Một số giải pháp nhằm thu hút và sử dụng lao động trong các khu công nghiệp của tỉnh Đồng Nai

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT KCN Khu công nghiệp UBND Uỷ ban nhân dân CNH Công nghiệp hoá HĐH Hiện đại hoá LĐTB & XH Lao động thương binh và xã hội KTTĐPN Kinh tế trọng điểm phía nam VĐTNN Vốn đầu tư nước ngoài LỜI MỞ ĐẦU Đồng Nai thuộc khu vực miền Đông nam bộ và vùng KTTĐPN. Nằm ở cửa ngõ phía Bắc đồng thời là một trung tâm công nghiệp và đô thị của vùng, tỉnh có vị trí, vai trò rất quan trọng về phát triển kinh tế-xã hội, giao lưu thương mại và an ninh quốc phòng của vùng KTTĐPN. Thờ

doc95 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1613 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm thu hút và sử dụng lao động trong các khu công nghiệp của tỉnh Đồng Nai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i kỳ vừa qua, sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh có những bước tiến mạnh mẽ, tạo được bước ngoặt trong thực hiện CNH-HĐH nền kinh tế và đóng góp tích cực vào quá trình phát triển chung của vùng và cả nước. Điểm nổi bật trong quá trình phát triển kinh tế của tỉnh là sự hình thành của các KCN. Đây là nhân tố có vai trò rất tích cực, góp phần quan trọng đưa Đồng Nai từ một tỉnh nông nghiệp thành một tỉnh công nghiệp (tỷ trọng GDP công nghiệp tăng từ 15,6% năm 1985 lên 57,7% năm 2007). Trong những năm qua, các KCN Đồng Nai đã thu hút một lượng lớn các nhà đầu tư trong và ngoài nước, đã tạo việc làm cho một lượng lớn lao động. Hàng năm, rất nhiều lao động ở các tỉnh khác tìm đến các KCN Đồng Nai như một miền đất hứa. Tuy nhiên, có một nghịch lý đã và đang diễn ra trong nhiều năm nay, đó là hiện tượng thiếu lao động ở các KCN. Trong khi tình trạng thất nghiệp vẫn còn tồn tại thì các doanh nghiệp công nghiệp Đồng Nai lại rất khó khăn trong việc tìm kiếm lao động đáp ứng được nhu cầu của mình dù cho cơ cấu lao động cần tuyển không quá phức tạp. Nhân sự có chất lượng đã khó kiếm, nhưng ngay cả lao động phổ thông vì nhiều nguyên nhân khác nhau mà cũng rất khó tuyển. Điều này đã gây ra những khó khăn rất lớn cho các doanh nghiệp, cản trở sự phát triển của ngành công nghiệp Đồng Nai. Mâu thuẫn này cần phải được nhanh chóng giải quyết. Chính tính thời sự của vấn đề, sự cấp thiết phải tìm ra các giải pháp đã đưa em đến quyết định chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm thu hút và sử dụng lao động trong các KCN của tỉnh Đồng Nai” làm đề tài nghiên cứu trong giai đoạn thực tập tốt nghiệp của mình. Cơ cấu của Chuyên đề thực tập tốt nghiệp này gồm 3 phần chính: Chương 1: Vai trò của các KCN đối với phát triển kinh tế tỉnh Đồng Nai. Chương 2: Phân tích thực trạng thu hút và sử dụng lao động trong các KCN của tỉnh Đồng Nai. Chương 3: Một số giải pháp nhằm thu hút và sử dụng lao động cho các KCN của tỉnh Đồng Nai. Vấn đề nghiên cứu thì rộng nhưng do trình độ, khả năng và thời gian có hạn nên bản Chuyên đề của em còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn cho bản Chuyên đề này thêm hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô giáo hướng dẫn: TS Phan Thị Nhiệm và sự giúp đỡ tận tình của cô Nguyễn Việt Liên-trưởng phòng Đông nam bộ, cùng các cán bộ đang làm việc tại Vụ Kinh tế địa phương và Lãnh thổ-Bộ Kế hoạch và Đầu tư. CHƯƠNG 1: VAI TRÒ CỦA CÁC KCN ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TỈNH ĐỒNG NAI 1.1. Khái niệm về KCN. Theo điều 2, Quy chế KCN, khu chế xuất, khu công nghệ cao (ban hành kèm theo nghị định số 36/CP ngày 24 tháng 4 năm 2007 của Chính phủ) ta có khái niệm: “KCN là khu tập trung các doanh nghiệp KCN chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, trong KCN có thể có doanh nghiệp chế xuất.” KCN có một số đặc điểm sau: KCN là một khu vực lãnh thổ hữu hạn, được phân cách bằng đường bao hữu hình hoặc vô hình. Được phân bố tập trung với hạt nhân là các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp (hàng tiêu dùng, hàng công nghiệp chế biến, hàng tư liệu sản xuất) và hệ thống doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ và doanh nghiệp dịch vụ cho sản xuất công nghiệp. Các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và dịch vụ cho sản xuất công nghiệp sử dụng chung hạ tầng kỹ thuật và xã hội theo một cơ chế tổ chức quản lý thống nhất của Ban quản lý KCN. 1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển công nghiệp của tỉnh Đồng Nai. 1.2.1. Các nhân tố vĩ mô. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến quá trình phát triển của ngành công nghiệp Đồng Nai. Tuy nhiên, các nhân tố vĩ mô ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành công nghiệp Đồng Nai có thể được xem xét trên hai tác động chính đó là tác động có tính 2 mặt (thuận lợi và khó khăn) của các nhân tố kinh tế xã hội trong nước và những nhân tố tác động có tính hai chiều (thời cơ và thách thức) của bối cảnh quốc tế đến phát triển công nghiệp của Đồng Nai thời gian tới 1.2.1.1. Các nhân tố kinh tế-xã hội trong nước. Kinh tế Nhân tố này thể hiện qua các yếu tố chính sau: - Tăng trưởng kinh tế: Đây là một nhân tố rất quan trọng vì nó tác động trực tiếp đến sức mua của xã hội, tạo điều kiện để các ngành có thể mở rộng quy mô sản xuất. Trong kinh tế thì khi tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại, kéo theo sức mua giảm sút, hàng hoá ế ẩm, không tiêu thụ được, nhiều mặt hàng sẽ tồn kho…Điều này sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ đến mức tăng sản xuất của các ngành trong những năm tiếp theo. Do vậy duy trì được mức tăng trưởng kinh tế liên tục và ổn định là nhân tố quan trọng tạo điều kiện cho các ngành sản xuất tiếp tục phát triển. Giai đoạn 1991-1995 là thời kỳ nền kinh tế nước ta thực hiện đường lối đổi mới, sau một thời gian tăng trưởng khá cao, bình quân trong giai đoạn 1991-1995 là 8,1%, của Đồng Nai là 13,9%, từ năm 1996-2000, đã xuất hiện những dấu hiệu đáng lo ngại cho nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của cả nước liên tục giảm xút do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực. Đồng Nai cũng nằm trong bối cảnh chung đó: từ năm 1996 đến năm 2000, tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh giảm từ 17,1% xuống 10,4%; các ngành kinh tế của Đồng Nai đều có mức tăng giảm dần trong các năm này, trong đó công nghiệp có tốc độ tăng trưởng giảm sút mạnh từ 33,4% năm 1996 xuống còn 17,02% năm 2000. (Xem bảng sau) Bảng 1.1- TÌNH HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ GIAI ĐOẠN 1996-2000 (Nguồn: Sở công nghiệp Đồng Nai) ĐVT: % Chỉ tiêu Năm 1996 1997 1998 1999 2000 gGDP cả nước 9,3 9 5,3 4,8 6,7 gGDP Đồng Nai 17,1 13,7 9,6 9,4 10,4 gCông nghiệp Đồng Nai 33,4 21,46 15,8 14,7 17,02 Bước sang giai đoạn 2001-2005, kinh tế Việt Nam luôn giữ được tốc độ cao và ổn định. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Đồng Nai giai đoạn này là 12,8%, trong đó ngành công nghiệp Đồng Nai có tốc độ tăng trưởng bình quân là 16%. - Tài chính tín dụng và thị trường: là những yếu tố rất nhạy cảm, tác động mạnh đến khả năng cạnh tranh ngành công nghiệp, của doanh nghiệp như: lãi suất tín dụng, tỷ giá hối đoái, tình hình lạm phát, giảm phát, thị trường tiêu thụ cũng như thị trường tài chính tiền tệ. Với tình hình sản xuất kinh doanh hiện nay thì yếu tố lãi suất tín dụng là một trong những yếu tố tác động trực tiếp đến chi phí giá thành sản phẩm và ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh sản phẩm. Do vậy lãi suất cần phải được xác định phù hợp và ổn định sẽ nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành và kích thích các ngành sản xuất phát triển và ngược lại. Xem xét hiệu quả sản xuất kinh doanh của các ngành công nghiệp Đồng Nai trong năm 2003 cho thấy, chỉ số lợi nhuận/vốn kinh doanh của các ngành và của toàn ngành công nghiệp đạt 6,1%, thấp hơn cả lãi xuất huy động vốn (7-8%). Với mức lãi suất còn cao và biến động, đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc đầu tư phát triển của các doanh nghiệp, đây cũng là một vấn đề ảnh hưởng đến phát triển của ngành công nghiệp trong thời gian tới. Sự thay đổi tỷ giá hối đoái cũng là yếu tố quan trọng trong môi trường kinh tế, sự thay đổi tỷ giá hối đoái sẽ tác dụng trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu, gây ảnh hưởng đến cán cân thanh toán. Thời gian qua, ngân hàng Nhà nước đã thực hiện cơ chế điều hành tỷ giá mới, theo đó hàng ngày ngân hàng Nhà nước công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của đồng Việt Nam so với đồng USD (thay cho việc công bố tỷ giá chính thức trước đây). Bên cạnh đó hạ thấp tỷ lệ kết hối để tạo thế chủ động hơn cho doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh…Những thay đổi này làm cho tỷ giá ở Việt Nam được hình thành một cách khách quan hơn, phản ánh đúng hơn cung cầu ngoại tệ trên thị trường, phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện để hội nhập tốt hơn với cộng đồng quốc tế và khu vực. Đối với Đồng Nai, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng năm khá lớn (khoảng 11,8 tỷ USD năm 2007) do đó việc thay đổi tỷ giá hối đoái và tỷ lệ kết hối ảnh hưởng rất lớn đến các doanh nghiệp. Bên cạnh những yếu tố trên thì yếu tố lạm phát, giảm phát cũng ảnh hưởng không nhỏ đến thu nhập, việc làm và tiêu dùng của toàn xã hội. Điều này cũng ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát triển sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm háng hoá, nó đi ngược lại với việc tăng trưởng kinh tế đó là tăng nhu cầu và sức mua, thúc đẩy sản xuất phát triển. Như vậy, để khuyến khích sản xuất phát triển, mức độ lạm phát cần phải gia tăng ở mức độ phù hợp và trong khuôn khổ có thể chấp nhận được. Một yếu tố hết sức quan trọng trong nền kinh tế thị trường hiện nay đó là xây dựng đồng bộ các loại hình thị trường, từ thị trường hàng hóa dịch vụ đến thị trường tài chính tiền tệ. Nền kinh tế của Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi, cơ chế thị trường đang trong quá trình hình thành, các khuôn khổ pháp lý còn chưa hoàn chỉnh. Thời gian qua, nhà nước cũng đã quan tâm triển khai nghiên cứu vấn đề này như đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, thúc đẩy quan hệ song phương và đa phương, ra đời thị trường chứng khoán…Do vậy để phát huy nội lực tạo điều kiện để nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững, trong thời gian tới việc tạo điều kiện để các loại hình thị trường cùng phát triển như phát triển mạnh thị trường hàng hoá dịch vụ, lao động, đất đai…sẽ có tác động tốt đến sự phát triển kinh tế cả nước nói chung, công nghiệp Đồng Nai nói riêng. Chính trị-xã hội. Lợi thế so với một số nước trong khu vực đó là môi trường chính trị ổn định, an ninh xã hội tốt. Đảng và Chính phủ quyết tâm thực hiện công cuộc đổi mới với rất nhiều cố gắng nhằm lành mạnh hoá các vấn đề kinh tế-xã hội, tạo niềm tin trong nhân dân và tạo sự yên tâm cho các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, Đảng và Chính phủ luôn luôn lắng nghe, tìm hiểu những khó khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp để có biện pháp hỗ trợ kịp thời, liên tục hoàn thiện các chính sách cũ, bổ sung nhiều chính sách mới nhằm tạo môi trường ngày càng thông thoáng và thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp hoạt động. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các doanh nghiệp trong cả nước nói chung và các doanh nghiệp công nghiệp Đồng Nai nói riêng. Chính sách, luật pháp. Đây là một trong những yếu tố hết sức quan trọng, là tiền đề trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển. Với đường lối đổi mới, mở của của Đảng và Nhà nước trong thời gian qua, đã tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế có nhiều thuận lợi để phát triển sản xuất. Hàng loạt các chính sách ra đời, ngày càng góp phần tạo môi trường thông thoáng cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư phát triển. Cơ quan lập pháp của Nhà nước đã liên tục nghiên cứu ban hành, bổ sung, sửa đổi các văn bản pháp luật. Bộ Luật dân sự, luật Đầu tư nước ngoài được sửa đổi; luật khuyến khích đầu tư trong nước, luật thương mại, luật doanh nghiệp…ra đời đã đặt nền tảng pháp lý quan trọng cho các quan hệ dân sự, kinh tế và kinh doanh, tạo nên khí thế mới trong sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, việc ban hành các chủ trương, chính sách, quy định của Nhà nước còn thiếu đồng bộ, thiếu tính nhất quán, khiến cho các chủ trương, chính sách mới đi và cuộc sống chậm. Bên cạnh đó hệ thống pháp luật ở Việt Nam chưa đồng bộ, thiếu các văn bản hướng dẫn kịp thời và thường xuyên phải sửa đổi do vậy thường gây nên những lúng túng khi thực hiện. Trong khi đó, các quốc gia có quan hệ ngoại thương với Việt Nam lại có hệ thống luật pháp rất hoàn chỉnh, chặt chẽ, cụ thể và phức tạp, nhất là Nhật Bản, Mỹ và khối EU. Đây là những khó khăn không nhỏ đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi gia nhập các thị trường khu vực và thế giới. Trong nhiều năm qua, ngành công nghiệp Đồng Nai nói chung và các KCN Đồng Nai nói riêng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Đóng góp vào những thành tựu đó là cơ chế quản lý “một cửa, tại chỗ”. Với quan điểm “xem khó khăn của nhà đầu tư như khó khăn của chính mình”, Ban Quản lý KCN đã chủ động, tích cực cải tiến phương thức, lề lối làm việc, tiến hành đồng bộ các biện pháp, từ việc hình thành và hoạt động của bộ phận tiếp nhận và trả kết quả cùng với việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO và ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác chuyên môn đã nâng cao hiệu quả giải quyết hồ sơ, tăng cường hiệu lực chỉ đạo điều hành, rút ngắn thời gian so với quy định. Cụ thể như: thời gian cấp giấy phép xuất nhập khẩu từ 15 ngày theo quy định của Bộ Thương mại được rút ngắn còn trung bình 3 ngày, trong đó 70% số giấy phép được cấp trong 1 ngày, 27% trong 2 ngày; cấp giấy phép đầu tư từ 15 ngày theo quy định, 2/3 hồ sơ được rút ngắn còn 7 ngày, 50% được giải quyết từ 3 - 5 ngày; cấp chứng chỉ C/O Form Đồng Nai trong 2 giờ…Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vẫn còn bộc lộ một số khó khăn vướng mắc đang được xem xét, nghiên cứu và tìm biện pháp khắc phục. Điều kiện tự nhiên, xã hội. Đồng Nai là một tỉnh nằm ở vùng Đông Nam bộ, có vị trí quan trọng trong vùng KTTĐPN, có thành phố tập trung nhiều KCN lớn loại nhất nước. Đây là đầu mối nhiều tuyến giao thông quốc gia có tiềm năng phát triển công nghiệp và đang là địa điểm thu hút mạnh các nhà đầu tư. Nằm trong Vùng KTTĐPN, là trung tâm kinh tế của cả nước có rất nhiều tiềm năng kinh tế để phát triển kinh tế. Với diện tích 5.862 km2, có khí hậu ôn hoà lại nằm gần thành phố Hồ Chí Minh là thị trường tiêu thụ lớn các sản phẩm nông, công nghiệp và ở giữa vùng tài nguyên phong phú về nông sản, cảng công nghiệp, rừng, khoáng sản, hải sản và dầu khí, gần thị trường của 9 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, 8 tỉnh miền Đông Nam bộ và các tỉnh Nam Trung bộ, Nam Tây nguyên. Giao thông thuỷ bộ thuận tiện cho việc đi lại, chuyên trở hàng hoá trong cả nước. Cơ sở hạ tầng của Đồng Nai khá tốt, nhất là hệ thống các KCN, mạng lưới thông tin liên lạc của các cơ sở dịch vụ bưu chính-viễn thông. Nguồn nhân lực dồi dào. Năm 2006, Đồng Nai có dân số là 2.362.554 triệu người, trong đó có khoảng 1.2 triệu người trong độ tuổi lao động, chiếm khoảng 50% dân số. Cơ cấu nguồn nhân lực chuyển dịch theo xu hướng giảm dần ở khu vực I, tăng dần ở khu vực II và III. Tỷ trọng nguồn nhân lực trong khu vực I còn quá lớn, tỷ trọng lao động trong khu vực II và III còn quá nhỏ, tỷ lệ lao động kỹ thuật (từ công nhân kỹ thuật đến trên đại học) còn thấp. So với những năm trước đây thì lực lượng lao động công nghiệp ở Đồng Nai hiện nay đã có những bước trưởng thành đáng kể cả về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu của CNH-HĐH đất nước thì tỷ lệ tay nghề thấp của nguồn nhân lực đang là trở lực đối với sự nghiệp CNH-HĐH. Đòi hỏi các cấp, các ngành phải tăng cường mở rộng các trường dạy nghề, khuyến khích học tập trong các tầng lớp dân cư và mở cửa thu hút lao động có tay nghề từ nguồn tăng cơ học. Mặt khác, do sự phát triển nhanh chóng của nhiều ngành công nghiệp cùng với lượng dân tự do cư trú quá đông, tăng dân số cơ học, mật độ sử dụng các phương tiện chuyển chở, đi lại cao…nên nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp như môi trường, nhà ở công nhân và một số tệ nạn khác. 1.2.1.2. Các nhân tố bối cảnh khu vực và quốc tế. Xu hướng toàn cầu hóa, quốc tế hoá nền kinh tế thế giới đã làm cho các nước xích lại gần nhau hơn. Với đường lối đối ngoại rộng mở, tập trung các nguồn lực trong nước phát triển kinh tế, hiện nay Việt Nam đã có quan hệ với hơn 160 quốc gia về ngoại giao, với trên 100 quốc gia về quan hệ buôn bán. Cùng với xu hướng toàn cầu hoá, tiến trình khu vực hoá ngày càng diễn ra sâu rộng hơn, chúng ta đã tham gia nhiều tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế : AFTA, APEC, WTO. Gia nhập vào các tổ chức này, một mặt tạo ra nhiều cơ hội thuân lợi để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, mở rộng thị trường, mặt khác cũng đặt nước ta vào những thách thức không nhỏ do xuất phát điểm của nền kinh tế