1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Thị trường chứng khoán là một bộ phận cuả thị trường tài chính, hoạt động
trong lĩnh vực trao đổi cổ phiếu và trái phiếu dài hạn, là một cấu trúc xã hội đặc
biệt của sự vận hành vốn. TTCK có vai trò rất quan trọng không chỉ trong việc
huy động vốn cho sự phát triển nền kinh tế mà còn tham gia phân phối lại thu
nhập quốc dân, điều hoà phân bổ vốn đầu tư xã hội giữa các ngành nghề, doanh
nghiệp, tạo ra môi trường điều tiết vĩ mô, nâng cao h
129 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1232 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm thúc đẩy doanh nghiệp tiềm năng lên niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệu quả hoạt động kinh
doanh cuả doanh nghiệp…
Chiến lược phát triển thị TTCK Việt Nam đến năm 2010 đã được Thủ Tướng
chính phủ phê duyệt ngày 05/08/2003 tại quyết định số 163/2003/QĐ – TTg thể
hiện sự đặc biệt chú trọng của Đảng và Chính phủ trong việc xây dựng thị
trường vốn vững mạnh. Theo đó, mục tiêu là phát triển TTCK cả về quy mô và
chất lượng hoạt động nhằm tạo ra kênh huy động vốn trung và dài hạn cho đầu
tư phát triển, góp phần phát triển thị trường tài chính Việt Nam; duy trì trật tự,
an toàn, mở rộng phạm vi, tăng cường hiệu quả quản lý, giám sát thị trường
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; từng bước nâng cao khả
năng cạnh tranh và chủ động hội nhập tài chính quốc tế .
Định hướng đầu tiên để phát triển thị trường là mở rộng quy mô của TTCK tập
trung, phát triển thị trường trái phiếu và tăng số lượng các loại cổ phiếu niêm
yết trên TTCK tập trung nhằm tăng quy mô về vốn cho các doanh nghiệp, nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các công ty niêm yết, đưa TTCK ngày một
đi vào ổn định, đa dạng hàng hoá nhằm thu hút nhà đầu tư.
TTCK đã trải qua hơn 5 năm hoạt động, kể từ khi Trung tâm Giao dịch chứng
khoán Thành Phố Hồ Chí Minh chính thức ra đời (ngày 20/07/2000), đến
20/07/2005 chỉ có 30 doanh nghiệp tham gia niêm yết chứng khoán. Tiến trình
2
CPH qua chặng đường hơn 10 năm, đã tạo được những thành tựu đáng ghi nhận
với số doanh nghiệp CPH trên cả nước đến nay khoảng hơn 2.500 doanh nghiệp,
hầu hết các doanh nghiệp CPH đều có kết quả kinh doanh khả quan, nhưng nếu
xét thực chất về nhu cầu hàng hoá hiện nay trên thị trường thì rõ ràng các nhà
đầu tư, các CTCK vẫn chưa thoả mãn nhu cầu tạo lập và phát triển danh mục
đầu tư cuả họ một cách đầy đủ. Vậy đâu là nguyên nhân khiến các doanh nghiệp
ngại “lên sàn” dẫn đến tình trạng khan hiếm hàng hoá trên TTCK Việt Nam
hiện nay?
Xuất phát từ tình hình thực tế và câu hỏi nêu trên, việc đề ra các giải pháp
thúc đẩy các doanh nghiệp tiềm năng lên niêm yết trên TTCK Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết để gia tăng khối lượng hàng hoá cho thị
trường, đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp niêm yết huy động vốn
qua TTCK được dễ dàng, thuận lợi hơn (vì thực tế cho thấy hiện nay hình thức
CPH cuả đa số các doanh nghiệp Nhà nước đều diễn ra trong nội bộ) nhằm nâng
cao khả năng cạnh tranh, quảng bá thương hiệu, lành mạnh hoá tình hình tài
chính và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
2. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN
Bổ sung cơ sở lý luận khoa học cho việc hình thành và vận hành hệ thống lộ
trình đưa các doanh nghiệp tiềm năng lên niêm yết trên TTCK.
Tổng kết thực tiễn quá trình thúc đẩy các doanh nghiệp tiềm năng lên niêm
yết trên TTCK tập trung dựa vào số liệu thực tế để từ đó có những đánh giá về
xu hướng, khả năng phát hành và niêm yết cuả các doanh nghiệp tiềm năng
trong tương lai.
Đề tài còn đóng góp về mặt nhận thức dựa trên nền tảng khoa học đối với các
giải pháp thúc đẩy có hiệu quả, giúp đưa các doanh nghiệp tiềm năng lên niêm
yết trên TTCK Việt Nam.
3
Đề tài đưa ra một số giải pháp cho sự hình thành và phát triển hệ thống thúc
đẩy các doanh nghiệp tiềm năng lên niêm yết, có thể áp dụng vào điều kiện cụ
thể của Tp.HCM và các tỉnh phiá Bắc, và xa hơn có thể tiến đến nhân rộng mô
hình để áp dụng trên phạm vi cả nước.
Việc ứng dụng đề tài vào thực tiễn có thể giúp khai thác mọi tiềm lực cuả các
doanh nghiệp, tương xứng với tiềm năng, lợi thế và tầm vóc cuả Tp.HCM, các
tỉnh phiá Bắc mà chủ yếu là Tp. Hà Nội, phù hợp với xu thế phát triển và hoàn
thiện thị trường tài chính nói chung và TTCK nói riêng.
Cuối cùng, Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất
nước nên rất cần một lượng vốn lớn đáp ứng nhu cầu phát triển của các doanh
nghiệp – những “tế bào” cấu thành nên nền kinh tế. Để đạt được mục tiêu này,
chúng ta cần huy động tối đa mọi nguồn lực từ tất cả các thành phần kinh tế, sử
dụng mọi phương thức huy động vốn, trong đó huy động vốn qua các doanh
nghiệp niêm yết trên TTCK là một giải pháp thật sự hữu hiệu.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Mục tiêu của việc nghiên cứu đề tài này không nằm ngoài việc đóng góp
thêm một số giải pháp thu hút các doanh nghiệp tiềm năng lên niêm yết trên
TTCK Việt Nam, nhằm giúp họ quảng bá thương hiệu, thu hút vốn được dễ dàng
hơn, lành mạnh và công khai hoá tình hình tài chính. Một bước tiến xa hơn là
nhằm đưa TTCK VN đi vào ổn định, phong phú về hàng hóa, đa dạng về chủng
loại, nâng cao về mặt chất lượng để có thể nhanh chóng hội nhập vào TTCK thế
giới.
Củng cố, mở rộng các quan hệ hàng hóa – tiền tệ, đặc biệt là các quan hệ tài
chính trong nền kinh tế.
Cải thiện môi trường kinh tế vĩ mô, đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế.
Tạo uy tín và lòng tin từ nơi nhà đầu tư trong và ngoài nước.
4
Mục tiêu sau cùng của đề tài chính là đề xuất mô hình hỗ trợ việc gia tăng
năng lực hoạt động của các doanh nghiệp tiềm năng tại hai địa bàn nêu trên
mang tính hệ thống, khả thi nhằm giúp các doanh nghiệp này đáp ứng các tiêu
chuẩn niêm yết, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong quá trình tạo hàng
cho TTCK, trong đó nhấn mạnh đến những khó khăn từ phía doanh nghiệp.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các doanh nghiệp tiềm năng trên địa bàn
Tp.HCM và các tỉnh phía Bắc.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn sử dụng phương pháp thu thập số liệu, kế thừa một cách có chọn lọc
các tài liệu khoa học, mô tả, phân tích đánh giá, so sánh dựa vào thực tiễn hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và tiềm năng niêm yết của các doanh
nghiệp; bài học kinh nghiệm của các nước trên thế giới, dựa vào hoàn cảnh và
điều kiện cụ thể của Tp.HCM và các tỉnh phía Bắc từ đó rút ra kết luận và giải
pháp theo quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Nội dung của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về công ty cổ phần, thị trường chứng khoán,
niêm yết và một số vấn đề liên quan đến việc thúc đẩy các doanh nghiệp tiềm
năng lên niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Chương 2: Thực trạng quá trình cổ phần hoá DNNN và hoạt động của TTCK
Việt Nam trong thời gian qua cùng với thực tiễn hoạt động cuả hệ thống niêm
yết
Chương 3: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp tiềm năng lên
niêm yết trên TTCK Việt Nam
-----WZ YX-----
5
CHƯƠNG I
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN, THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN, NIÊM YẾT VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN
VIỆC THÚC ĐẨY CÁC DOANH NGHIỆP TIỀM NĂNG LÊN NIÊM YẾT
TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1. CÔNG TY CỔ PHẦN – NGUỒN HÀNG HOÁ CHO TTCK
1.1.1. Khái niệm công ty cổ phần
Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó :
Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần; Cổ đông chỉ
chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của DN trong phạm vi số
vốn đã góp vào DN; Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình
cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; Cổ đông có thể là tổ
chức, cá nhân; Số lượng cổ đông tối thiểu phải là ba và không hạn chế số lượng
tối đa; CTCP có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định của
pháp luật về chứng khoán.
1.1.2. Đặc điểm cuả công ty cổ phần
- Vốn điều lệ của CTCP được chia làm nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần.
Người chủ sở hữu vốn cổ phần gọi là cổ đông. Mỗi cổ đông có thể mua một hoặc
nhiều cổ phần.
- Công ty có thể phát hành nhiều loại cổ phần, trong đó phải có cổ phần phổ
thông. Ngoài cổ phần phổ thông, công ty có thể phát hành thêm cổ phần ưu đãi:
cổ phần ưu đãi biểu quyết, cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu đãi hoàn lại và cổ
phần ưu đãi do điều lệ công ty qui định.
- Cổ đông có quyền chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ
trường hợp đó là cổ phần ưu đãi và cổ phần của cổ đông sáng lập công ty sau
6
một thời gian quy định phải nắm giữ (thường từ hai đến ba năm) kể từ ngày công
ty được cấp giấy chứng chận đăng ký kinh doanh. Đặc điểm này của CTCP cho
phép các nhà đầu tư có thể chuyển đổi hình thức và mục tiêu đầu tư một cách
linh hoạt.
- Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ khác của công ty trong
phạm vi vốn góp của mình vào công ty. Đặc điểm này cho thấy các cổ đông chỉ
chịu trách nhiệm pháp lý hữu hạn đối với phần vốn góp của mình vào công ty
(khác với tính chịu trách nhiệm vô hạn của các thành viên trong CTHD, chủ DN
trong DNTN.
- Công ty được quyền phát hành chứng khoán ra công chúng. Đặc điểm này
cho thấy khả năng huy động vốn của công ty là rất lớn và rộng rãi trong công
chúng.
- Cổ đông của CTCP tối thiểu phải là ba và không hạn chế số lượng tối đa
(khác với công ty TNHH là số thành viên không được vượt quá 50 thành viên).
Trong quá trình hoạt động, CTCP được quyền phát hành chứng khoán ra công
chúng và các cổ đông được quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình, vì
vậy số lượng cổ đông của CTCP thường là rất đông.
1.1.3. Huy động vốn cuả công ty cổ phần
CTCP là tế bào của nền kinh tế thị trường, là tổ chức rất phổ biến và lớn mạnh
ở các nước tư bản phát triển. Các-Mác đã đánh giá vai trò của CTCP như sau:
“…Nếu phải chờ đợi tư bản tư nhân tích tụ cho đến lúc nó đủ sức làm các con
đường sắt thì có lẽ cho đến ngày nay Châu Âu vẫn chưa có con đường sắt nào,
nhưng nhờ việc thành lập các CTCP nên việc ấy đã làm được dễ dàng như trở
bàn tay vậy”.
Bằng những ưu thế của CTCP về phương thức huy động và sử dụng vốn, chỉ
trong thời gian rất ngắn hình thức CTCP đã vượt xa các hình thức khác về khả
7
năng tận dụng những nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội. Có thể nói CTCP là hình
thức tập trung vốn mới, hiệu quả và tiến bộ hơn.
Chính những ưu thế vượt trội này, CTCP trở thành mô hình phổ biến hiện nay ở
các nước phát triển. Nó được hình thành theo 3 phương thức huy động vốn chủ
yếu sau đây:
- Hình thành CTCP bằng cách liên kết nguồn vốn trong nước.
- Hình thành bằng phương thức liên kết nguồn vốn trong và ngoài nước.
- Hình thành bằng phương pháp CPH các DN (đây là hình thức mà nước ta
đang thực hiện trong khoảng hơn 10 năm trở lại đây).
1.1.4. Vai trò cuả công ty cổ phần trong việc cung cấp hàng hoá cho TTCK
Trước khi có CTCP, việc bán các trái phiếu và các thương phiếu thường chỉ
xuất hiện khi các chủ sở hữu chúng cần tiền mặt. Việc di chuyển đầu tư kiếm
lời từ loại công trái hay thương phiếu này sang loại công trái hay thương phiếu
khác là rất hãn hữu vì mức lãi suất các loại trái phiếu về cơ bản là tương đương
nhau và độ an toàn cũng vậy. TTCK do đó chỉ hoạt động ở qui mô nhỏ.
Trái lại, với sự xuất hiện CTCP, việc giao dịch mua bán chứng khoán đã bùng
nổ và bước sang một giao đoạn hoàn toàn mới mẻ. Điều này bắt nguồn từ nhiều
lý do. Thứ nhất, các lĩnh vực đầu tư trở nên vô cùng đa dạng, bao gồm toàn bộ
các hoạt động sản xuất kinh doanh. Người đầu tư lúc này đứng trước hàng loạt
lựa chọn đầu tư. Thứ hai, mức độ kiếm lời và rủi ro của các lĩnh vực này hay
công ty khác nhau cũng khác nhau, thậm chí mức sinh lãi của đầu tư còn phụ
thuộc vào cả tình hình chính trị hay sự sống của một cá nhân có uy tín trong
chính trường hay trong kinh doanh. Nói cách khác, người đầu tư đứng trước hàng
loạt các tình huống lựa chọn đầu tư, và do đó tạo ra nhiều khả năng cho việc di
chuyển đầu tư từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác. Thứ ba, tính chất đầu cơ trong
giao dịch mua bán loại chứng khoán này xuất hiện. Kết quả là, thứ tư, một khối
8
lượng lớn giao dịch mua bán chuyển nhượng chứng khoán trên thị trường trở nên
thường xuyên với sự tham gia hết sức đông đảo của hầu hết các tầng lớp trong
xã hội. TTCK đến lúc đó mới thực sự phát triển cả về số lượng cũng như về
chất.
