Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh Xuất khẩu quế ở Công ty XNK Tổng hợp 1 (GENERALEXIM)

Lời cảm ơn Để hoàn thành được đề tài nay ngoài sự cố gắng của bản thân, tôi còn nhân được nhiều sự động viên, đóng góp, giúp đỡ quý báu. Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Bùi Anh Tuấn đã tận tình hướng dẫn trong suốt thời gian nghiên cứu đề tài. Tôi xin chân thành cảm ơn ban giám đốc, phòng nghiệp vụ 7, phòng tài vụ- Công Ty XNK tổng hợp I Hà Nội đã giúp đỡ trong việc thu thập số liệu và nhận thức tình hình thực tế, phục vụ cho đề tài nghiên cứu. Do lần đầu tiên tiếp xúc với thực tiễn hoạt đ

doc88 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1276 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh Xuất khẩu quế ở Công ty XNK Tổng hợp 1 (GENERALEXIM), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ộng kinh doanh xuất khẩu của một Công Ty và do trình độ có hạn nên đề tài này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được sự góp ý của phòng nghiệp vụ 7- xí nghiệp xuất khẩu quế của công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I, các thầy cô và bạn bè trong khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế. Lời nói đầu Ngày nay, dưới tác động mạnh mẽ xu hướng toàn cầu hoá đời sống kinh tế, các quốc gia tham gia ngày một tích cực vào quan hệ kinh tế quốc tế. Hoạt động kinh doanh quốc tế với các hình thức đa dạng và phong phú đang trở thành một trong những nội dung quan trọng trong quan hệ kinh tế quốc tế. Trong đó hình thức xuất nhập khẩu được coi là “chiếc chìa khoá” mở ra những giao dịch kinh tế quốc tế cho một quốc gia, tạo ra nguồn thu ngoại tệ chủ yếu của một nước khi tham gia vào các hoạt động kinh tế quốc tế. Đối với Việt Nam, hoạt động xuất khẩu sẽ có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp CNH- HĐH. Góp phần quan trọng đưa nền kinh tế cất cánh vào đầu của một thiên niên kỷ mới. Vì vậy, đảng và Nhà Nước đã đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác xuất nhập khẩu và coi đó là một trong ba chương trình kinh tế lớn phải thực hiện. Trước yêu cầu đó, thời gian qua cùng với các doanh nghiệp khác Công Ty XNK tổng hợp đã có những đóng góp tích cực vào hoạt động xuất khẩu chung của đất nước. Quế là một mặt hàng nông sản, là mặt hàng khá mới trong doanh mục kinh doanh xuất nhập khẩu của Công Ty được Công Ty rất chú trọng và được coi là mặt hàng có chiến lược quan trọng. Xuất khẩu quế đã chiếm một tỷ trọng không nhỏ trong tổng giá trị của Công Ty nói riêng và của Việt Nam nói chung. Tuy mới tham gia vào đầu tư xuất khẩu quế, nhưng Công Ty đã thu được những thành tựu đáng khích lệ đó là: Mở rộng thị trường, tạo được sự tin cậy đối với các bạn hàng trên thế giới, góp phần cải thiện đời sống của cán bộ công nhân viên và mặt hàng này chiếm một tỷ lệ không nhỏ tới toàn bộ kim ngạch xuất khẩu quế của Việt Nam. Mặc dù vậy, bên cạnh những thành tựu đã đạt được Công Ty còn gặp rất nhiều khó khăn cần giải quyết. Đó là, chất lượng hàng xuất khẩu chưa cao, giá trị hàng xuất khẩu thường thấp hơn giá cả trên thị trường quốc tế, Công Ty chủ yếu là xuất khẩu qua sơ chế và xuất khẩu thường phải qua trung gian đã gây lên một thiệt hại không nhỏ cho Công Ty. Công tác tìm nguồn hàng từ khâu thu mua đến khâu xuất khẩu chưa được đồng bộ, thống nhất. Bởi thế, để Công Ty phát huy hết tiềm năng, xứng đáng là một doanh nghiệp Nhà Nước lớn thuộc bộ thương mại thì việc nhình nhận lại thực trạng kinh doanh xuất khẩu quế với những đánh giá chân thực về những thành tựu và hạn chế, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu quế là một yêu cầu cần thiết. Với lý do đó, đề tài “Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu quế ở Công Ty XNK tổng hợp I- Hà Nội” được tác giả lựa chọn làm nội dung nghiên cứu của chuyên đề thực tập tốt nghiệp. ý nghĩa nghiên cứu: Nhận thức rõ vai trò hoạt động kinh doanh xuất khẩu quế đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công Ty nói riêng và của Việt Nam nói chung. Trong quá trình nghiên cứu, kiến thức được bổ sung góp phần nâng cao khả năng trong công tác thực tiễn. Phương pháp nghiên cứu: Khi nghiên cứu tác giả đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp thống kê kinh tế. Phương pháp tiếp cận thị trường. Phương pháp mô hình. phạm vi nghiên cứu: Chuyên đề chỉ nghiên cứu tình hình phát triển chung của Công Ty và tình hình kinh doanh xuất khẩu quế của Công Ty mà không xem xét đến các khía cạnh khác. cấu trúc của chuyên đề: Ngoài phần mởi đầu và phần kết luận, chuyên đề thực tập tốt nghiệp được trình bày thành 3 chương. Chương I : Vai trò và nội dung của hoạt động kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp. Chương II : tình hình kinh doanh xuất khẩu quế của Công Ty XNK tổng hợp I. Chương III : một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu quế của Công Ty XNK tổng hợp I-Hà Nội. Chương I Vai trò và nội dung của hoạt động kinh doanh xuất khẩu I kinh doanh xuất khẩu và vai trò của kinh doanh xuất khẩu. 1. Khái niệm kinh doanh xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho một quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện so sánh. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hay đối với cả hai quốc gia. Mục đích của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu là khai thác được lợi thế của từng quốc gia và phân công lao động quốc tế. Khi việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia có lợi, các quốc gia đều tích cực tham gia mở rộng hoạt động này và thực tế cũng cho thấy nếu một quốc gia chỉ đóng cửa nền kinh tế của mình, áp dụng phương thức tự cung tự cấp thì không bao giờ có cơ hội vươn lên để khẳng định vị trí của mình và nâng cao đời sống nhân dân. Hoạt động kinh doanh xuất khẩu là hình thức cơ bản của ngoại thương đã xuất hiện từ rất lâu đời và ngày càng phát triển, tuy hình thức cơ bản đầu tiên là trao đổi hàng hoá giữa các nước nhưng hiện nay xuất khẩu đã được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, mọi điều kiện kinh tế xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng cho đến xuất khẩu tư liệu sản xuất, từ máy móc thiết bị đơn giản cho đến những máy móc công nghệ cao. Tất cả các hoạt động trao đổi đó đều nhằm mục tiêu đem lại lợi ích cho các quốc gia. Hoạt động kinh doanh xuất khẩu diễn ra trên phạm vi rất rộng cả về điều kiện không gian và thời gian nó có thể chỉ diễn ra trong một thời gian rất ngắn nhưng cũng có thể kéo dài nhiều năm, có thể tiến hành trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia hay của nhiều quốc gia khác nhau. 2. Vai trò của kinh doanh xuất khẩu. Phương thưc cơ bản nhất để mở rộng hoạt động của doanh nghiệp ra thị trường nước ngoài là thông qua xuất khẩu. Kinh doanh xuất khẩu cũng là một hoạt động kinh doanh quốc tế đầu tiên của doanh nghiệp. Hoạt động này tiếp tục cả khi doanh nghiệp đã đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh của mình. có được vị trí như vậy là do xuất khẩu có vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trước hết xuất khẩu giải quyết vấn đề ngoại tệ cho doanh nghiệp, tạo nguồn vốn để nhập khẩu. ở những nước kém phát triển, phần lớn các doanh nghiệp nằm trong tình trạng thiếu vốn, công nghệ, thừa lao động phổ thông, thiếu lao động đã qua đào tạo. Để giải quyết tình trạng này thì buộc họ phải nhập từ bên ngoài vào những yếu tố mà trong nước chưa có khả năng đáp ứng nhưng làm được điều đó thì cần phải có một khối lượng ngoại tệ rất lớn. Khả năng sản xuất kém Thiếu vốn Công nghệ lạc hậu Có thể nói đây là “vòng luẩn quẩn” mà các doanh nghiệp tại các nước này gặp phải. Nếu thiếu vốn, doanh nghiệp không thể nhập khẩu máy móc thiết bị công nghệ hiện đại, tăng khả năng sản xuất, tạo thế cạnh tranh trên thị trường và cái “vòng luẩn quẩn” đó sẽ ngày càng khép chặt hơn, thiếu sẽ càng thiếu hơn, yếu sẽ càng yếu hơn. Vốn? đây là câu hỏi hóc búa nhất không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn rất nan giải đối vớ chính phủ và các nhà hoạch định chính sách. Vì vậy, một trong những vật cản chính trong quá trình phảt triển của doanh nghiệp là thiếu tiềm lực về vốn. Thực tế cho thấy để có vốn một doanh nghiệp có thể huy động nội lực và ngoại lực. Nguồn vốn huy động từ bên ngoài là vô cùng quan trọng, song để huy động được nguồn vốn này doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn. Mọi cơ hội doanh nghiệp được đầu tư hay vay nợ chỉ tăng lên khi các chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng chả nợ của Công Ty, trong đó họ rất chú ý đến hoạt động xuất khẩu. Và cuối cùng, thì bằng cách này cách khác doanh nghiệp cũng phải hoàn lại vốn cho đối tác. Như vậy, nguồn vốn quan trọng nhất chỉ có thể trông chờ vào xuất khẩu. Với đặc điểm của đồng tiền thanh toán phần lớn là ngoại tệ đối với một bên hoặc hai bên, xuất khẩu làm tăng ngoại tệ cho doanh nghiệp, tạo vên để đổi mới máy móc thiết bị nhập công nghệ mới hiện đại từ các nước phát triển nhằm hiện đại hóa và tạo năng lực sản xuất mới. Vì vậy, xuất khẩu thúc đẩy khoa học kỹ thuật phát triển làm tăng C, giá trị máy móc thiết bị và làm giảm V, giá trị lao động cấu thành trong giá trị của hàng hoá chuyển dịch cơ cấu tư bản. Từ đó xuất khẩu tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho sản xuất kinh doanh và giúp doanh nghiệp tăng khả năng khai thác lợi thế so sánh của quốc gia. Có thể nói, xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng trưởng nhập khẩu của doanh nghiệp. Tóm lại, xuất khẩu là phương tiện quan trọng thu hút lượng ngoại tệ, tạo vốn giúp doanh nghiệp thực hiện tái đầu tư mở rộng sản xuất không những về chiều rộng mà còn về chiều sâu. Thứ hai, xuất khẩu là bước quan trọng để doanh nghiệp xâm nhập và hội nhập vào thị trường thế giới, một thị trường rộng lớn và đa nhu cầu luôn là một thị trường nhiều triển vọng của doanh nghiệp tham gia xuất khẩu. Mục tiêu cuối cùng và bao trùm của mỗi danh nghiệp là lợi nhuận song lợi nhuận sẽ chỉ đạt được thông qua thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng. Vì vậy hiểu đầy đủ nhu cầu của khách hàng là cơ sở để doanh nghiệp tìm cách thoả mãn tối đâ nhu cầu đó. Điều này lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, vĩ mô và vi mô. Song một thực tế không thể phủ nhận là việc vươn ra thị trường quốc tế làm tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Thông qua xuất khẩu, doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô khách hàng, cung cấp sản phẩm cho một thị trường rộng lớn đa dân tộc, đa nhu cầu. Đặc biệt, tại thị trường quốc tế sức mua của khách hàng rất phong phú, đa dạng. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, đề có sức mua khác nhau tuỳ theo điều kiện như : Thu nhập, sức mua của đồng tiên, tập tính, thói quen tiêu dùng. Và đây chính là căn cứ giúp doanh nghiệp lựa chọn được những đoạn thị trường phù hợp nhằm tối ưu hoá kết quả kinh doanh. Tham gia hoạt động xuất khẩu, doanh nghiệp có thể giảm được chi phí cho một đơn vị sản phẩm do nâng cao khối lượng sản xuất nhờ quy mô. Sản lượng Chi phí Tuy nhiên, lý thuyết này cũng chỉ ra rằng doanh nghiệp chỉ có lợi thế nhờ quy mô khi tăng sản lượng tới một giới hạn cho phép. Và những sản phẩm này phải được thi trường chấp nhận, tiêu thụ. Thông qua xuất khẩu, doanh nghiệp có thể xác định được nhu cầu của khách hàng, cũng như mức độ chấp nhận sản phẩm của doanh nghiệp, từ đo áp dụng hiệu quả lý thuyết nhờ quy mô. Đặc biệt, thông qua hợp đồng xuất khẩu, khả năng vượt trội của doanh nghiệp có thể khai thác được. Bởi có những sản phẩm của doanh nghiệp không chỉ cung cấp cho thị trường trong nước mà còn có khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường nước ngoài, hoặc thị trường trong nước không thể tiêu thụ được những sản phẩm của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ tận dụng khả năng vượt trội về chất lượng, uy tín sản phẩm của doanh nghiệp. Vươn ra chiếm lĩnh thị trường thông qua hoạt động xuất khẩu. Như vây, doanh nghiệp sẽ khắc phục quy mô nhỏ bé của thị trường nội địa hay tình trạng trì trệ, giảm sút của nó trong những giai đoạn kinh doanh nhất định. Đồng thời khả năng phân tán rủi ro cũng là một ưu điểm rất lớn mà xuất khẩu khuyến khích doanh nghiệp tham gia lĩnh vực này. Nói tóm lại, hoạ động xuất khẩu giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu cuối cùng và bao trùm của mình là tăng lợi nhuận bằng việc giảm chi phí trên một đơn vị sản phẩm, tăng doanh số bán, hạn chế rủi ro. Thứ ba, thông qua xuất khẩu các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào cuộc cạnh tranh khốc liệt trên thị trường thế giới (về giá cả, uy tín, chất lượng). Để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp phải nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, hình thành một cơ cấu sản xuấtphù hợp với thị trường, tạo ra những sản phẩm được tiêu chuẩn hoá cao nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường quốc tế. Thực hiện Marketing quốc tế với những nỗ lực về chính sách giá cả, phân phối, xúc tiến nhằng tăng khả năng thu nhập vào các thị trường lớn. Đồng thời nâng cao hiệu quả sản xuất với giá thị trường của nước mình nhằn tăng khả năng phát triển sản phẩm của mình trên thị trường thế giới. Từ đó tái đầu tư phát triên sản xuất đặc biệt, xuất khẩu cũng buộc các doanh nghiệp luôn phải đổi mới và hoàn thiện công tác quản trị kinh doanh, đây là một yếu tố rất quan trọng quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Và cuối cùng, một vai trò đặc biệt quan trọng nữa của hoạt động xuất khẩu đó là thông qua xuất khẩu doanh nghiệp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ của mình. Con người luôn là chủ thể trong các quan hệ xã hội, vì vậy doanh nghiệp muốn hoạt động có hiệu quả, nhất thiết phải có nguồn nhân lực đấp ứng yêu cầu đặt ra trong kinh doanh. Hoạt động xuất khẩu giúp thu hút nhiều lao động và việc làm, từ đó có thể tuyển lựa được một đội ngũ lao động có khả năng đáp ứng được nhu cầu công việc có chất lượng và hiệu quả. Đặc biệt doanh nghiệp tham gia xuất khẩu còn nâng cao đời sống của mọi cá nhân trong doanh nghiệp-đây chính là động lực để người lao đông làm việc có chất lượng-nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. Hơn thế nưa, do các điều kiện tiếp xúc với thị trường mới, phương thức quản lý mới, khoa học công nghệ hiện đại. Nếu trình độ của người lao động của toàn doanh nghiệp nói chung và trình độ nghiệp vụ của cán bộ quản lý nói riêng được nâng cao, từng bước đáp ứng nhu cầu của thị trường quốc tế. Tuy nhiên, song song với cơ hội cũng là những thách thức mà doan nghiệp phải đối mặt. Những thách thức này không thể làm nản lòng và hạn chế sự phát triển của doanh nghiệp ra thị trưoừng nước ngoài, ngược lại điều đó buộc các doanh nghiệp phải nhận thức sự cần thiết, hiệu quả để thâm nhập thị trường nước ngoài. Tóm lại, hoạt động xuất khẩu có vai trò vô cùng quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp chuyên doanh XNK. II. Nội dung của hoạt động KINH DOANH xuất khẩu. Nội dung cơ bản của hoạt động xuất khẩu thực tế cũng tương tự như một hoạt động mua bán trong nước nhưng có nhiều yếu tố cơ bản và phức tạp hơn do có yếu tố nước ngoài, bởi vậy doanh nghiệp xuất nhập khẩu muốn hoạt động có hiệu quả thì cần: 1.Nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường trong kinh doanh thương mại quốc tế là một loạt các thủ tục và kỹ thuật được đề ra để giúp các nhà kinh doanh có đầy đủ thông tin cần thiết về thị trường của mình từ đó có thể ra những quyết định kinh doanh chín xác và hiệu quả. Do vậy , nghiên cứu thị trường đang ngày một đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp chuyên doanh xuất nhập khẩu. Đứng trên góc độ của doanh nghiệp thì thì trường của doanh nghiệp là tập hợp những khách hàng tiềm năng của doanh nghiệp đó, tức là những khách hàng đang mua hoặc có thể sẽ mua sản phẩm của doanh nghiệp đó. Khi vận dụng khái niện trên cho thị trường thế giới thì những điểm nêu trên càng rõ nét hơn, sự khác biệt và đa dạng càng trở lên sâu sắc hơn. Do vậy thị trường quốc tế của doanh nghiệp là tập hợp những khách hàng quốc tế tiềm năng của doanh nghiệp dó. Theo khái niệm trên thì số lượng và cơ cấu nhu cầu của khách hàng nước ngoài đối với sản phẩm cuả doanh nghiệp cũng như sự biến động của các yếu tố đó theo không gian và thời gian là đặc trưng cơ bản của thị trường quốc tế của doanh nghiệp. Số lượng và cơ cấu nhu cầu chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, vĩ mô và vi mô đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải nghiên cứu tỉ mỉ. Thật vậy, thị trường chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố khác nhau, thường là đa dạng và phong phú hơn nhiêu so với thị trường nội địa các nhân tố này có trường hợp được thể hiện rõ ràng song cũng có trường hợp rất tiềm ẩn, khó năm bắt, việc định dạng các nhân tố này cho phép doanh nghiệp xác định rõ những nội dung cần đến ngành nghiên cứu trên thị trường quốc tế. Nó cũng là căn cứ để lựa chọn thị trường, cách thức thâm nhập thị trường và các chín sách marketing khác, một cách khái quát nhất việc nghiên cứu thị trường quốc tế được tiến hành theo các nhân tố ảnh hưởng sau: 1.1 Nghiên cứu các nhân tố mang tính toàn cầu: Đó là những yếu tố thuộc về hệ thống thương mại quốc tế. Mặc dù xu hướng chung trên thế giới là tự do mậu dịch và các nỗ lực chung để giảm bớt các hàng rào ngăn cản đối với kinh doanh quốc tế, nhưng các nhà kinh doanh luôn phải đối diện với các hạn chế thương mại khác như thuế quan, hạn ngạch, cấm vận hay hàng rào phi thuế quan như giấy phép nhập khẩu những sự quản lý điều tiết định hình như phân biệt đối xử tiêu chuẩn sản phẩm đối với doanh nghiệp nước ngoài. Mặt khác các liên kết kinh tế vừa tạo lên những cơ hội song cũng tạo lên những thách thức đối với những doanh nghiệp tham gia xuất khẩu định thâm nhập vào thị trường đó. Như vậy nghiên cứu các nhân tố mang tính toàn cầu bước đầu sẽ cho doanh nghiệp một cái nhìn tổng quát trước khi đưa ra quyết định kinh doanh của mình. 1.2 Nghiên cứu các nhân tố thuộc môi trường kinh tế. Khi xem xét các thị trường nước ngoài các nhà kinh doanh phải nghiên cứu nền kinh tê của từng nưóc với ba đặc tính phản ánh sự hấp dẫn của một nước xét như một thị trường: - Trước hết là cấu trúc Công Nghiệp của nước đó. Cấu trúc Công Nghiệp của một nước định hình các yêu cầu về sản phẩm và dịch vụ, mức lợi tức và mức độ sử dụng nhân lực, có thể phân biệt các nước thành bốn loại cấu trúc như sau: + Nền kinh tế tự cấp tự túc: ở đó tuyệt đại dân cư làm Nông Nghiệp đơn giản. Họ tiêu thụ hầu hết sản phẩm làm ra và trao đổi số còn lại để lấy những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ khác. Đây là thị trường ít hấp dẫn đối với các nhà xuất khẩu. + Nền kinh tế xuất khẩu nguyên liệu thô: Các nước này có một hay nhiều loại tài nguyên phong phú nhưng lại nghèo ở phương diện khác, phần lớn thu nhập là nhờ xuất khẩu tài nguyên. Đây là những thị trường rất hấp dẫn đối với trang thiết bị khai thác dụng cụ va nhiên liệu, thiết bị xử lý và phương tiện vận chuyển. + Nền kinh tế đang Công Nghiệp hoá: Tại các nước này Công Nghiệp chế biến chiếm từ 10-20% tổng sản phẩm quốc dân. Khi phát triển Công Nghiệp chế biến các nước này cần nhập khẩu nhuyên liệu dệt, thép, cơ khí nặng, Công Nghiệp hoá tạo ra một tầng lớp giầu có mới và một tầng lớp trung lưu đang phát triển có nhu cầu về các loại hàng hoá mới, chủ yếu là hàng nhập khẩu. + Nền kinh tế Công Nghiệp hoá: Đây là những nước xuất khẩu nhiều hàng xuất khẩu chế biến và vốn đầu tư. Họ mua bán sản phẩm chế biến và xuất khẩu sang các nước kém phát triển để đổi lây nguyên liệu thô và sản phẩm sơ chế. Các hoạt động Công Nghiệp rộng lớn và đa dạng cùng một từng lớp trung lưu đông đảo tạo lên những thị trường hấp dẫn đối với mọi loại sản phẩm. - Đặc tính thứ hai về kinh tế là phân phố thu nhập: Sự phân phố thu nhập của một nước bị chi phối bởi cấu trúc Công Nghiệp song còn chịu tác độngcủa nhân tố chính trị. Thu nhập bình quân đầu người của một nước sẽ phản ánh khả năng thanh toán của quốc gia đó cho những sản phẩm tiêu dùng mà họ nhập khẩu. - Đặc tính thứ ba là động thái của các nền kinh tế. Các nước trên thế giới đã trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau được đặc trương bằng các tốc độ tăng trưởng khác nhau. Tốc độ tăng trưởng kinh tế có ảnh hưởng đáng kể tới tổng mức nhu cầu của thị trường và tổng mức nhập khẩu của sản phẩm. 1.3 Nghiên cứu các nhân tố từ môi trường chính trị luật pháp: Các quốc gia rất khác nhau về môi trường chính trị, luật pháp. Do đó khi xem xét khả năng mở rộng hoạt động sang một thị trường nước ngoài cần chú ý tới một số nhân tố cơ bản sau: - Thái đội đối với các nhà kinh doanh nước ngoài: Một số nước rất, khuyến khích thực sự đối với các nhà đầu tư nước ngoài, còn một số nước khác lại có thái độ thù địch. Do vây, doanh nghiệp có thể gặp nhiều thuận lợi với luật khuyến khích đầu tư, tinh giảm về các luật về cấp giấy phép và các quy định liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu. Song cũng có thể gặp nhiều trở ngại với những yêu câu về hạn ngạch, hạn chế sử dụng ngoại tệ, quy định về sự có mặt cao của người địa phương trong hội đồng quản trị... - Sự ổ định chính trị: Một đất nước với một chế độ chính trị ổn định là điều kiện căn bản tạo sự tin tưởng cho các nhà kinh doanh nước ngoài có thái độ kinh doanh nghiêm túc. - Sự điều tiết về tiền tệ: Nhiều quy định về sử dụng ngoại hối cũng có thể gây khó khăn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Trường hợp lý tưởng nhất là đựoc tự do chuyển ngoại tệ. Trường hợp ít thuận lợi hơn là các nhà đầu tư là chỉ ra các hàng hoá mà họ cần hay họ xuất khẩu ra nước khác để thu ngoại tệ mà họ cần. Trường hợp xấu nhất là nhà kinh doanh buộc phải chấp nhận những sản phẩm khó bán bmà chỉ có thể bán lỗ tại các thị trường khác. Bên cạnh những hạn chế về tiền tệ, tỷ giá hối đoái biến động mạnh ciũng tạo ra hững rủi ro cho nhà kinh doanh xuất khẩu. - Tính hiệu lực của bộ máy chính quyền: Đó la mức độ chính quyền nước chủ nhà điều hành một hệ thống hữu hiệu để hỗ trợ cho các doanh nghiệp nước ngoài. - Các quyết định mang tính chất bắt buộc về pháp luật và quản lý cũng được cần được xem xét kỹ lưỡng như việc cấm vận hoặc cấm bán đối với một số hang hoá và doanh nghiệp, cấm một số pphương thức và hoạt động thương mại,các kiểu kiểm soát về giá cả, các tiêu chuẩn bắt buộc đối với sản phẩm... 1.4 Nghiên cứu các nhân tố thuộc môi trường văn hoá: Mỗi nước đều có những quy tắc, tập tục, điều kiện riêng. Chúng được hình thành theo điều kiện truyền thống. Văn hoá của mỗi nước có ảnh hưởng to lơn đên tậph tục tiêu dùng của khách hàng nước đó. Tuy sự giao lưu văn hoá giưa các nước đã xuất hiện khá nhiều tập tục tiêu dùng cho mọi chế độ. Song những yếu tố văn hoá truyền thống vẫn còn rất bền vững và có ảnh hưởng rất mạnh đến thói quen và tâm lý tiêu dùng. Đặc biệt chúng được thể hiện rất rõ trong sự khác biệt truyền thống giữa phương Đông và phương Tây, giữa các tôn giáo và các chủng tộc. Cần chú ý rằng sự khác biệt về văn hoá có thể diễn ra ngay trong thị trường của một nước. Trên thế giới vãn có những thị trường có bản sắc văn hoá thuần nhất (như Trung Quốc, Nhật...). Song cũng có những thị trường hết sức phức tạp về văn hoá ( như Hoa Kỳ). Vì thế, khi xem xét sự khác biệt về văn hoá không nhất thiết phải đóng khung