còn rất thấp, tính cạnh tranh yếu, kinh nghiệm trong thương trường quốc tế còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, với trình độ công nghệ lạc hậu so với khu vực và quốc tế, nhưng là nước đi sau nên ngành công nghiệp có thể vận dụng được nhiều thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến của các nước phát triển đi trước, có thể mua được công nghệ với giá rẻ hơn, chi phí chuyển giao thấp hơn từ các nước công nghệ tiên tiến. Trên thực tế, thông qua việc thu hút FDI, Việt Nam đã phần nào tranh thủ đổi mới và tiếp thu được công nghệ tiên tiến trong các xí nghiệp liên doanh với nước ngoài, đặc biệt ở một số lĩnh vực như dầu khí, hóa chất, vật liệu xây dựng, điện tử và viễn thông. Từ phân tích trên cho thấy bối cảnh quốc tế hiện nay sẽ tác động trực tiếp đến sự phát triển của ngành công nghiệp Đồng Nai. Với kim ngạch xuất nhập khẩu trên 5 tỷ USD hàng năm, kim ngạch xuất khẩu chiếm trên 50% doanh thu sản xuất công nghiệp toàn ngành, do đó những tác động về bối cảnh quốc tế đối với kinh tế nước ta sẽ có tác động trực tiếp và ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của ngành công nghiệp Đồng Nai trong thời gian tới. 1.2.2. Các nhân tố vi mô. Các nhân tố thuộc tầm vi mô, tức là xem xét ở giác độ ngành và các doanh nghiệp. Những nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của ngành và mỗi loại sản phẩm. Đó là những kỹ năng tổ chức, quản lý của nhà kinh doanh. Đối với một doanh nghiệp công nghiệp các kỹ năng này lại càng cần thiết. Bộ phận quản lý trong doanh nghiệp cần phải có khả năng tổ chức, quản lý tốt ở tất cả các khâu từ tiền sản xuất đến sau sản xuất. - Trong giai đoạn tiền sản xuất, người sản xuất cần chú trọng việc thiết kế sản phẩm, lựa chọn và mua thiết bị công nghệ phù hợp, có kỹ năng quản lý và định mức chi phí nguyên vật liệu, dự trữ tốt. - Trong quá trình sản xuất, người chủ doanh nghiệp cần quan tâm đến việc tổ chức, sử dụng lao động như thế nào để có thể phát huy được năng lực, trách nhiệm của họ, có những động viên kịp thời giúp người lao động gắn bó hơn với doanh nghiệp; quản lý việc sử dụng nguyên vật liệu sao cho tiết kiệm, hợp lý và phải quan tâm đến vấn đề chất lượng sản phẩm, có các nỗ lực để không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm vì đây là một nhân tố đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp. - Không chỉ chú trọng ở giai đoạn sản xuất, trên thực tế ngày càng có nhiều doanh nghiệp quan tâm hơn đến giai đoạn sau sản xuất. Sự cạnh tranh trong thị trường vốn đã rất khốc liệt và ngày càng khó khăn hơn đối với các doanh nghiệp trong nước khi chúng ta đã là thành viên của WTO. Mở của hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới đòi hỏi các doanh nghiệp phải nỗ lực hơn nữa trong việc đem sản phẩm, hình ảnh của doanh nghiệp đến với người tiêu dùng. Các khâu sau sản xuất như: mẫu mã, bao gói sản phẩm, giao nhận kịp thời, đúng hạn, vấn đề dịch vụ và thời gian bảo hành cho sản phẩm, tiếp thị thị trường…Trong số đó, đặc biệt quan trọng là yếu tố về thị trường, giá cả, chất lượng sản phẩm và các hoạt động dịch vụ trước, trong và sau bán hàng, các yếu tố này cần được doanh nghiệp nghiên cứu kỹ để đưa ra được các chiến lược cạnh tranh hiệu quả. Các nhà kinh doanh có kỹ năng tổ chức, quản lý tốt sẽ thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp mình và cũng là góp phần vào sự phát triển của ngành công nghiệp của tỉnh. 1.3. Tổng quan về tình hình kinh tế-xã hội của tỉnh Đồng Nai trong thời gian qua. 1.3.1. Tốc độ tăng trưởng và quy mô của nền kinh tế. Trong thời gian qua nền kinh tế của tỉnh có tốc độ tăng trưởng khá nhanh. Thời kỳ 1996-2005 tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 12,4% cao gấp 1,5 lần mức bình quân (8,2%) của thời kỳ 1986-2005. Giai đoạn 2001-2005, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 12,8% cao gấp 1,14 lần mức tăng bình quân chung (11,2%) của vùng KTTĐPN và gấp 1,7 lần mức tăng bình quân (7,5%) của cả nước. (Xem hình 1.1) Hình 1.1- TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG GDP BÌNH QUÂN GIAI ĐOẠN 2001-2005 (Nguồn: Cục thống kê Đồng Nai) ĐVT: % Từ 1995 đến nay (2007), qui mô GDP của nền kinh tế tính theo giá so sánh (giá 94) tăng lên gấp hơn 4,25 lần, từ 5.936 tỷ đồng (1995) lên 25.255,7 tỷ đồng (2007). Bảng 1.2- MỘT SỐ CHỈ TIÊU KINH TẾ TỔNG HỢP CỦA ĐỒNG NAI (Nguồn: UBND tỉnh Đồng Nai) CHỈ TIÊU KINH TẾ Đơn vị Thực hiện 2006 2007 So sánh (%) ƯTH2007/TH2006 Kế hoạch Ước thực hiện Tổng giá trị gia tăng-GDP (giá 94) Tỷ đồng 21.941 25.214 25.255 115,1 - GTGT ngành công nghiệp-xây dựng Tỷ đồng 13.739 16.064 16.062 116.9 - GTGT ngành dịch vụ Tỷ đồng 5.020 5.840 5.847 116,5 - GTGT ngành nông nghiệp Tỷ đồng 3.182 3.310 3.346 105,2 GDP bình quân đầu người (giá 94) 1.000 đ 9.287 10.484 10.501 113,1 Qua bảng trên ta thấy, năm 2007, Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) ước tăng 15,1% so với năm 2006, vượt mục tiêu Nghị quyết Tỉnh uỷ và Hội đồng nhân dân tỉnh đề ra (mục tiêu: tăng 15%), gần gấp đôi so với bình quân chung cả nước, đây là mức tăng trưởng cao nhất trong vòng 10 năm qua. Trong đó: Ngành công nghiệp-xây dựng tăng 16,9%; ngành dịch vụ tăng 16,5%; ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 5,2%. Quy mô GDP theo giá so sánh là 25.255 tỷ đồng. GDP bình quân đầu người theo giá so sánh là 10,501 triệu đồng, tăng 13,1% so với năm 2006. 1.3.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ cấu kinh tế có tốc độ chuyển dịch khá nhanh và đạt được bước tiến quan trọng theo hướng CNH. Thời kỳ 1996-2005, tốc độ tăng trưởng của khu vực công nghiệp đạt bình quân 17,6%; nông nghiệp 4,3%; dịch vụ 10,3%. Riêng trong giai đoạn 2001-2005, tốc độ tăng trưởng của công nghiệp đạt 16%; nông nghiệp 4,6%; dịch vụ 12,1%. Năm 2007, tỷ trọng các ngành trong cơ cấu GDP: công nghiệp-xây dựng 57,7%; dịch vụ 30,2%; nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 12,1%. Như vậy, sau 12 năm (1995-2007) tỷ trọng các ngành phi nông nghiệp tăng lên được 19,7% trong cơ cấu GDP, tỷ trọng của khu vực nông nghiệp giảm từ 31,8% (1995) xuống 12,1%. Tỷ trọng công nghiệp-xây dựng đã chiếm trên 50 % tổng giá trị sản phẩm theo đúng định hướng phát triển của một tỉnh công nghiệp. Điều này được thể hiện qua 2 biểu đồ sau: (Nguồn: UBND tỉnh Đồng Nai) Cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế chuyển dịch nhanh đối với khu vực kinh tế có VĐTNN do được đẩy mạnh thu hút đầu tư. Từ 1996 đến nay, khu vực kinh tế có VĐTNN có tốc độ tăng trưởng cao, giai đoạn 2001-2005 tăng bình quân 20,7%; khu vực kinh tế trong nước trên địa bàn tăng trưởng chậm hơn, giai đoạn 2001-2005 tăng bình quân 9,1%. Tỷ trọng của khu vực kinh tế có VĐTNN trong GDP tăng lên rất nhanh, từ 12,9% (1995) lên 37% (2005). 1.3.3. Xuất-nhập khẩu. Kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu đều tăng nhanh và ở mức bình quân xấp xỉ nhau 30,1% và 31% trong thời kỳ 1996-2005. Trong đó giai đoạn 2001-2005, kim ngạch nhập khẩu tiếp tục tăng khá nhanh bình quân 22,7%/năm; kim ngạch xuất khẩu tăng chậm, bình quân đạt 16,5%/năm. Năm 2007, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu ước đạt 11,8 tỷ USD, đạt 105,8% kế hoạch, tăng 27,6% so với thực hiện năm 2006. Bảng 1.3- TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU Ở ĐỒNG NAI NĂM 2007 Xuẩt khẩu Nhập khẩu Kim ngạch Xuất khẩu (triệu USD) So sánh (%) Kim ngạch Nhập khẩu (triệu USD) So sánh (%) 2007/kế hoạch 2007/2006 2007/kế hoạch 2007/2006 Toàn tỉnh 5474 100,3 128,7 6329 111 126,6 DN TW 138 106,2 126,3 73 104,3 116,2 DN ĐP 313 101,6 128 142 97,9 113,2 DN có VĐT NN 5023 100 128,8 6114 111,5 127,1 (Nguồn: UBND tỉnh Đồng Nai) DN TW: doanh nghiệp trung ương. DN ĐP: doanh nghiệp địa phương. DN có VĐT NN: doanh nghiệp có VĐTNN. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là cà phê, cao su, hạt điều nhân, mật ong, giày dép, hàng mộc tinh chế, gốm thủ công mỹ nghệ, hàng may mặc; thị trường xuất khẩu chủ yếu tập trung ở một số nước Châu Á, Châu Âu và Hoa Kỳ. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là hạt điều thô, phân bón, hoá chất công nghiệp, máy móc thiết bị cho sản xuất, nguyên phụ liệu phục vụ cho sản xuất. 1.3.4. Thu chi ngân sách. Tổng thu ngân sách hàng năm đều đạt và vượt kế hoạch, tốc độ tăng thu bình quân trong thời kỳ 1996-2005 đạt 21,6%/năm, trong đó giai đoạn 2001-2005 đạt 22,5%/năm (cả nước tăng 18,3%/năm). Tổng thu ngân sách cả giai đoạn 2001-2005 là 26.808 tỷ đồng. Năm 2007, Tổng thu ngân sách đạt 9.917,555 tỷ đồng, đạt 100,1% kế hoạch, tăng 10,4% so với năm 2006. Bảng 1.4- THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN ĐỒNG NAI NĂM 2007 (Nguồn: UBND tỉnh Đồng Nai) 2007 (Tỷ đồng) So sánh (%) 2007/kế hoạch 2007/2006 Tổng thu ngân sách 9.917,555 100,1 110,4 - Thu nội địa 6.193,304 97,7 112,8 - Thu từ hoạt động Xuất nhập khẩu 3.380,051 105 110,1 - Thu từ xổ số kiến thiết 344,2 100 81,8 Chi Ngân sách hàng năm tăng bình quân 18,6% trong cả thời kỳ 1996-2005, đạt 65.493 tỷ đồng; giai đoạn 2001-2005 mức chi ngân sách hàng năm tăng bình quân 19,4%. Thu ngân sách hàng năm tăng đều và nhanh tạo điều kiện để chi phát triển kinh tế-xã hội, trong đó: chi đầu tư xây dựng cơ bản và chi sự nghiệp giáo dục-y tế-văn hoá-xã hội tăng bình quân 30,2% và 20,5% trong giai đoạn 2001-2005. Năm 2007, tổng chi ngân sách địa phương là 3.700,0 tỷ đồng, đạt 102% kế hoạch, tăng 18% so với năm 2006. Bảng 1.5- CHI NGÂN SÁCH CỦA ĐỒNG NAI NĂM 2007 (Nguồn: UBND tỉnh Đồng Nai) 2007 (Tỷ đồng) So sánh (%) 2007/kế hoạch 2007/2006 1. Tổng chi ngân sách địa phương 3.700,0 102 118 1.1. Chi trong cân đối ngân sách 3.355,8 102 107,1 - Chi đầu tư phát triển 1.162,0 99,5 80,3 - Chi thường xuyên 2.169,8 108,5 101,3 - Chi trả nợ vay đầu tư cơ sở hạ tầng 21,055 100 100 - Chi lập hoặc bổ sung quỹ dự trữ tài chính 2,910 100 100 1.2. Chi quản lý qua ngân sách 344,2 100 1.3.5. Phát triển các ngành kinh tế Công nghiệp phát triển với nhịp độ cao. Thời kỳ 1996-2005 giá trị sản xuất tăng bình quân 19,3%/năm là động lực chủ yếu thúc đẩy chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế và đô thị hoá của tỉnh; trong thời kỳ này, khu vực công nghiệp đã tạo thêm được 258,8 nghìn chỗ làm mới, đóng góp không nhỏ vào tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Năm 2007 giá trị sản xuất công nghiệp-xây dựng ước đạt 63.538,6 tỷ đồng (giá 94), đạt 103,3% kế hoạch, tăng 22,4% so với thực hiện năm 2006. Bảng 1.6- SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP CỦA ĐỒNG NAI NĂM 2007 (Nguồn: UBND tỉnh Đồng Nai) 2007 (Tỷ đồng) So sánh (%) 2007/kế hoạch 2007/2006 Giá trị sản xuất CN-XD (giá 94) 63.538,6 103,3 122,4 - Quốc doanh trung ương 7.718,6 103,2 114,1 - Quốc doanh địa phương 2.956,6 108,3 113,3 - Khu vực ngoài quốc doanh 8.032,6 104 121,7 - Khu vực có VĐTNN 44.830,7 109 124,8 Phát huy được tiềm năng thế mạnh, sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển nhanh và vững chắc, góp phần tích cực cải thiện đời sống nông dân. Từ năm 1996 đến nay, giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng bình quân 5,9%/năm; giá trị sản xuất nông nghiệp trên 1 ha đất thuần nông nghiệp tăng bình quân 5,7%/năm. Năm 2007, giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản ước đạt 6.629,3 tỷ đồng (giá 94), đạt 99,5% kế hoạch, tăng 5,4% so với thực hiện năm 2006. Bảng 1.7- SẢN XUẤT NÔNG, LÂM, THUỶ SẢN CỦA ĐỒNG NAI NĂM 2007 (Nguồn: UBND tỉnh Đồng Nai) 2007 (Tỷ đồng) So sánh (%) Cơ cấu 2007/kế hoạch 2007/2006 Giá trị sản xuất NLTS (giá 94) 6.629,3 99,5 105,4 100 - Giá trị sản xuất nông nghiệp 6.133,3 99,9 105,3 92,5 - Giá trị sản xuất lâm nghiệp 69,7 105,8 106,9 1,1 - Giá trị sản xuất thuỷ sản 426,3 92,6 105,4 6,4 Khu vực dịch vụ có tốc độ phát triển ngày càng tăng, giai đoạn 2001-2005 tốc độ tăng trưởng giá trị sản phẩm dịch vụ gấp 1,5 lần so với giai đoạn 1996-2000. Trong vòng 10 năm (1996-2005) khu vực dịch vụ đã tạo thêm được 115,1 nghìn chỗ làm mới, cùng với công nghiệp đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động. Từ 1995 đến nay, tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ hàng năm tăng lên gấp 5,9 lần với nhịp tăng bình quân 19,3%. Năm 2007, tỉnh đã tổ chức nhiều hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư xây dựng sắp xếp một số chợ. Hiện nay có 6 siêu thị đang hoạt động trên địa bàn tỉnh đáp ứng nhu cầu mua sắm của nhân dân. Tổng mức bán lẻ năm 2007 ước đạt 26.421 tỷ đồng, đạt 103,6% kế hoạch, tăng 25,3% so với năm 2006; giá trị tăng thêm ngành dịch vụ tăng 16,5%, đạt mục tiêu Nghị quyết. 1.3.6. Thu hút đầu tư nước ngoài và phát triển doanh nghiệp Cùng với quá trình hoàn thiện và đổi mới chung của cả nước về pháp luật và cơ chế chính sách, môi trường thu hút đầu tư và phát triển doanh nghiệp ở tỉnh ngày càng năng động và được cải thiện thông thoáng. Đặc biệt với chủ trương “chính quyền đồng hành cùng doanh nghiệp”, thủ tục hành chính “một của tại chỗ” cùng với chính sách phát triển KCN hợp lý đã tác động tích cực đến thu hút đầu tư nước ngoài và phát triển doanh nghiệp trên địa bàn trong thời gian qua. Thu hút đầu tư nước ngoài năm 2007 vào Đồng Nai đạt kỷ lục với khoảng 2,67 tỷ USD, tăng 2,4 lần so với năm 2006 và vượt kế hoạch năm 2007 gấp hai lần. Điểm mới trong thu hút FDI năm 2007 là có sự chuyển biến khá lớn về cơ cấu ngành nghề và chất lượng dự án. Nếu như các năm trước FDI của Đồng Nai tập trung cho ngành công nghiệp chiếm trên 90% tổng vốn đầu tư thì năm 2007 các dự án thuộc ngành dịch vụ đã chiếm hơn nửa tổng vốn thu hút mới. Các dự án trong lĩnh vực công nghiệp đã có sự chuyển dịch mạnh sang lĩnh vực công nghệ kỹ thuật cao. Các dự án thuộc các ngành gia công như may mặc, giày thể thao… sử dụng nhiều lao động đã giảm mạnh. Mặt khác, không chỉ đầu tư nước ngoài mà thu hút vốn đầu tư trong nước của Đồng Nai cũng tăng mạnh. Năm 2007, tỉnh đã cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 53 dự án với tổng vốn đầu tư trên 16.700 tỷ đồng, tăng gấp hơn 2 lần so với kế hoạch đề ra. Trong đó có nhiều dự án lớn và tập trung vào lĩnh vực đầu tư cơ sở hạ tầng như nhà máy phát điện khí Nhơn Trạch, nhà máy đóng tàu Vinashin, nhiều dự án xây dựng khu dân cư đô thị... Việc thu hút các nhà đầu tư trong nước tăng cao cho thấy môi trường đầu tư ở Đồng Nai ngày càng hấp dẫn. Đây chính là nội lực góp phần phát triển kinh tế trên địa bàn ổn định. 1.3.7. Phát triển các lĩnh vực xã hội. Sự nghiệp phát triển văn hoá-xã hội đạt được nhiều kết quả quan trọng. Mức sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt, trong vòng 10 năm (1996-2005) thu nhập bình quân đầu người/tháng đã tăng lên gấp 3,2 lần, đặc biệt với nhóm dân cư có thu nhập thấp nhất chiếm 20% dân số có thu nhập bình quân đầu người/tháng tăng lên gấp 3,4 lần. Nhiều chủ trương, chính sách và chương trình quốc gia về lĩnh vực văn hóa xã hội được thực hiện tốt, một số chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch đề ra: tỉnh được ._.công nhận đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học năm 1998, hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2004; đến cuối năm 2007: tỷ lệ huy động học sinh ra lớp ở các cấp đạt cao (từ 90% trở lên); tỷ lệ xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập bậc Trung học đạt 56,7% (mục tiêu là 56%); Tỷ lệ xã, phường đạt chuẩn quốc gia về y tế đến cuối năm 2007 đạt 70%; tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi được tiêm chủng mở rộng đạt 98%; trạm y tế có bác sĩ phục vụ ổn định đạt 55%; hạ tỷ lệ hộ nghèo còn 6,83% (theo chuẩn mực của tỉnh), vượt mục tiêu Nghị Quyết (mục tiêu: 7,5%);… 1.3.8. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được xây dựng, nâng cấp, mở rộng ngày càng nhiều. Đến cuối năm 2005, toàn tỉnh có 1.592,3 km đường bê tông nhựa và láng nhựa; 80,5 km đường bê tông xi măng; 2.121,3 km đường cấp phối sỏi đỏ; 2.287,3 km đường đất; 121,3 km đường cấp phối đá. Nâng cấp và mở rộng mạng lưới điện phủ kín toàn tỉnh đến 100% số xã, cuối năm 2007 tỷ lệ hộ dùng điện đạt 97%, số máy điện thoại đạt 55,1 máy/100 dân, thuê bao internet đạt 9,66 máy/100 dân…Tiến hành xây dựng một số khu dân cư gắn liền với các KCN, xây dựng cơ sở hạ tầng các KCN tập trung. Đầu tư xây dựng, sắp xếp một số chợ; hiện nay có 6 siêu thị đang hoạt động trên địa bàn tỉnh đáp ứng nhu cầu mua sắm của nhân dân. Ngoài ra đã chú trọng đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Nhà nước, tăng năng lực sản xuất của các ngành kinh tế. 1.3.9. Đầu tư phát triển. Giai đoạn 2001-2005, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đã huy động được 46.579 tỷ đồng (cao gấp 2,5 lần trong giai đoạn 1996-2000), tốc độ tăng vốn đầu tư phát triển trong 5 năm đạt bình quân 21,8% (cao gấp 1,2 lần so với cả nước), tỷ lệ huy động vốn đầu tư phát triển so với GDP trong cả giai đoạn 5 năm đạt ở mức cao 42,8% (cả nước 37,5%). Tổng vốn đầu tư thực tế triển khai năm 2007 là 20.278 tỷ đồng, tăng 29,9% so thực hiện năm 2006. Trong đó: vốn do các đơn vị địa phương đầu tư trên địa bàn là 8.134,8 tỷ đồng, chiếm 40,1%; vốn do các đơn vị trung ương đầu tư tại địa phương là 1.323,9 tỷ đồng, chiếm 6,5%; vốn do các đơn vị đầu tư nước ngoài là 10.448,2 tỷ đồng, chiếm 51,5% trong tổng vốn đầu tư thực hiện; còn lại nguồn vốn khác