Như vậy CTCP có một ảnh hưởng có tính chất cách mạng làm thay đổi toàn bộ
hoạt động của TTCK. Nếu như trước đây TTCK chỉ là nơi giao dịch các trái
phiếu, thì giờ đây nó gồm thêm cả một loại chứng khoán có sức hấp dẫn đầu tư
hơn gấp nhiều lần, đó là các cổ phiếu. Từ đây trở đi, cổ phiếu là loại hàng hoá
chiếm tỉ trọng áp đảo trong giao dịch mua bán tại TTCK.
Với đặc điểm vượt trội của CTCP, cùng với khả năng phát hành các loại chứng
khoán và việc chuyển nhượng, mua bán chứng khoán sẽ tạo điều kiện cho sự ra
đời của TTCK. Vì vậy, vai trò của CTCP trong việc tạo hàng hóa cho TTCK là
không thể phủ nhận. Bên cạnh đó, sự phát triển của CTCP cả về lượng lẫn về
chất tác động lớn đến sự hoàn thiện vai trò của TTCK đến nền kinh tế thị
trường, và đến lượt nó, TTCK sẽ tạo điều kiện cho nhà kinh doanh có thể tìm
kiếm các nguồn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.1.5. Công ty cổ phần là ưu thế cuả nền kinh tế thị trường
Ngày nay, tất cả các quốc gia trên thế giới có nền kinh tế phát triển, hoạt động
theo cơ chế thị trường đều có hệ thống thị trường tài chính tốt. Thực tế cho thấy,
hệ thống thị trường tài chính đã góp phần thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, kể cả ở những quốc gia mà tài nguyên hầu như
không có gì. Một thị trường tài chính năng động là một thứ “ tài nguyên” bất tận
và nó làm tăng thêm sức mạnh cho nền kinh tế hơn bất cứ loại tài nguyên nào
và với trữ lượng bao nhiêu. Chính vì vậy, từ lâu các nhà DN lớn của thế giới đã
khẳng định : “Không thể triển khai các dự án tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản
xuất, nếu không tập hợp được những nguồn vốn khổng lồ mà người tập hợp có
9
toàn quyền sử dụng cho những mục tiêu trung và dài hạn. TTCK có vai trò đó,
cái mà ngành ngân hàng với phương thức kinh doanh ăn chắc không thể làm
được”. Cho nên, việc CTCP ra đời đã giải quyết được tình trạng thiếu vốn để
thành lập hoặc phát triển các DN đòi hỏi vốn lớn mà một cá nhân không đủ khả
năng tài chính cho việc đó. Và thông qua TTCK, CTCP đã biến những nguồn
vốn ngắn hạn, lẻ tẻ trở thành những nguồn vốn đầu tư dài hạn to lớn.
Từ kinh nghiệm của các quốc gia đi trước cũng như thực tiễn hoạt động của các
CTCP ở nước ta đã khẳng định được lợi ích của việc CPH các DNNN và những
ưu thế của mô hình CTCP so với mô hình tổ chức, quản lý các DNNN hiện tại.
Mặc dù vẫn còn không ít khó khăn nhưng sau khi thực hiện CPH, các DN đều tỏ
ra năng động hơn, hoạt động theo “điều lệ” trên cơ sở Luật DN, các CTCP tự
quyết định phương án phát triển sản xuất, kinh doanh, tự quyết định và tự trách
nhiệm đối với các dự án đầu tư; lợi ích của người lao động gắn bó chặt chẽ với
lợi ích của DN. Điều này có thể khẳng định được thông qua kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh, đặc biệt là sự tăng trưởng về vốn và lợi nhuận một cách đột
biến của các CTCP trong giai đoạn 2000-2004. Với mô hình DNNN trước đây,
những DN này chưa bao giờ tạo ra được mức độ tăng trưởng nhanh như vậy.
1.2. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.2.1. Khái niệm về thị trường chứng khoán
TTCK có thể được hiểu đơn giản là một bộ phận của thị trường vốn và là nơi
diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán các loại chứng khoán trung và dài hạn.
Về hình thức TTCK chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi mua bán các loại
chứng khoán, qua đó thay đổi các chủ thể nắm giữ chứng khoán. Nhưng về bản
chất thì TTCK là nơi tập trung và phân phối các nguồn vốn tiết kiệm; là định
chế tài chính trực tiếp, mà cung cầu vốn có thể trực tiếp tìm đến với nhau; là sự
10
vận động của tư bản tiền tệ, chuyển tư bản tiền tệ từ tư bản sở hữu sang tư bản
chức năng. Đây là hình thức phát triển cao của nền sản xuất hàng hóa.
1.2.2. Chức năng cuả thị trường chứng khoán
1.2.2.1 Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế
Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn
rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở
rộng sản xuất xã hội. Thông qua TTCK, chính phủ và chính quyền ở các địa
phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát
triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội.
1.2.2.2. Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng
TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ
hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về
tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn hàng
hoá phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình.
1.2.2.3. Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán
Nhờ có TTCK các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu
thành tiền hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản
là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư. Đây
là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. TTCK hoạt động càng
năng động và có hiệu quả thì tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch
trên thị trường càng cao.
1.2.2.4 Đánh giá hoạt động cuả doanh nghiệp
Thông qua chứng khoán, hoạt động của các DN được phản ánh một cách tổng
hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của DN được
nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành
11
mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới,
cải tiến sản phẩm.
1.2.2.5. Tạo môi trường giúp chính phủ thực hiện các chính sách vĩ mô
Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén
và chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền
kinh tế tăng trưởng; ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy dấu hiệu tiêu
cực của nền kinh tế. Vì thế, TTCK được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và
là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách vĩ mô.
Thông qua TTCK, Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra
nguồn thu bủ đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ
cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động và TTCK nhằm định
hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế.
1.2.3. Cơ cấu thị trường chứng khoán
Xét về lưu thông cuả chứng khoán trên thị trường, TTCK có hai loại :
1.2.3.1. Thị trường sơ cấp
Là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên thị trường này,
vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư
mua các chứng khoán mới phát hành.
1.2.3.2. Thị trường thứ cấp
Là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Thị
trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành.
1.2.4. Các nguyên tắc hoạt động cuả thị trường chứng khoán
Nguyên tắc công khai
Chứng khoán là loại hàng hoá trừu tượng nên TTCK phải được xây dựng trên
cơ sở hệ thống công bố thông tin tốt. Theo luật định, các tổ chức phát hành có
nghĩa vụ phải cung cấp thông tin đầy đủ theo chế độ thường xuyên và đột xuất
12
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, SGDCK, các CTCK và các tổ
chức có liên quan.
Nguyên tắc trung gian
Theo nguyên tắc này, các giao dịch chứng khoán được thực hiện thông qua tổ
chức trung gian là các CTCK. Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư không mua
trực tiếp của nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị
trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh, các CTCK mua,
bán chứng khoán giúp các khách hàng, hoặc kết nối các khách hàng với nhau
qua việc thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán trên tài khoản của mình.
Nguyên tắc đấu giá
Mọi việc mua bán chứng khoán trên TTCK đều hoạt động trên nguyên tắc đấu
giá. Nguyên tắc đấu giá dựa trên mối quan hệ cung cầu trên thị trường quyết
định.
Khi thực hiện nguyên tắc này, bao giờ cũng tuân thủ theo các thứ tự ưu tiên về
giá (giá đặt mua cao nhất và giá chào bán thấp nhất), về thời gian, về khách
hàng (ưu tiên các nhà đầu tư cá nhân trước), về quy mô lệnh (cùng một mức giá,
ưu tiên các lệnh có khối lượng lớn hơn).
1.2.5. Các thành phần tham gia thị trường chứng khoán
Các tổ chức và cá nhân tham gia TTCK được chia làm 3 nhóm chủ yếu sau:
1.2.5.1. Nhà phát hành
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua TTCK.
Nhà phát hành là người cung cấp các chứng khoán – hàng hóa của TTCK, nhà
phát hành bao gồm:
- Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu Chính
phủ và trái phiếu chính quyền địa phương.
13
- Công ty phi tài chính là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty
nhằm huy động vốn cho sản xuất kinh doanh.
- Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các cổ
phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi, chứng chỉ đầu tư, ... phục vụ cho hoạt động
kinh doanh của họ.
1.2.5.2. Nhà đầu tư
Là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên TTCK. Nhà đầu tư có
thể chia thành 2 loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức.
- Các nhà đầu tư cá nhân: Là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời có thặng
dư tài chính, tham gia mua bán trên TTCK với mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
- Các nhà đầu tư là tổ chức: nhà đầu tư là tổ chức, hay còn gọi là các định chế
đầu tư, thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường. Các
tổ chức này thường có các bộ phận chức năng bao gồm nhiều chuyên gia có kinh
nghiệm để nghiên cứu thị trường và đưa ra quyết định đầu tư. Một số nhà đầu tư
chuyên nghiệp chính trên TTCK là các công ty đầu tư, các công ty tài chính, các
công ty bảo hiểm, các quỹ lương hưu và các quỹ bảo hiểm xã hội khác. Đầu tư
thông qua các tổ chức đầu tư có ưu điểm nổi bật là có thể đa dạng hóa danh mục
đầu tư và các quyết định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia có kinh
nghiệm.
Bên cạnh các CTCK, các NHTM cũng có thể trở thành nhà đầu tư chuyên
nghiệp khi họ mua chứng khoán cho chính mình.
1.2.5.3. Các tổ chức kinh doanh trên TTCK
- Công ty chứng khoán: Là những công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng
khoán, có thể đảm nhận một hoặc nhiều trong số các nghiệp vụ chính là bảo
lãnh phát hành, môi giới, tự doanh, quản lý danh mục đầu tư và tư vấn đầu tư
14
chứng khoán. Để có thể được thực hiện mỗi nghiệp vụ, các CTCK phải đảm bảo
được một số vốn nhất định và phải được phép của cơ quan có thẩm quyền.
- Các NHTM: Tại một số nước, các NHTM có thể sử dụng vốn tự có để tăng
và đa dạng hóa lợi nhuận thông qua đầu tư vào các chứng khoán. Tuy nhiên, các
ngân hàng chỉ được đầu tư vào chứng khoán trong những giới hạn nhất định, chủ
yếu là chứng khoán nợ để bảo vệ ngân hàng trước những biến động của giá
chứng khoán. Một số nước cho phép NHTM thành lập công ty con độc lập để
kinh doanh chứng khoán và thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành.
1.2.5.4. Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán
- Cơ quan quản lý, giám sát TTCK được hình thành dưới nhiều mô hình hoạt
động khác nhau, có nước do các tổ chức tự quản thành lập, có nước cơ quan này
trực thuộc Chính phủ, nhưng có nước lại có sự kết hợp quản lý giữa các tổ tự
quản và Nhà nước.
Nhìn chung cơ quan quản lý này do Chính phủ (Nhà nước) của các nước thành
lập, nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư và bảo đảm cho TTCK hoạt
động lành mạnh, suôn sẻ và phát triển vững chắc.
Cơ quan này có thể có những tên gọi khác nhau, tùy thuộc từng nước và nó
được thành lập để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với chứng khoán
và TTCK.
Ở Việt Nam, cơ quan quản lý Nhà nước về Chứng khoán và TTCK đó là
UBCKNN, thành lập theo Nghị định 75/CP ngày 28/11/1996, nay là Nghị định
90/CP của Chính phủ. UBCKNN là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức
năng quản lý Nhà nước đối với TTCK Việt Nam. Hiện nay, UBCKNN đã được
chuyển về Bộ Tài chính theo Nghị Định 66/2004/NĐ-CP ban hành ngày
19/02/2004
15
- TTGDCK Tp.HCM: Theo Quyết định 328/QĐ-UBCK ngày 17/12/2003 của
Chủ tịch UBCKNN quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của TTGDCK Tp.HCM, TTGDCK là đơn vị sự nghiệp thuộc UBCKNN có chức
năng tổ chức, quản lý, điều hành và giám sát hoạt động giao dịch chứng khoán
và TTCK theo quy định của pháp luật.
- Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán: Là tổ chức tự quản bao gồm các
CTCK và một số thành viên khác hoạt động trong ngành chứng khoán, được
thành lập với mục đích bảo vệ cho từng thành viên nói riêng và cho toàn ngành
chứng khoán nói chung.
- Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán: Là tổ chức nhận lưu giữ
các chứng khoán và tiến hành các nghiệp vụ thanh toán bù trừ cho các giao dịch
chứng khoán (ngân hàng Đầu tư và Phát triển được chỉ định thanh toán).
- Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán: Là tổ chức phụ trợ, phục vụ cho các
giao dịch chứng khoán. Công ty này cung cấp hệ thống mày tính với các chương
trình để thông qua đó thực hiện được các lệnh giao dịch chính xác, nhanh chóng.
Thông thường công ty dịch vụ máy tính chứng khoán ra đời khi TTCK đã phát
triển đến một trình độ nhất định, đi vào tự động hóa các giao dịch.
- Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm: Là công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh
giá năng lực thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn, theo những điều
khoản đã cam kết của công ty phát hành đối với đợt phát hành cụ thể. Các mức
hệ số tín nhiệm vì thế thường được gắn cho một đợt phát hành, chứ không phải
cho công ty. Vì thế, một công ty phát hành có thể mang hệ số tín nhiệm khác
nhau cho các phát hành nợ khác nhau.
Các nhà đầu tư có thể dựa vào các hệ số tín nhiệm do các công ty đánh giá hệ
số tín nhiệm cung cấp để cân nhắc đưa ra quyết định đầu tư của mình.