trong ranh giới quốc gia. Sự khác biệt vê văn hoá sẽ ảnh hưởng đến cách thức kinh doan được tiến hành, loại sản phẩm mà khách sẽ mua, những hình thức khuyếch trương có thể chấp nhận được. 1.5 Nghiên cứu các nhân tố thuục môi trường cạnh tranh: Sức hấp dẫn của môi trường nước ngoài còn chịu nhiều ảnh hưởng quan trọng của mức độ cạnh tranh trên thị trường đó. Sử dụng mô hình chuỗi giá trịcho phép phân tích đánh giá đươc những điểm mạnh, điểm yếu của cạnh tranh. Việc phân tích những điểm mạnh, điểm yếu của cạnh tranh là một trong những nội dung quan trọng khi xem xét thị trường nước ngoài song lại có thể phức tạp hơn nhiều so với những vấn đề khác vì thế nó phải tiến hành trong sự nhận thức của khách hàng, trong tất cả sự méo mó trong ý thức. Khó hăn nữa trong việc xác định tình hình cạnh tranh trong một số nước là do thiếu thông tin đáng tin cậy. Mô hình 5 sức mạnh của Micheal-Porter là một mô hình được nhiều nhà phân tích sử dụng đánh giá khả năng cạnh tran của một doanh nghiệp. Sơ đồ 1: Mô hình 5 sức mạnh của Michael Porter của người cung cấp Khả năng mặc cả Đối thủ mới-tiềm năng Cạnh tranh giữa các công ty hiện tại Người mua Nhà cung cấp Các mặt hàng và dịch vụ thay thế Sự đe doạ của đối thủ cạnh tranh mới Sự đe doạ của các mặt hàng, dịch vụ thay thế Khả năng mặc cả Của người mua Trước hết nhà kinh doanh phải đối mặt với các đối thủ cạnh tranh nội địa, ở đây có thể xảy ra hai trường hợp xét theo vị thê cạnh tranh. Đối thủ cạnh tranh nội địa có thể được hưởng một ưu thế rất thuận tiện do những hỗ trợ của chính phủ và tinh thần dân tộc của khách hàng, ở một số nước nhất là các nước đang phát triển thì ngược lại đối thủ cạnh tranh nội địa có thể phải ở thế bất lợi do sự tín nhiệm của khách đối với uy tín của doanh nghiệp hoặc trở thành nạn nhân của thói chuộng hàng ngoài. Khi phân tích vị tri cậnh tranh, các doanh nghiệp xuất khẩu phải xác định được tâm lý thị trường nội địa ở đó và mức độ lan truyền của nó. Những điểm này có tầm quan trọng rất lớn trong việc xá định các chính sách Marketing của doang nghiệp. Song song với các đối thủ cạch tranh nội địa, thì doanh nghiệp phải đối mặt với các doanh nghiệp ước ngoài khác hoạt động trong cùng lĩnh vực và mục tiêu thị trường vì vậy doanh nghiệp phải có biện pháp ứng phó khi trực tiêp, gián tiếp với các nguồn lực có thể rất đáng kể được chính phủ chi cho cạnh tranh. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng phải đối mặt với các đối thủ mới- tiềm năng, cá mặt hàng và dịch vụ thay thế, sức ép từ phía người mua thậm chí từ phái nhà cung câp. Như vây, một đòi hòi lớn đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp là phải nghiên cứu, nắm bắt và chế ngự phần những phần nào của môi trường cạnh tranh. 1.6 Nghiên cứu nhu cầu thị trường: Một chỉ tiêu quan trọng nhất đặc trưng cho nhu cầu thị trường là lượng sản phẩm có thể tiêu thụ, doanh số và lợi nhuận mà doanh nghiệp có thể hi vọng thu được trên thị trường đó. Dữ liệu cần thiết Dữ liệu kinh tế vĩ mô (dân số, sức mua, hoạt động Công Nghiệp...) Tổng nhu cầu thị trường Nghiên cứu Thông tin về cạnh tranh nội địa và nước ngoài ước lượng vị trí cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm của nó Dự báo tổng lượng bán có thể đạt được Phản ứng của nhu cầu nội địa với giá cả Giá cạnh tranh ước lượng doanh số tiềm năng Giá bán dự kiến sơ đồ 2: ước lượng doanh số dự kiến và lợi nhuận có thể đạt được Một khía cạnh của nghiên cứu thị trường cần được nghiên cứu là sự biến động theo thời gian của nó biểu hiện qua sự tăng (giảm) của tổng mức nhu cầu hoặc doanh số hay tốc độ tăng (giảm) của các chỉ tiêu đó. Nó sẽ phản ánh triển vọng phát triển của nhu cầu thị trường trong tương lai để doanh nghiệp có thể xác định sự thích ứng trong lượng cung cấp và các chính sách thương mại. 1.7 Nghiên cứu cơ cấu của thị trường: Mỗi thị trường nước ngoài không bao giờ là một thị trường thuần nhất. Nó bao gồm những nhóm khác hàng rất khác nhau về mọi mặt đặc trưng kinh tế, dân số, xã hội, văn hoá. Vì thế doanh nghiệp cần phân tích tỷ mỷ cơ cấu tập hợp khách hàng tiềm năng theo độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, trình độ văn hoá, tôn giáo, theo chủng loại sản phẩm tiêu dùng và mức độ tiêu dùng sản phẩm theo các đối thủ cạnh tranh chủ yếu và các sản phẩm cạnh tranh chủ yếu. Việc xác định các loại cơ cấu thị trường trên cho phép doanh nghiệp định vị từng loại thị trường mục tiêu với những tập tính tiêu dùng cụ thể nhằm xác định những đoạn thị trường có triển vọng nhất và khả năng chiếm lĩnh các đoạn thị trường đó. 1.8 Nghiên cứu hành vi hiện thực và tập tính tinh thần của khách hàng. Hành vi hiện thực của khách hàng được biểu hiện qua sự biến động của nhu cầu theo các nhân tố ảnh hưởng, những thói quen mua hàng và theo thông tin về sản phẩm. Hành vi hiện thực còn được biểu hiện qua mức độ co giãn của nhu cầu theo giá cả. Theo tập tính tinh thần của khách hàng là những điều khách hàng suy nghĩ, cách lựa chọn sản phẩm và quyết định mua hàng, ý kiến và thái độ của khách hàng đối với sản phẩm được biểu hiện qua mứcđộ tự chủ của khách hàng trong các quyết định mua hàng và mức độ ảnh hưởng của gia đình, các nhóm tham khảo đối với các yếu tố chất lượng của sản phẩm và mức giá được chấp nhận. 1.9 Nghiên cứu cách thức tổ chức thị trường nước ngoài: Các nhà phân phố và người chỉ dẫn là những yếu tố tạo lên sự khách biệt giữa các thị trường nước ngoài. Số lượng các trung gian phân phố trong chu trình sản phẩm và tầm quan trọng của mỗi trung gian trong chu trình thể hiện rất khác nhau giữa nước này với nước kia. Vì vậy cần tìm hiểu kỹ nó khi ra quyết định về cách thức thâm nhập thị trường. Như vậy, chín vấn đề cần quan tâm trong công tác nghiên cứu thị trường suy đến cùng là giúp cho doanh nghiệp trả lời được những câu hỏi sau: + Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu (bán gì)? Đây là một trong những nội dung cơ bản và cần thiết đầu tiên mà doanh nghiệp tham gia thương mại quốc tế cần xác định. mục đích của việc lựa chọn mặt hàng xuất khẩu là để lựa chọn những mặt hàng kinh doanh thích hợp mang lại hiệu quả cao nhất, và việc lựa chọn mặt hàng ngoài yêu cầu phải đạt tiêu chuẩn quốc tế đáp ứng được nhu cầu thị trường còn phải phù hợp với khả năng cũng như kinh nghiệm của doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi phải có sự phân tích đánh giá cẩn thận những đặc điểm nội tại với điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp cũng như thấy được và dự đoán được những cơ hội hay bất lợi của doanh nghiệp khi đưa sản phẩm ra thị trường quốc tế. Đồng thời xu thế các loại mặt hàng đó trên thị trường cũng phải được xem xét và dự đoán một các tương đối chín xác cụ thể doanh nghiệp phải trả lời những câu hỏi như: Mặt hàng mà thị trường đang cần là gì? tình hình tiêu thụ mặt hàng đó như thế nào? mặt hàng đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống? tình hình sản xuất mặt hàng xuất khẩu đó như thế nào? tỷ suất ngoại tệ của mặt hàng đó như thế nào? Từ đó doanh nghiệp sẽ đưa ra những quyết định về hàng xuất khẩu sao cho có hiệu quả nhất. + Lựa chọn mặt hàng xất khẩu (bán đi đâu). Trả lời được câu hỏi này nghĩa là doanh nghệp đã tìm được cho mình con đường để đi tới mục tiêu là hiệu quả và lợi nhuận. Vì vậy, việc lựa chọn thị trường nước ngoài cho hoạt động của doanh nghiệp là khẩu khởi đầu đẩy khó khăn quyết định sự thành công trong tương lai của doanh nghiệp. Nó đòi hỏi những phân tích và cân nhắc kỹ càng trước khi ra quyết định. Có nhiều nhân tố khác nhau ảnh hưởng đến quyết định về lựa chọn chiến lược thị trường của doanh nghiệp. Nói chung, khó có thể lựa chọn dứt khoát một hoặc hai chiến lược tập chung và phân tán vì sự ảnh hưởng của nhân tố theo những lượng khác nhau dẫn tới tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp có được những phân tích cơ sở đánh giá những cơ hội mởi rộng thị trường thì chúng sẽ tạo ra được một bức tranh toàn cảnh giúp doanh nghiệp thấy rõ hiện trạng kinh doanh của doanh nghiệp thích hợp hơn với chiến lược tập chung hay phân tán. ở đây, cần thừa nhận rằng có những nhân tố quyết định khách quan song việc lựa chọn chiến lược thị trường của doanh nghiệp vẫn phụ thuộc vào phần lớn đánh giá chủ quan về cơ hội và những đe doạ liên quan đến hai chiến lược nói trên. Hiển nhiên, những đánh giá chủ quan này cũng được hình thành từ thực tiễn quản lý doanh nghiệp, kinh nghiệm ._.đã được đúc kết về môi trường kinh doanh, khách hàng và đối thủ cạnh tranh. Tuy vậy, những căn cứ khách quan của những phân tích cơ sở giúp cho những đáng giá của doanh nghiệp có cơ sở vững chắc hơn, hạn chế những sai lầm khi ra quyết định. + Lựa chọn bạn hàng kinh doanh (bán cho ai?). Một doanh nghiệp có thể xuất khẩu sản phẩm của mình theo hai cách là xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu gián tiếp. Xuất khẩu gián tiếp là một hình thức doanh nghiệp thông qua dịch vụ và các tổ chức độc lập đặt ngay tại nước xất khẩu để tiến hành hoạt động xuất khẩu sản phẩm của mình ra nước ngoài. Hình thức xuất khẩu gián tiếp khá phổ biến ở những doanh nghiệp mới tham gia vào thị trường quốc tế. Trong hình thức này các doanh nghiệp có thể sử dụng trung gian phân phố như hãng buôn xuất khẩu, Công Ty quản lý xuất khẩu, đại lý xuất khẩu, khách vãng lai, các tổ chức phân phối chính hợp. Nhưng dù tổ chức nào đi nữa thì cũng phải có kinh nghiệm và năng lực để đảm bảo cho hai bên kinh doanh một cách thuận lợi và có hiệu quả. Hầu hết các nhà sản xuất chỉ sử dụng các trung gian phân phố trong những điều kiện cần thiết. Khi đã phát triển đủ mạnh để tiến tới thành lập tổ chức bán hàng riêng của mình để có thể kiểm soát trực tiếp thị trường do họ thích sử dụng hình thức xuất khẩu trực tiếp hơn. Trong tình hình hiện nay các nhà xuất khẩu phải giao dịch trực tiếp với khách hàng nước ngoài và khu vực thị trường nước ngoài không qua tổ chức của mình. Tóm lại, việc lựa chọn một bạn hàng kinh doanh sáng suất và chính xác là cơ sở vững chăc để tạo sự thành công cao nhất trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ. 2. Xây dựng chiến lược, kế hoạch xuất khẩu. Kế hoạch kinh doanh là phương án cụ thể của doanh nghiệp nhằm đạt được các mục tiêu xây dựng trong kinh doanh. Dựa vào kết quả thu được của việc nghiên cứu ở các khâu nêu trên, các đơn vị kinh doanh xuất khẩu cần xây dựng một kế hoạch kinh doanh cụ thể nhằm ứng phó với những dự đóan về diễn biến của quá trình xuất khẩu hàng hoá cũng như mục tiêu sẽ đạt được khi thực hiện được quá trình này. Nội dung của việc xây dựng kế hoạch kinh doanh gồm: - Doanh nghiệp cần có một định hướng rõ ràng trên cơ sở phân tích các yếu tố về môi trường kinh doanh, đưa ra những đánh giá mang tính tổng quát về cơ hội và thách thức, điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp. Định hướng là một quá trình ấn định những nhiệm vụ, mục tiêu và các phương pháp tốt nhất để thực hiện những mục tiêu và nhiệm vụ đó. Thực chất việc định hướng là hoàn thành những mục đích và mục tiêu mà doanh nghiệp đặt ra xuất phát từ bản chất của một hệ thống có tổ chức để thực hiện các hoạt động có mục đích chung của doanh nghiệp thông qua sự hợp tác chặt chẽ giữa mọi người trong doanh nghiệp. - Xây dựng các biện pháp, cách thức thực hiện để đạt được các mục tiêu đã đặt ra trước đó. Cụ thể đó là những biện pháp về sản phẩm, sản xuất, tìm kiếm bạn hàng,... với kế hoạch chi tiết trong từng lĩnh vực nếu bước này đòi hỏi phải được chuẩn bị đẩy đủ, kỹ lưỡng cụ thể dựa trên cơ sở phân tích các thông tin có liên quan. Như vậy, có thể thấy rằng công tác xây dựng kế hoạch kinh doanh là một công tác quan trọng và vô cùng cần thiết đối với hoạt động của một doanh nghiệp. Một kế hoạch kinh doanh khoa học và khéo léo dựa trên việc phân tích chuẩn xác các yếu tố môi trường có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại trong kinh doanh của doanh nghiệp. 