tư duy sản xuất nhỏ và một phần là do thiếu vốn, rất nhiều DNVVN đầu tư nhỏ giọt, làm từng phần, mỗi năm mua thêm một số máy móc, thiết bị rồi vừa làm vừa cải tiến. Hậu quả của cách làm đó là công nghệ được sử dụng trong các DNVVN này trở thành mớ hổn độn, chắp vá. Một số doanh nghiệp do thiếu thông tin, không có kinh nghiệm lựa chọn, mua bán, chuyển giao công nghệ đã trở thành nạn nhân của các thương vụ về công nghệ.
Trình độ công nghệ, trang thiết bị máy móc khu vực DNVVN ở Đồng Tháp không ngoài tình trạng chung của cả nước, nói chung là lạc hậu hơn rất nhiều so với các thành phố lớn, các khu công nghiệp tập trung. Do thiếu vốn và trình độ am hiểu kỹ thuật công nghệ mới nên tỷ lệ trang bị mới cũng rất thấp. Theo khảo sát điều tra 100 DN, chiếm 54% các DN sử dụng thiết bị máy móc ở thập niên 80; chiếm 21% ở thập niên 90 và 22% từ năm 2000 đến nay. Mặt khác, theo kết quả điều tra của Sở công nghiệp năm 2007 về tình hình đổi mới thiết bị công nghệ của các doanh nghiệp trên địa bàn chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay như:
+ Ngành dược: trang bị các dây chuyền sản xuất thuốc viên đạt tiêu chuẩn GMP, đang thực hiện sản xuất nhượng quyền cho nước ngoài như: Pháp, Thụy Sĩ, Singapore…
+ Ngành vật liệu xây dựng: trang bị dây chuyền công nghệ lò nung Hoffman (công nghệ Đức) để sản xuất gạch ngói nhằm giải quyết môi trường ô nhiễm đối với các doanh nghiệp ở Châu Thành và Thị xã Sađéc.
+ Ngành chế biến thực phẩm: trang bị dây chuyền hấp bánh phòng tôm của công ty Sa giang, công nghệ Đức đạt tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm Châu Âu, trang bị 2 dây chuyền công nghệ sấy thức ăn cho Công ty Minh Quân.
+ Ngành may mặc: trang bị dây chuyền cắt rập mẫu trên sơ đồ vi tính của Công ty cổ phần Sao Mai.
+ Ngành lương thực: trang bị dây chuyền lau bóng gạo xuất khẩu các doanh nghiệp lương thực ở huyện Lấp Vò.
Biểu đồ 3: Tỷ trọng thế hệ máy móc thiết bị sử dụng trong các DNVVN tỉnh Đồng Tháp
Nguồn: Số liệu điều tra 100 DNVVN tại tỉnh Đồng Tháp năm 2007
- Bên cạnh đó, chỉ tiêu về sử dụng công nghệ thông tin của các DNVVN trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp, qua kết quả điều tra cho thấy phần lớn đã tiếp cận được máy vi tính cho kinh doanh của mình. Có tới 73% DN sử dụng máy vi tính và chỉ có 27% không sử dụng máy vi tính cho kinh doanh của mình. Mức độ nhân viên sử dụng vi tính thường xuyên cho công việc kinh doanh chiếm 47% cho tỷ lệ sử dụng thường xuyên cho công việc dưới mức trung bình từ 30 – 49%; việc đạt trên trung bình (từ 50 – 79%) chỉ chiếm 12% và 16% cho việc đạt kết quả cao (trên 80%). Phần lớn DN qua khảo sát có tới 55% có sử dụng internet để phục vụ kinh doanh của mình, 45% không sử dụng internet để phục vụ kinh doanh.
2.2.5. Về tình hình lao động trong các DNVVN
2.2.5.1. Quy mô lao động
Theo kết quả điều tra lao động được trả lương thường xuyên và có hợp đồng lao động tại các DNVVN tỉnh Đồng Tháp, cho thấy tập trung chủ yếu là lọai hình DN rất nhỏ như có 62 DN có số lao động dưới 10 người; 30 DN có số lao động từ 10 – 99 người; các DN có số lao động theo quy mô vừa không đáng kể, có 7 DN có số lao động từ 100 – 199 người; có 1 DN có số lao động từ 200-299 người.