16
1.3. NIÊM YẾT CHỨNG KHOÁN VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI THÚC ĐẨY
CÁC DOANH NGHIỆP TIỀM NĂNG LÊN NIÊM
1.3.1. Niêm yết chứng khoán và một số vấn đề liên quan
1.3.1.1. Khái niệm niêm yết chứng khoán
Niêm yết là việc một chứng khoán được đưa vào giao dịch chính thức tại
SGDCK sau khi đã đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn niêm yết do SGDCK đó quy
định. Việc chứng khoán của một tổ chức phát hành được niêm yết sẽ đem lại cho
chính tổ chức đó và các nhà đầu tư nhiều lợi thế đáng kể như: hoạt động mua
bán được tiến hành trong một thị trường trật tự và được quản lý chặt chẽ, tính
thanh khoản của chứng khoán được tăng cường, giá cả được xác định một cách
minh bạch và công bằng, quyền lợi của người sở hữu chứng khoán được bảo vệ
tối đa bởi các quy định của pháp luật…
1.3.1.2. Phân loại niêm yết
Niêm yết lần đầu (Intial Listing):
Niêm yết lần đầu là việc cho phép chứng khoán của tổ chức phát hành được
đăng ký niêm yết, giao dịch lần đầu tiên sau khi chào bán ra công chúng và đáp
ứng được các tiêu chuẩn về niêm yết chứng khoán.
Niêm yết bổ sung (Additional Listing):
Niêm yết bổ sung là quá trình chấp thuận của SGDCK cho một CTNY được
niêm yết các chứng khoán mới phát hành thêm với mục đích tăng vốn hay vì các
mục đích khác như: sáp nhập, chi trả cổ tức bằng cổ phiếu, thực hiện các trái
quyền hoặc thực hiện các trái phiếu chuyển đổi thành cổ phiếu.
Thay đổi niêm yết (Change Listing):
Thay đổi niêm yết phát sinh khi CTNY thay đổi tên giao dịch, khối lượng,
mệnh giá hoặc tổng giá trị cổ phiếu được niêm yết của mình.
Niêm yết lại (Relisting):
17
Niêm yết lại là việc cho phép một công ty phát hành được tiếp tục niêm yết trở
lại các chứng khoán trước đây đã bị hủy bỏ niêm yết vì các lý do không đáp ứng
được các tiêu chuẩn duy trì niêm yết.
Niêm yết cửa sau (Backdoor Listing):
Niêm yết cửa sau là trường hợp một tổ chức niêm yết chính thức sáp nhập, liên
kết hoặc tham gia vào hiệp hội với mộ tổ chức, nhóm không niêm yết và kết qủa
là các tổ chức không niêm yết đó lấy được quyền kiểm soát tổ chức niêm yết.
Niêm yết đa thị trường (Dual Listing):
Niêm yết đa thị trường là việc công ty niêm yết có chứng khoán được niêm yết
ở nhiều thị trường trong và ngoài nước.
Niêm yết từng phần (Partial Listing):
Niêm yết từng phần là việc công ty chỉ niêm yết một phần cổ phiếu đang lưu
hành của mình. Đây là trường hợp các DNNN lớn chỉ niêm yết phần chứng
khoán bán cho công chúng.
1.3.1.3. Tiêu chuẩn niêm yết
Tiêu chuẩn định lượng:
- Mức độ vốn: Vốn đăng ký, vốn cổ phần, tài sản hữu hình ròng, giá trị thị
trường, số cổ phiếu, doanh số, …
- Thời gian hoạt động của công ty: Thời gian kể từ lúc công ty thành lập đến
lúc công ty đăng ký niêm yết cũng là một tiêu chuẩn đối với việc niêm yết
chứng khoán, yêu cầu này nhằm bảo đảm hoạt động có tính liên tục không gián
đoạn.
- Khả năng sinh lời cũng là một nhân tố quan trọng đánh giá công ty, chỉ tiêu
này có thể quy định bằng mức tuyệt đối hay tương đối (%). Chẳng hạn như tổng
số lợi nhuận thu được từ vốn cổ phần trong 3 năm gần nhất phải nhiều hơn tiền
thu được từ tiền gửi kỳ hạn 1 năm.
18
- Tỷ lệ nợ, chỉ số này được tính bằng cách lấy tổng tài sản nợ chia cho tổng
vốn cổ phần, chỉ số này đánh giá mức độ khỏe mạnh về cấu trúc vốn của công
ty.
- Phân phối cổ phiếu, số cổ phiếu do cổ đông nắm giữ phải đạt một tỷ lệ tối
thiểu quy định.
Theo Nghị định 144/CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ về chứng khoán và
TTCK thay thế Nghị định 48/CP thì :
- Vốn điều lệ tối thiểu của CTCP xin niêm yết là 5 tỷ đồng, DN xin niêm yết
trái phiếu phải có vốn điều lệ tối thiểu là 10 tỷ đồng.
- Kết quả hoạt động kinh doanh : Đối với CTCP đăng ký niêm yết, hoạt động
kinh doanh của 02 năm liền kể trước năm xin niêm yết phải có lãi. Đối với
DNNN CPH và niêm yết ngay trên TTCK, chỉ cần có lãi trong năm liền kề trước
năm xin niêm yết.
- Số lượng cổ đông: Tối thiểu 20% vốn cổ phần của CTNY phải do ít nhất 50
cổ đông ngoài tổ chức phát hành nắm giữ. Đối với công ty có vốn cổ phần từ 100
tỷ đồng trở lên thì tỷ lệ này tối thiểu phải là 15% vốn cổ phần. Đối với việc
niêm yết trái phiếu, số lượng người sở hữu trái phiếu tối thiểu phải là 50 người.
- Về hạn chế chuyển nhượng: Các cổ đông là thành viên HĐQT, Ban Giám
đốc, ban kiểm soát của CTNY phải cam kết nắm giữ ít nhất 50% số cổ phiếu do
mình sở hữu trong thời gian 03 năm kể từ ngày niêm yết.
Tiêu chuẩn định tính:
- Đánh giá về triển vọng của công ty;
- Phương án khả thi về sử dụng vốn đợt phát hành;
- Ý kiến kiểm toán về các báo cáo tài chính;
- Cơ cấu tổ chức hoạt của công ty (HĐQT và Ban Giám ._.đốc điều hành);
- Lợi ích mang lại đối với ngành, nghề trong nền kinh tế quốc dân;
19
- Tổ chức công bố thông tin.
Dựa vào các tiêu chuẩn trên SGDCK quyết định có chấp nhận việc niêm yết
của các công ty đăng ký niêm yết hay không. Những điều kiện này thường
không áp dụng chung cho tất cả TTCK mà còn tùy thuộc vào tình hình và cơ chế
vận hành TTCK cũng như mục đích xây dựng SGDCK của từng nước sẽ có
những quy định cụ thể phù hợp với quốc gia đó. Những quy định này thông
thường sẽ rất nghiêm ngặt ở những thị trường lớn, hoạt động lâu đời và có danh
tiếng nhưng lại tương đối dễ dàng hơn đối với những thị trường mới vận hành
hay còn non trẻ (TTCK của nước ta cũng là một trong số đó). Ở Việt Nam, tiêu
chuẩn về hoạt động của tổ chức niêm yết : Phải có tình hình tài chính lành
mạnh; Ý kiến kiểm toán : Đối với báo cáo tài chính trong 2 năm kiên tục gần
nhất tính đến ngày xin phép niêm yết hay niêm yết lại, ý kiến kiểm toán phải là
chấp nhận toàn bộ hoặc chấp nhận có ngoại trừ.
1.3.1.4. Điều kiện niêm yết
Để chứng khoán được niêm yết, các tổ chức phát hành phải nộp Hồ sơ xin cấp
phép niêm yết lên SGDCK hoặc UBCKNN. Tổ chức xin cấp phép phải chịu
trách nhiệm về tính đầy đủ và hợp lệ của bộ hồ sơ. Ngoài ra, các tổ chức liên
quan như tổ chức tư vấn niêm yết, tổ chức kiểm toán được chấp thuận, và những
người ký xác nhận báo cáo tài chính của tổ chức xin niêm yết phải liên đới chịu
trách nhiệm về tính hợp pháp của bộ hồ sơ theo luật định.
1.3.1.5. Thủ tục cần thiết cho việc niêm yết chứng khoán
Thủ tục niêm yết là quá trình thực hiện các bước xem xét về điều kiện và tiêu
chuẩn của tổ chức xin niêm yết, cũng là quá trình xem xét để chấp thuận tổ chức
đó có được niêm yết hay không. Thủ tục niêm yết thường được các nước quy
định trong Luật chứng khoán hoặc các văn bản pháp lý khác. Đối với mỗi hình
thức niêm yết đều có những trình tự thủ tục niêm yết khác nhau. Thông thường,
20
các thủ tục trong trường hợp niêm yết lần đầu khá phức tạp, và được cơ quan cấp
phép niêm yết xem xét rất cẩn thận. Trong trường hợp niêm yết bổ sung, thủ tục
niêm yết đơn giản hơn vì hầu như cơ quan cấp phép chỉ kiểm tra về tính hợp lệ
của đợt phát hành bổ sung. Vì thế, trong phạm vi đề tài này, tác giả chỉ xin đề
cập đến thủ tục niêm yết lần đầu.
Ở Việt Nam, theo Nghị định 144/2003/NĐ-CP, trình tự xin cấp phép niêm yết
và đăng ký niêm yết lần đầu theo quy định hiện tại như sau:
(1) Tổ chức phát hành nộp hồ sơ xin cấp phép niêm yết lên UBCKNN
(2) UBCKNN xem xét hồ sơ và trả lời về việc chấp thuận hoặc không chấp
thuận cho niêm niêm yết trong vòng 45 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ.
Sau khi được UBCKNN chấp thuận cấp phép niêm yết, tổ chức phát hành nộp
đơn và hồ sơ đăng ký niêm yết tại TTGDCK.
(3) TTGDCK xem xét và kiểm tra vềø tính đầy đủ, hợp lệ của bộ hồ sơ đăng ký,
sau đó ra thông báo chấp thuận đăng ký niêm yết, tiến hành khai trương niêm
yết và công bố thông tin về tổ chức niêm yết.
1.3.1.6. Mối quan hệ giữa phát hành và niêm yết
Các CTNY trên TTCK thường là CTCP đại chúng, tức là đa số cổ phiếu mà
công ty phát hành phải do một khối lượng lớn công chúng nắm giữ. Phát hành
chứng khoán trở thành khâu tiền đề của niêm yết chứng khoán. Do vậy, ở nhiều
nước trên thế giới, nơi mà việc niêm yết cổ phiếu trở thành điều tất yếu của các
CTCP tiềm năng, quá trình phát hành và niêm yết có mối liên hệ rất chặt chẽ.
Trong khi đó ở Việt Nam, vì việc phát hành ra công chúng và niêm yết chứng
khoán của các CTCP, Công ty TNHH, DNNN hiện đang được điều chỉnh bởi
Nghị định 144/CP. Mặc dù điều chỉnh cả hai lĩnh vực phát hành và niêm yết
chứng khoán nhưng theo Nghị định này, UBCKNN chỉ cấp phép niêm yết cho
các tổ chức phát hành nào có đơn xin cấp phép niêm yết. Vì vậy, việc phát hành
21
và niêm yết chứng khoán hoàn toàn tách rời nhau, điều này có nghĩa là tổ chức
phát hành không bị ràng buộc bởi nghĩa vụ niêm yết. Kể cả khi tổ chức phát
hành đủ điều kiện niêm yết, nhưng nếu không lập hồ sơ xin niêm yết thì họ vẫn
không được niêm yết.
1.3.1.7. Một số vấn đề khác có liên quan
Sau khi chứng khoán đã được niêm yết, SGDCK (TTGDCK) chịu trách nhiệm
trực tiếp quản lý và theo dõi tình hình giao dịch của chứng khoán đã niêm yết,
hoạt động sản xuất kinh doanh, tài chính và việc thực hiện các nghĩa vụ sau
niêm yết của tổ chức phát hành. Sau khi niêm yết, một số vấn đề có thể phát
sinh và cần được theo dõi chặt chẽ, như: Tình hình giao dịch chứng khoán niêm
yết; Tổ chức niêm yết thực hiện mua bán cổ phiếu quỹ; Tổ chức niêm yết thực
hiện chế độ báo cáo và công bố thông tin định kỳ (thông thường là thông tin của
báo cáo tài chính năm, báo cáp tài chính 06 tháng và quý), bên cạnh đó là thực
hiện chế độ công bố thông tin theo yêu cầu và công bố thông tin bất thường.
1.3.2. Sự cần thiết phải thúc đẩy các doanh nghiệp tiềm năng lên niêm yết
1.3.2.1. Lợi ích và bất lợi cuả việc niêm yết
Lợi ích :
- Dễ dàng huy động vốn để mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh khi có nhu
cầu
Về mặt nguyên tắc, việc niêm yết là nhằm mục đích tìm kiếm nguồn tài trợ
vốn thông qua phát hành chứng khoán. Các CTNY có thể huy động vốn dài hạn
với chi phí thấp bằng cách phát hành cổ phiếu. Thông thường, một CTNY có độ
tín nhiệm của công chúng cao hơn nhiều so với một công ty không niêm yết. Vì
vậy, chi phí sử dụng vốn huy động sẽ giảm đi khi đây là một CTNY.
- Nâng cao tính thanh khoản cho chứng khoán
22
Khi đã trở thành CTNY, khả năng trao đổi chứng khoán của DN cao hơn.
Chứng khoán của DN luôn được định giá khách quan, công bằng. Nhờ vậy chúng
dễ dàng được chấp nhận rộng rãi và được làm tài sản kế thừa, cho, tặng, vay
mượn và cầm cố.
Ngoài ra, các nhà đầu tư nhỏ cũng có cơ hội để trở thành cổ đông của CTNY,
bởi vì họ có thể mua được số lượng nhỏ cổ phiếu qua sàn giao dịch, điều này rất
có ý nghĩa đối với mục tiêu xã hội hóa đầu tư.
- Được hưởng ưu đãi về thuế và những chính sách khuyến khích của Nhà nước.
Nhằm phát triển TTCK, các Chính phủ thường đưa ra nhiều chính sách khuyến
khích DN đi ra niêm yết, trong đó chính sách thường áp dụng nhất đó là miễm
giảm thuế. Bên cạnh đó, nhà đầu tư cũng được hưởng các ưu đãi về thuế từ việc
đầu tư chứng khoán.