3. Ký kết hợp đồng xuất khẩu và tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Đây là nội dung cơ bản và quan trọng nhất trong hợp đồng xuất khẩu. Nó đảm bảo tính pháp lý trong mỗi thương vụ làm ăn của doanh nghiệp. Hoạt động xuất khẩu có thể được tiến hành hay không là phụ thuộc vào những điều khoản mà hai bên đã ký kết trong hợp đồng, mọi sự vi phạm đều có thể phá vỡ hợp đồng. Tóm lại, hợp đồng xuất khẩu là một văn bản pháp lý quy định quyền lợi và nghĩa vụ của các bên thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Và việc tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu là cách thức mà các bên thực hiện nghĩa vụ của mình trong hợp đồng. Do vậy, ký kết hợp đồng xuất khẩu và tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu là khâu không thể thiếu trong hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. 4. Đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Để đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp có thể sử dụng chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh = S Doanh thu - S Chi phí Tuy nhiên để đánh giá toàn diện hiệu quả ta dùng công thức: S Doanh thu Hiệu quả kinh doanh = S Chi phí ngoài ra hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp còn xác định qua chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lợi. Chỉ tiêu này được tính toán dựa trên lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được so với tổng vốn bỏ ra trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu: Lợi nhuận Doanh lợi = S vốn Bên cạnh đó còn có chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Lợi nhuận Tỷ suất lợi nhuận = Doanh thu Trên đây là một số chỉ tiêu đánh giá tổng hợp hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng đối vớ doanh nghiệp chuyên doanh hoạt động xuất nhập khẩu để đánh giá một cách chi tiết hơn hiệu quả kinh doanh có thể sử dụng một số chỉ tiêu sau: * Tỷ suất ngoại tệ đối với hàng xuất khẩu. Là lượng bản tệ (nội tệ) phải chi để có một đơn vị ngoại tệ: Kxk = Px/Tx Trong đó: Kxk là tỷ suất ngoại tệ đối với hàng xuất khẩu Px là chi phí cho lô hàng xuất khẩu Tx là sô sngoại tệ thu được khi bán lô hàng này Nếu Kxk nhỏ hơn tỷ gia shối đoái thì hoạt động xuất khẩu có hiệu quả * Chỉ tiêu hiệu quả tương đối của xuất khẩu; chỉ tiêu này phản ánh % lợi nhuận trên chi phí đầy đủ để sản xuất lô hàng. Trong đó: Dxk là doanh thu ngoại tệ thuần tuý Fxk là chính trị đầy đủ trách nhiệm đối với xuất khẩu (quy ra ngoại tệ) * Chỉ tiêu lợi nhuận trong xuất khẩu Px = q.(p-f) Trong đó: Px là lợi nhuận đối với mặt hàng xuất khẩu q là khối lượng hàng xuất khẩu p là gía trị một đơn vị hàng f là chi phí đầy đủ của một đơn vị hàng hoá chỉ tiêu này giúp ta phân biệt được lợi nhuận của từng mặt hàng, lô hàng hay chuyến hàng. Bên cạnh chỉ tiêu tuyệt đối người ta sử dụng chỉ tiêu tương đối như: mức doanh lợi, chỉ tiêu về sử dụng vốn kinh doanh, năng suất lao động. Ngoài ra, các chỉ tiêu định lượng ở trên, để xác định hiệu quả quả hoạt động xuất khẩu còn có các chỉ tiêu định tính. đây là chỉ tiêu gián tiếp rất khó lượng hoá nhưng không phải là không lượng được. Chẳng hạn chỉ tiêu thu hút các nguồn vốn đầu tư liên doanh, liên kết với các tổ chức tư thương nước ngoài, chỉ tiêu mở rộng môi trường và bạn hàng kinh doanh, chỉ tiêu về uy tín do hoạt động xuất khẩu đem lại... III các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp. Trong hoạt động thương mại bất kỳ một hình thức kinh doanh nào cũng đều chịu ảnh hưởng sâu sắc của môi trường kinh doanh. Môi trường kinh doanh có thể tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh phát triển, song cũng có thể là vật cản mạnh mẽ đối với hoạt động này. Đối với xuất khẩu, một nội dung quan trọng của thương mại quốc tế thì ảnh hưởng của môi trường kinh doanh mạnh mẽ hơn bởi vì trong thương mại quốc tế các yếu tố về môi trường kinh doanh phong phú và phức tạp hơn so với thương mại quốc tế trong nước. ở đây, ta có thể phân chia những nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu của một doanh nghiệp thành hai nhóm nhân tố cơ bản là nhân tố vĩ mô và nhân tố vi mô. 1.Nhân tố vĩ mô. 1.1 Các công cụ của Nhà Nước trong quản lý kinh tế. ở các nước khác nhau thườngcó những chính sách thương mại khác nhau thể hiện ý trí và mục tiêu Nhà Nước trong việc can thiệp và điều chỉnh các hoạt động kinh doanh quốc tế có ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc gia. Để nền kinh tế quốc dân vận hàng một cách có hiệu quả thì những chín sách thương mại thích hợp là cần thiết. Trong lĩnh vực xuất khẩu, những công cụ chính sách chủ yếu thường được Nhà Nước sử dụng để điều tiết quản lý hoạt động này: * Thuế quan: Trong hoạt động xuất khẩu, thuế quan là thuế đánh vào từng đơn vị hàng hoá xuất khẩu. Việc đánh thuế xuất khẩu được chính phủ ban hành nhằm quản lý hoạt động xuất khẩu theo chiều hướng có lợi nhất cho quốc gia mình và mở rộng kinh tế đối ngoại. Thuế quan cũng gây ra một khoản chi phí xã hội do sản xuất trong nước tăng nên không hiệu quả và do giảm mức tiêu dùng trong nước. Nhìn chung, công cụ này chỉ được các nước áp dụng đối với một số ít mặt hàng xuất khẩu bổ sung nguồn thu cho ngân sách Nhà Nước. * Công cụ Quata (hạn ngạch xuất khẩu). Hình thức này áp dụng như là một công cụ chủ yếu trong hàng rào phi thuế quan và ngày càng có vai trò quan trọng trong xuất khẩu hàng hoá. Hạn ngạch được hiểu như quy định của Nhà Nước về số lượng cao nhất của một mặt hàng hay nhóm hàng được phép xuất khẩu, nhập khẩu từ thị trường nội địa trong một thời gian nhất định thông qua các hình thức cấp giấy phép Mục đích của chính phủ khi sử dụng quota xuất khẩu là nhằm quản lý hoạt động kinh doanh có hiệu quả và điều chỉnh lại hàng hoá xuất khẩu. Hơn thế nữa, nó có thể bảo hộ nền sản xuất trong nước, bảo vệ tài nguyên, cải thiện cán cân thanh toán. Trong khi thuế quan rất linh hoạt, mềm dẻo thì quota mang tính cứng rắn, cố định lượng hàng hoát xuất khẩu. Đồng thời, sự tác động của hạn ngạch khác với sự tác động của quota ở hai điểm: + Thứ nhất: Mức thuế quan ít nhất cũng mang lại thu nhập cho chính phủ có thể cho phép giảm các loại thuế khác, vì vậy nó bù đắp được phần nào cho biện pháp phi thuế quan trọng đối với các doanh nghiệp chuyên doanh xuât nhập khẩu Việt Nam. + Thứ hai: Hạn ngạch có thể biến một doanh nghiệp duy nhất trong nước thành một nhà độc quyền về xuất hay nhập khẩu để có thể định mức giá bán cao hơn hay mức giá thấp hơn nhằm thu lợi nhuận cao nhất. Hạn ngạch xuất khẩu được quyết định theo mặt hàng, theo từng quốc gia và trong từng khoảng thời gian nhất định. Bên cạnh việc thi hành những biện pháp quản lý kể trên các quốc gia còn áp dụng một số biện pháp khác như: + Tiêu chuẩn chất lượng hoá sản phẩm: Các quốc gia đặt ra những tiêu chuẩn về chất lượng hàng hoá hay về thông số kỹ thuật quy định cho hàng xuất khẩu hay nhập khẩu. + Giấy phép xuất khẩu: Nhà Nước cấp giấy phép xuất khẩu cho các doanh nghiệp kinh doanh nhằm theo rõi việc xuất khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu. * Tỷ giá và các chính sách đòn bẩy có liên quan nhăm khuyến khích xuất khẩu. Đây là nhân tố ảnh hưởng sâu sắc đến quy mô và cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. Một chính sách tỷ giá hối đoái thích hợp, thuận lợi cho xuất khẩu là chính sách duy trì tỷ giá tương đối ổn định ở mức thấp. Kinh nghiệm của các nước đang thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu là điều chỉnh tỷ giá hối đoái thường kỳ để đạt được mức tỷ giá hối đoái cân bằng trên thị trường và mức tỷ giá tương quan với chi phí và giá cả trong nước. Trợ cấp xuất khẩu cũng là những biện phát có tác động thúc đẩy mạnh mẽ cho việc mởi rộng xuất khâủ các mặt hàng khuyến khích xuất khẩu. Biện pháp này được nhiều nước áp dụng vì khi thâm nhập vào thị trường nước ngoài thì sự rủi ro cao hơn nhiều so với thì trường trong nước. Việc trợ cấp xuất khẩu cho các mặt hàng được khuyến khích xuất khẩu có thể dưới các hình thức như: Miễn, giảm thuế xuất khẩu, hạ lãi xuất cho vay vốn sản xuất hàng xuất khẩu, cho bạn hàng nước ngoài ưu tiên để họ có điều kiện mua sản phẩm của nước mình... Bên cạnh đó, chính phủ muốn các nhà kinh doanh trong nước hướng ra thị trường nước ngoài thì phải giảm bớt tính hấp dẫn tương đối cho việc sản xuất cho thị trường nội địa. Điều này đòi hỏi phải giảm thuế quan có tính chất bảo hộ đối với các ngành Công Nghiệp ưu đãi và tranh thủ quy định hạn ngạch khối lượng nhập khẩu. Lợi nhuận sản xuất hàng thay thế nhập khẩu cũng phải giữ ở mức phù hợp với mức lợi nhuận xuất khẩu. Điều đó, nghĩa là bảo hộ bằng thuế quan không được cao hơn mức trợ cấp xuất khẩu và cũng phải thống nhất với tất cả các mặt hàng. * Các chính sách đối với cán cân thanh toán và thương mại. Trong hoạt động kinh doanh quốc tế nói chung, giữ vững được cán cân thanh toán và cán cân thương mại có ý nghĩa quan trọng góp phần vào việc củng cố nền độc lập và tăng trưởng kinh tế nhanh. Đương nhiên, biện pháp để giữ cân bằng không phải là hạn chế nhập khẩu, cấm nhập khẩu hay vay vốn để giữ cho cán cân thanh toán được cân bằng. Sự cân bằng theo kiểu đó là cân bằng tiêu cực. Vấn đề đặt ra là cần khuyến khích việc sản xuất hàng xuất khẩu. Song song với việc đó là mở rộng quy mô xuất khẩu, đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu trong đó chú trọng đến mặt hàng chủ lực, có nhều quốc gia mới giảm dần nhập siêu, tiến tới cân bằng xuất nhập khẩu. Như vậy, nhìn chung việc giữ cán cân thanh toán và cán cân thương mại đã chứa đựng trong đó những yếu tố thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của một quốc gia. 1.2 Các quan hệ kinh tế quốctế. Trong hoạt động kinh doanh quốc tế, các mối quan hệ quốc tế có ảnh hưởng cực kỳ mạnh mẽ. Đối với hoạt động xuất khẩu, khi xuất khẩu hàng hoá từ nước mình sang một nước nào đó tức là đưa hàng hoá thâm nhập vào một thị trường quốc gia khác, người xuất khẩu thường phải đối mặt với hàng rào thuế quan như thuế quan thu nhập (để tăng thu nhập cho quốc gia nhập khẩu), thuế quan bảo hộ (bảo hộ các ngành Công Nghiệp nước nhập khẩu) hay những hàng rào phi thuế quan sự phân biệt đối xử đối với các nhà kinh doanh nước ngoài, các tiêu chuẩn sản phẩm mang tính phân biệt đối xử hàng nước ngoài... và đặc biệt là hạn ngạch nhập khẩu. Các hàng rào này là chặt chẽ hay nới lỏng phụ thuộc chủ yếu vào quan hệ kinh tế song phương giữa nước xuất khẩu và nước nhập khẩu. Trong khi đó xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế hiện nay nhiều liên minh kinh tế ở mức độ khác nhau được hình thành, nhiều hiệp định song phương, đa phương giữa các nước, các khối kinh tế cũng được ký kết với mục tiêu là giảm bớt thuế quan giữa các nước tham gia, giảm giá cả, thúc đẩy hoạt động thương mại trong khu vực và trên toàn thế giới. Nếu một quốc gia tham gia vào những liên minh kinh tế và những hiệp định thương mại ấy thì nó sẽ là một tác nhân tích cực đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của quốc gia đó. Nếu không, chính nó trỏ thành rào chắn đối với việc thâm nhập thị trường nước đó. Tóm lại,có được những mối quan hệ quốc tế mở rộng, bền vừng và tốt đẹp sẽ tạo ra những tiền đề thuận tiện cho việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của mỗi quốc gia. * Trình độ phát triển của hệ thống cơ sở hạ tầng. Hệ thống cơ sở hạ tầng có tác động rất lớn tới công tác xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. Một quốc gia có hệ thống đường xá, cầu cống phát triển sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất, nâng cao khả năng tham gia của các doanh nghiệp vào các hoạt động kinh doanh quốc tế. Đặc biệt, các bến bãi, nhà ga, cảng biển có tác động trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. Nếu hệ thống này được đầu tư xây dựng phù hợp với yêu cầu chung của kinh doanh quốc tế sẽ là nhân tố có tác động tích cực tới hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Ngược lại, hệ thống cảng biển, nhà ga, bến dỡ không đạt yêu cầu tối thiểu về kỹ thuật chắc chắn sẽ gây tâm lý nghi ngại từ phía đối tác nước ngoài và rất có thể doanh nghiệp sẽ mất cơ hội kinh doanh. Như vậy, hệ thống cơ sở hạ tầng quốc gia tuỳ vào trình độ phát triển có thể tạo điều kiện thuận lợi trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. 