là 371,1 tỷ đồng. (Nguồn: UBND tỉnh Đồng Nai) Huy động tích cực vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đã có tác động đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế, đồng thời tạo điều kiện để đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội trong tỉnh thời kỳ vừa qua. 1.4. Giới thiệu về các KCN của tỉnh Đồng Nai. Tính đến ngày 30/09/2007, Đồng Nai đã được phê duyệt 24 KCN với tổng diện tích là 6,496 ha, diện tích dùng cho thuê là 4,412.03 ha, đã cho thuê được 3,064 ha, đạt tỷ lệ 69.45% diện tích đất dành cho thuê. Một số KCN đã cho thuê hết đất như: KCN Biên Hòa II, Loteco, KCN Nhơn Trạch III (giai đoạn 1), KCN Biên Hòa I, KCN Tam Phước, KCN Định Quán. Tổng số vốn đầu tư hạ tầng lũy kế là 247,9 triệu USD. Sau đây là tình hình các khu công nghiệp đã được phê duyệt: KCN Biên Hòa 1. Diện tích: 335ha, trong đó diện tích dùng cho thuê 248.48ha, diện tích đã thuê 248.48ha, đạt 100%. Hiện đang có 90 dự án đầu tư với số vốn đăng ký hơn 326 triệu USD. Lĩnh vực đầu tư: chế biến thực phẩm, hoá chất, vật liệu xây dựng, cơ khí, điện tử, giấy, dịch vụ. KCN Biên Hòa 2. Diện tích: 365ha, diện tích dùng cho thuê 261ha, đã cho thuê 261ha đạt 100% Hiện đã có: 126 dự án đầu tư với số vốn đăng ký là 1,396 triệu USD. Lĩnh vực đầu tư: Thực phẩm, dệt may, hàng mỹ nghệ, mỹ phẩm, giày dép, dụng cụ thể thao, các loại bao bì cao cấp, điện tử, vật liệu xây dựng, sản xuất phụ tùng và lắp ráp xe gắn máy ô tô, dược phẩm, hạt nhựa PVC và các sản phẩm từ nhựa; hàng kim khí kết cấu kim loại, máy và thiết bị công nghiệp… KCN Gò Dầu. Diện tích: 184ha, diện tích dùng cho thuê 136.7ha, đã cho thuê 134.9ha, đạt 98.68%. (chưa kể 120 ha của Công ty Vedan Việt Nam). Hiện đang có 21 dự án đầu tư. Lĩnh vực đầu tư: Sản xuất vật liệu xây dựng; cơ khí, cơ khí chính xác; sản xuất và sửa chữa xe máy, thiết bị; dệt, may, nhuộm; điện, điện tử; hóa chất công nghiệp, nông nghiệp và thực phẩm; chế biến thực phẩm, nông sản và các ngành công nghiệp khác không gây ô nhiễm nặng. 1.4.4. KCN Amata. Diện tích (giai đoạn 1&2): 361 ha, trong đó giai đoạn 1 phát triển 129 ha, diện tích dùng cho thuê 100 ha, đã được phát triển toàn bộ với các tiện ích hạ tầng chất lượng. Giai đoạn 2 phát triển 261 ha và khu dịch vụ, đang được phát triển theo từng giai đoạn. Tổng diện tích đã cho thuê giai đoạn 1 & 2 là 180.16 ha. Tỉ lệ đất đã cho thuê (gđ 1&2) đạt 71.99%. Hiện đang có 46 dự án đầu tư với số vốn đăng ký là 320 triệu USD, trong đó có 35 dự án đang hoạt động, các dự án khác đang trong giai đoạn xây dựng và chuẩn bị. Lĩnh vực đầu tư: thực phẩm, điện tử, cơ khí, dệt may, giày dép, hàng mỹ nghệ, mỹ phẩm, dụng cụ thể thao, đồ chơi, sản phẩm nhựa, các loại bao bì, thép, công-ten-nơ, xe hơi, kính, hóa chất, hàng tiêu dùng, bảo trì máy kéo, sơn cao cấp các loại, keo dán công nghiệp, bình chứa ga, giấy vệ sinh và giấy ăn, lưới đánh cá, dược phẩm, nông dược, các cấu kiện bê tông… 1.4.5. KCN Loteco. Diện tích: 100 ha cho giai đoạn đầu gồm cả 40 ha của khu chế xuất trong KCN. Diện tích dùng cho thuê 71.58 ha, diện tích đã cho thuê 71.58 ha, đạt 100%. Hiện đang có 22 dự án đầu tư với số vốn đăng ký là 151 triệu USD. Lĩnh vực đầu tư: cơ khí, điện tử, phụ tùng ô tô và các phương tiện vận tải, xe gắn máy, dệt may, da giày, thực phẩm, dụng cụ quang học, mỹ nghệ, mỹ phẩm, dụng cụ thể thao, đồ chơi trẻ em, dược phẩm, thiết bị y tế, hàng tiêu dùng, vật liệu xây dựng, kính, sản xuất sản phẩm chi tiết máy cho đường thủy, bao bì các loại, công nghiệp giấy ( không có công đoạn sản xuất bột giấy), chế biến gỗ, in, sản xuất trang thiết bị và các sản phẩm dùng cho xử lý chất thải công nghiệp, hóa chất… KCN Hố Nai. Diện tích: 497 ha, trong đó giai đoạn 1 phát triển 226 ha, diện tích dùng cho thuê 151.17 ha, diện tích đã cho thuê 139.36 ha, đạt 92.19%; giai đoạn 2 phát triển 271 ha, diện tích dùng cho thuê 149.96 ha, hiện chưa có đơn vị nào thuê. Hiện đang có 66 dự án đầu tư với số vốn đăng ký hơn 218 triệu USD. Lĩnh vực đầu tư: Công nghiệp may mặc; lắp ráp các linh kiện điện, điện tử; cơ khí lắp ráp xe ôtô, môtô; công nghiệp hương liệu, hóa mỹ phẩm; sản xuất vật liệu xây dựng, trang thiết bị nội thất; chế biến sản phẩm gỗ; công nghiệp điện gia dụng; dịch vụ ngân hàng, bưu điện; các dịch vụ về kho bãi, nhà xưỡng cho thuê. KCN Sông Mây. Diện tích: 417 ha, giai đoạn 1 phát triển 227 ha, diện tích dùng cho thuê 158.1 ha, diện tích đã cho thuê 135.5 ha, đạt 85.7%. Hiện đã có: 19 dự án đầu tư với số vốn đăng ký là 189 triệu USD. Lĩnh vực đầu tư: Gia công cơ khí; lắp ráp điện tử; chế biến thực phẩm, dược liệu; da giày; may mặc. KCN Nhơn Trạch 1. Diện tích: 430 ha, diện tích dùng cho thuê 311.25 ha, diện tích đã cho thuê 293.07 ha, đạt 94.16%. Hiện đang có 47 dự án đầu tư với số vốn đăng ký hơn 448 triệu USD. Lĩnh vực đầu tư: Sản xuất vật liệu xây dựng; cơ khí, cơ khí chính xác; sản xuất và sửa chữa xe máy, thiết bị; dệt, may, nhuộm; điện, điện tử; hóa chất công nghiệp, nông nghiệp và thực phẩm; chế biến thực phẩm, nông sản; các ngành công nghiệp khác không gây ô nhiễm nặng. KCN Nhơn Trạch 2. Diện tích: 347 ha, diện tích cho thuê 257.24 ha, diện tích đã cho thuê 248.5 ha, đạt 96.6%. Hiện đang có 20 dự án đầu tư với số vốn đăng ký hơn 855 triệu USD. Lĩnh vực đầu tư: Công nghiệp dệt, may mặc, tơ, sợi, nhuộm, tẩy trắng; lắp ráp các linh kiện điện, điện tử; công nghiệp cơ khí , chế tạo máy móc động lực, chế tạo và lắp ráp các phương tiện giao thông, máy móc phục vụ nông nghiệp; công nghiệp vật liệu xây dựng : sản xuất tôn, kẽm, bồn chứa cấu kiện bê tông đúc sẳn và các kết cấu kim loại khác; công nghiệp thực phẩm, dược phẩm, hương liệu, hóa mỹ phẩm. KCN Nhơn Trạch 3. Giai đoạn 1 Diện tích: 337 ha, diện tích dùng cho thuê 233.85 ha, diện tích đã cho thuê 233.85 ha, đạt 100%. Hiện đang có 18 dự án đầu tư với số vốn đăng ký là 559 triệu USD. Giai đoạn 2 Diện tích: 351 ha, diện tích dùng cho thuê 227.5 ha, diện tích đã cho thuê 78.25 ha, đạt 34.39%. Lĩnh vực đầu tư (gđ 1&2): dệt may, da giày, điện tử, điện lạnh, điện gia dụng, hàng tiêu dùng, chế tạo máy, chế tạo và lắp ráp các phương tiện giao thông, công nghiệp thực phẩm, dược phẩm, hóa mỹ phẩm, vật liệu xây dựng, các thiết bị trang trí nội thất, sản xuất chế biến sản phẩm gỗ; các ngành phục vụ : ngân hàng, bưu điện... các dịch vụ cung ứng vật tư, nhiên liệu, dịch vụ vệ sinh công cộng, xử lý chất thải.... các dịch vụ về kho bãi, nhà xưởng cho thuê. KCN Nhơn Trạch 5. Diện tích: 302 ha, diện tích dùng cho thuê 205 ha, diện tích đã cho thuê 144.64 ha, đạt 70.56%. Hiện đã có 3 dự án đầu tư với số vốn đầu tư là 6.5 triệu USD. KCN Dệt may. Diện tích: 184 ha, diện tích dùng cho thuê 121 ha, diện tích đã cho thuê 65.94 ha, đạt 54.5%. Lĩnh vực đầu tư: Dệt may 1.4.13. KCN Nhơn Trạch 6. Diện tích: 319 ha, diện tích dùng cho thuê 201 ha, chưa có đơn vị thuê. Kết cấu hạ tầng: đang xây dựng hệ thống hạ tầng giao thông nội bộ, điện, nước, mương thoát nước, hệ thống xử lý nước thải. 1.4.14. KCN Tam Phước. Diện tích: 323 ha, diện tích dùng cho thuê 214.74 ha, diện tích đã cho thuê 214.74 ha, đạt 100%. Hiện đang có 33 dự án đầu tư với số vốn đăng ký là 161.5 triệu USD. Ưu tiên đầu tư: công nghiệp, chế biến gỗ. 1.4.15. KCN An Phước. Diện tích: 130 ha, diện tích dùng cho thuê 91 ha, hiện chưa có đơn vị thuê. Ưu tiên đầu tư: Công nghiệp sạch không gây ô nhiễm, vật liệu xây dựng.... 1.4.16. KCN Long Thành. Diện tích: 510 ha, diện tích dùng cho thuê 357.06 ha, diện tích đã cho thuê 161.22 ha, đạt 45.15%. Hiện đang có 24 dự án đầu tư với tổng số vốn đăng ký là 145 triệu USD. Ưu tiên đầu tư: Công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, công nghiệp sạch. 1.4.17. KCN Định Quán. Diện tích: 54 ha, diện tích dùng cho thuê 37.8 ha, diện tích đã cho thuê 37.8 ha, đạt 100% Hiện đã có 11 doanh nghiệp thuê hết diện tích đất dành cho thuê, trong đó có 2 doanh nghiệp đang hoạt động, 2 doanh nghiệp đã xây dựng xong nhà xưởng, 2 doanh nghiệp đã san lắp mặt bằng, các doanh nghiệp còn lại đang chờ hệ thống giao thông hoàn thiện sẽ triển khai xây dựng. Ưu tiên đầu tư: Công nghiệp vật liệu xây dựng, lắp ráp cơ khí, chế biến nông sản, điện, điện tử, may mặc, công nghiệp nhẹ, bao bì, gia dày, sản xuất lắp ráp sửa chữa máy nông lâm nghiệp và giao thông vận tải. 1.4.18. KCN Nhơn Trạch II - Nhơn Phú. Diện tích: 183 ha, diện tích dùng cho thuê 108.01 ha, chưa có đơn vị thuê. Ưu tiên đầu tư: Công nghiệp vật liệu xây dựng, lắp ráp cơ khí, chế biến nông sản, điện, điện tử, may mặc, công nghiệp nhẹ, bao bì, gia dày, sản xuất lắp ráp sửa chữa máy nông lâm nghiệp và giao thông vận tải. 1.4.19. KCN Nhơn trạch II - Lộc Khang. Diện tích: 70 ha, diện tích dùng cho thuê 42.54 ha, diện tích đã cho thuê 27.22 ha, đạt 63.99%. Ưu tiên đầu tư: Công nghiệp vật liệu xây dựng, lắp ráp cơ khí, chế biến nông sản, điện, điện tử, may mặc, công nghiệp nhẹ, bao bì, gia dày, sản xuất lắp ráp sửa chữa máy nông lâm nghiệp và giao thông vận tải. 1.4.20. KCN Thạnh Phú. Diện tích: 177 ha, diện tích dùng cho thuê 122.19 ha, diện tích đã cho thuê 58.15 ha, đạt 47.59%. Đã có 4 doanh nghiệp đang hoạt động. Lĩnh vực đầu tư: các ngành công nghiệp chế biến; công nghiệp cơ khí sửa chữa, các ngành nghề ít ô nhiễm. 