- Tác dụng tích cực của tính đại chúng
Việc niêm yết sẽ giúp quảng bá hình ảnh của DN ra công chúng, cụ thể là nhà
đầu tư, các tổ chức cung cấp tín dụng, khách hàng, nhà cung cấp, nhân viên của
công ty và cả cộng đồng xung quanh, bởi vì tên tuổi của công ty luôn luôn được
công chúng quen thuộc qua các phương tiện thông tin đại chúng. Nhờ đó DN
niêm yết dễ dàng tìm kiếm thêm khách hàng, nhà cung cấp, nhà tài trợ,…
- Chứng khoán của DN có nơi giao dịch tin cậy, khách quan và an toàn
Các SGDCK và các cơ quan quản lý chức năng luôn bảo vệ nhà đầu tư, thông
qua việc ban hành nhiều quy định liên quan đến công bố thông tin, chống giao
dịch nội gián, thao túng giá,… nhằm giữ cho việc giao dịch chứng khoán luôn
được trật tự và công bằng. Còn việc thanh toán chứng khoán giao dịch sẽ được
bảo đảm an toàn, thông qua các định chế cung cấp dịch vụ thanh toán của thị
trường.
- Một số lợi ích khác
23
Dưới sự đánh giá một cách khách quan của công chúng đầu tư, từ đó có thể
giúp cho công ty có được những giải pháp phù hợp và kịp thời để chấn chỉnh
hoạt động của công ty mình ngày một tốt hơn.
Bất lợi
Bên cạnh những mặt tích cực khi công ty ra niêm yết như vừa nêu trên đây thì
vẫn còn có một số bất lợi và cản trở sau:
- Phải công bố thông tin công khai
Vấn đề đáng ngại nữa cho các CTNY là phải công bố tất cả thông tin về DN
theo quy định. Thật vậy, các thông tin quan trọng, ảnh hưởng rất nhạy cảm đến
giá chứng khoán, như các thông tin liên quan đến nhân sự, tài chính, kế hoạch
kinh doanh… của DN cũng phải công bố. Bên cạnh đó, theo quy định về công bố
thông tin, những thông tin không tốt của CTNY cũng phải phổ biến rộng rãi, do
vậy DN có thể gặp bất lợi trong cạnh tranh với các đối thủ và giá chứng khoán
của mình.
- Phải đáp ứng các tiêu chuẩn rất cao về công tác quản trị công ty
Các DN niêm yết luôn được yêu cầu phải thiết lập mối quan hệ giữa DN với
các cổ đông hiện tại, cổ đông tiềm năng, để giải đáp và cung cấp kịp thời các
thông tin họ cần tìm hiểu về DN. CTNY còn phải bố trí sắp xếp nhân sự, hệ
thống phục vụ cho hoạt động niêm yết của công ty, để đảm bảo việc tuân thủ
các chuẩn mực công bố thông tin theo quy định của pháp luật, của SGDCK.
- Đối mặt với rủi ro bị thâu tóm, kiểm soát
Việc niêm yết mở rộng phạm vi trao đổi vốn và quyền biểu quyết của cổ phiếu
ra bên ngoài, nên CTNY đương đầu với các rủi ro bị thâu tóm, sát nhập mang
tính thù nghịch là có thể xảy ra.
- Một số bất lợi khác
24
Việc biến động giá chứng khoán trên thị trường còn phụ thuộc vào nhiều yếu
tố, trong đó yếu tố tâm lý của nhà đầu tư không thể không nói đến, CTNY vẫn
phải phụ thuộc vào trào lưu ấy, do đó việc biến động giá trên thị trường giao
dịch chưa phản ánh đúng thực chất của hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ
chức niêm yết.
1.3.2.2. Sự cần thiết phải thúc đẩy các DN tiềm năng lên niêm yết trên TTCK
Việc đề ra các giải pháp để thúc đẩy các DN tiềm năng thuộc mọi thành phần
kinh tế lên niêm yết trên TTCK sẽ mang lại nhiều lợi ích cho DN như đã được
phân tích trong phần 1.3.2.1, và từ những luận điểm bổ sung sau đây có thể thấy
được sự cần thiết phải thúc đẩy các DN tiềm năng lên niêm yết.
Việc thúc đẩy các DN tiềm năng lên niêm yết trên TTCK hiện nay sẽ giúp cổ
đông của DN dễ dàng trao đổi số vốn đã đầu tư của mình. Các nguồn vốn có kỳ
hạn khác nhau được khai thông để trở thành nguồn vốn dài hạn cho các DN. Nhà
đầu tư có thể dễ dàng tham gia hoặc rút vốn đầu tư thông qua việc giao dịch
chứng khoán, từ đó tính thanh khoản của chứng khoán được nâng cao, giúp các
DN có nhiều thuận lợi hơn trong việc huy động vốn khi cần thiết.
Theo kết quả nghiên cứu gần đây của Tổng cục Thống kê, trình độ công nghệ,
trang thiết bị của hầu hết các DN đều đã lạc hậu. Trong bối cảnh nền kinh tế
đang từng bước hội nhập quốc tế thì đây là một trở ngại lớn cho các DN trong
môi trường cạnh tranh mới. Việc niêm yết trên TTCK sẽ giúp DN tăng thêm khả
năng có được nguồn vốn dài hạn để đầu tư và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Việc thúc đẩy các DN tiềm năng lên niêm yết sẽ giúp TTCK phát triển mạnh
mẽ, giúp hoàn thiện hệ thống tài chính, tạo ra một cơ chế đồng bộ cho phép tất
cả các nguồn vốn có kỳ hạn khác nhau lưu thông nhanh và hiệu quả.
Triển khai thực hiện nghị quyết IX, Chính phủ đã tập trung vào việc củng cố
và phát triển TTCK, thúc đẩy các Tổng công ty, DN lớn, có uy tín trong lĩnh vực
25
sản xuất kinh doanh, tài chính, ngân hàng và khu vực DN có vốn ĐTNN tham
gia niêm yết. Bên cạnh đó, Chính phủ có yêu cầu Bộ Tài chính rà soát để sửa
đổi, bổ sung các quy định về ưu đãi thuế đối với các hoạt động chứng khoán,
theo hướng tạo thêm thuận lợi cho các nhà đầu tư.
Bộ tài chính và UBCKNN đã tiến hành làm việc với các DN niêm yết, các
định chế trung gian, các Tổng công ty, các ngân hàng lớn, các Bộ ngành liên
quan để để ra các giải pháp hiệu quả nhằm phát triển TTCK. Một trong những
giải pháp đó là tạo nên một sự chuyển biến mạnh mẽ về nguồn cung chứng
khoán cho thị trường ngay trong giai đoạn năm 2005-2006.
Bên cạnh đó, nền kinh tế đã bắt đầu được hội nhập vào quỹ đạo chung của nền
kinh tế quốc tế và khu vực, các DN phải tăng khả năng cạnh tranh của mình
trong môi trường kinh doanh mới. Nhà nước đang quản lý kinh tế và xã hội bằng
pháp quyền, hệ thống pháp luật cho vận hành kinh tế xã hội theo cơ chế thị
trường đang được hình thành và phát triển. TTCK đã đi vào hoạt động hơn 5 năm
và đang chuẩn bị bước sang một giai đoạn phát triển mới. Tất cả những điều
kiện trên đây đã tạo ra những tiền đề tích cực cho sự phát triển của thị trường
vốn, và cho thấy tính tất yếu và sự cần thiết phải tạo nguồn cung hàng hoá dồi
dào phong phú cho TTCK trong giai đoạn sau.
26
Kết luận Chương I
Qua Chương này, tác giả đã trình bày khát quát về CTCP, TTCK, những vấn
đề niêm yết và sự cần thiết của việc thúc đẩy các DN tiềm năng lên niêm yết
trên TTCK trong bối cảnh hiện nay, làm nổi bật vai trò cũng như ưu thế cuả
CTCP trong nền kinh tế thị trường mà Việt Nam đang hướng tới. Từ đó, đề tài
muốn nêu lên vai trò quan trọng cuả Chính phủ trong việc vận hành và phát
triển thị trường.
Đề tài cũng đã đưa ra những lợi ích và bất lợi xung quanh việc phát hành
chứng khoán và niêm yết trên TTCK, kết hợp với việc phân tích một số nguyên
nhân khiến các DNNN ngại CPH và những CTCP không muốn hoặc chưa muốn
lên niêm yết ở Chương II để trên cơ sở đó đưa ra giải pháp thúc đẩy các DN này
niêm yết chứng khoán cuả mình trên thị trường trong Chương III, vì thực tế, có
khá nhiều biện pháp đã được áp dụng, song việc tìm ra một giải pháp và cơ chế
phù hợp với việc phát triển hệ thống niêm yết trong từng giai đoạn phát triển
cuả thị trường vẫn là điều hết sức cần thiết.
-----WZ YX-----
27
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HOÁ DNNN VÀ HOẠT
ĐỘNG CỦA TTCK VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA CÙNG
VỚI THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CUẢ HỆ THỐNG NIÊM YẾT
2.1. SỰ PHÁT TRIỂN CUẢ CÔNG TY CỔ PHẦN
Sự xuất hiện của ngành công nghiệp trong cách mạng công nghiệp bắt nguồn
từ sự ra đời của máy móc. Nhiều ngành công nghiệp tiếp tục phát triển từ những
ngành truyền thống với việc ứng dụng máy móc, thiết bị mới, điển hình là ngành
dệt. Trong số đó, một số ngành đòi hỏi phải tập trung được rất nhiều vốn liếng
mới có thể tiến hành hoạt động, ngành đường sắt là một ví dụ. Thực tế cho thấy,
không phải bất cứ người chủ nào cũng có đủ số vốn ban đầu để khởi nghiệp,
trong khi triển vọng của ngành công nghiệp là rất lớn và hấp dẫn đối với đại đa
số các nhà đầu tư. Nếu trước kia, việc phát hành trái phiếu được xem là một
sáng kiến để huy động vốn xây dựng các công trình lớn, thì sau đó không lâu,
một ý tưởng khác dường như được mô phỏng từ sáng kiến này được vận dụng
vào việc tạo nguồn trong kinh doanh đó là thành lập CTCP.
Với mục đích cho ra đời một DN mới có qui mô lớn, một nhóm người có cùng ý
tưởng đầu tư vào một lĩnh vực kinh doanh đã đi đến thoả thuận cùng nhau góp
vốn để thành lập DN. Phần đóng góp của từng người trong công ty được gọi là
cổ phần, cổ phần là những chứng tờ có giá trị, khi công ty còn tồn tại những cổ
phần đem lại cho người sở hữu chúng những khoản hoa hồng nhất định. Hơn thế
nữa, người ta còn có thể chuyển nhượng (bán) chúng cho người khác tương tự
như trong trường hợp của trái phiếu. Như vậy, CTCP là một sáng kiến mang tính
đột phá trong kinh doanh, nó giải quyết được tình trạng thiếu vốn để thành lập
hoặc phát triển các DN lớn mà một cá nhân không đủ khả năng tài chính cho
việc đó.
28
Ở nước ta hiện nay đang tồn tại các loại hình kinh tế chủ yếu là DNNN,
DNTN, Công ty TNHH, CTCP và CTHD. Với kinh nghiệm của nhiều quốc gia
thực thi kinh tế thị trường, CTCP có nhiều ưu điểm và “thọ” hơn so với các loại
hình khác do khả năng phân tán rủi ro cho nhiều cổ đông cùng gánh chịu, cũng
như khả năng huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau, từ đó tập trung vốn
nhanh và hiệu quả hơn.
Những CTCP đang hoạt động trên cả nước hiện nay có nguồn gốc lịch sử và
phát triển rất khác nhau. Có những công ty được chuyển đổi từ DNNN sang
CTCP theo hình thức CPH, một số khác được thành lập theo Luật DN và các
công ty liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài thành lập theo Luật Đầu tư
nước ngoài chuyển đổi mô hình thành CTCP. Trong số các loại hình vừa nêu,
DNNN CPH là nhân tố chủ đạo trên TTCK (trong số 30 công ty niêm yết thì có
đến 28 công ty có nguồn gốc từ DNNN CPH). Đã có khoảng 2.500 DNNN hoàn
tất việc CPH và hơn 1.000 DN sẽ tiến hành CPH trong vài năm tới, chính vì vậy,
DNNN CPH vẫn là yếu tố chính trong việc tạo hàng cho TTCK.
Tuy nhiên, bên cạnh các CTCP được hình thành từ việc CPH các DNNN, một
loại hình khác đang được quan tâm hiện nay là những CTCP có nguồn gốc từ DN
có vốn ĐTNN. Tháng 04/2003 Chính phủ đã ban hành Nghị Định 38/2003/NĐ-
CP ngày 15/04/2003 vể việc chuyển đổi một số DN có vốn ĐTNN sang hoạt
động theo mô hình CTCP, CTCP Dây và Cáp Điện TAYA là một ví dụ điển hình
của loại hình này. Như vậy, trong tương lai gần ngoài các CTNY có nguồn gốc từ
DNNN thực hiện CPH, TTCK sẽ có sẽ có sự tham gia của các CTCP có vốn
ĐTNN, góp phần làm phong phú và đa dạng hàng hoá trên thị trường để các nhà
đầu tư lựa chọn.
Sau cùng, cũng không thể không nhắc đến một loại hình CTCP nữa là các công
ty được thành lập theo Luật DN. Mặc dù, đây chủ yếu là các công ty nhỏ, mới
29
được hình thành và đại đa số đều mang tính gia đình, chưa có tính đại chúng
nhưng cũng được xem là nguồn hàng hoá đáng kể cho thị trường.
2.2. THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở
VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ
2.2.1. Giai đoạn đầu thực hiện (từ tháng 6/1992 đến tháng 4/1996)
Đây là giai đoạn thí điểm, nghiên cứu về CPH diễn ra trong khoảng thời gian
hơn 3 năm kể từ khi bắt đầu triển khai Quyết định số 202/CT ngày 08/06/1992
của Hội đồng Bộ trưởng về việc chuyển một số DNNN thành CTCP. Theo đó,
Chính phủ chỉ đạo và giao nhiệm vụ cho mỗi Bộ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương chọn từ 1 đến 2 DN để chuyển đổi và kết quả đã thực
hiện CPH được 5 trong số 7 đơn vị (cả 5 đơn vị đều nằm trong khu trọng điểm
kinh tế miền Nam).
Tuy hướng dẫn chưa thật đầy đủ và cụ thể song Quyết định số 202/CT được
xem là chiếc chìa khoá quan trọng cho quá trình CPH DNNN, vừa là động lực
thúc đẩy vừa là cơ sở để ban hành các văn bản có liên quan sau này ngày càng
hoàn thiện hơn.