2. Những nhân tố vi mô. Bên cạnh những nhân tố vĩ mô, hoạt động xuất khâu của doanh nghiệp còn chịu ản hưởng sâu sắc của các nhân tố vi mô. Có thể nói, đây là những nhân tố bên trong có tính chất quyết định đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp , đó là: 2.1 Nguồn nhân lực. Con người là chủ thể của mọi quan hệ xã hội và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp suy đến cùng cũng là do con người và vì con người. Bởi vậy, con người luôn được đặt ở vị trí trung tâm, khi xem xét các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp. Một đội ngũ vững vàng về chuyên mônm, có kinh nghiệm trong buôn bán quốc tế, có khả năng ứng phó linh hoạt trước biến động của thị trường và đặc biệt có lòng say mê nhiệt tình trong công việc luôn là đội ngũ lý tưởng trong hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. Ngược lại nếu nguồn nhân lực của doanh nghiệp yếu kém về chất lượng và hạn chế về số lượng thì doanh nghiệp sẽ luôn trong tình trạng bị động dẫn đến kinh doanh kém hiệu quả. Như vậy, nhân lực quyết định hoạt động của doanh nghiệp, nên doanh nghiệp muốn hoạt động xuất khẩu có hiệu quả nhất thiết phải quan tâm đào tạo, tuyển chọn các đội ngũ lao động thực sự có năng lực, đồng thời chú trọng tới công tác quản lý nhằm tạo động lực cho người lao động thực sự có hiệu quả. 2.2 Khả năng tài chính. Để hoạt động có hiệu quả doanh nghiệp nhất thiết phải xây dựng chiến lược kinh doanh. Trong kinh doanh, thuật ngữ “chiến lược” được hiểu là hệ thống các đường lối và biện pháp chủ yếu nhằm đưa đến mục tiêu đã định. Chiến lược bao gồm: Các đường lối tổng quát, các chủ trương mà doanh nghiệp sẽ thực thi trong một thời hạn đủ dài; các mục tiêu dài hạn của doanh nghiệp; các nguồn lực, các tiềm năng được sử dụng để đạt được mục tiêu đó và các chính sách điều hành việc thu hút, phân bổ các nguồn lực, các tiềm năng cần thiết để đạt được mục tiêu này. Bên cạnh một số yếu tố khác, khả năng tài chính là nhân tố quyết định đến mục tiêu và chiến lược của doanh nghiệp. Mục tiêu của doanh nghiệp Không đạt Giảm sút Phá sản ổnđịnh Đạt Phát triển Tăng trưởng Khả năng Tài chính Tài chính nội bộ doanh nghiệp Tài chính bên ngoài doanh nghiệp Mô hình khả năng tài chính của doanh nghiệp Nếu có khả năng tài chính mạnh doanh nghiệp có thể đầu tư đổi mới công nghệ, thu hút lao động chất lượng cao, tăng quy mô kinh doanh từ đó tạo thế cạnh tranh vững chắc trên thị trường. Có thể nói, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng lớn của khả năng tài chính doanh nghiệp. 2.3 Trình độ tiếp thu công nghệ của doanh nghiệp. Với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, nhiều công nghệ tiên tiến đã ra đời tạo ra những cơ hội, nhưng cũng gây lên nguy cơ đối với tất cả các ngành nghề nói chung và đơn vị sản xuất, kinh doanh mặt hàng xuất khẩu nói riêng. Nó đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng nghiên cứu, tìm tòi, áp dụng những công nghệ mới nhằm nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm của chính mình trên thị trường. Đối với lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu, việc nghiên cứu và đưa ra ứng dụng những công nghệ mới, các thành tựu mới của khoa học kỹ thuật sẽ giúp các đơn vị sản xuất tạo ra những sản phẩm mới vơí chất lượng cao hơn. Nhờ đó chu kỳ sống của sản phẩm sẽ được kéo dài và có thể thu được nhiều lợi nhuận hơn. Đồng thời nó cùng giúp cho hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp có hiệu quả hơn thông qua việc tác động tới hệ thống ngân hàng, bảo hiểm, vận tải,... tuy vậy, hiệu quả của công nghệ còn phụ thuộc rất lớn vào trình độ tiếp thu công nghệ của doanh nghiệp. Hiện nay ở Việt Nam không ít các doanh nghiệp chỉ quan tâm chạy theo khẩu hiệu “hiện đại hoá” đã dẫn đến tình trạng không khai thác hết hiệu quả công nghệ do sự hạn chế về khả năng sử dụng của người lao động. Vì vậy, nhập công nghệ hiện đại nhưng phải phù hợp với trình độ của người lao động thì mới hiệu quả. Đặc biệt trong qúa trình chuyển giao công nghệ cần có cán bộ kỹ thuật có trình độ hoặc những chuyên gia giỏi để chánh bị thua thiệt trước “tiểu sảo” của đối tác nước ngoài. Tóm lại, trình độ tiếp thu công nghệ có ánh hưởng lớn tới hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. 2.4 Vị trí địa lý. Nếu được bố chí gần nơi cung cấp các yếu tố đầu vào cho hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc vùng gần nhà ga, cảng biển doanh nghiệp sẽ giảm được chi phí vận chuyển. Đây là cơ sở để doanh nghiệp giảm giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Đặc biệt, với ưu thế về khoảng cách địa lý với nhà cung cấp yếu tố đầu vào, doanh nghiệp có thể thường xuyên xuống cơ sở sản xuất tạo lập mối qan hệ nhằm xây dựng chân hàng vững chắc phục vụ hoạt động xuất khẩu. Như vậy, để hoạt động xuất khẩu đạt hiệu quả doanh nghiệp cần lựa chọn vị chí tối ưu, phù hợp với khả năng và điều kiện của mình. 2.5 Uy tín của doanh nghiệp. Uy tín của doanh nghiệp được đo bằng những “lá phiếu” mà khách hàng dành cho sản phẩm của doanh nghiệp. Quyết định mua hàng của người tiêu dùng ngoài một số nhân tố khách quan, phần lớn phụ thuộc vào chất lượng, giá cả sản phẩm và dịch vụ sau bán hàng của doanh nghiệp. Từ đó khách hàng tự xây dựng biểu tượng về doanh nghệp để làm “kim chỉ nam” cho hành động mua hàng của mình. Như vậy, uy tín của doanh nghiệp là nhân tố quyết định khả năng cạnh tranh và vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. IV kinh nghiệm về tổ chức xuất khảu của một số doanh nghiệp Việt Nam. Trong thời gian qua, hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam diễn ra khá sôi động và đạt được nhiều thàn tựu đáng kể, nhiều doanh nghiệp đã vươn lên chiếm lĩnh thị trường thế giới và kinh doanh có hiệu quả. Bài học kinh nghiệm từ những doanh nghiệp này rất nhiều, ở đây chỉ đưa ra một số kinh nghiệm chủ yếu trong công tác tổ chức xuất khẩu của Công Ty xuất nhập khẩu và đầu tư kontum, Công Ty xuất nhập khẩu An Giang, Xí Nghiệp chế biến thuỷ- hải sản Cần Thơ (CAFATEX), Công Ty xuất nhập khẩu Vĩnh Long. 1 Công Ty xuất nhập khẩu và đầu tư Kontum vươn lên trong cơ chế thị trường nhờ mạnh dạn đầu tư cho sản xuât, chế biến hàng xuất khẩu. Thực hiện nhiệm vụ kinh doanh tổng hợp, đa dạng, Công Ty xuất nhập khẩu và đầu tư Kontum đã thành lập các đội liên doanh trên từng lĩnh vực. Từ một trụ sở đặt tại 104 Lê Hồng Phong thị xã Kontum, đến nay Công Ty đã có 9 đơn vị trực thuộc gồm 5 Xí Nghiệp, 2 phân xưởng và 2 chi nhánh kinh doanh xuất nhập khẩu tại Thành Phố HCM và Hà Nội. Doanh số tăng lên đều hàng năm, năm 1996 giá trị tổng sản lượng đạt 80.7 tỷ đồng, năm 1997 đạt 97,17 tỷ đồng, năm 1998 đạt 110,28 tỷ đồng, năm 1999 con số này lên tới 125,3 tỷ đồng, năm 2000 tổng doanh số bán ra là 141,13 tỷ đồng. Đồng thời với mục tiêu kinh doanh, thực hiện chủ trương Công Nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất nước được Uỷ ban nhân dân tỉnh và các ban nghành chức năng ủng hộ, Công Ty đã mạnh dạn đầu tư máy móc thiết bị hiện đại vào công nghệ tinh chế gỗ. Từ buổi đầu với nhiệm vụ chính là kinh doanh lâm sản ở dạng nguyên liệu và sơ chế, đến nay Công Ty đã tạo được những sản phẩm đa dạng, được thị trường nước ngoài chấp nhận. Đến năm 2002, Công Ty quyết tâm đầu tư theo chiều sâu vào các lĩnh vực Công Nghiệp, Nông Nghiệp tạo vòng khép kín từ sản xuất đến chế biến hàng xuất khẩu. Công Ty quyết tâm đầu tư hoàn chỉnh dự án phát triển vùng nguyên liệu sẵn có với vốn đầu tư trong 3 năm khoảng 12 tỷ đồng, nhằm tập chung thu mua xuất khẩu 16 nghìn tấn sắn lát khô và chế biến 20 nghìn tấn sắn tinh bột, hàng năm tạo ra nguyên liệu bán thành phẩm xuất khẩu. Nếu điều kiện cho phép, Công Ty sẽ xây dựng nhà máy chế biến cà phê va cao su bán thành phẩm xuất khẩu nhằm tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá, tạo thêm ngành nghề mới cho địa bàn. Như vậy, hoạt động xuất khẩu của Công Ty không những phát triển theo chiều rộng mà còn phát triển theo chiều sâu. Trong tổ chức xuất khẩu, Công Ty đã đầu tư cho sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu nhằm ổn định nguồn hàng dựa trên cơ sở nguồn lực của địa phương. 2. Công Ty xuất nhập khẩu An Giang phát triển nhờ gắn với địa phương và kinh doanh có hiệu quả. Đến nay, Công Ty xuât nhập khẩu An Giang đã có bề dầy lịch sử hơn 20 năm phát triển. Đó là một trặng đường đầu vất vả, có những thời kỳ tưởng trường như không thể vượt qua nổi, nhưng nhờ sự đoàn kết nhất trí của cán bộ công nhân viên, sự lãnh đạo sâu xát của Tỉnh Uỷ và Bộ Thương Mại, Công Ty đã đứng vững trong cơ chế thị trường, kinh doanh có hiệu quả, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương và đất nước. Công Ty làm ăn có hiệu quả là nhờ có sự đổi mới trong công tác tổ chức xuất khẩu. Công Ty đã đầu tư vào lĩnh vực sản xuất gắn liền với kinh doanh xuất nhập khẩu. Ngay từ năm 1988, Công Ty đã đầu tư mở rộng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất chế biến nông sản, thực phẩm xuất khẩu, đầu tư công nghệ hiện đại với 5 cụm nhà máy chế biến xay xát lương thực xuất khẩu với công xuất 150 nghìn tấn/năm; hệ thống kho có sức chứa 25 nghìn tấn. Từ năm 1990 đến hết năm 2000 Công Ty đã trang bị 10 bộ máy vi tính và một số trang thiết bị hiện đại khác phục vụ cho sản xuât khinh doanh. Phương thức sản xuất, chế biến, kinh doanh được khép kín từ khâu tổ chức thu mua đến khâu bảo quản chế biến, đóng gói bao bì và xuất khẩu trực tiếp, không thông qua trung gian nên chất lượng đảm bảo, giá thành hợp lý, hàng hoá có sức cạnh tranh và tiêu thụ được nhiều hơn trên thị trường quốc tế. Ngoài ra, Công Ty còn góp vốn vào Công Ty liên doanh ANGIMEX-KITOKU (Nhật Bản) chế biến gạo xuất khẩu và Xí Nghiệp liên doanh ANGIMEX-VIETSING (Hồng Công) sản xuất chế biến bắp non, nấm rơm, đậu đỏ, mè đen xuất khẩu với tổng trị giá 738 nghìn USD vào năm 2000. Công Ty luân xác định con người là yếu tố quyết định trong công tác quản lý và sản xuất kinh doanh. Do vậy, trình độ chuyên mô, nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ của cán bộ công nhân viên luân được đảm bảo và đáp ứng yêu cầu của Công Ty. Bài học kinh nghiệm cho công tác xuất nhập khẩu ở đây là gắn sản xuất, chế biên với kinh doanh xuất khẩu, tạo sức mạnh cạnh tranh về mọi mặt bằng cách liên doanh, liên kết với các đơn vị khác, coi con ngưòi là yếu tố trung tâm, quyết định sự thành công trong kinh doanh. 