Như vậy, số lao động của các DN tại tỉnh Đồng Tháp chủ yếu có quy mô lao động thuộc loại rất nhỏ và nhỏ, chỉ có một số rất ít DN quy mô lao động thuộc lọai vừa.
Biểu đồ 4: Quy mô lao động của các DNVVN tỉnh Đồng Tháp
Nguồn: Số liệu điều tra 100 DNVVN tại tỉnh Đồng Tháp năm 2007
2.5.2.2. Về hình thức tuyển dụng:
Đồng Tháp có lực lượng lao động rất dồi dào, đã tạo điều kiện dễ dàng cho hầu hết các DN trong các khu vực sản xuất kinh doanh tìm được số lao động của họ khi cần. Phần lớn các họat động sản xuất chỉ cần những người có trình độ học vấn vừa phải hay được đào tạo hạn chế. Với lọai lao động giản đơn này, theo kết quả điều tra thì có tới 75% cho rằng họ tuyển dụng lao động theo hình thức trực tiếp qua quan hệ cá nhân; 17% cho rằng theo hình thức trực tiếp quảng cáo; chiếm 6% tuyển dụng theo hình thức khác; còn lại qua tổ chức tuyển dụng tư nhân chiếm 1%.
Do đó, về hình thức tuyển dụng lao động của các DNVVN tại tỉnh Đồng Tháp chủ yếu theo hình thức trực tiếp quan hệ cá nhân và quảng cáo. Nên phần nào cũng ảnh hưởng đến chất lượng lao động có trình độ cao.
Bảng 10: Hình thức tuyển dụng lao động của các DNVVN
tỉnh Đồng Tháp.
ĐVT: doanh nghiệp
Các hình thức tuyển dụng
lao động
Doanh nghiệp
Tỷ trọng (%)
- Qua cơ quan lao động Nhà nước
- Trực tiếp quan hệ cá nhân
- Trực tiếp quảng cáo
- Tổ chức tuyển dụng tư nhân
- Hình thức khác
0
75
17
2
6
75%
17%
2%
6%
Nguồn: Số liệu điều tra 100 DNVVN tại tỉnh Đồng Tháp năm 2007
2.5.2.3. Về trình độ quả lý chuyên môn chủ DN:
Về trình độ học vấn và trình độ chuyên môn của các chủ DN tại tỉnh Đồng Tháp vào dạng tương đối thấp. tổng số 100 DN điều tra thì chỉ có 11% có trình độ Đại học; 22% có trình độ trung cấp/cao đẳng; trình độ cấp 2 chiếm 31% và cấp 3 chiếm 26%. Lực lượng cán bộ quản lý nồng cốt của các DNVVN ở Đồng Tháp thường là các thành viên chủ sở hữu và của gia đình.
2.2.6. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và đóng góp vào ngân sách nhà nước của các DNVVN tại tỉnh Đồng Tháp.
2.2.6.1. Số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có lãi, bị lỗ
Theo kết quả điều tra của Cục thống kê Đồng Tháp, trong tổng số 1.005 DNVVN trên địa bàn có 892 doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi, chiếm 88,7%, khoảng 110 doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh bị lỗ, chiếm khoảng 11%, còn lại 3 doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh không lãi cũng không lỗ, chiếm 0,3%. Cụ thể chi tiết là:
Bảng 11: Các DNVVN hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi, lổ ở Đồng Tháp năm 2007.