2.2.2. Giai đoạn mở rộng (từ tháng 5/1996 đến tháng 6/1998)
Đây là thời kỳ đầu triển khai mở rộng CPH DNNN theo Nghị định số 28/CP
ngày 07/05/1996 của Chính Phủ - văn bản pháp lý đầu tiên quy định một cách
tương đối đồng bộ về các chính sách về CPH DNNN. Sau đó không lâu, Nghị
định này được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định số 25/CP ngày 26/03/1997.
Với nhiều ưu điểm vượt trội hơn hẳn so với giai đoạn trước nên số lượng các
DNNN được CPH trong thời kỳ này đã tăng lên ở cả số lượng lẫn chất lượng, và
kết quả là đã có thêm 33 DN được CPHù. So với yêu cầu đổi mới DN cũng như số
lượng DN trong diện CPH thì thành quả đạt được hết sức khiêm tốn, song đây
30
được xem là một tiền đề quan trọng để công tác CPH DNNN phát triển mạnh
mẽ hơn.
2.2.3. Giai đoạn đẩy mạnh ( từ tháng 7/1998 đến tháng7/2002)
Là giai đoạn có những biến chuyển tích tực, rất đáng khích lệ và được đánh
dấu bằng sự ra đời của Nghị định 44/NĐ-CP ngày 29/6/1998. Riêng nửa cuối
năm 1998, cả nước đã CPH và đa dạng hoá sở hữu được 90 DN, đưa tổng số DN
được chuyển đổi lên 120. Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 1999 tiếp tục có thêm
250 DN chuyển sang hoạt động theo mô hình CTCP, nâng tổng số DNNN đã
CPHù lên 370 DN. Như vậy, dễ dàng thấy rằng số DNNN thực hiện CPH trong
năm 1999 nhiều gấp hơn 8 lần so với 7 năm trước cộng lại và gấp hơn 12 lần so
với thời kỳ thí điểm CPHù. Trong khoảng thời gian từ tháng 7 năm 2000 đến hết
tháng 10 năm 2001 tiến trình CPHù bị chựng lại nên cả nước chỉ chuyển đổi được
698 DN và bộ phận DNNN thành CTCP. Sau một quá trình tiếp tục triển khai,
kết thúc tháng 7/2002 cả nước đã có gần 900 DNNN được chuyển thành CTCP.
Bằng cách nhìn khách quan, chúng ta nhận thấy rằng Nghị định 44/CP đã kế
thừa một cách có chọn lọc các ưu điểm của Nghị định 28/CP, đồng thời cũng bổ
sung, sửa đổi và phát triển thêm nhiều điểm mới: chẳng hạn như việc cho phép
bán cổ phần rộng rãi cho mọi đối tượng; quy định cụ thể loại hình DN mà Nhà
nước cần nắm giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt cũng như loại hình mà Nhà
nước không cần nắm giữ cổ phần chi phối hoặc không tham gia cổ phần, từ đó
tạo ra sự linh động hơn cho các DN trong việc CPHù; các khoản ưu đãi cho DN và
người lao động trong CTCP đã được chiết tính cụ thể và hợp lý hơn; có sự phân
cấp mạnh mẽ hơn đối với các cấp quản lý trong quá trình triển khai thực hiện
CPH…
31
2.2.4. Giai đoạn tăng tốc (từ tháng 8/2002 đến tháng 8/2005)
Đây là giai đoạn tăng tốc thực sự của quá trình CPH cùng với sự ra đời của
Nghị định 64/2002/NĐ-CP ngày 4/7/2002. Sau khi Nghị định được ban hành và
đi vào thực tiễn, tính đến cuối năm 2002, cả nước đã đón nhận thêm hơn 20
DNNN được chuyển đổi sở hữu theo hình thức CPH, và con số này vẫn không
ngừng được nhân lên cho đến nay, khi Nghị định 187/2004 đã có hiệu lực thi
hành gần tròn năm - một Nghị định mang tính kế thừa và khá chặt chẽ được ra
đời ngày 16/11/2004 nhằm thay thế Nghị định 64/CP. Mặc dù, chưa thật sự tạo
được bước đột phá mạnh mẽ song so với các văn bản pháp quy về CPH trước
đây, có thể nói Nghị định 187/2004/NĐ-CP là một văn bản hoàn chỉnh nhất về
CPH DNNN, với các chính sách ưu đãi thông thoáng hơn, khuyến khích mạnh
mẽ hơn, phân cấp nhiều hơn, đồng thời cũng bao gồm các thiết chế chặt chẽ
hơn. Chính vì vậy, nó góp phần hết sức quan trọng trong việc mang lại những
thành quả to lớn đối với tiến trình CPH DNNN của nước ta mà minh chứng cụ
thể nhất là sau hơn 9 tháng triển khai thực hiện theo tinh thần Nghị định, đến hết
tháng 8/2005 số lượng các DNNN được CPH trên cả nước đã gia tăng đáng kể và
đạt 2.540 DN.
2.2.5. Những kết quả đạt được
Với trên dưới 5.800 DNNN, chiếm khoảng 20% tổng vốn đầu tư, 50% khoản nợ
Ngân hàng trong nước và đóng góp khoảng 30% cho tổng GDP của đất nước,
đây thật sự là một số lượng DN rất lớn trong nền kinh tế quốc dân Việt Nam mà
hầu hết cần phải được chuyển đổi mô hình hoạt động nhằm mang lại hiệu quả
cao hơn. Nhận thức được CPHù DNNN là một trong những mục tiêu then chốt để
phát triển kinh tế, gia tăng năng lực cạnh tranh, giải quyết phần nào thâm hụt
ngân sách và nợ nước ngoài, Nhà nước đã không ngừng có những bước cải tiến
32
mạnh mẽ trong tiến trình này và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, cụ
thể là:
- Số lượng DNNN được CPH trung bình hằng năm tính từ thời điểm thực hiện
Nghị định 28/CP, tiếp đến là Nghị định 44/CP, Nghị định 64/CP, Nghị định
187/CP đều tăng rõ rệt qua các thời kỳ.
- Cho đến thời điểm cuối tháng 8/2005, cả nước đã thực hiện chuyển đổi sang
hình thức CTCP được 2.540 DNNN. Theo kết quả khảo sát của Ban chỉ đạo đổi
mới và phát triển DN đối với 850 DN đã CPH hơn một năm cho thấy: vốn điều
lệ tăng 44%, doanh thu tăng 24%, lợi nhuận tăng trên 140%, nộp ngân sách tăng
25%, thu nhập người lao động tăng 12%, cổ tức chia bình quân là 17%/năm, hơn
90% DN hoạt động có hiệu quả cao. Vai trò của người lao động trong DN CPH
được nâng lên rõ rệt do được quyền làm chủ với tư cách là cổ đông, thực sự góp
phần tạo ra động lực trong quá trình sản xuất kinh doanh của DN.
- Hầu hết các DN CPH sau khi phát hành lần đầu đều có nét chung: mọi hoạt
động tài chính, chủ trương lớn của Giám đốc đều phải chịu sự giám sát của
HĐQT và cao hơn là Đại hội cổ đông. Kết quả sản xuất kinh doanh của DN được
thể hiện bằng việc chia cổ tức hàng tháng, hàng quí. Chính vì vậy, hoạt động tài
chính của DN thường xuyên được giám sát. Lợi ích của DN được gắn chặt với lợi
ích của cổ đông nên người lao động trong DN đã trở thành những chủ nhân thực
sự. Cũng thông qua Đại hội cổ đông và HĐQT, trí tuệ tập thể đã được phát huy,
nhờ đó mà phương thức quản lý kinh tế không ngừng được đổi mới để phù hợp
với tình hình biến động của nền kinh tế xã hội.
- Ngoại trừ một số ngành cần có sự kiểm soát chặt chẽ của chính phủ, còn lại
Nhà nước đang có chủ trương thực hiện CPHù toàn bộ các DN thuộc khối Nhà
nước. Việc triển khai CPH đã huy động được trên 13.000 tỷ đồng vốn từ Xã hội,
33
từ các cá nhân, pháp nhân thuộc mọi thành phần kinh tế khác đầu tư vào các
DNNN CPH, góp phần đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ quản lý của DN.
- Đồng thời thông qua việc bán cổ phiếu, Nhà nước thu lại được khoảng 12.000
tỷ đồng để đầu tư vào các DNNN khác và dùng vào việc giải quyết chính sách
cho người lao động trong DNNN thực hiện CPH. Về số tuyệt đối thì đây chưa
phải là lớn, nhưng về mặt tỷ lệ thì rất đáng khích lệ.
2.2.6 Những vấn đề còn tồn tại
Hiện nay, cả nước vẫn cần tiếp tục CPH hơn 900 DN nữa mà hầu hết là các
DN lớn. Theo đề án được duyệt cho giai đoạn 2003-2005, số lượng DNNN cần
đổi mới là 2.620 DN. Và đến cuối năm 2006, phấn đấu đưa tổng số DN hoạt
động theo mô hình CPH trên cả nước lên 3.500 DN. Như vậy, có thể nhận thấy
rằng tốc độ CPH của nước ta còn khá chậm. Nhiều vướng mắc, khó khăn đã phát
sinh trong quá trình CPH có thể nhìn nhận qua các nội dung sau:
- Một số thành viên trong DNNN không muốn thực hiện CPH do sợ bị mất
quyền lợi. Trên thực tế, một số nhà lãnh đạo của các DNNN không có năng lực
thực sư, nhưng vì một số lý do “tế nhị” nào đó nên vẫn được giữ lại để quản lý
DN, nếu thực hiện CPH họ sợ sẽ bị loại ra ngoài (vì khi chuyển sang CTCP mọi
hoạt động đều phải được Đại hội cổ đông thông qua nên chỉ có những nhà lãnh
đạo thực sự có khả năng mới được các cổ đông tín nhiệm đề cử).
- Việc huy động vốn thông qua bán cổ phần là động lực chính để công ty phát
triển, nhưng nhiều DN không bán hết số cổ phần cần thiết. Việc quy định người
lãnh đạo, người quản lý DN cũng phải mua cổ phần theo giá đấu hoặc cổ phần
ưu đãi bằng 60% mức giá bình quân của các nhà đầu tư khác đó là điều chưa
thật sự hấp dẫn khiến cho các đối tượng này thiếu hăng hái trong việc tiến hành
CPH DN.
34
- Việc CPH còn mang tính chất vận động để các DN tự nguyện tham gia mà
chưa mang tính chất bắt buộc, chính vì vậy không thúc đẩy các DN tham gia.
- Việc tổ chức thực hiện còn tản mạn, chưa đồng bộ. Trong giai đoạn này nhiều
địa phương chậm trễ trong việc thành lập Ban chỉ đạo để tổ chức hướng dẫn,
chọn xí nghiệp, xây dựng phương án trình chính phủ đăng ký thí điểm CPH.
- Trước đây, phương pháp CPH có nhiều bất hợp lý nhất là trong khâu định giá
DNNN. Cụ thể như, thị trường phải là nơi quyết định mức giá khi DN được xác
định giá trị để bán ra thị trường. Nhưng hiện nay, giá trị DN CPH lại do các cơ
quan quản lý chức năng định theo một kiểu giá cố định. Vì vậy, đã xảy ra không
ít trường hợp có những DN hiệu quả kinh doanh hạn chế, tài sản không có nhiều
nhưng lại được định giá quá cao, dẫn đến việc bán cổ phần hết sức khó khăn,
thậm chí chẳng có nhà đầu tư nào bỏ tiền ra để mua lấy một giá trị không tương
xứng. Ngược lại, có đơn vị giá trị DN được xác định quá thấp so với thị trường.
Trên thực tế, phương thức đấu giá giá trị DN có thể giải quyết được tình trạng
trên đã được đưa vào áp dụng nhưng vẫn còn không ít trường hợp công bố thông
tin thiếu minh bạch và làm giá theo ý chủ quan của DN phát hành hoặc một số
tổ chức khác.
- Thời gian qua cho thấy, việc xác định giá trị lợi thế của DN CPH rất khó khăn
và phức tạp mà một số phương pháp hiện tại không thể vận dụng được (như xác
định giá trị nhãn mác, thương hiệu…), vì thế, đã có nhiều DN không tính được giá
trị lợi thế vào giá trị DN.
- Thiếu nhà đầu tư chiến lược (cổ đông chiến lược) là những cổ đông bên ngoài
DN, có tỷ lệ cổ phần đủ lớn để tham gia quyết sách, tạo chuyển biến lớn cho
công ty. Nguyên nhân chủ yếu là do bán cổ phần khép kín trong nội bộ, hoặc
không chú trọng đến vai trò cổ đông chiến lược khi CPH.
35
- Ngoài ra, sự bất hợp lý trong chính sách bán cổ phần của nhiều DN còn thể
hiện ở chỗ: Không ít DN dành một tỷ lệ cổ phần quá lớn để bán cho người lao
động trong đơn vị, nhưng người lao động lại không đủ tiền để mua. Kết quả là
việc bán cổ phần kéo dài, hoặc người lao động phải đi vay tiền để mua và áp lực
trả nợ cả gốc và lãi đối với họ hết sức nặng nề. Ở đây đã thấy bóng dáng của
các biện pháp hành chính như việc thúc đẩy bán cổ phần cho người lao động để
đẩy nhanh CPH. Đã đến lúc các DN CPH cần nhận ra rằng, việc hạn chế bán cổ
phần của đơn vị mình cho cổ đông bên ngoài, nhất là những đơn vị làm ăn thua
lỗ, sẽ không thể thay đổi được phương thức quản lý để vực dậy DN.
2.3. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM VÀ MÔI
TRƯỜNG KINH TẾ VĨ MÔ TRONG THỜI GIAN QUA.