1.4.21. KCN Xuân Lộc. Diện tích: 109 ha, diện tích dùng cho thuê 63.88 ha, diện tích đã cho thuê 29.43 ha, đạt 46.07%. Lĩnh vực đầu tư: chế biến nông sản thực phẩm, công nghiệp nhẹ. 1.4.22. KCN Bàu Xéo. Diện tích: 500 ha, trong đó diện tích dùng cho thuê 328.08ha, diện tích đã cho thuê 300.22ha, đạt 91.51%. Lĩnh vực đầu tư: Chế biến nông sản thực phẩm, công nghiệp nhẹ. 1.4.23. KCN Tân Phú. Diện tích: 54 ha, trong đó diện tích dùng cho thuê là 34.98 ha, chưa có đơn vị thuê. Lĩnh vực đầu tư: Chế biến nông sản thực phẩm, công nghiệp nhẹ. 1.4.24. KCN Agtex Long Bình. Diện tích:47 ha, trong đó diện tích dùng cho thuê là 27.62 ha, chưa có đơn vị thuê. 1.5. Vai trò của các KCN đối với phát triển kinh tế tỉnh Đồng Nai. 1.5.1. Vai trò của các KCN ở Đồng Nai. Phát triển các KCN là đột phá quan trọng nhất về kinh tế nói chung và công nghiệp nói riêng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai trong thời gian vừa qua. Các KCN được xây dựng đã phát huy được vai trò là nhân tố tác động tích cực đến mở rộng quy mô sản xuất công nghiệp, thu hút lao động và đóng góp quan trọng vào tốc độ tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đô thị hoá ở tỉnh đồng thời thu hút một lượng lớn các doanh nghiệp trong và ngoài nước đến đầu tư sản xuất, nhờ đó số lượng cơ sở sản xuất công nghiệp tăng lên nhanh chóng trong đó phần lớn các doanh nghiệp đều đang hoạt động khá tốt. 1.5.1.1. Đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư, đặc biệt là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Đồng Nai. Đến đầu năm 2005, các KCN tỉnh Đồng Nai đã thu hút được 600 dự án của các nhà đầu tư trong nước và các nhà đầu tư đến từ 26 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới với tổng vốn đăng ký hơn 7,1 tỉ USD. Trong số này, các doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài chiếm tới 83%. Các KCN tỉnh Đồng Nai thu hút khoảng 80% dự án đầu tư nước ngoài và chiếm khoảng 90% tổng kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn tỉnh. Hoạt động của các doanh nghiệp trong các KCN tỉnh góp phần giải quyết việc làm cho gần 200.000 người. Năm 2006, các KCN trên địa bàn tỉnh đã thu hút được 81 dự án đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký là 398,5 triệu USD. Ban quản lý các KCN Đồng Nai trong năm đã điều chỉnh giấy phép đầu tư cho 235 dự án trong đó có 117 lượt tăng vốn đầu tư với tổng vốn là 599 triệu USD. Như vậy, tính tổng các dự án đầu tư mới và tăng vốn, tổng vốn đầu tư trong năm 2006 đạt gần 1 tỷ USD, đứng thứ 2 trên cả nước xét về vốn đầu tư thu hút vào các KCN, vượt kế hoạch 2006 đề ra và tăng 43% về vốn đầu tư thu hút so với năm 2005. Tính đến thời điểm 12/2006 đã có 33 quốc gia đầu tư vào tỉnh Đồng Nai với tổng số dự án là 697, tổng vốn đầu tư là 7.245.477.664 USD. Đến cuối năm 2007, các KCN Đồng Nai đã thu hút 92 dự án FDI mới với tổng vốn đầu tư là 675,64 triệu USD, quy mô vốn bình quân mỗi dự án là 7,34 triệu USD và điều chỉnh tăng vốn cho 11 dự án với tổng vốn tăng là 1.000,1 triệu USD; tổng vốn cấp mới và điều chỉnh là 1.675,75 triệu USD. Tính chung, tại 24 KCN của tỉnh Đồng Nai đã tiếp nhận 961 dự án đầu tư, với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 10.423,95 triệu USD. Trong đó 231 dự án trong nước với vốn đăng ký tương đương 842,74 triệu USD; 44 dự án liên doanh với vốn đầu tư đăng ký 805,3 triệu USD; 686 dự án 100% vốn nước ngoài với vốn đầu tư đăng ký 8.775,91 triệu USD. Hiện có 688 dự án đang triển khai hoạt động với vốn đăng ký 8.381 triệu USD chiếm tỷ lệ 80,4% so với tổng vốn đăng ký; 66 dự án đang xây dựng với vốn đầu tư đăng ký 458 triệu USD; chiếm 4,39% tổng vốn đầu tư đăng ký ; 207 dự án chưa triển khai xây dựng với số vốn đăng ký 1.574,95 triệu USD; chiếm 15,21% tổng vốn đăng ký. 1.5.1.2. Đóng góp quan trọng vào mức tăng trưởng kinh tế cao của tỉnh Đồng Nai trong thời gian qua. Trong giai đoạn 1991 - 2000, Đồng Nai vẫn liên tục giữ được tốc độ phát triển kinh tế bình quân 12,9% năm. Đến giai đoạn 2001 - 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) luôn đạt và vượt mục tiêu Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ đề ra: năm 2001 tăng 11,2%, năm 2002 tăng 12,2%, năm 2003 tăng 12,9%, năm 2004 tăng 13,56%, năm 2005 tăng 14%, năm 2006 tăng 14% và năm 2007 tăng 15,1%. Trong giai đoạn 2001-2005, công nghiệp duy trì được tốc độ phát triển nhanh với giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 18,7%/năm; giá trị sản xuất công nghiệp năm 2007 tăng 22,4% so với thực hiện năm 2006. Đạt được thành tựu phát triển như trên là nhờ có đóng góp rất to lớn của các KCN. Trong các năm qua, các doanh nghiệp KCN đã tạo ra sản lượng hàng hóa xuất khẩu rất lớn và đóng góp nguồn thu đáng kể cho tỉnh. Tổng doanh thu hàng hóa của các doanh nghiệp KCN hàng năm tăng đều đặn: năm 2001 đạt trên 2 tỷ USD đến năm 2005 đạt 4,2 tỷ USD, kim ngạch xuất khẩu từ năm 1998 đã đạt trên 1 tỷ USD và đến năm 2005 đã vượt lên đạt gần 2 tỷ USD. Năm 2006, kim ngạch xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp KCN đã đạt hơn 5 tỷ USD; doanh thu đạt hơn 4,4 tỷ USD, đóng góp vào ngân sách nhà nước khoảng 135 triệu USD. 1.5.1.3. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Đồng Nai theo hướng công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp: KCN là nơi tiếp nhận công nghệ mới, tập trung những ngành nghề mới, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH. Kinh tế của Đồng Nai từ một nền kinh tế với nông nghiệp là chủ đạo chiếm trên 50% GDP, qua từng năm cùng với tốc độ thu hút VĐTNN vào các KCN, tiếp thu những thành tựu khoa học kỹ thuật mới, Đồng Nai đã từng bước giảm dần tỷ trọng nông nghiệp và nâng cao tỷ trọng các ngành công nghiệp và xây dựng. Năm 1995, tỷ trọng của ngành công nghiệp trong GDP là 38,7%, ngành dịch vụ là 29,5%, ngành nông nghiệp là 31,8% thì đến nay (2007) tỉnh đã hình thành cơ cấu kinh tế mới: Công nghiệp - Dịch vụ - Nông nghiệp, với tỷ trọng tương ứng 57,7%, 30,2%, 12,1%. Sự ra đời của các KCN cũng đã góp phần đáng kể vào sự chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành công nghiệp theo hướng giảm tỷ trọng khu vực công nghiệp quốc doanh, tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp có VĐTNN và tăng nhẹ tỷ trọng khu vực công nghiệp ngoài quốc doanh trong tổng giá trị sản xuất của ngành công nghiệp; năm 1995, tỷ trọng khu vực công nghiệp quốc doanh là 52,9%, khu vực công nghiệp có VĐTNN là 39,3%, khu vực công nghiệp ngoài quốc doanh là 7,9% thì đến năm 2007, các con số tương ứng là 16,8%, 70,6%, 12,6%. 1.5.1.4. Góp phần đẩy nhanh thực hiện công nghiệp hóa nông thôn. Phát triển KCN cũng đã góp phần quan trọng vào công nghiệp hóa nông thôn. Với hơn 10.000 ha đất nông nghiệp được quy hoạch xây dựng KCN, các KCN Đồng Nai đã tạo ra một sự chuyển dịch cơ cấu từ nông nghiệp sang công nghiệp nhanh và rõ nét. Nhơn Trạch được coi là điển hình về công nghiệp hóa nông thôn qua hình thức phát triển KCN. Với 8 KCN đang hoạt động và 1 KCN đang lập thủ tục thành lập, Nhơn Trạch đã chuyển mình từ một huyện thuần nông trở thành một thành phố công nghiệp với các khu đô thị, khu thương mại lớn, kết cấu hạ tầng phát triển nhanh và ổn định. Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn huyện ước năm 2007 đạt 6.873 tỷ đồng, tăng 20,2% so năm 2006. Tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp của huyện tiếp xếp thứ 2 sau thành phố Biên Hoà và chiếm tỷ trọng 10,82% so toàn ngành công nghiệp. Quá trình công nghiệp hóa nông thôn thông qua vai trò của KCN cũng đã được Tỉnh ủy, UBND tỉnh Đồng Nai tiếp tục triển khai thực hiện ở các huyện miền núi như: Định Quán, Tân Phú, Xuân Lộc, Cẩm Mỹ. Với sự hỗ trợ của nguồn vốn ngân sách, cộng với một số chính sách ưu đãi đặc thù, quá trình phát triển của KCN miền núi bước đầu đã có kết quả tốt, tiếp tục góp phần đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa nông thôn trên địa bàn. Từ năm 1996 đến nay dân số đô thị tăng bình quân trên 2,3% trong đó giai đoạn 2001-2005 tăng 1,8%. 