3 CAFATEX nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu. Xí Nghiệp chế biến thuỷ, hải sản xuất khẩu cần thơ (CAFATEX) thành lập tháng 7 năm 1992 trên cơ sở Xí Nghiệp chế biến cung ứng sản phẩm thuỷ sản đông lạnh xuất khẩu cho hệ thống SEAPRODEX Việt Nam. Đến nay CAFATEX đã mở rộng thị trường xuất khẩu sang nhiều nước như Mỹ, Nhật Bản, Canada, EU, Singapore, Hồng Công, Đài Loan. Năm 1998, kim ngạch xuất khẩu đạt 43 triệu USD, năm 1999 đạt 45,2 triệu USD, năm 2000 đạt 49 triệu USD và năm 2001 đạt 50,6 triệu USD. Năm 1997, CAFATEX nhanh chóng đầu tư nâng cấp toàn bộ hệ thống nhà xưởng, máy móc và công nghệ, lắp đặt nhiều thiết bị hiện đại của Mỹ, Nhật, Đan Mạch, Thuỵ Điển, Anh. Xí Nghiệp còn tiến hành xây dựng hệ thống công nghệ mới theo hướng mở nhằm tiếp nhận và phát triển kỹ thuật mới, nhanh chóng đạt được trình độ chế biến hàng đầu xuất khẩu như các nước trong khu vực ASEAN. Thực hiện chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu CAFATEX đặt cho mình hai mục tiêu. Thứ nhất, tăng kim ngạch xuất khẩu bằng cách nâng cao công suất chế biến thuỷ hải sản cao cấp, giảm tỷ lệ hàng xuất khẩu chưa qua chế biến. Thứ hai, đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu, khai thác thêm thế mạnh về hàng nông sản, rau quả sẵn có ở địa phương. Bài học kinh nghiệm về đứng vững trên thị trường thời gian qua của CAFATEX là luôn nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ để nắm bắt kịm thời công nghệ tiên tiến, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sản xuất kinh doanh. Chương II Tình hình kinh doanh Xuất khẩu quế CủA Công Ty XNK tổng hợp I I. Sự Hình THành Và PHáT TRIểN CủA CÔNG TY. 1. Sự hình thành và phát triển của Công Ty Đầu những năm 1980, Nhà Nước ban hành những chủ trương chính sách nhằm đẩy mạnh công tác xuất nhập khẩu, trong đó có việc mở rộng quyền xuất nhập khẩu cho các ngành, các địa phương được sử dụng ngoại tệ do xuất khẩu vượt chỉ tiêu hoặc ngoài chỉ tiêu phải nộp công tác xuất nhập khẩu lên mạnh mẽ. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để vừa khuyến khích xuất nhập khẩu ở địa phương vừa chấn chỉnh, từng bước lặp lai kỷ cương hoạt động này. Muốn như vậy thì một lúc phải tôn trọng các quy luật kinh tế, vừa phải dữ đúng đường lối xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội của Đảng và vừa phải mang lại hiệu quả cho nền kinh tế quốc dân. Công Ty xuất nhập khẩu tổng hợp ra đời trong hoàn cảnh đó, nhận nhiệm vụ góp phần đưa công tác xuất nhập khẩu đi đúng hướng, thu hút các đầu mối nhỏ về một mối. Theo đề nghị của đồng chí vụ trưởng vụ tổ chức cán bộ, bộ trưởng bộ ngoại thương (nay là bộ thương mại) đã quyết định thành lập Công Ty xuất nhập khẩu tổng hợp I. Công Ty này được chính thức thành lập từ ngày 15/2/1981 theo quyết định số 1365/TCCB của bộ ngoại thương, nhưng phải đến tháng 8/1992 mới thực tế đi vào hoạt động, với chụ sở chính đặt tại 46 Ngô Quyền- Hà Nội và lấy tên giao dịch là GENERALEXIM – Hà Nội. Công Ty trực thuộc bộ thương mại, hoạt động theo chế độ hoạch toán, có tư cách pháp nhân, vốn và tài sản riêng tại ngân hàng. Biên chế ban đầu là 50 cán bộ được giao 139000 đồng ( thời giá năm 1981) với nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu là xuất nhập khẩu uỷ thác. Năm 1993, theo quyết định số 858/TCCN của bộ thương mại đã quyết định hợp nhất Công Ty phát triển sản xuất và xuất nhập khẩu vào Công Ty xuất nhập khẩu tổng hợp I, giúp tạo lên cho Công Ty những thế lực mới hết sức to lớn. 2 . Nhiệm vụ chủ yếu của Công Ty. Ngay từ khi thành lập, Công Ty đã mang một trọng trách là thông qua hoạt động kinh doanh để đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu, là tốt các công tác xuất nhập khẩu phục vụ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước góp phần nâng cao chất lượng hàng hoá, tăng thu ngoại tệ và phát triển kinh tế đất nước.Trọng trách này được cụ thể hoá thành những nhiệm vụ sau: Thứ nhất: Xuất khẩu hoặc uỷ thác xuất khẩu mọi mặt hàng xuất khẩu của địa phương và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế mà các ngành được phép xuất khẩu. Thứ hai: Nhập khẩu vật tư hàng hoá phục vụ cho sản xuất và đời sống theo yêu cầu của các địa phương, ngành mà các doanh nghiệp và các đơn vị đó không nhập khẩu hoặc nhập khẩu không đáp ứng kịp thời yêu cầu sản xuất và tiêu dùng. Thứ ba: Kinh doanh vật tư, hàng hoá nhập khẩu hoặc sản xuất ở trong nước phục vụ cho các địa phương, các ngành, các doanh nghiệp. Quản lý và sử dụng tốt tiền vốn, tài sản theo chế độ quản lý kinh tế tài chính của Nhà Nước, quản lý tốt đội ngũ cán bộ của Công Ty, đào tạo đội ngũ cán bộ nhân viên của Công Ty, đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên thông thạo về nghiệp vụ, hiểu biết về pháp luật phục vụ tốt cho hoạt động kinh doanh của Công Ty, Bên cạnh nhiệm vụ phải thực hiện đúng phạm vi hoạt động đã quy định như trực tiếp xuất nhập khẩu, xuất nhập khẩu uỷ thác, gia công xuất khẩu, sản xuất và dịch vụ thương mại, Công Ty còn có những quyền hạn khai thác như: - Được cho thuê văn phòng, kinh doanh khách sạn, cho thuê kho tàng nhà xưởng, phương tiện n._..000 2000 556 1.000.000 2001 664 1.200.000 Bảng 13: So sánh về giá trị tổng sản lượng và kim ngạch xuất khẩu qua các năm (năm sau/ năm trước) Tỉ lệ Chỉ tiêu 93/92 94/93 95/94 96/95 97/96 98/97 99/98 00/99 01/00 Sản lượng 164,2 121,8 133,3 121,9 120,0 111,6 94,34 111,2 119,4 Kim ngạch 173,1 121,9 136,8 125 111,7 111,8 94,74 111,1 120,0 (Nguồn: Tài liệu phòng kế toán tổng hợp) Qua hai bảng trên ta thấy từ năm 1990- 1998 và 2000-2001 sản lượng kim ngạch xuất khẩu quế của Công Ty không ngừng tăng lên, năm 1998 sản lượng và kim ngạch tăng gấp 5,6 lần so với năm 1990. năm 1999 tình hình xuất khẩu quế giảm so với năm 1998, nguyên nhân là do Công Ty cũng chịu ảnh hưởng không tốt từ quộc khung hoảng tiền tệ cùng với những chính sách mới của Nhà Nước làm hạn chế xuất khẩu do đó làm giảm kim ngạch xuất khẩu của Công Ty. Sang năm 2000 do Công Ty có những chính sách phù hợp làm cho kim ngạch xuất khẩu quế lại tiếp tục tăng lên. 2.6.2 Thị trương. Thời kỳ trước năm 1990, thị trường xuất khẩu quế của Công Ty chủ yếu là các nước XHCN cũ ở Đông âu và Liên Xô, sản phẩm xuất cho các nước này chủ yếu là nguyên liệu ở dạng sơ chế nên giá không cao. Ngoài chỉ tiêu thực hiện nghĩa vụ đối vơi Nhà Nước, phần còn lại, Công Ty xuất khẩu sang các nước khác như: Singapore, Hồng Công để thu ngoại tệ mạnh và nhập khẩu những hàng hoá thiết yếu phục vụ cho đời sống xã hội như vải vóc, ty vi, tủ lạnh... nhưng quế Việt Nam xuất khẩu ở dạng sơ chế nên mọi bất lợi cho Công Ty XNK tổng hợp I nói riêng và Việt Nam nói chung. Sau năm 1990, để bù đắp cho thị trường giảm sút từ các nước Đông âu là sự tăng lên cảvề sản lượng lẫn kim ngạch ở thị trường các nước ở cả Châu á lẫn Châu Mỹ. Ta có thể thấy qua bảng sau: Bảng 16: kết quả suất khẩu theo thị trường. Năm Thị Trường 1996 1997 1998 1999 2000 Sản lượng (tấn ) Tỷ trọng (%) Sản lượng ( tấn) Tỷ trọng (%) Sản lượng (tấn) Tỷ trọng (%) Sản lượng (tấn) Tỷ trọng (%) Sản lượng ( tấn) Tỷ trọng (%) Singapore 170 43,6 133 28 135 25,5 124 24,8 118 21,2 Nhật Bản 92 23,6 110 23,2 120 22,6 112 22,4 120 21,58 Hồng công 41 10,5 51 10,8 63 11,9 96 19,2 104 18,7 Mỹ - - 142 30 165 31,1 160 32 176 31,65 đông âu 40 10,2 - - - - - - - - Khu vực khác 47 12,1 39 8 47 8,9 8,0 1,6 38 6,8 Tổng cộng 390 100 475 100 530 100 500 100 556 100 (Nguồn: Tài liệu phòng nghiệp vụ 7) Bảng trên cho ta thấy, sang đầu năm 1997, lượng quế xuất khẩu chủ yếu tăng voà thị trường Mỹ. Đây là thị trường lớn, có nhiều hứa hẹn. Hy vọng trong những năm tới, Công Ty sẽ có nhiều hợp đồng với thị trường này. III. nhữNG KếT QUả Và TồNG TạI TRONH KINH DOANH XUấT KHẩU QUế 1. Những Kết quả Trong thời gian qua, Công Ty XNK tổng hợp I đã có nhiều cố gắng trong hoạt động sản xuất và xuất khẩu quế đạt được những thành tích đáng mừng, bước đầu gây dựng được uy tín của mình trên thị trường quốc tế. Bảng 7 cho ta thấy năm sau Công Ty xuất khẩu nhiều hơn năm trước gấp nhiều lần. Nếu năm 1990 sản lượng mới chỉ đạt được là 59 tấn, kim ngạch xuất khẩu là 171.000 thì năm 1995 sản lượng là 320 tấn, kim ngạch xuất khẩu là 624.000 USD tăng 3,3 lần so với năm 1990. Đến năm 1999 sản lượng là 500 tấn và kim ngạch xuất khẩu là 900.000 USD, tăng 5,2 lần so với năm 1990 và tăng 1,56 lần so với năm 1995 về sản lượng. Đây là mức tăng khá cao so với mức tăng chung của doanh nghiệp xuất khẩu quế ở Việt Nam. Chất lượng của quế xuất khẩu ngày càng được quan tâm và được đánh giá là có hàm tinh dầu cao. Công Ty đang hạn chế dần xuất khẩu quế sơ chế, tăng lượng quế xuất khẩu đã qua chế biến nhằm thu được lợi nhuận cao nhất. Thị trường của Công Ty ngày càng được mở rộng và phát triển. Trước đây thị trường của Công Ty chủ yếu là Châu á, giờ đây Công Ty nhằm vào mọi thị trườn lớn có nhu cầu trên thế giới, nhất là thị trường Mỹ, là một thị trường khổng lồ và đầy hứa hẹn. Công Ty XNK tổng hợp I - một trong những nhà xuất khẩu quế lớn nhất Việt Nam. Điều này được chứng minh qua bảng sau. Bảng 15 : Thị phần xuất khẩu quế của Công Ty XNK tổng hợp I Năm Giá trị xuất khẩu của Công Ty (USD) Giá trị xuất khẩu của toàn ngành quế Việt Nam (USD) Tỷ trọng (%) 1993 374.000 3.800.000 9,85 1994 456.000 4.600.000 9,91 1995 624.000 4.700.000 13,28 1996 780.000 5.400.000 14,44 1997 850.000 5.700.000 14,91 1998 950.000 6.200.000 15,32 1999 900.000 6.000.000 15 2000 1.000.000 6.140.000 16,29 2001 1.200.000 6.200.000 19,35 (Nguồn: Báo cáo của phòng nghiệp vụ 7 qua các năm 1992-2001) Bảng trên cho thấy thị phần xuất khẩu quế của Công Ty đã không ngừng tăng lên. Năm 1992, kim ngạch xuất khẩu quế của Công Ty chiếm 9,85% của cả nước thì năm 1998 đã lên tới 15,32%. Nhưng năm 1999 kim ngạch xuất khẩu quế của Công Ty giảm do tác động của một số yếu tố khách quan làm cho lượng quế xuất khẩu sang thị trường Châu âu bị giảm sút. Sang 2000 kim ngạch xuất khẩu quế của Công Ty tiếp tục tăng và đến năm 2001 thì Công Ty đã chiếm một thị phần khả lơn về lĩnh vực xuất khẩu quế trong cả nước góp phần không nhỏ vào quá trình xuất khẩu quết trong nước tăng lên đáng kể. Công Ty đặt ra chỉ tiêu phải thực hiện được xản lượng xuất khẩu quế trong năm 2002 là 750 tấn với kim ngạch xuất khẩu khoảng 1.350.000 USD. 2. Những tồn tại và nguyên nhân. Bên cạnh những thành tựu đạt được, Công Ty không tránh khỏi gặp nhiều khó khăn. Hiệu quả kinh doanh và xuất khẩu quế của công ty chưa cao công ty phần lớn chủ yếu là xuất khẩu sản phẩm sơ chế, các doanh nghiệp nước ngoài sau khi mua sản phẩm của công ty thường họ tinh chế và bán sản phẩm sang nước thứ ba. Đu này đã gây ra những thiệt hại đáng kể cho Công Ty. Mặc dù sản lượng hàng năm của Công Ty tương đối lớn, nhưng nếu so với nhu cầu đáp ứng thì đây chỉ là con số quá nhỏ. Công Ty đã gặp phải một số khó khăn trong việc kinh doanh xuất khẩu quế từ khâu thu mua, gom hàng và chế biến. 2.1. Hoạt động thu mua, gom hàng. Quế là loại nông sản trồng được trên phạm vi cả nước, kéo dài từ Yên Bái đến tận Quảng Bình nên công tác thu mua gom hàng thực sự gặp nhiều khó khăn. Đồng thời Công Ty mới chỉ mua được từ người nông dân một lượng nhỏ, còn lại là mua từ các cơ sở trung gian khác, đẩy giá thành lên cao. Công Ty đã tìm những biện pháp thích hợp để thu mua trực tiếp từ người nông dân. 2.2 Về chất lượng sản phẩm. Quế Việt Nam được đánh giá là có hàm lượng tinh dầu cao so với quế Indonesia, Trung Quốc... Hàm lượng này khoảng 3- 3,5%. Ngoài quy định về hàm lượng tinh dầu, chất lượng quế còn phụ thuộc vào khâu làm sạch và chế biến. Quế của Công Ty nói chung đạt tiêu chuẩn về hàm lượng tinh dầu nhưng khâu chế biến còn sơ sài , trình độ công nghệ còn lạc hậu, chủ yếu là sơ chế. Công Ty đang đầu tư xây dựng nhà máy chế biến để tăng gia chất lượng về quế nhưng đến nay vẫn chưa đi vào hoạt động. 2.3 Chi phí sản xuất. Chi phí đầu vào của quế bao gồm chi phí thu mua, vận chuyển và chi phí chế biến. Việc phải đi thuê ngoài chế biến làm giảm lợi nhuận của Công Ty. Công Ty đã có biện pháp thích hợp khắc phục khó khăn này. 2.4 Trình độ cán bộ công nhân viên. Trình độ, kinh nghiệm của cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu còn yếu kém, chên lệch so với đối tác nước ngoài. Đội ngũ cán bộ Công Ty XNK tổng hợp I mặc dù đã được đào tạo và đào tạo lại một cách cơ bản, khoa học nhưng do kinh nghiệm thực tế còn thiếu và phương tiện làm việc không đẩy đủ đã cản trở họ trong công việc giao dịch, ký kết hợp đồng với các đối tác. Mặt khác, vì Công Ty kinh doanh nhiều mặt hàng khác nhau, đội ngũ cán bộ công nhân viên cần phải có sự phân công chuyên môn hoá theo từng nhóm ngành hàng để hoạt động có hiệu quả hơn. Với sự giúp đở của Nhà Nước, Quốc Tế Công Ty đã và đang cố gắng đầu tư nâng cao trình độ của cán bộ mình. Chương III Một số biện pháp thúc đẩy Xuất khẩu quế của Công Ty XNK tổng hợp I I. Chiến lược phát triển quế CủA Việt Nam giai đoạn 2005-2010. 