Ngày 20/07/2000, TTGDCK đầu tiên của Việt Nam đã chính thức khai trương
hoạt động tại Tp. HCM, đánh dấu một bước tiến quan trọng của công cuộc xây
dựng thị trường vốn trong tiến trình phát triển nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. TTCK hình thành và phát triển là một sự kiện
tất yếu trong tiến trình phát triển của nền kinh tế thị trường, song đối với nước ta
nó lại mang một ý nghĩa hết sức to lớn, đáp ứng kịp thời một kỳ vọng chính đáng
của đông đảo mọi người, đó là mong muốn nền kinh tế có thêm động lực mới, có
khả năng thúc đẩy quá trình chuyển đổi kinh tế theo định hướng thị trường, mở
cửa hợp tác của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên, TTCK Việt Nam trong buổi
ban đầu còn non trẻ nên đã gặp không ít khó khăn, thách thức khi đi vào hoạt
động: Liên tục trong suốt 3 phiên giao dịch đầu tiên, chỉ có 2 loại hàng hóa được
niêm yết để giao dịch là cổ phiếu của CTCP Cơ điện lạnh(REE) và CTCP Cáp
và Vật liệu Viễn thông(SAM). Các phiên giao dịch sau đó, ngoài 2 loại trên còn
có sự tham gia lần lượt của các loại cổ phiếu của những CTCP khác như: CTCP
Giấy Hải Phòng(HAP), CTCP Kho vận Giao nhận Ngoại thương Transimex Sài
36
Gòn (TMS)… cùng với các loại trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Đô thị và trái
phiếu ngân hàng.
Tính đến thời điểm 20/07/2005, thị trường giao dịch chứng khoán tập trung đã
có sự góp mặt của 271 loại chứng khoán được niêm yết, gồm 30 cổ phiếu, 1
chứng chỉ quỹ và 240 loại trái phiếu; có trên 24.000 tài khoản đầu tư, trong đó
có 200 nhà đầu tư là tổ chức và hơn 190 nhà ĐTNN; 30 CTNY trên TTGDCK
Tp.HCM; 13 công ty CK; 4 công ty quản lý quỹ đầu tư; 1 ngân hàng chỉ định
thanh toán và 18 tổ chức lưu ký chứng khoán (gồm 5 ngân hàng và 13 CTCK).
Và hiện tại, văn bản pháp quy cao nhất đối với hoạt động chứng khoán và
TTCK mới ở._.nh theo tỷ
lệ doanh thu trên vốn chủ sở hữu, 26 DN có tỷ lệ này lớn hơn 10 (lần); 27 DN có
tỷ lệ từ 5-10.
110
Đối với các DN có tỷ lệ doanh thu trên vốn chủ sở hữu lớn, hầu hết đều là các
DN hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, chế biến, số ít còn lại thuộc
các ngành công nghiệp, xây dựng. Đối với các DN có tỷ lệ doanh thu trên vốn
chủ sở hữu nhỏ (tỷ lệ từ 1 đến 3 lần), chủ yếu thuộc lĩnh vực công nghiệp.
- Tổng hợp và phân tích kết quả điều tra :
Bảng 2: Loại hình doanh nghiệp
STT Loại hình doanh nghiệp Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Công ty cổ phần 62 40,78
2 Công ty 46 30,26
3 Công ty TNHH 31 20,39
4 Doanh nghiệp tư nhân 13 8,55
Tổng cộng 152 100,00
Bảng 3: Lĩnh vực hoạt động
STT Loại hình doanh nghiệp Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Công nghiệp 57 37,5
2 Giao thông, vận tải 8 5,26
3 Chế biến 6 3,94
4 Thương mại, dịch vụ 53 34,86
5 Bưu chính, viễn thông 4 2,63
6 Đầu tư 5 3,24
7 Xây dựng 16 10,52
8 Các ngành khác 3 1,97
Tổng cộng 152 100,00
111
Bảng 4: Cơ cấu vốn của doanh nghiệp
STT Cơ cấu vốn Số lượng
1 Vốn chủ sở hữu trên 10 tỷ đồng 53
2 Vốn chủ sở hữu từ 5 đến 10 tỷ đồng 25
3 Vốn chủ hữu dưới 5 tỷ đồng 37
4 Tỷ lệ vốn Nhà nước:
- Trên 30%
- Dưới 30%
77
38
Nhận định:
(1) Về quy mô vốn:
Trong tổng số 152 DN điều tra, 115 DN có ý kiến trả lời về quy mô vốn. Số
DN có vốn chủ sở hữu trên 10 tỷ đồng là 53 DN (chiếm 46,08%), số DN có vốn
chủ sở hữu từ 5 đến 10 tỷ đồng là 25 DN (chiếm 21,73%), còn lại là các DN có
vốn dưới 5 tỷ đồng. Các DN có vốn lớn theo Bảng 4, tập trung chủ yếu vào các
DN thuộc các ngành như xây dựng, công nghiệp và đầu tư. Các DN có vốn nhỏ
dưới 05 tỷ đồng chủ yếu thuộc các ngành như thương mại, dịch vụ, chế biến, du
lịch và một số ngành khác.
(2) Về cơ cấu vốn:
Đối với khối DN cổ phần, tỷ trọng vốn vay trong tổng vốn kinh doanh thường
chiếm trên 60%. Tỷ lệ vốn vay ngân hàng chiếm phần đáng kể trong tổng vốn
kinh doanh của của các DN. Theo số liệu điều tra, có 53/115 DN trên địa bàn
Tp.HCM vay vốn ngân hàng trên 30% trong tổng số nguồn vốn huy động. Tuy
nhiên, có một số DN thuộc các lĩnh vực công nghiệp, bưu chính viễn thông, giao
thông vận tải… có vốn đầu tư lớn và chưa xác định được chính xác cơ cấu vốn
của DN, nên số liệu vừa nêu không hoàn toàn chính xác.
112
Bảng 5: Nhu cầu về vốn của doanh nghiệp đến năm 2010
STT Giai đoạn Nhu cầu vốn
1 Từ năm 2001 đến năm 2005 44.023,01 tỷ đồng
2 Từ năm 2006 đến năm 2010 85.046,03 tỷ đồng
Tổng cộng 129.069,04 tỷ đồng
Nhận định:
Trong tình hình hiện nay, rất nhiều DN chưa xác định được phương án sản xuất
kinh doanh một cách rõ ràng trong thời gian tới, nên việc DN đưa ra nhu cầu vốn
chỉ là dự kiến, vì vậy những số liệu nêu ở Bảng 5 trong thực tế có thể lớn hơn rất
nhiều. Mặt khác, đa số DN đều tự bằng lòng với quy mô hoạt động của mình,
nên chưa có ý định mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Một số DN khác có
dự định này thì chưa có kế hoạch và dự án đầu tư mở rộng cụ thể.
Bảng 6: Mục đích huy động vốn của doanh nghiệp
STT Mục đích huy động vốn Số lượng doanh nghiệp
1 Bổ sung vốn lưu động 79
2 Mở rộng sản xuất 54
3 Đổi mới công nghệ 25
4 Để trả nợ 3
5 Mục đích khác 5
Nhận định:
Bảng 6 cho thấy, mục đích huy động vốn hiện mới tập trung chủ yếu vào bổ
sung vốn lưu động, mở rộng sản xuất và đổi mới công nghệ. Có đến 51,97% DN
huy động vốn là để bổ sung vốn lưu động, 35,52% DN huy động vốn là để mở
rộng sản xuất kinh doanh, và 16,44% DN là để đổi mới công nghệ. Các mục đích
huy động vốn để trả nợ và nhằm mục đích khác chiếm tỷ lệ khá nhỏ.
113
Bảng 7: Nguồn vốn huy động chủ yếu
STT Nguồn vay Số lượng doanh nghiệp
1 Vay ưu đãi 11
2 Ngân hàng 97
3 Công nhân viên 30
4 Liên doanh 0
5 Phát hành cổ phiếu 61
6 Phát hành trái phiếu 0
7 Nguồn khác 45
Nhận định:
Những DN huy động vốn từ nguồn vay ưu đãi khá thấp, chỉ có 11 DN, chiếm
7,23%. Nguồn vốn huy động từ phát hành trái phiếu là 0% và cổ phiếu 40,13%
tổng số DN điều tra. Nguồn vốn vay chủ yếu của các DN hiện nay là vay ngân
hàng. Có 97 DN là vay vốn từ ngân hàng, chiếm tỷ lệ khá lớn (63,81%). Nhiều
DN cũng thực hiện việc vay vốn từ các nguồn khác, như huy động từ dân cư, từ
các tổ chức kinh tế, và một hình thức huy động vốn được nhiều DN áp dụng đó
là chiếm dụng vốn từ khách hàng.
Bảng 8: Những khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải khi vay vốn từ ngân hàng.
Mức độ
Khó khăn
Lãi suất
cao
Thủ tục vay
vốn khó khăn
Điều kiện vay vốn đòi hỏi quá cao
so với điều kiện của doanh nghiệp
Mức I 63 37 17
Mức II 21 43 31
Mức III 35 12 72
Mức IV 0 0 0
Nhận định:
(1) Khó khăn về lãi suất:
114
Có đến 63 DN điều tra (chiếm 41,44%) chọn mức độ khó nhăn nhất khi vay
vốn là lãi suất cao. Điều này cũng dễ nhận thấy bởi trong tình hình thực tế hiện
nay, tỷ suất lợi nhận của DN thấp hơn lãi suất tín dụng của ngân hàng khá nhiều,
lãi làm ra của DN không đủ bù đắp phần trả lãi và vốn gốc khi vay ngân hàng.
(2) Khó khăn do thủ tục vay vốn:
Nhiều DN cho rằng thủ tục vay vốn ngân hàng là quá phức tạp và khó khăn. Số
DN chọn mức độ khó khăn nhất do thủ tục vay vốn chiếm 24,34% (37 doanh
nghiệp). Số DN chọn thủ tục vay vốn là khá khó khăn lớn thứ hai chiếm 28,28%
(43 DN), chứng tỏ thủ tục vẫn là một vấn đề tương đối khó khăn trong thời điểm
hiện nay.
(3) Khó khăn về điều kiện vay vốn:
Về vấn đề này, có rất nhiều DN được hỏi cho rằng đây chỉ là mức độ khó thứ
ba trong các khó khăn gặp phải khi vay vốn của ngân hàng. Ngoài ra, một số DN
còn có những khó khăn khác nhưng đều không được đánh giá là khó khăn lớn
nhất, và các khó khăn này thường chỉ xảy ra do đặc thù từng ngành.
Có thể nói trong thời điểm hiện nay, vấn đề đề các ngân hàng gây khó khăn
cho các DN trong việc vay vốn thực chất chỉ liên quan đến thủ tục hành chính.
Trong thực tế, các DN vẫn vay được vốn và sử dụng vốn vay ngân hàng để hoạt
động.
Bảng 9: Doanh nghiệp cho ý kiến về những ưu đãi đối với doanh nghiệp
khi tham gia niêm yết.
STT Yù kiến Số lượng doanh nghiệp Tỷ lệ (%)
1 Được 135 88,81
2 Chưa được 2 1,31
3 Doanh nghiệp không trả lời 15 9,88
Tổng cộng 152 100,00
115
Bảng 10: Ý định của doanh nghiệp về huy động vốn trên TTCK
STT Yù kiến Số lượng doanh nghiệp Tỷ lệ (%)
1 Có 43 28,28
2 Không 77 50,65
3 Doanh nghiệp không trả lời 32 21,07
Tổng cộng 152 100,00
Bảng 11: Thời gian dự kiến huy động vốn trên TTCK
STT Thời kỳ Số lượng doanh nghiệp
dự kiến huy động
Số tiền (tỷ
đồng)
1 2001-2005 11 545
2 2006-2010 32 1.221
Tổng cộng 43 1.766
Nhận định (Bảng 9, 10, 11):
(1) Về dự định tham gia vào TTCK:
Số liệu tại các bảng nói trên cho thấy, số DN có ý định huy động vốn trên
TTCK là không nhiều (43 DN), chiếm 28,28% tổng số DN được điều tra. Số DN
còn lại chưa có ý định tham gia huy động vốn trên thị trường là do chưa hiểu rõ
lợi ích của việc phát hành trên TTCK, cũng như chưa đủ điều kiện tham gia thị
trường. Như vậy, mặc dù việc huy động vốn trên TTCK là một hình thức hoàn
toàn mới mẻ đối với DN Việt Nam, song qua số liệu điều tra cho thấy nhiều DN
đã có phần quan tâm đến hình thức huy động vốn này, là do đòi hỏi khách quan
của các DN trong việc huy động vốn thông qua TTCK.
(2) Về thời gian dự kiến sẽ huy động vốn trên thị trường:
Đa số DN đều chưa có chủ trương tham gia TTCK trong thời gian tới, và hầu
hết DN đều chưa có kế hoạch cụ thể, chưa ước tính chính xác thời điểm tham gia
116
thị trường, chưa ước tính được số lượng vốn cần huy động, vì vậy mà số liệu ở
Bảng 11 chỉ có tính tham khảo.
Bảng 12: Về phương thức huy động vốn dự kiến của doanh nghiệp.
STT Phương thức huy động dự kiến Số lượng doanh nghiệp
1 Vay vốn ngân hàng 74
2 Phát hành cổ phiếu 43
3 Phát hành trái phiếu 0
4 Nguồn khác 35
Nhận định:
Trong tổng số 43 DN có ý định huy động vốn trên TTCK, cả 43 DN này đều có
ý định huy động vốn bằng hình thức phát hành cổ phiếu (chủ yếu là phát hành
hạn chế), không có DN nào dự kiến phát hành trái phiếu. Thông thường, đối với
DNNN CPH hoặc các CTCP, hình thức phát hành cổ phiếu là phổ biến, hình thức
phát hành trái phiếu chỉ phổ biến ở các ngân hàng TMCP. Nguyên nhân của
hiện tượng này có thể là do những yếu tố sau:
(1) Chi phí lớn
(2) Lãi suất trả vay bằng trái phiếu cao hơn vay ngân hàng
(3) Đòi hỏi lợi nhuận trung bình hàng năm của DN phải đều đặn.
(4) Huy động vốn gặp khó khăn do thói quen đầu tư của người Việt Nam.
Bảng 13: Về đối tượng phát hành dự kiến.
STT Đối tượng Số lượng doanh nghiệp
1 Huy động vốn với số nhà đầu tư hạn chế:
Trong nội bộ và một số ít nhà đầu tư cá nhân bên
ngoài.