1.5.1.5. Giải quyết việc làm và đào tạo lao động. Các KCN Đồng Nai cũng là nơi giải quyết việc làm cho người lao động, không chỉ lao động địa phương mà cả lao động từ các tỉnh khác trong cả nước. Năm 2006, các KCN Đồng Nai đã thu hút khoảng 270.000 lao động, trong đó có hơn 3000 chuyên gia và lao động người nước ngoài. Tính đến cuối năm 2007, tổng số lao động trong 24 KCN Đồng Nai khoảng 301.133 người, trong đó lao động người nước ngoài là 3.839 người. Ngoài số lao động trực tiếp trong các doanh nghiệp KCN, các KCN cũng tạo thêm việc làm gián tiếp, đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng, cung ứng vật liệu và dịch vụ, góp phần chuyển đổi cơ cấu lao động theo hướng phi nông nghiệp. Trong vòng 10 năm (1995-2005), lao động phi nông nghiệp trong cơ cấu lao động tăng từ 46% lên 54,3%; giai đoạn 2001-2005, trung bình mỗi năm lao động phi nông nghiệp tăng thêm được 2,6% trong cơ cấu lao động. Cùng với sự phát triển các KCN, đội ngũ cán bộ công chức quản lý nhà nước qua thực tiễn đã nâng tầm quản lý lên một mức phù hợp về: ngoại ngữ, chuyên môn, nghiệp vụ, văn hóa giao tiếp,… đáp ứng yêu cầu đổi mới năng động từ các doanh nghiệp. Các KCN cũng là nơi tiếp nhận và ứng dụng có hiệu quả những thành tựu phát triển của khoa học - công nghệ, kinh nghiệm và trình độ tổ chức quản lý của quốc tế vào quá trình sản xuất. Do đó, đây cũng chính là nơi người lao động được đào tạo để tiếp thu tốt nhất công nghệ sản xuất hiện đại, công nghệ quản trị tiên tiến. Việc được trực tiếp làm việc trong môi trường có kỷ luật cao, yêu cầu tay nghề cao, đã rèn luyện được những kỹ năng và bản lĩnh làm việc, giúp người lao động thích ứng với một nền công nghiệp tiên tiến, hiện đại. Đội ngũ lao động này chính là động lực góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh. Quá trình phát triển các KCN Đồng Nai cũng chính là quá trình thực hiện phân công lại lao động xã hội nhằm cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng tập trung khai thác tốt nhất mọi nguồn lực và những lợi thế hiện có, nâng cao sức cạnh tranh và đẩy nhanh tốc độ phát triển chung của nền kinh tế. 1.5.1.6. Góp phần nâng cao trình độ công nghệ, HĐH cách thức quản lý sản xuất. KCN là khu vực có những điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng cùng với nhiều chính sách ưu đãi đầu tư được áp dụng. Đây chính là điểm đến lý tưởng của các nhà đầu tư, trong đó có đầu tư nước ngoài. Một số công nghệ tiên tiến, hiện đại trên thế giới cùng trình độ quản lý cao của đội ngũ cán bộ doanh nghiệp đã được áp dụng tại các KCN. Đây cũng là những nhân tố quan trọng góp phần để Đồng Nai thực hiện việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Cùng với dòng vốn đầu tư vào các dự án sản xuất kinh doanh trong KCN, các nhà đầu tư còn đưa vào những dây chuyền sản xuất với công nghệ tiên tiến, hiện đại, trong đó có cả những dự án công nghiệp kỹ thuật cao như: công ty TNHH Schaeffler với tổng vốn đầu tư là 116,7 triệu USD, ngành nghề sản xuất các loại thép hợp kim, thép không gỉ và các loại thép hình; công ty TNHH Y.S.P với tổng vốn đầu tư 18 triệu USD, ngành nghề sản xuất dược phẩm, thực phẩm bổ sung, mỹ phẩm, dụng cụ y khoa…; công ty THNN Olympus với tổng vốn đầu tư là 43 triệu USD sản xuất và lắp ráp ống kính, các loại thấu kính, phụ kiện dùng trong máy ảnh kỹ thuật số và các thiết bị điện tử khác. 1.5.2. Những tồn tại trong việc phát triển các KCN trên địa bàn tỉnh Đồng Nai thời gian qua. Việc quy hoạch phát triển các KCN chưa thực sự hợp lý, chưa tính tới khả năng thu hút đầu tư và dự báo xu hướng đầu tư trên các địa bàn thuộc tỉnh. Các KCN tập trung quá đông tại một số địa bàn như thành phố Biên Hoà, huyện Long Thành và Nhơn Trạch dẫn tới tình trạng quá tải nhu cầu về lao động, nhà ở và dịch vụ cho người lao động. Trong khi một số huyện có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn cần được chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp như huyện Tân Phú, Định Quán, Vĩnh Cửu nhưng chưa thực sự được chú trọng phát triển các KCN. Tính bình quân đến nay tỷ lệ lấp đầy các KCN trên địa bàn tỉnh đạt khoảng 63%. Nếu so sánh với các địa phương khác thì kết quả đó là khả quan, tuy nhiên các KCN có tỷ lệ lấp đầy đất công nghiệp giữa các KCN là không đồng đều. Một số KCN có tỷ lệ lấp đầy đất công nghiệp tốt như: KCN Biên Hoà I, II (100%), Loteco (100%), Nhơn Trạch III (100%), Tam Phước (100%), Định Quán (100%), Gò Dầu (98,68%), trong khi đó một số KCN có tỷ lệ lấp đầy đất công nghiệp chưa cao như: KCN Nhơn Trạch II - Nhơn Phú, Nhơn Trạch VI, An Phước, Tân Phú hiện chưa có đơn vị thuê; KCN Long Thành (45,15%), Xuân Lộc (46,07%), Thạch Phú (47,59%). Mặc dù công tác bảo vệ môi trường và xử lý nước thải đã từng bước được chú trọng, việc đôn đốc các công ty phát triển hạ tầng KCN và doanh nghiệp KCN trên địa bàn thực hiện nghiêm túc các quy chuẩn về xử lý chất thải rắn chưa được thực hiện triệt để, chưa có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thanh tra, kiểm tra thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường, dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp KCN vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường. Nhiều doanh nghiệp trong KCN chưa tự giác thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường, chỉ thực hiện chống chế khi có các cơ quan chuyên ngành thanh tra, kiểm tra. Trong năm 2006, các đoàn thanh tra, kiểm tra môi trường của Bộ tài nguyên và Môi trường và Sở tài nguyên môi trường tỉnh Đồng Nai đã phát hiện 94 doanh nghiệp KCN vi phạm Luật Bảo vệ môi trường ở các mức độ khác nhau. Thực trạng trên dẫn tới hậu quả là khu vực sông Đồng Nai và Thị Vải đã bị ô nhiễm nghiêm trọng bởi chất thải từ các doanh nghiệp, ảnh hưởng tới môi trường xung quanh và nguồn nước sinh hoạt của dân cư khu vực này. Công tác đền bù giải phóng mặt bằng xây dựng các KCN còn chưa thực hiện tốt, gây ra tình trạng khiếu kiện kéo dài ở một số nơi, ảnh hưởng đến tiến độ xây dựng hạ tầng kỹ thuật các KCN và giao đất cho các doanh nghiệp KCN. Công tác bồi thường, giải toả ở các KCN Sông Mây, Tam Phước, Amata, Hố Nai, Long Thành, Nhơn Trạch-Nhơn Phú và Nhơn Trạch VI được thực hiện chậm, chưa kiên quyết. Việc xây dựng các khu tái định cư tại các KCN Hố Nai, Amata, Sông Mây chậm tiến độ ảnh hưởng đến công tác giao đất cho các nhà đầu tư. Việc xây dựng các công trình kỹ thuật ngoài hàng rào tại một số KCN vẫn chưa được thực hiện đồng bộ để kết nối với các hạng mục bên trong các KCN. Việc xây dựng các hạng mục ngoài hàng rào KCN như hạ tầng giao thông, thoát nước tại KCN Hố Nai và một số KCN tại huyện Nhơn Trạch chưa theo kịp tiến độ xây dựng các công trình bên trong KCN là một bất cập, ảnh hưởng đến việc thu hút đầu tư vào các doanh nghiệp này. CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG CÁC KCN CỦA TỈNH ĐỒNG NAI 2.1. Thực trạng nguồn nhân lực ở tỉnh ĐồngNai 2.1.1. Dân số Đồng Nai là vùng đất có lịch sử khai phá và phát triển lâu đời, cộng đồng dân cư hiện có trên 30 dân tộc trong đó dân tộc Kinh chiếm 91,5%, còn lại là dân tộc Hoa và các dân tộc khác chiếm 8,5%. Đồng Nai là tỉnh có quy mô dân số lớn đứng thứ 6 trong cả nước chỉ sau thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tây với dân số trung bình năm 2007 khoảng 2.405.112 người. Mật độ dân số của Tỉnh năm 2007 là 408 người/Km2. Trong đó: + Phân theo khu vực thành thị - nông thôn là: Thành thị là: 760.015 người, chiếm 31,6% tổng dân số; Nông thôn là: 1.645.097 người, chiếm 68,4% tổng dân số. + Phân theo giới tính: Nam là: 1.183.316 người, chiếm 49,2% tổng dân số; Nữ là: 1.221.796 người, chiếm 50,8% tổng dân số. Tỷ lệ giảm sinh năm 2007 là 0,04 ‰. Tốc độ tăng dân số tự nhiên năm 2007 là: 1,19%. Dân cư tập trung đông tại các khu vực thành phố Biên Hoà, thị xã Long Khánh, huyện Thống Nhất, huyện Trảng Bom; tại các khu vực thuộc các huyện như Tân Phú, Định Quán, Xuân Lộc, Nhơn Trạch dân cư ít hơn, cá biệt như huyện Vĩnh Cửu do chủ yếu là đất rừng và đất lòng hồ Thuỷ điện Trị An nên mật độ dân cư rất thưa. Tháp tuổi dân số của Đồng Nai khá trẻ cộng với quá trình phát triển nhanh chóng của các KCN trên địa bàn tạo sức hút mạnh di dân cơ học đến tỉnh, trong vòng 12 năm trở lại đây dân số của tỉnh tăng rất nhanh; Quy mô dân số năm 2007 gấp khoảng 1,3 lần năm 1995. 