1. Tiềm năng sản xuất quế của Việt Nam. Về trồng quế, Việt Nam có tiềm năng khá lớn, nếu như được đầu tư một cách đồng bộ, hợp lý sẽ hứa hẹn thành một trung tâm trồng quế lớn. Tiềm năng này thể hiện ở: 1.1 Về đất đai. Tiềm năng đất Nông Nghiệp của nước ta là 11.157 triệu ha, trong đó khoảng gần 4 triệu ha là cây Công Nghiệp hàng năm và 2,3 triệu ha trồng cây lâu năm. hiện nay, Việt Nam mới chỉ sử dụng khoảng 65% quỹ đất Nông Nghiệp, chất lượng đất của Việt Nam có từng đầy, đất tơi xốp, chất dinh dưỡng cho cây trồng khá cao nhất là đất phù sa. Chủng loại đất rất phong phú với 64 loại thuộc 14 nhóm. Những điều kiện này kết hợp với ký hậu nhiệt đới ẩm sẽ là có sở tốt để phát triển cầy quế nếu chúng ta biết khai thác một cách hợp lý, khoa học. 1.2. Về khí hậu. Khí hậu Việt Nam là khí hậu nhiệt đới, gió mùa, phân biệt rõ ràng từ bắc vào nam. Quế là cây trồng rất thích hợp với khí hậu nhiệt đới ở nước ta, nhiệt độ trung bình 20-25oC lượng mưa trên 1500 mm/ năm. 1.3. Về nhân lực. Với dân số 79 triệu người, 70 % dân số sản xuất Nông Nghiệp, có thể nói nguồn nhân lực Việt Nam rât dồi dào. Người Việt Nam có đặc điểm cần cù, thông minh, sáng tạo, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học công nghệ, có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất Nông Nghiệp, trồng cây lâu năm như quế. 1.4. Các chính sách của Nhà Nước. Ngoài những yếu tố thuận lợn trên, với quan điểm của đảng và Nhà Nước Việt Nam coi Nông Nghiệp là mặt trận hàng đầu, vì vậy việc sản xuất chế biến xuất khẩu những sản phẩm của cây Công Nghiệp lâu năm như quế rất được chú trọng. Việt ưu đãi về mọi mặt vào ngành này đã tạo động lực cho sự phát triển của ngành. Với tiềm năng to lớn của mình, triển vọng về sản xuất và xuất khẩu quế ở nước ta trong những năm tới rất sáng sủa. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để khai thác tiềm năng đó một cách tốt nhất. Điều này phải có sự phố hợp nhịp nhàng giữa cán bộ, các ngành có liên quan 2. Hướng chiến lược của Việt Nam. Đảng và Nhà Nước ta đã đưa ra chủ trương, chính sách kinh tế nhằm đẩy mạnh phát triển ngành quế. - Nhà Nước chủ trương khuyến khích xuất khẩu quế với hàm lượng tinh dầu lớn hay nói cách khác là xuất khẩu quế đã qua chế biến có chất lượng tiêu chuẩn cao đạt tiêu chuẩn quốc tế. - Thị trường xuất khẩu là Singapore, Nhật Bản, Mỹ, Hồng Công làm thị trường chính. Nhà Nước khuyến khích các Công Ty tìm kiếm thị trường mới, thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu quế ngày càng phát triển. - Nhà Nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân, tham gia vào lĩnh vực sản xuất, chế biến quế. Các doanh nghiệp này thu hút lao động, góp phần giải quết vấn đề nạn thất nghiệp. Từ những định hướng trên, mục tiêu của nước ta là tăng kim ngạch xuât khẩu mặt hàng quế từ 600.00 USD/ năm hiện nay lên 1.400.000 USD vào năm 2001. II. Biện pháp đẩy mạnh Xuất khẩu quế của Công Ty XNK tổng hợp I. 1. Mở rộng thị trường Xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu quế của Công Ty XNK tổng hợp I nói riêng ngày càng phát triển, được các thị trường lớn trên thế giới ngày càng biết đến. Tuy vậy, sản lượng của Công Ty vẫn còn ở mức khiêm tốn (khoảng 500 tấn/ năm) và đang bị sức ép từ các doanh nghiệp cùng tham gia xuất khẩu quế. Với mục tiêu nâng dần sản lượng xuất khẩu đến năm 2001 là 1000 tấn với giá trị kim ngạch khoảng 2.300.000 USD. Để đạt được mục tiêu này, Công Ty phải có những biện pháp chủ yếu sau: 1.1 Mở rộng thị trường xuất khẩu. Công tác thị trường từ trước đến nay vẫn là tìm kiếm và mở rộng thị trường để tăng kim ngạch xuất khẩu. Công Ty xác định thị trường nào là thị trường trọng điểm để tập chung khai thác nhằm đưa lại cho Công Ty nhiều lợi nhuận. Công Ty la Công Ty hoạt động hoạch toán độc lập bằng nguồn vốn tự có nên có thể linh hoạt trong hoạt động kinh doanh của mình. Hoạt động nghiên cứu thị trường của Công Ty đòi hỏi phải nắm được những thông tin thiết yếu sau: Xu hướng thị trường, nhu cầu và tình hình cung cấp, khả năng tiêu thụ... Công Ty đã có những bạn hàng truyền thống như Singapore, Hồng Công... Nhưng các nước này chủ yếu là làm công việc tạm nhập tái xuất nên họ chỉ muốn nhập quế sơ chế với giá rẻ. Nhận thức được vấn đề này Công Ty đang cố gắng tăng lượng xuất khẩu đã qua chế biến và giảm lượng quế xuất khẩu sơ chế để giảm thiệt hại, vì vậy, hoạt động xuất khẩu gần đây với các nước này đang có su hướng chững lại. Ngoài thị trường truyền thống, Mỹ vẫn được coi là một thị trường quan trọng. Đây là một thị trường khổng lồ, có khả năng tiểu thụ rất lớn. Công Ty phối hợp với bộ thương mại đang nghiên cứu xâm nhập thị trường này thông qua một loạt các kết hoạch xâm nhậm cụ thể có khả năng trong năm 2000 sẽ có những hợp đồng đầu tiên. 1.2 Chủ động tìm cách xâm nhập thị trường Mỹ. Quan hệ thương mại Việt –Mỹ ngày nay đang được cải thiện theo chiều hướng tốt đẹp. Chính phủ ta hiện nay đang chuẩn bị đàm phán với chính phủ Mỹ để có thể được hưởng quy chế tối huệ quốc. Đây là một bước ngoặc có ý nghĩa rất lớn trong quan hệ bao gồm giữa hai nước và có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với Xí Nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu của Việt Nam. Nhận thức rõ điều này, Công Ty tích cực tìm kiếm khách hàng, khảo sát thị trường Mỹ và tìm kiếm khách hàng làm hàng xuất sang Mỹ với mục đích nâng cao hiệu qủa và tinh chế khi xuất khẩu mặt hàng quế sang nước Mỹ. Muốn thực hiện được vấn đề này Công Ty cần phải tập chung giải quyết các vấn đề sau: - Thứ nhất: Công Ty phải tìm cách nâng dần số lượng hàng hoá xuất sang Mỹ với khối lượng tăng từ ít đến nhiều, tăng chủng loại hàng hoá với giá cả hợp lý, đảm bảo chất lượng và thời gian giao hàng. - Thứ hai: Những điều mà Công Ty Mỹ mong đợi ở các Công Ty là thoả thuận, hợp đồng phải được bảo trọng, chất lượng sản phẩm phải được bảo đảm, giá cả hợp lý, phải giữ đúng thời gian giao hàng và yếu tố ổn định, lâu dài cũng được coi trọng. Ngoài ra Công Ty cũng phải tìm cách với các Công Ty Mỹ chuyên sản xuất dược phẩm và chế biến gia vị từ quế. Do đó Công Ty phải nỗ lực để hiểu cách thức mà nền công nghệ Mỹ hoạt động thông qua tiếp thị, giới thiệu, mời chào, thăm viếng và chứng minh được Công Ty đó có khả năng trở thành nhà cung cấp lớn trong thị trường Mỹ. -Thứ ba: Công Ty phải cung cấp các thông tin về doanh nghiệp, về sản phẩm và giới thiệu khả năng thu mua và chế biến của Công Ty với các doanh nghiệp Mỹ. Hoạt động này được thể hiện qua việc quảng cáo và các quộc hội đảm kinh doanh. - Cuối cùng: Công Ty phải xây dựng chiến lược xâm nhập thị trường Mỹ cụ thể với các hoạt động như: + Xây dựng mục tiêu về thị trường, bao gồm các mục tiêu là xâm nhập thị trường và tăng khả năng bán hàng trên thị trường Mỹ. + Phân đoạn thị trường và định hướng thị trường. + Các đặc tính sản phẩm dựa vào sự tổng hợp các yếu tố về thị trường. Tóm lại trên đây là một số phương hướng, giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu quế của Công Ty trên thị trường Mỹ. Vấn đề khó khăn nhất là sự thực hiện những vấn đề này như thế nào để đạt hiệu quả tốt là vấn đề mà Công Ty đang quan tâm và đang dần đi vào thực hiện. 2. Đẩy nhanh việc thu mua tạo nguồn hàng cho Xuất khẩu. Để tạo nguồn hàng cho xuất khẩu, Công Ty áp dụng một số biện pháp sau: 2.1. Tăng cường cung cấp tính dụng cho người chồng trọt. Cấp tín dụng cho những người trồng trọt tuy không phải là biện pháp mới nhưng vẫn phát huy hiệu quả cao. Với một số vốn ít ỏi, người nông dân không thể mở rộng khả năng trồng trọt của mình. Đồng thời, Nhà Nước chủ yếu hỗ trợ về mặt chính sách chứ không thể cấp vốn cho tất cả những người nông dân trồng quế. Các doanh nghiệp có nguồn hàng và được ưu đãi từ năm 1992. Thời gian gân đây Công Ty chủ yếu cung cấp tín dụng cho các hộ sản xuất lớn, là những người bạn hàng hành chính của Công Ty. Sau này số hộ ngày càng tăng và tính đến quối năm 1998, Công Ty đã cung cấp 200 triệu đồng cho các hộ gia đình Để được Công Ty cung cấp tính dụng, các hộ gia đình phải là người trổng trọt quế có kinh nghiệm, có độ tin tưởng cao, hộ phải cam kết bán sản phẩm của mình cho Công Ty. 2.2. Hỗ trợ cho người nông dân kỹ thuật mới Cho đến nay, phương pháp gieo trồng, chăm sóc quế của người nông dân vẫn là phương pháp thủ công , cổ truyền nhưng mang lại hiệu quả cao. Với chủ chương giúp đỡ người nông dân tăng sản lượng cũng như chất lượng quế phục vụ cho xuất khâủ, Công Ty đã phối hợp với trường đại học Nông Nghiệp I cử cán bộ kỹ thuật lên giúp đỡ bà con trồng quế ở huyện văn yên (yên bái) về phương pháp trồng và trăm sóc quế mới. Thông qua sự hỗ trợ này, người dân huyện văn yên đã tăng được sản lượng và chất lượng quế cua mình, tăng thêm thu nhập, mặt khác giúp cho Công Ty tăng sản lượng thu mua, phục vụ đầu vào cho xuất khẩu và tăng chất lượng quế xuất khẩu. Thông qua việc này uy tín của Công Ty ngày càng được nâng cao, được bà con nông dân tin cậy và thuận tiện trong việc thu gom quế. Trong những năm tới, Công Ty tiếp tục phối hợp với đại học Nông Nghiệp I hỗ trợ bà con nông dân ở tình yên bái bà một số nơi khác về kỹ thuật gieo trồng và chăm sóc quế tiên tiến nhất. 3. Đẩy mạnh chế biến, nâng cao chất lượng sản phẩm. Chế biến xuất khẩu quế là một công đoạn hết sức cần thiết, nó giúp các nhà xuất khẩu tăng thêm giá trị hàng hoá. Chế biến còn giúp cho việc bảo quản và vận chuyển hàng một cách đơn giản , đỡ tốn kem Quế xuất khẩu của Công Ty XNK tổng hợp I từ trước đến nay chủ yếu thuê ngoài ra công chế biến. Thông qua hợp đồng ký kết đối với các đối tácnước ngoài, Công Ty xác định mức độ chế biến mà từ đó thuê các đơn vị làm công tác chế biến. Việc thuê ngoài chế biến làm nẩy sinh một số vấn đề sau : - Chất lượng hàng hoá không đều, không ổn định. đây một vấn đề rất dễ nảy sinh khi thuê nhiều đơn vị khác nhau chế biến. Trong quá trình chế biến, mỗi đơn vị chế biến do khác nhau về trình độ công nghệ hoặc tay nghề mà dẫn tới chất lượng sản phẩm khác nhau. Đây là một bất lợi rất lớn, dễ mất uy tín làm ăn đối với các đối tác nước ngoài. Chi phí tăng làm cho giá thành tăng, lợi nhuận giảm. Khi thuê ngoài gia công chế biến, tất nhiên Công Ty phải trả chi phí. Điều này làm tăng thêm chi phí đầu vào và làm tăng giá thành sản phẩm. Để hạn chế những thiệt hại gây ra, đồng thời tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, Công Ty đã tiến hành khảo sát, thiết kế và lập luận chứng kinh tế kỹ thuật cho việc xây dựng nhà máy chế biến quế và các nông sản khác cho xuất khẩu. Bản luận chứng này đã được bộ thương mại đồng ý và được uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp đất xây dựng tại gia lâm. Công Ty sẽ đầu tư 1,2 tỷ đồng để xây dựng nhà máy, đến năm 2000 hoàn thành thì khâu chế biến sẽ thực hiện tại Công Ty sẽ giải quết được những vấn đề đã nêu trên. Ngoài ra do sản lượng quế ngay càng tăng, Công Ty vẫn tiếp tục thuê các đơn vị bên ngoài để chến biến nhưng sẽ tiến hành kiểm tra chặt chẽ về chất lượng, hạn chế đến mức tối đa những sơ suất. 4. Các hỗ trợ marketing trong kinh doanh mặt hàng quế. Các hỗ trợ marketing ngày càng phát triển và thực hiện hoàn thiện hơn đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường như hiện nay có nhiều đơn vị cùng tham gia xuất khẩu. Chính sách giao tiếp và khuếch trương là một công cụ quan trọng để Công Ty áp dụng và thực hiện chiến lược marketing của mình nhằm ngăn ngừa rủi ro, tăng khối lượng bán, giảm chi phí kinh doanh. Dự kiến trong thời gian tới, nhằm làm cho mặt hàng quế của Công Ty có cơ hội thâm nhập và thị trường thế giới, ban lãnh đạo của Công Ty đã đề ra chủ trương tăng cường tham gia giới thiệu của các sản phẩm tại các cửa hàng, quầu hàng, hội trợ kinh doanh, triển lãm. Qua những lần Công Ty tham gia vào triển lãm, Công Ty đã đạt được những thành công đáng kể. Điều này mở cho Công Ty một hướng mới để bán hàng của mình dưới hình thức xuất khẩu tại chỗ, thu ngoại tệ tại các chung tâm ngoại tệ của Công Ty. Hoạt động giao tiếp của Công Ty bao gồm các mối quan hệ ngang, đó là các đơn vị có liên quan đến dịch vụ mua, bán và mối quan hệ dọc là các cơ quan cấp trên, các đơn vị trực thuộc, các cửa hàng đại lý của Công Ty. Để tăng cường lực lượng cạnh tranh, Công Ty chủ trương củng cố sản phẩm của mình về chất lượng, nhãn hiệu, bao gói. 5. Từng bước giảm chi phí giá thành sản phẩm nâng cao khả năng cạnh tranh. Trong nền kinh tế thị trường, tình hình cạnh tranh luôn sẩy ra ở tất cả các loại hàng hoá. Người ta cạnh tranh với nhau về giá cả, trình độ khoa học công nghệ... Với các loại hàng hoá có hàm lượng kỹ thuật cao thì chủ yếu là cạnh tranh về trình độ tiên tiến của sản phẩm.với các loại sản phẩm Nông Nghiệp thì cạnh tranh chủ yếu soay quanh vấn đề về giá cả và chất lượng. Cạnh tranh hoạt động mua bán quế cũng vậy, chủ yếu là cạnh tranh qua giá cả và chất lượng của hàng hoá. Để dành thắng lợi trong cạnh tranh, tiêu thụ được sản phẩm của mình, Công Ty không ngừng nâng cao chất lượng hàng hoá, khai thác tiến tới giảm giá cả xuất khẩu. Để giảm giá quế xuất khẩu mà không ảnh hưởng đến lợi nhuận của Công Ty thì biện pháp chủ yếu được tiến hành là cắt giảm chi phí không cần thiết triệt để tiết kiệm. Một số chi phí sau đây có thể cắt giảm: - Chi phí thu mua. Chi phí này có thể cắt giảm thông qua việc xây dựng một nhà máy chế biến hiện đại thuộc Công Ty. Như vậy vừa giảm được chi phí gia công thuê ngoài chế biến, vừa giảm chi phí nhân công cho một đơn vị hàng hoá nhờ máy móc hiện đại. - Chi phí vận chuyển nội địa cũng như vận chuyển quốc tế. Quế là một loại hàng hoá công kềnh, lại đòi hỏi có độ bao bì đóng gói riêng lại nằm rải rác nên chi phí vận chuyển về kho, về nhà máy khá lớn. Trong những năm tới việc giảm bớt chi phí này là cần thiết để giảm giá thàn đẩy mạnh khả năng cạnh tranh. Với vận tải quốc tế, quế thường được đóng gói vào container với các mức trọng lượng sau: + Loại 20 feet chứa tối đa 7 tấn quế vụn hoặc 4,5 tấn quế ống. + Loại 40 feet chứa tối đa 14 tấn quế vụn hoặc 9 tấn quế ống. Khi xuất khẩu, Công Ty thường đóng gói vào container 40 feet vì khi đó trọng lượng tăng lên gấp đôi còn chi phí vận tải tăng 30%, như vậy tích kiệm hơn so với container loại 20 feet. Qua việc cắt giảm một số chi phí lãng phí đó, Công Ty có điều kiện cắt giảm đáng kể giá thành đầu vào của sản phẩm, nâng cao tính cạnh tranh. 6. Hoàn thiện khâu thanh toán. Có thể nói khâu thanh toán thu tiền là khâu cuối cùng trong quá trình xuất khẩu. Nó thể hiện kết quả của Công Ty tốt hay xấu, là thước đo mọi hoạt động của Công Ty. Thu tiền cho Công Ty là một việc làm có ý nghĩa giúp cho Công Ty thanh toán mọi chi phí trong quá trình hoạt động, nộp ngân sách Nhà Nước và tiếp tục phát triển kinh doanh. Hoàn thiện khâu thanh toán. Để làm tốt công tác này, Công Ty cần thực hiện tốt các công tác sau: - Tổ chức hoàn thện tốt các hình thức thanh toán, nhất là hình thức thư tín dụng L/C. - Cố gắng sử dụng vốn của đối tác bằng hình thức ứng trước vốn với Công Ty nước ngoài. - Việc thu tiền về càng thuận lợi, cang nhanh càng tốt, làm tăng nhanh tốt độ quay vòng vốn, tăng lợi nhuận, làm tăng nhanh tốc độ quay vòng vốn, tăng lợi nhuận cho Công Ty. III. Một số kiên nghị đối với Nhà Nước. 1. Thành lập hiệp hội các nhà kinh doanh Xuất khẩu quế. - Việc thành lập hiệp hội các nhà kinh doanh xuất khẩu quế không thể do các doanh nghiệp xuất khẩu tự thành lập được mà phải có sự giúp đỡ của Nhà Nước. Các cơ quan Nhà Nước với vai trò, chức năng của mình, sẽ xúc tiến, tiếp xúc với các doanh nghiệp cùng kinh doanh ngành hàng tham gia vào hiệp hội. Việc thành lập hiệp hội giữa các doanh nghiệp với nhau còn xa lạ ở nước ta, nhưng ở các nước phát triển hầu như ngành hàng nào cũng có hiệp hội. Họ đoàn kết với nhau khống chế thị trường cũng như tránh được tình trạng cạnh tranh lộn xộn giữa các doanh nghiệp trong cùng một mặt hàng. Hiệp hội các nhà kinh doanh quế được thành lập là biện pháp quan trọng hàng đầu để đối phó với tình trạng tranh mua, tranh bán lộn xộn hiện nay. Mặt khác có thể củng cố thị trường trong nước, giữ vững được giá xuât khẩu, mặt khác có thể ủng hộ, giúp đỡ nhau trên thị trường thế giới. Trong thời gian đầu có nhiều khó khăn thì hiệp hội chỉ tạm thời là thoả ước giữa các Công Ty cùng tham gia xuất khẩu về giá cả thị trường. Sau này khi mọi việc đã đi dần vào ổn định và đủ lớn để hiệp hội có thể quản lý luôn từ khâu đầu tư sản xuất đến khẩu chế biến và xuất khẩu. Hiệp hội phải đưa ra được khung giá co dãn thích hợp, kịp thời với biến động cung cầu trên thị trường, nhằm đảm bảo thu ngoại tệ cho đât nước mà vẫn giữ được thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Để thực hiện được điều này, hiệp hội phải thành lập một phòng nghiên cứu thị trường riêng, chi phí cho hoạt động này do các Công Ty thành viên đóng góp. Phòng thị trường này phải đưa ra được những phương án cụ thể để khai thác triệt để tiềm năng trong nước, kết hợp với những thông tin chính xác từ thị trường nước ngoài để tạo lợi thế tối đa cho mặt hàng của mình. Hiện nay, Công Ty XNK tổng hợp I và một số Công Ty khác cùng hoạt động trong lĩnh vực XNK quế cùng với các cơ quan chức năng xúc tiến thành lập hiệp hội xuất khẩu quế cho các doanh nghiệp. Dự kiến khi hiệp hội ra đời, giá xuất khẩu quế từ khoảng 2000USD/ tấn hiện nay tăng lên 2200-2300 USD/ tấn và cả ngành quế Việt Nam sẽ tăng thêm khoảng 1.000.000 USD. Đây là một con số đáng kể nếu so sánh với tổng kim ngạch xuất khẩu quế của Công Ty xấp xỉ 1.000.000 USD/năm và các ngành quế Việt Nam khoảng 6.000.000-7.000.000 USD/năm. 2. Hỗ trợ nghiên cứu tìm kiếm thị trường mới. Việc nghiên cứu tìm ra thị trường mới để từ đó xâm nhập thị trường là việc quan trọng mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng phải tiến hành. ở các nước phát triển do có khả năng về tài chính, hoạt động điều tra nghiên cứu này thường do chính doanh nghiệp bỏ vốn, sức lao động ra tiến hành hoặc nghiên cứu từ các Công Ty chuyên về nghiên cứu thị trường. ở Việt Nam, nền kinh tế thị trường mới được áp dụng hơn 10 năm, các doanh nghiệp chủ yếu của Việt Nam là trung bình và nhỏ trên thế giới nên việc bỏ vốn đầu tư nghiên cứu thị trường mới là quátốn kém nên không thể thực hiện được. Nhưng việc điều tra nghiên cứu thị trường là rất quan trọng, vì mở rộng thị trường sẽ tăng khả năng sản xuất kinh doanh cũng như sản lượng kim ngạch xuất khâủ của doanh nghiệp. Do đó, trong giai đoạn hiện nay để hỗ trợ hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Nhà Nước mà đại diện là bộ thương mại cần có sự hỗ trợ cho các doanh nghiệp ở các khâu điều tra, nghiên cứu khả năng thị trường mới tham gia thương mại tại thị trường đó. 3. Trợ giúp xuất khẩu về vốn. Nhà Nước nên tạo điều kiện về vốn cho các Công Ty xuất khẩu quế. Quế là một mặt hàng mà việc sản xuất và thu mua mang tính chu kỳ, thời gian dài. Trong khi đó hoạt động xuất khẩu lại diễn ra suất năm và giá cao hơn trong các kỳ giáp vụ nên đòi hỏi phải có vốn đầu tư lớn, đủ sức thu mua trong thu vụ hoạch và dự trữ xuất khẩu cả năm. Nhà Nước đẩy mạnh các hoạt động thương mại và cung cấp các thông tin về thị trường thế giới cho các Công Ty, vì ở Việt Nam thông tin về mặt hàng lâm sản còn thiếu và chậm, độ chính xác chưa cao. Thời gian tới, Nhà Nước đặc biệt chú trọng tới công tác nghiên cứu, khảo sát thị trường thế giới, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh xuât nhập khẩu. 4. Ngăn chặn tình trạng khai thác và buôn lậu quế qua biên giới. Trong những năm gần đây, hoạt động buôn lậu hàng hoá qua biên giới đang có chiều hướng gia tăng cả về số lượng lẫn quy mô. Buôn lậu không chỉ làm thất thu thuế mà còn gây ảnh hưởng tới các doanh nghiệp gây rối loạn thị trường. Nhà Nước nên có những biện pháp để ngăn chặn những hoạt động này sao cho có hiệu quả nhất. Kết luận Xuất khẩu đã, đang và sẽ tiếp tục được Nhà Nước đặt vào vị trí trung tâm, làm đòn bẩy chủ lực cho phát triển kinh tế xã hội. Đẩy mạnh xuất khẩu trở thành nhiệm vụ chiến lược của quốc gia trong suốt thời kỳ CNH-HĐH đất nước. Đây là nhiệm vụ quan trọng đòi hỏi sự cố gắn của Đảng, Nhà Nước, của tất cả các ban ngành và đặc biệt là sự nỗ lực của các Công Ty tham gia hoạt động xuất khẩt. Trong thời gian qua cùng với các doanh nghiệp khác Công Ty XNK tổng hợp I đã đạt được những thành tựu to lớn trong hoạt động xuất khẩu. Cùng với các mặt hàng khác xuất khẩu quế của Công Ty được coi là mặt hàng có ý nghĩa chiến lược bởi vậy nó có ý nghĩa quan trong trong sự phát triển của Công Ty.Thực tế đã chứng minh bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu quế Công Ty còn gặp rất nhiều khó khăn trong lĩnh vực xuất khẩu mặt hàng này và đòi hỏi Công Ty cần phải đưa ra những phương hướng, nhiệm vụ cần giải quyết đó là chất lượng hàng xuất khẩu chưa cao, Công Ty chủ yếu xuất khẩu dưới dạng sơ chế, công tác tìm nguồn hàng từ khẩu thu mua đến khẩu xuất khẩu chưa thống nhất, trình độ nghiệp vụ cán bộ của Công Ty còn yếu trong lĩnh vực xuất khẩu mặt hàng này. Trước yêu cầu chung được đặt ra, Công Ty xuất nhập khẩu tổng hợp I cần tìm ra những giải pháp có tính khả thi nhằm phát huy hơn nữa những lợi thế, khắc phục những hạn chế từ đó đẩy mạnh và nâng cao hoạt động xuất khẩu mặt hàng quế. Làm được điều này có nghĩa là côngty đã phát huy được tiềm năng ưu thế của mình góp phần thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển. Chúng ta tin rằng với những kết quả đã đạt được cùng với sự nỗ lực không mệt mỏi hoạt động xuất khẩu quế của Công Ty trong thời gian tới sẽ có một vị trí sứng đáng ở thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tế. Tài liệu tHam khảo 1. Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương-Nxb Giáo dục,1999. 2. Marketing quốc tế-Nxb Giáo dục, 2000 3. Anthus Young. Cẩm nang quản trị kinh doanh-Nxb Thống kê, 1996. 4. Chuyển dịc cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu tài liệu tham khảo của bộ thương mại. 5. Bùi Văn Hạnh- Để nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam- Tạp chí kinh tế và dự báo số 4/2001. 6.TS. Lê Hoàng- Nhà Nước cùng các doanh nghiệp vượt qua thử thách để hội nhập với khu vực và quốc tế- Tạp chí Việt Nam và Đông Nam á số 5/2001 7. Báo cáo tổng kết tình hình kinh doanh các năm 1997-1998-1999-2000-2001 của Công Ty xuất nhập khẩu tổng hợp I. 8. Tài liệu thống kê của Công Ty xuất nhập khẩu tổng hợp I. 9. Báo cáo tình hình kinh doanh xuất khẩu quế của công ty XNK tổng hợp I Hà Nội của phòng nghiệp vụ 7 10. Tài liệu thống kê của bộ Nông Nghiệp và phát triển nông thôn. 11. Niên giám thống kê 1997-1998 . 12. Báo cáo phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 1997-2001 của Bộ thương mại. Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0526.doc
Tài liệu liên quan