Một số tổ chức có quan hệ
23
03
2 Phát hành rộng rãi ra công chúng với khối lượng vốn
huy động trên 10 tỷ
09
Nhận định:
117
Cho đến nay vẫn còn khá nhiều DN chưa muốn phát hành chứng khoán rộng
rãi ra công chúng, chủ yếu vẫn là phát hành trong nội bộ DN và một số ít nhà
đầu tư cá nhân bên ngoài. Trong số 43 DN có ý định phát hành chứng khoán, có
đến 23 DN muốn phát hành trong nội bộ và một số ít cá nhân bên ngoài, 09 DN
phát hành cho một số tổ chức có quan hệ. Nguyên nhân của hiện tượng này có
thể do DN chưa nhận thấy những lợi ích của việc huy động vốn rộng rãi, không
muốn có những thay đổi trong tỷ lệ sỡ hữu, ngại thực hiện nghĩa vụ công bố
thông tin khi phát hành chứng khoán ra công chúng.
Bảng 14: Doanh nghiệp cần sự hỗ trợ gì khi huy động vốn trên TTCK
STT Hỗ trợ Số lượng
doanh nghiệp
1 Tư vấn cho doanh nghiệp về thủ tục, hồ sơ pháp lý phát
hành chứng khoán ra công chúng.
145
2 Những ưu đãi về thuế, phí, lệ phí. 132
3 Đào tạo kiến thức về chứng khoán cho nhà quản trị công
ty.
125
4 Được cung cấp các thông tin về TTCK trong nước và khu
vực, thông tin về các văn bản pháp lý, quản lý về phát
hành chứng khoán.
97
5 Cần sự tư vấn về xác định giá trị doanh nghiệp. 63
6 Cần có các quy định thuận lợi cho việc chuyển nhượng
cổ phần.
52
Nhận định:
Những vấn đề cần hỗ trợ cho DN ở Bảng 14 được đa số DN tán thành. Có
95,39% DN cần được hỗ trợ về tư vấn thủ tục và hồ sơ phát hành chứng khoán,
86,84% DN cần sự hỗ trợ về những ưu đãi thuế, phí và lệ phí, đặc biệt có đến
118
82,23% DN cho rằng họ rất cần được đào tạo kiến thức về chứng khoán và
TTCK cho ban quản lý của DN. Các đòi hỏi về hỗ trợ cung cấp thông tin chứng
khoán và TTCK, thông tin về văn bản pháp lý, sự hỗ trợ về tư vấn xác định giá
trị DN… cũng được rất nhiều DN quan tâm.
Tóm lại, mặc dù quy mô điều tra của TTGDCK Tp.HCM còn nhỏ, song đề tài
hy vọng rằng các DN được điều tra đã bao quát phần nào tiềm năng phát hành
và niêm yết của thị trường. Thông qua điều tra phân tích 152 DN, đề tài đã đi
sâu tìm hiểu và phân tích khả năng tham gia TTCK của họ, chú trọng phân tích
những tồn tại và hạn chế cần khắc phục của các DN này. Trên cơ sở đó, đề tài
đã đề xuất một số khuyến nghị và giải pháp để thúc đẩy các DN tiềm năng liên
niêm yết (Các khuyến nghị và giải pháp này được trình bày chi tiết trong
Chương III).
Phụ lục 7
DỰ BÁO VỀ TIỀM NĂNG NIÊM YẾT CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
1. Dự báo về tiềm năng niêm yết của các doanh nghiệp hoạt động trên địa
bàn Tp.HCM
Tính đến 20/07/2005, mới có 29 công ty được cấp phép niêm yết cổ phiếu và
một Quỹ đầu tư chứng khoán được cấp phép niêm yết chứng chỉ quỹ, với tổng
giá trị tài sản tính theo mệnh giá khoảng trên 1.500 tỷ đồng, tương đương giá trị
một CTCP lớn như Vinamilk (vốn 1.500 tỷ đồng). Trước tình hình đó, Bộ Tài
chính đã giao UBCKNN 03 nhiệm nhiệm vụ quan trọng trong năm 2004-2005,
đó là:
(1) Nhanh chóng hoàn tất tiến trình niêm yết cổ phiếu các Tổng công ty lớn;
(2) Cố gắng tăng nhanh quy mô thị trường lên nhiều lần, và
(3) Hoàn tất một văn bản theo tinh thần Nghị định 144/CP.
119
Trong phiên họp thường kỳ tháng 02/2004, thảo luận về chương trình hành
động thực hiện Nghị quyết Trung ương IX về cải cách DNNN, Thủ tướng Phan
Văn Khải đã yêu cầu đến giữa năm 2004 phải chọn được từ 02 đến 03 Tổng
công ty Nhà nước để thí điểm CPH, phát hành cổ phiếu ra thị trường (thực hiện ý
kiến chỉ đạo này, một số Bộ đã trình Thủ tướng phương án CPH một số Tổng
công ty. Theo đó, ngày 13/05/2004, Thủ tướng đã ra Quyết định số 84/2004/QĐ-
PH 03 Tổng công ty, đó là: Tổng công ty Điện tử –Tin học Việt Nam (thuộc Bộ
Công nghiệp); (2) Tổng công ty Xuất nhập khẩu và Xây dựng Việt Nam (thuộc
Bộ Xây dựng); (3) Tổng Công ty Thương mại và xây dựng (thuộc Bộ Giao thông
Vận tải). Thủ tướng nhấn mạnh là phải tiếp tục CPH DNNN, kể cả những Tổng
công ty lớn trong các ngành điện lực, hàng không, viễn thông, ngân hàng, bảo
hiểm… TTCK cũng phải được hoàn thiện và mở rộng thành kênh huy động vốn
quan trọng cho DN. Thị trường bất động sản, thị trường lao động, thị trường khoa
học cũng cần được xây dựng đồng bộ.
Trong năm 2003, Việt Nam sắp xếp đổi mới được 654 DN – đạt 60,8% kế
hoạch – đạt mức cao nhất trong 03 năm qua. Các DN sau khi CPH đều phát triển
tốt, duy trì mức trả cổ tức cho các cổ đông bình quân 10-15%/năm. Ngay trong
năm 2004-2005, Chính phủ và Ngân hàng trung ương sẽ quyết định cho phép
một số Tổng công ty, ngân hàng phát hành cổ phiếu để huy động vốn. Việc phát
hành sẽ được thực hiện trên TTCK, không bán trong nội bộ DN và được phép thí
điểm bán cho nhà ĐTNN.
Mặc dù những công ty đang niêm yết hiện nay không phải là công ty lớn và lại
ít nổi tiếng, tuy nhiên Chính phủ đã khẳng định quyết tâm CPH các Tổng công ty
nhà nước, thúc đẩy các đơn vị này lên sàn, cho nên hoạt động tạo hàng cho
TTCK trong vài năm tới chắc chắn sẽ có những chuyển động rất mạnh; Quyết
tâm này cũng được thể hiện trong kế hoạch niêm yết của ngành ngân hàng.
120
Ngoài các ngân hàng TMCP sẵn sàng tham gia thị trường như ACB,
Sacombank, Việt nam cũng sẽ đưa ra CPH các ngân hàng nhà nước như
Vietcombank, ngân hàng Phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long… Theo kế
hoạch, UBCKNN sẽ sớm thiết lập một danh mục các công ty lớn để CPH và
niêm yết, kể cả các đơn vị nước ngoài. Hiện nay có khoảng hơn 30 DN có vốn
FDI đăng ký chuyển sang mô hình CTCP.
Theo một đề nghị mới đây của Bộ Tài chính, một số CTCP có vốn điều lệ lớn
và được giới đầu tư quan tâm, có thể sẽ được giảm bớt tỷ lệ vốn nhà nước và đưa
vào niêm yết. Trong số những DN được đề nghị này, Vinamilk được cho là có
nhiều khả năng nhất (trong thời gian qua, cổ phiếu của Vinamilk thường xuyên
được giao dịch trên thị trường tự do với tính thanh khoản khá cao. Hiện nay, vốn
điều lệ của Vinamilk là 1.500 tỷ đồng nhưng có đến 60% cổ phần do nhà nước
nắm giữ (trước đây là 80%). Nếu nhà nước giảm bớt tỷ lệ này bằng cách bán bớt
ra ngoài, chắc chắc sẽ thu được dòng vốn từ nhà đầu tư. Hơn nữa, nếu Vinamilk
được niêm yết, quy mô thị trường sẽ tăng lên gấp đôi.). Ngoài Vinamilk, 03 DN
khác được Bộ Tài chính đề nghị bán bớt cổ phần nhà nước và đưa vào niêm yết
là CTCP Nhựa Bình Minh, CTCP Hoá dầu Petrolimex và CTCP Gas Petrolimex.
Nếu được vào niêm yết, bất cứ công ty nào trong số này cũng đều là công ty có
cổ phiếu mạnh trên TTCK.
Hiện tại, CTCP Nhựa Bình Minh có vốn điều lệ là 107 tỷ, như nhà nước nắm
giữ 64,6% vốn; CTCP Hoá dầu Petrolimex có vốn điều lệ là 150 tỷ đồng, trong
đó nhà nước nắm tới 85%; CTCP Gas Petrolixex có vốn điều lệ là 150 tỷ đồng,
trong đó vốn nhà nước là 87%. Theo Bộ tài chính, bốn DN trên là những DN
đang được các nhà đầu tư quan tâm, do đó thông qua việc niêm yết sẽ tạo được
lòng tin và uy tín trên thị trường.
Ngoài việc đề nghị 4 công ty cần niêm yết và bán bớt cổ phần nhà nước như
trên. Bộ tài chính cũng đã đề xuất danh sách các DN sẽ thực hiện CPH gắn với
niêm yết, và đã được Chinh phủ chấp thuận (Bảng 15). Các DN này dự kiến sẽ
tiến hành xác định giá trị và bán cổ phần lần đầu trên TTCK trong năm 2005,
tuy nhiên đến nay vì một số lý do khách quan cũng như chủ quan nên mới chỉ có
Nhà máy Thuỷ Điện Vĩnh Sơn – Sông Hinh thực hiện việc bán cổ phần và đăng
ký giao dịch tại sàn Hà Nội.
121
Bảng 15: Danh sách các doanh nghiệp thực hiện CPH gắn với niêm yết
(Theo đề nghị của Bộ Tài Chính)
Đơn vị: Triệu đồng
Doanh nghiệp
Cơ Quan
quản lý
Giá trị doanh
nghiệp theo sổ
sách đến
31/12/2004
Giá trị vốn nhà
nước theo sổ
sách đến
31/12/2004
Lợi nhuận thực
hiện năm 2003
1. Ngân hàng
Ngoại thương Việt
Nam
Ngân hàng
Nhà nước
Việt Nam
97.112.119
3.466.523 876.814
2. Công ty Bảo
hiểm Tp.HCM
Bộ Tài Chính 965.456 104.089 35.691
3. Công ty Tái Bảo
hiểm Việt Nam
Bộ Tài chính
463.390
126.406 11.151
4. Nhà máy Thuỷ
điện Vĩnh Sơn –
Sông Hinh
Tổng Công ty
Điện Lực Việt
Nam
1.456.000 1.017.938 Không có số
liệu
5. Công ty Xi
măng Bút Sơn
Tổng Công ty
Xi măng
2.040.478 597.322 55.190
6. Ngân hàng Phát
triển Nhà Đồng
bằng sông Cửu
Long
Ngân hàng
Nhà nước
Việt Nam
4.900.000
754.400 17.129
Ngày 20/05/2004 tại buổi làm việc với lãnh đạo Tp.HCM, thủ tướng Phan Văn
Khải chỉ đạo :”Đẩy nhanh tiến độ CPH theo phương án đã được Chính phủ phê
122
duyệt, đồng thời mở rộng diện CPH đối với các Tổng công ty, DN lớn sản xuất
kinh doanh có hiệu quả. Khẩn trương chuyển DNNN nắm giữ 100% vốn thành
công ty TNHH một thành viên. Thúc đẩy việc DNNN thực hiện việc huy động
vốn đầu tư thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu ra TTCK”.
Quyết định số 163/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt
chiến lược phát triển TTCK như đã đề cập ở phần mở đầu. Tuy nhiên, vấn đề là
khi chọn lựa các DN ra niêm yết phải đảm bảo tiêu chuẩn đủ mạnh về tài chính
và quản trị để trụ vững, tạo niềm tin cho nhà đầu tư trên thị trường, giải quyết
được vấn đề gia tăng đồng bộ: vừa gia tăng số lượng hàng hoá có chất lượng cho
thị trường, vừa gia tăng số lượng và quy mô nhà đầu tư cả trong và ngoài nước.
Phụ lục 8
DỰ BÁO VỀ TIỀM NĂNG NIÊM YẾT CỦA CÁC DOANH NGHIỆP HOẠT
ĐỘNG TRÊN ĐỊA BÀN CÁC TỈNH PHÍA BẮC
Trong khuôn khổ Dự án “Điều tra, đánh giá các điều kiện tổ chức và hoạt
động của TTCK ở Việt Nam”, vấn đề khảo sát điều tra khả năng tham gia niêm
yết trên TTCK của các DN. Qua điều tra, khảo sát đối với 150 DN trên địa bàn
Hà Nội và các tỉnh phía Bắc của Dự án, đề tài thấy có những điểm liên quan đến
khả năng tham gia niêm yết trên TTCK của những DN này qua các số liệu cụ
thể sau:
1. Tình hình tài chính của doanh nghiệp
Xét về nguồn vốn chủ sở hữu
- Về quy mô vốn
Trong số 150 DN điều tra, số DN có vốn chủ sở hữu trên 10 tỷ đồng là 89 DN,
chiếm 59,33%; số DN có vốn chủ sở hữu từ 5-10 tỷ đồng là 33 DN, chiếm 22%;
còn lại là các DN có vốn dưới 5 tỷ đồng. Trong đó, các DN có số vốn lớn tập
123
trung chủ yếu vào các DNNN thuộc các ngành ngân hàng, xây dựng, công
nghiệp. Các DN có số vốn nhỏ (dưới 5 tỷ) chủ yếu thuộc các ngành thương mại,
chế biến, du lịch và một số ngành khác.
Hầu hết các DN đòi hỏi vốn lớn là các DN sản xuất được thành lập theo mô
hình Tổng công ty 90, 91. với mục tiêu điều tra các DN có khả năng tham gia
niêm yết trên TTCK Việt Nam, các thông số được đặt ra ở các phần sau được
lưu ý nhiều đến khía cạnh hiểu biết của các DN cũng như những thuận lợi và
khó khăn của các DN khi tham gia TTCK.