Loại hình
Số lượng doanh nghiệp
Số doanh nghiệp có lãi
Số doanh nghiệp bị lỗ
Số doanh nghiệp không lãi, không lỗ
- Doanh nghiệp nhà nước
- Công ty cổ phần
- Công ty TNHH
- Doanh nghiệp tư nhân
- Doanh nghiệp tập thể
- Công ty có vốn đầu tư nước ngoài
23
22
184
734
40
2
20
21
151
662
37
1
3
1
32
71
2
1
1
1
1
Tổng
1.005
892
110
3
Nguồn: Số liệu điều tra DNVVN của Cục thống kê tỉnh Đồng Tháp năm 2007
2.2.6.2. Đóng góp cho ngân sách nhà nước
Tổng nộp ngân sách của các DNVVN trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp năm 2007 đạt 406 tỷ đồng, chiếm 19,5 tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp ( năm 2007 tổng thu ngân sách trên địa bàn là 2.081 tỷ đồng)
2.2.7. Thị trường tiêu thụ
Về thị trường, các DNVVN tỉnh Đồng Tháp chủ yếu có quy mô nhỏ, nên các DN này chỉ sản xuất kinh doanh cho thị trường nội địa là chủ yếu, một số ít cho thị trường xuất khẩu với một số sản phẩm chủ lực của tỉnh như: gạo, thủy sản đông lạnh, thực phẩm, dược phẩm, may mặc …(xem bảng 12)
Bảng 12:
Bảng 12: Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của các DNVVN
tỉnh Đồng Tháp
Mặt hàng
ĐVT
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Số lượng
Kim ngạch XK
(1000USD)
Số lượng
Kim ngạch XK
(1000USD)
Số lượng
Kim ngạch XK
(1000USD)
+Gạo
+Thủy sản đông lạnh
+Bánh phồng tôm
+Hàng dệt may
Tấn
Tấn
Tấn
1000 cái
309.478
21.968
3.724
3.173
78.338
57.839
4.879
11.947
316.315
39.012
3.244
3279
80.508
120.954
4.247
12.346
288.128
45.127
4.615
3.459
83.489
142.532
5.978
12.790
Tổng cộng
153.003
218.055
244.789
Nguồn: Số liệu điều tra DNVVN của Cục thống kê tỉnh Đồng Tháp năm 2007
Qua điều tra các DN cho thấy hầu hết là thị trường tiêu thụ tại chổ chiếm 67%, xuất khẩu chiếm 14%, nội địa chiếm 12% và khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long chiếm 7%. Từ kết quả điều tra cho thấy đa số các DN này chỉ sản xuất kinh doanh dưới dạng nhỏ lẻ. Tuy nhiên, có 14% là thị trường xuất khẩu cũng thể hiện được thế mạnh của tỉnh về lĩnh vực: gạo, thủy sản, thực phẩm, dược phẩm, thủ công mỹ nghệ, may mặc…
Biểu đồ 5: Thị trường tiêu thụ sản phẩm của DNVVN tỉnh Đồng Tháp
Nguồn: Số liệu điều tra 100 DNVVN tại tỉnh Đồng Tháp năm 2007
Do hầu hết các DNVVN không có thương hiệu trên thị trường, do vậy khả năng tiếp cận khách hàng trên thị trường không thuận lợi. do công tác nghiên cứu thị trường còn hạn chế và yếu kém do họ không nhận thức tầm quan trọng của nó, nhưng mặt khác lực bất lòng tâm do vốn ít, ngân sách dành cho nghiên cứu thị trường rất hạn hẹp, khả năng tham quan, khảo sát thị trường nước ngòai rất hạn chế vì mỗi chuyến đi khá tốn kém, hiệu quả không cao …Bên cạnh đó họat động nghiên cứu thị trường của các DN chưa tổ chức một cách khoa học, mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của người nghiên cứu là chính.
Đối với chiến lược sản phẩm, các DNVVN tỉnh Đồng Tháp thường bị hạn chế trong việc cải tiến chất lượng sản phẩm và tăng khả năng cạnh tranh. Ngoài việc thiếu hiểu biết về mặt kỹ thuật, công nghệ mới và không nhận thức được tầm quan trọng của chất lượng sản phẩm, các chủ DNVVN thường không có khả năng mua máy móc thiết bị sản xuất hiện đại. Do đó dẫn đến năng suất thấp, tính độc đáo của sản phẩm không cao. Mặc khác, các sản phẩm của các DNVVN có đặc điểm là yếu tố tư bản vốn trong cấu thành sản phẩm thấp, hàm lượng và tri thức công nghệ trong sản phẩm không cao, các mặt hàng xuất khẩu các DNVVN trên địa bàn như : gạo, thủy sản, may mặc, thủ công mỹ nghệ … chủ yếu dựa vào yếu tố lao động.
2.3. Đánh giá chung:
Qua nghiên cứu thực trạng họat động DNVVN tỉnh Đồng Tháp. Ta thấy rằng khu vực này tuy có những lợi thế nhất định nhưng cũng còn nhiều hạn chế, yếu kém.
- Về lợi thế:
+ DNVVN tỉnh Đồng Tháp rất nhạy cảm với những biến động của thị trường, chuyển đổi mặt hàng nhanh phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng, tận dụng được các nguyên liệu, nhân lực tại chổ của tỉnh.
+ Sự gia tăng và phát triển ngày càng không ngừng của các DNVVN tỉnh Đồng Tháp trong những năm qua đã khai thác và huy động mọi nguồn lực, nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân tham gia vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Đồng Tháp.
+ Các DNVVN tỉnh Đồng Tháp liên kết, làm vệ tinh gia công với các DN lớn (các mặt hàng như: thủ công mỹ nghệ, may mặc, gạo xay xát …)
Nhìn chung, các DNVVN tỉnh Đồng Tháp có ưu thế năng động, thích ứng nhanh với sự thay đổi của thị trường, góp phần giữ gìn và phát huy được các ngành nghề địa phương, các sản phẩm hàng hóa như: thủ công mỹ nghệ, vật liệu xây dựng, bánh phồng tôm…Các DN còn tạo thêm nhiều việc làm và giải quyết nạn thất nghiệp tại địa phương.
- Về khó khăn, yếu kém:
+ Hầu hết các DN có quy mô nhỏ, vốn thấp, chủ yếu là nguồn vốn tự có và từ các nguồn vốn không chính thức từ nhân dân, bạn bè, vừa kém hiệu quả vừa thiếu bền vững.
+ Khả năng nắm bắt thông tin và tiếp cận thị trường còn rất hạn chế. Khối lượng sản phẩm do các DNVVN sản xuất ra chủ yếu là phục vụ tiêu dùng trong tỉnh là chính, chỉ một số ít tham gia vào thị trường xuất khẩu.
+ Tình hình thiết bị công nghệ của các DN có giá trị thấp và công nghệ lạc hậu. vì các DN này chủ yếu là lọai hình nhỏ nên không đủ khả năng tài chính đầu tư công nghệ hiện đại hơn.
+ Về phương diện quản lý, đội ngũ chủ doanh nghiệp, giám đốc và cán bộ quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ tại tỉnh Đồng Tháp còn nhiều hạn chế về kiến thức và kỹ năng quản lý. Trong số các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại tỉnh Đồng Tháp có những chủ doanh nghiệp, giám đốc giỏi, có trình độ chuyên môn khá cao và năng lực quản lý tốt. Tuy nhiên con số thuộc nhóm này chưa nhiều. Một bộ phận lớn chủ doanh nghiệp và giám đốc doanh nghiệp tư nhân chưa được đào tạo bài bản về kinh doanh và quản lý, còn thiếu kiến thức kinh tế xã hội và kỹ năng quản trị kinh doanh, đặc biệt là yếu về năng lực kinh doanh quốc tế. Do những hạn chế đó, một số người có khuynh hướng hoạt động theo kinh nghiệm, chưa có tầm nhìn chiến lược, thiếu kiến thức về quản lý tổ chức, về phát triển thương hiệu, về cạnh tranh, về máy tính và công nghệ thông tin. Một số chủ doanh nghiệp tại tỉnh Đồng Tháp thậm chí mở công ty chỉ vì có sẵn tiền vốn và thích làm kinh doanh trong khi hoàn toàn thiếu kiến thức và kỹ năng về kinh doanh, vì vậy dẫn đến nhiều rủi ro và thất bại.
+ Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại tỉnh Đồng Tháp chưa xây dựng được các thương hiệu mạnh, chưa khẳng định được uy tín và khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế. Vài năm gần đây, nhiều doanh nghiệp đã quan tâm hơn và có chú trọng vào việc xây dựng và phát triển thương hiệu và đã có nhiều doanh nghiệp thu được thành công đáng tự hào. Những thương hiệu như Imexpharm, Sa Giang…đã chiếm được vị thế cao trên thị trường và vươn lên tầm những doanh nghiệp lớn. Tuy nhiên, còn nhiều doanh nghiệp tại tỉnh Đồng Tháp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa có chiến lược xây dựng thương hiệu, chưa tạo được uy tín về chất lượng sản phẩm và dịch vụ, do đó khả năng cạnh tranh còn yếu. Xây dựng thương hiệu và phát triển bền vững là một vấn đề rất quan trọng đối với khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ tại tỉnh Đồng Tháp trong thời gian tới, đặc biệt là nước ta đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại Thế giới (WTO).
+ Các DN thường không có hoạch định chiến lược kinh doanh dài dạn, một phần cũng do họ không có thời gian, thời gian của học chủ yếu được dành cho việc giải quyết những vấn đề tác nghiệp hàng ngày. Phần khác, do họ cũng không quen với việc họach định chiến lược hoặc cũng không thấy tầm quan trọng của việc họach định chiến lược kinh doanh. Do vậy, nhiều DNVVN mới thành lập được một thời gian ngắn thì đã phải giải thể hoặc họat động thua lổ liên tiếp.
TÓM TẮT CHƯƠNG 2
Chương hai của đề tài đã giới thiệu sơ lược một số đặc điểm của tỉnh Đồng Tháp. Đặc biệt trong chương hai của đề tài đã phân tích thực trạng hoạt động doanh nghiệp vừa và nhỏ tại tỉnh Đồng Tháp theo các lĩnh vực : số lượng, cơ cấu ngành nghề, về vốn, máy móc thiết bị và công nghệ, lao động, thị trường tiêu thụ, kết quả hoạt động kinh doanh …Từ đó đề tài đưa ra những lợi thế cũng như những khó khăn yếu kém bất cập đang tồn tại trong doanh nghiệp vừa và nhỏ tại tỉnh Đồng Tháp. Nó là cơ sở xây dựng các giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển loại hình doanh nghiệp này trong chương 3.
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN DNVVN TẠI TỈNH ĐỒNG THÁP
3.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế ảnh hưởng đến việc phát triển DNVVN
3.1.1. Bối cảnh quốc tế
Nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu đang diễn ra hết sức mạnh mẽ. Nước ta đã ký kết nhiều hiệp định hợp tác đa phương và song phương với các tổ chức quốc tế và các quốc gia trên thế giới. Đặc biệt, nước ta vừa gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào đầu năm 2007, sẽ dẫn đến việc xuất hiện nhanh chóng các cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu cũng như thách thức trong cạnh tranh quốc tế đối với sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp Việt nam, đặc biệt là các DNVVN.
Các cam kết hội nhập khu vực sẽ trực tiếp tác động mạnh đến DNVVN ở nước ta như: AFTA, ASEAN, Trung Quốc, sẽ dẫn đến tự do hóa thương mại trong khu vực phát triển mạnh, khu vực này có những đối thủ cạnh tranh trực tiếp của Việt Nam, của các DNVVN trên cả thị trường trong nước, thị trường khu vực và thị trường quốc tế.
Chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch đang tăng lên ở các nước, với những hàng rào kỹ thuật hiện đại mà các doanh nghiệp phải đối phó như các tiêu chuẩn sản phẩm, vệ sinh, môi trường, lao động …sẽ gây thêm khó khăn cho các DNVVN trong xuất khẩu sản phẩm và cạnh tranh quốc tế.
Cạnh tranh sẽ quyết liệt hơn cả ở thị trường trong nước và thị trường quốc tế, đòi hỏi các doanh nghiệp không ngừng nâng cao khả năng thích ứng, tạo sự liên kết hiệu quả và vững chắc, trước hết giữa các doanh nghiệp Việt Nam, trong các mạng lưới kinh doanh.
Tình hình chính trị tại nhiều khu vực diễn biến theo chiều hướng phức tạp.
3.1.2. Bối cảnh trong nước
Nước ta được Thế Giới đánh giá có sự ổn định cao về chính trị, kinh tế xã hội, nền kinh tế th._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2173.doc