- Về cơ cấu vốn:
Đối với khối DNNN, tỷ trọng vốn vay trong tổng vốn kinh doanh thường chiếm
trên 70%. Tỷ lệ vốn vay ngân hàng chiếm đáng kể trong tổng vốn kinh doanh
của các DN. Theo các số liệu điều tra, có 86/150 DN (57%) vay vốn ngân hàng
trên 30% tổng nguồn vốn huy động.
Tuy nhiên, có một số DN thuộc một số lĩnh vực công nghiệp, bảo hiểm, giao
thông…có vốn đầu tư lớn cho nên việc việc xác định cơ cấu vốn theo tỷ lệ như
trên chưa hoàn toàn chính xác.
Xét về doanh thu của DN
Trong tổng số 150 DN điều tra, 22 DN có tỷ lệ doanh thu/vốn chủ sở hữu lớn
hơn 10 lần; 23 DN có tỷ lệ doanh thu/vốn chủ sở hữu từ 5-10 lần. Các DN có tỷ
lệ doanh thu/vốn chủ sở hữu lớn hầu hết hoạt động trong lĩnh vực thương mại
dịch vụ, chế biến và một số ít trong các ngành công nghiệp, xây dựng. Các DN
có tỷ lệ doanh thu/vốn chủ sở hữu nhỏ (từ 1-3 lần) chủ yếu thuộc lĩnh vực công
nghiệp.
2. Tình hình huy động vốn của DN
Về mục đích và hiệu quả huy động vốn
124
Mục đích huy động vốn hiện mới tập trung vào bổ sung vốn lưu động, mở rộng
sản xuất và đổi mới công nghệ. Có tới 72% số DN trả lời mục đích huy động vốn
là để bổ sung vốn lưu động, 74% trả lời là để mở rộng sản xuất và 59,33% để
đổi mới công nghệ. Các mục đích huy động vốn để trả nợ khá nhỏ, chỉ chiếm
7,33%.
Về nguồn vốn huy động
Hiện nay, có khá nhiều DN sử dụng nguồn vốn huy động của Nhà nước và vay
ưu đãi. Số DN huy động vốn từ Nhà nước là 37 DN chiếm 24,6% số DN được
điều tra. Trong đó, số DN sử dụng nguồn vốn Nhà nước lớn trên 30% là 11 DN.
Thậm chí có một số DN sử dụng nguồn vốn huy động từ Nhà nước rất lớn (trên
50%).
Những DN huy động vốn từ nguồn vau ưu đãi thấp hơn (17 DN chiếm 11,3%),
trong đó số DN huy động vốn từ nguồn này lớn hơn 30% có 9 DN.
Nguồn vốn huy động từ phát hành cổ phiếu, trái phiếu còn hạn chế (dưới 20%
tổng số DN điều tra). Nguồn vay chủ yếu của các DN hiện nay là vay ngân
hàng. Có 119 DN trả lời là vay vốn từ ngân hàng chiếm tỷ lệ khá lớn (79%).
Nhiều DN cũng thực hiện vay vốn ở một số nguồn khác như huy động từ dân cư,
các tổ chức kinh tế và cá nhân, vay qua tổng công ty và một hình thức huy động
khác được nhiều DN áp dụng là chiếm dụng vốn từ khách hàng.
Khó khăn gặp phải khi vay vốn từ ngân hàng:
- Khó khăn về lãi suất:
Có tới 86/150 DN (chiếm 57%) cho rằng khó khăn lớn nhất kh vay vốn là lãi
suất cao. Điều này cũng dễ nhận thấy bởi tình hình thực tế hiện nay, tỷ suất lợi
nhuận của DN thấp hơn lãi suất tín dụng ngân hàng rất nhiều, lãi làm ra của DN
không đủ bù đắp phần trả lãi và vốn gốc vay ngân hàng.
- Khó khăn do thủ tục vay vốn:
125
Có đến 127/150 DN cho rằng do thủ tục vay vốn còn khó khăn đối với DN ở
những mức độ khác nhau (chiếm đến 80% số DN được điều tra).
- Khó khăn về điều kiện vay vốn:
Về vấn đề này, có rất nhiều DN được hỏi cho rằng đây chỉ là mức độ khó khăn
thứ ba trong các khó khăn gặp phải khi vay vốn ngân hàng. Ngoài ra một số DN
còn có những khó khăn khác nhưng đều không được đánh giá là khó khăn lớn
nhất và các khó khăn này thường chỉ xảy ra theo đặc thù từng ngành.
Có thể nói trong thời điểm hiện nay, vấn đề các ngân hàng gây khó khăn cho
các DN trong việc vay vốn như trả lời đều thực chất chỉ liên quan đến thủ tục
hành chính. Trên thực tế, các DN vẫn vay được vốn và vẫn sử dụng vốn ngân
hàng để hoạt động.
3. Nhu cầu về vốn của doanh nghiệp trong thời gian tới.
Trong tình hình hiện nay, rất nhiều DN chưa xác định được phương án sản xuất
kinh doanh một cách rõ ràng trong những năm tới. Do đó, họ cũng chưa xác định
được đầy đủ nhu cầu vốn ngay cả trong năm 2004 và trong thời gian tới. Vì vậy,
các số liệu về nhu cầu vốn của DN có thể còn khác xa so với thực tế.
- Về quy mô
Nhu cầu về vốn của DN là rất lớn, theo như số liệu thống kê từ những thông tin
do doanh nghiệp cung cấp (không kể nhu cầu vốn cúa các DN chưa xác định
được) thì trong năm 2001, nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh của DN chiếm
khoảng gần 18.000 tỷ đồng, tính bình quân mỗi DN là khoảng 120 tỷ đồng. Nếu
tính từ năm 2001 đến 2005 thì con số này vào khoảng 75.000 tỷ đồng, và từ năm
2006 đến năm 2010 thì tổng nhu cầu vốn của DN sẽ tăng gấp đôi đạt 150.000 tỷ
đồng.
- Về kỳ hạn:
126
Nhu cầu vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh của DN là rất lớn và chủ yếu là
nguồn vốn trung và dài hạn, nếu DN huy động vốn chủ yếu chỉ từ các NHTM
như hiện nay, thì chắc chắn sẽ không đáp ứng được các yêu cầu vốn của DN.
4. Về việc mua bán cổ phiếu của các DN cổ phần chưa niêm yết trên thị
trường tự do và việc phát triển TTCK phi tập trung.
Có 72% số DN được hỏi phản đối việc mua bán trên thị trường tự do cổ phần
của các DN chưa niêm yết. Hầu hết các DN đều cho rằng, hoạt động mua bán cổ
phiếu là phải có sự kiểm soát của Nhà nước. Việc các cổ phiếu mua bán tự do
tạo nên sự cạnh tranh không lành mạnh, làm giảm bớt sự năng động, hiệu quả
của TTCK tập trung. Ngoài ra việc mua bán cổ phiếu tự do sẽ tạo ra nhiều rủi ro
cho các nhà đầu tư. Tuy nhiên, 28% số DN không phản đối việc này. Một số DN
cho rằng, việc mua bán sẽ tạo tính thanh khoản cao cho các cổ phiếu chưa niêm
yết, khuyến khích nhà đầu tư tham gia vào DN.
Số DN tán thành việc xây dựng và phát triển TTCK phi tập trung bên cạnh
TTGDCK để tránh tình trạng giao dịch chứng khoán trên thị trường tự do chiếm
tỷ lệ rất cao (86%). Lý do là cần đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho những người
mua chứng khoán của các DN chưa đủ điều kiện niêm yết và tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoà nhập dần vào TTCK tập trung.
5. Hiểu biết về chứng khoán và TTCK của cán bộ quản lý trong công ty
Chưa qua đào tạo
Qua điều tra cho thấy, phần lớn cán bộ quản lý trong các DN đều chưa qua đào
tạo những kiến thức về chứng khoán. Số DN mà 100% cán bộ quản lý chưa qua
đào tạo là 87 DN (chiếm tỷ lệ 58%).
Đã qua đào tạo về chứng khoán và TTCK.
127
Trong các DN được điều tra, số DN đã thực hiện đào tạo về chứng khoán và
TTCK cho cán bộ quản lý chiếm 42%. Tuy nhiên, tỷ lệ cán bộ quản lý đã được
đào tạo về vấn đề này trong mỗi DN còn khá thấp, hầu hết chỉ từ 5-20%.
Hiểu biết qua các phương tiện thông tin và nói chuyện chuyên đề:
Chủ yếu DN tiếp cận được với các thông tin về chứng khoán là qua các phương
tiện thông tin và nói chuyện chuyên đề (chiếm khoảng 73%). Tỷ lệ các cán bộ
quản lý biết về chứng khoán và TTCK cũng khá cao chứng tỏ có nhiều cán bộ
lãnh đạo cũng đã bắt đầu quan tâm tới TTCK.
Thực tế là nhu cầu đào tạo của DN về chứng khoán cũng như lĩnh vực khác
cần cho hoạt động kinh doanh của DN là rất lớn, tuy nhiên, việc thu xếp về thời
gian cũng như cấp kinh phí cho cán bộ đi học ở nhiều DN còn hạn chế. Qua tiếp
xúc, trao đổi với doanh nghiệp, ban lãnh đạo DN đều nhất trí sẽ có kế hoạch cử
cán bộ đi học các khoá đào tạo về chứng khoán.
Với kết quả điều tra như vậy, đề tài cho rằng việc tăng cường đào tạo cho cán
bộ quản lý các DN kiến thức về chứng khoán và TTCK là hết sức cần thiết để
phát triển TTCK Việt Nam một cách hiệu quả.
6. Nhu cầu đào tạo kiến thức về chứng khoán và TTCK
Về nhu cầu đào tạo
Đa số các DN đều có nhu cầu trang bị thêm kiến thức về chứng khoán (chiếm
khoảng 94%), kể cả các DN không có nhu cầu huy động vốn trên TTCK.
Đối với những hình thức đào tạo:
Qua kết quả điều tra cho thấy, phần lớn các DN đều thích hình thức đào tạo:
- Cử cán bộ đi học: 87%
- Phối hợp mở lớp: 28%
- Mở lớp tại đơn vị: 27%
128
Hầu hết các DN đều muốn chọn hình thức thuận tiện nhất là cử cán bộ đi học.
Các hình thức phối hợp mở lớp và mở lớp tại đơn vị cũng được ủng hộ nhưng với
tỷ lệ thấp hơn. Hình thức này thường áp dụng với các DN có số lượng cán bộ có
nhu cầu đào tạo lớn hơn.
7. Ý kiến về những hỗ trợ đối với DN khi tham gia TTCK.
Hầu hết các vấn đề về hỗ trợ mà dự án đưa ra đều được hầu hết các DN nhất
trí tán thành. Có 82% số DN được hỏi cần hỗ trợ về vấn đề tư vấn cho DN về thủ
tục, hồ sơ pháp lý khi phát hành chứng khoán ra công chúng. 75% DN cần những
ưu đãi về thuế, lệ phí và đặc biệt có tới 91% số DN có nhu cầu đào tạo kiến thức
về chứng khoán và TTCK cho các cán bộ trong công ty. Các đòi hỏi hỗ trợ cung
cấp thông tin về chứng khoán và TTCK trong nước và khu vực, thông tin về văn
bản pháp lý cũng như tư vấn về xác định giá trị DN….cũng được rất nhiều DN
quan tâm.
8. Dự định tham gia vào TTCK
Về dự định tham gia vào TTCK
Số DN có ý định huy động vốn trên TTCK chiếm 53,33% số DN điều tra. Số
DN còn lại chưa có ý định tham gia huy động vốn trên TTCK do việc các DN
chưa hiểu rõ các lợi ích của việc phát hành trên TTCK và chưa đủ điều kiện
tham gia thị trường. Số liệu này cho thấy nhiều DN đã quan tâm đến hình thức
huy động vốn thông qua TTCK.
Về thời gian dự kiến sẽ huy động vốn trên TTCK
Thời gian dự kiến tham gia TTCK
- Năm 2001: 11 doanh nghiệp
- Năm 2002 đến 2005 : 24 doanh nghiệp
- Từ năm 2006 đến 2010: 29 doanh nghiệp
Đa số các DN đều có chủ trương tham gia TTCK trong thời gian tới. Tuy nhiên,
hầu hết các DN đều chưa có kế hoạch cụ thể cho nên chưa thể ước tính chính
xác thời gian tham gia TTCK cũng như lượng vốn sẽ huy động trên thị trường.
Bên cạnh đó, để có thể tham gia TTCK, DN còn phải đáp ứng đầu đủ các điều
kiện của pháp luật về chứng khoán và TTCK, cho nên khó có thể dự kiến được
thời gian tham gia.
Về chứng khoán dự định sẽ phát hành
Có 68 DN trên tổng số 80 DN được hỏi có ý định huy động vốn bằng cách phát
hành cổ phiếu, số DN dự kiến phát hành trái phiếu là 20 DN. Thông thường các
DNNN CPH hoặc các CTCP thì hình thức phát hành cổ phiếu là phổ biến. Hình
thức phát hành trái phiếu ít áp dụng hơn (chỉ phổ biến ở các NHTMCP). Giải
thích vấn đề này, có nhận định rằng có thể các DN không phát hành trái phiếu
mà vẫn áp dụng hình thức vay ngân hàng do:
129
- Chi phí phát hành lớn
- Lãi suất trả vay bằng trái phiếu cao hơn vay ngân hàng.
- Đòi hỏi lợi nhuận trung bình hàng năm của doanh nghiệp phải đều.
- Huy động khó do thói quen đầu tư của người Việt Nam.
Về đối tượng phát hành
- Phát hành trong nội bộ công ty:
Một vấn đề đáng chú ý là các DN hầu như chưa muốn phát hành chứng khoán
rộng rãi ra công chúng, chủ yếu vẫn là phát hành trong nội bộ và một số ít người
đầu tư cá nhân bên ngoài, số này chiếm khoảng 47%.
- Phát hành chứng khoán ra công chúng:
Số DN có ý định huy động vốn với số lượng người đầu tư hạn chế chiếm tỷ lệ
khá cao trên tổng số DN có ý định tham gia TTCK (54%). Điều này cho thấy,
DN chưa thấy được những lợi ích của việc huy động vốn rộng rãi, đồng thời
không muốn có những thay đổi trong tỷ lệ sở hữu trong công ty, và họ rất ngại
phải thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin khi phát hành chứng khoán ra công
chúng.
-----WZ YX-----
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA1020.pdf