2.1.2. Lao động 2.1.2.1. Lao động trong toàn tỉnh Đồng Nai Tỉnh có nguồn lao động trong độ tuổi khá lớn so với quy mô dân số do trong thời kỳ vừa qua di dân đến tỉnh phần lớn là trong độ tuổi lao động. Năm 2006, Đồng Nai có dân số là 2.362.554 triệu người, trong đó có khoảng 1.2 triệu người trong độ tuổi lao động, chiếm khoảng 50% dân số. Trong đó: + Ngành Nông, lâm nghiệp: 416.228 người; + Ngành Thuỷ sản: 11.123 người + Công nghiệp khai thác: 5.368 người. + Công nghiệp chế biến: 311.929 người. + Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước: 5.342 người. + Xây dựng: 60.011 người. + Thương nghiệp và sửa chữa xe động cơ: 137.865 người. + Khách sạn, nhà hàng: 31.031 người. + Vận tải, thông tin: 42.064 người. + Tài chính, tín dụng: 2.892 người. + Khoa học và Công nghệ: 166 người. + Hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản: 3.503 người. + Quản lý nhà nước và an ninh quốc phòng: 15.483 người. + Giáo dục và Đào tạo: 34.579 người. + Y tế và các hoạt động cứu trợ xã hội: 9.064 người. + Văn hoá - thể thao: 2.588 người. + Hoạt động Đảng, đoàn thể, hiệp hội: 4.913 người. + Hoạt động phục vụ cá nhân và cộng đồng: 14.798 người. + Hoạt động làm thuê hộ gia đình: 3.229 người. Công tác giải quyết việc làm được thực hiện tốt, năm 2007 đã tạo việc làm cho khoảng 85.380 lao động (vượt mục tiêu kế hoạch đề ra), trong đó lao động nữ là 51.228 người. Năm 2007, toàn tỉnh đã tổ chức tuyển mới và đào tạo nghề cho 54.200 lao động. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 47%, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt 36% (trong đó lao động nữ: 21,6%). Lao động của tỉnh phần lớn đã tốt nghiệp phổ thông nhưng đa phần chưa qua đào tạo nghề, đào tạo kỹ thuật, tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp. Chất lượng lao động vì vậy còn thấp nhất là trong nông nghiệp và một số ngành công nghiệp như: dệt may, da dày, chế biến nông lâm sản. Song do lao động phần lớn ở độ tuổi trẻ, sung sức vì vậy nếu được tổ chức đào tạo tốt sẽ nhanh chóng nâng cao chất lượng trở thành nguồn lao động có đủ sức đáp ứng được yêu cầu phát triển sản xuất theo hướng CNH-HĐH trong thời kỳ tới. 2.1.2.2. Lao động trong khu vực công nghiệp của tỉnh Đồng Nai Với chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước đã thu hút mạnh mẽ đầu tư nước ngoài, tạo môi trường thuận lợi cho công nghiệp Đồng Nai phát triển nhanh chóng. Đội ngũ công nhân Đồng Nai phát triển mạnh về số lượng và chất lượng cả ba khu vực quốc doanh, ngoài quốc doanh và khu vực kinh tế có VĐTNN, cùng với quá trình phát triển đất nước và phát triển các ngành nghề khác tham gia vào sản xuất công nghiệp ngày càng đông. Chỉ tính từ năm 1991 đến nay, tác động của chủ trương thu hút mạnh mẽ đầu tư của khu vực kinh tế trong nước và kinh tế có VĐTNN, với sự ra đời của Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư Nước ngoài, tỉnh Đồng Nai đã sớm nắm bắt thời cơ, tận dụng cơ hội._.tế hiện nay cho thấy, hoạt động của tổ chức Công đoàn trong các doanh nghiệp công nghiệp Đồng Nai còn mờ nhạt, chưa thực sự gắn bó với người lao động để nói lên tiếng nói của họ, bệnh vực quyền lợi chính đáng cho họ. Doanh nghiệp phải chủ động tạo mọi điều kiện thuận lợi để các tổ chức chính trị, xã hội, nhất là tổ chức công đoàn hoạt động có hiệu quả. Thường xuyên tiếp xúc với người lao động để nắm bắt thông tin giải quyết kịp thời các vướng mắc, khiếu nại của người lao động ngay từ đầu nhằm ngăn chặn các tranh chấp xảy ra. Khi có tranh chấp lao động, chủ doanh nghiệp phải chủ động bàn bạc với ban chấp hành công đoàn cơ sở để thương lượng, thỏa thuận giữa các bên. Trường hợp các bên không tự thương lượng giải quyết được tại doanh nghiệp thì có quyền yêu cầu hội đồng trọng tài lao động hoặc đoàn công tác của địa phương cùng trao đổi giải quyết theo quy định của pháp luật. Việc quan tâm thực hiện đầy đủ cả quy định pháp luật về chế độ, chính sách đối với người lao động cũng góp phần củng cố quan hệ lao động. Hiện nay do tác động của quy luật cung cầu lao động nên người sử dụng lao động mới chủ yếu quan tâm đến lao động chuyên môn kỹ thuật cao, bởi việc tuyển dụng nguồn lao động này thường khó khăn. Ngược lại, đối với lao động phổ thông, do không yêu cầu cao về trình độ đào tạo và việc tuyển dụng khá dễ dàng, nên mức độ quan tâm của người sử dụng lao động đến việc duy trì, củng cố quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động chưa cao. Người lao động nhập cư, thoạt đầu có thể dễ dàng chấp nhận điều kiện lao động khó khăn, tiền lương thấp, thậm chí cả sự vi phạm quy định pháp luật ở người sử dụng lao động. Họ sẵn sàng chấp nhận ký kết hợp đồng lao động một cách không điều kiện. Do thiếu kiến thức pháp luật và chuyên môn nghiệp vụ, nên họ buộc phải tham gia vào những quan hệ lao động ngoài mong muốn. Nhưng sau một thời gian nhất định họ lại không tha thiết đến việc ổn định quan hệ lao động hiện có. Họ sẵn sàng đơn phương cắt bỏ hợp đồng để ký kết một hợp đồng lao động mới; hoặc nếu không tìm được việc làm mới tốt hơn, họ sẵn sàng biến những “bất đồng nhỏ” thành “bất đồng lớn” và sử dụng “quyền đình công” mà không thực hiện các bước hoà giải và trọng tài theo quy định của pháp luật. Trước tình hình này, cần tăng cường sự phối hợp giữa các ngành, đoàn thể, như: ngành LĐTB & XH , Giáo dục- Đào tạo, Tư pháp, Đoàn Thanh niên, Phụ nữ và Liên đoàn lao động…tuyên truyền, giáo dục những kiến thức về hợp đồng lao động cho học sinh trung học, sinh viên, thanh niên; tổ chức các lớp huấn luyện về kỹ năng thương lượng tập thể và những vấn đề có liên quan đến quan hệ lao động, tăng cường phổ biến thông tin về thị trường lao động cũng như các chính sách và luật pháp về lao động cho các đối tượng lao động nhất là lao động nhập cư. Điều này sẽ giúp người lao động có được thông tin về các cơ hội việc làm, thông tin về quyền và nghĩa vụ của người lao động, giúp họ có được vị thế cần thiết khi đàm phán về các hợp đồng lao động…Đặc biệt cần thực hiện thường kỳ, nghiêm minh các hoạt động thanh tra, kiểm tra và giám sát việc tuân thủ các quy định pháp luật về lao động. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng lực lượng thanh tra lao động có đức, có tài để thực hiện tốt vai trò giám sát, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện chế độ, chính sách lao động và tiền lương của doanh nghiệp. 3.3.4. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Theo lộ trình xây dựng Đồng Nai thành tỉnh công nghiệp trong tương lai thì việc giải quyết tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực, đào tạo nguồn nhận lực chất lượng cao là vấn đề mang tính cấp thiết và lâu dài. Đồng Nai đang đứng trước yêu cầu lớn là vừa phải đáp ứng kịp nhu cầu về số lượng, cơ cấu ngành nghề nhưng phải đảm bảo chất lượng đào tạo, với sự thay đổi kỹ thuật công nghệ và phù hợp với quá trình phát triển nhanh của nền kinh tế. Nhiều dự án đầu tư phát triển nguồn nhân lực của Đồng Nai đã từng bước được khởi động như: đề án nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực, phổ cập giáo dục bậc Trung học phổ thông cho công nhân lao động; đề án đào tạo nghề cho bộ đội xuất ngũ, dạy nghề cho lao động nông thôn, đào tạo giáo viên dạy nghề và đầu tư cho các trường nghề. Và một trong những “lời giải” được nhiều doanh nghiếp đánh giá cao là mô hình đào tạo liên kết. Hiện tại, nhiều trường dạy nghề trên địa bàn đã có sự liên kết với các trung tâm nghiên cứu khoa học lớn như Trường Công nhân kỹ thuật Đồng Nai, Trường cao đẳng Công nghệ và quản trị Sonadezi. Ngoài ra, còn có các mô hình liên kết giữa các trung tâm dạy nghề với các tổ chức đào tạo quốc tế như Aptech, NIIT, AIT, AITCV... Các mô hình này cần tiếp tục duy trì,mở rộng và phát triển. Một trong những định hướng quan trọng của tỉnh sắp tới là tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế trong công tác đào tạo nghề. Đến nay Đồng Nai đã nhận được sự hỗ trợ của một số tổ chức như: Swiss Contact (Thụy Sĩ) với dự án tăng cường năng lực của các trung tâm dạy nghề; Inwent (Đức) với dự án hỗ trợ cho giáo viên dạy nghề xây dựng giáo án chương trình đào tạo lại lao động cho các doanh nghiệp có nhu cầu...Trong tương lai, việc củng cố và mở rộng các quan hệ như thế này là hết sức cần thiết. Ngoài ra, không chỉ bản thân người lao động phải nỗ lực, mà doanh nghiệp cũng phải tạo điều kiện để người lao động được học tập (chẳng hạn như hỗ trợ tiền học phí, đào tạo...). Từng doanh nghiệp cần phải hiểu nâng cao trình độ chuyên môn của người lao động trong đơn vị mình cũng là nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường. Để người lao động đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của doanh nghiệp và thị trường, mô hình học tập cộng đồng cần được khuyến khích, mở rộng. Sở LĐTB & XH đã tham mưu UBND tỉnh xây dựng chương trình Đào tạo lao động kỹ thuật phục vụ phát triển kinh tế xã hội tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2006-2010 và tầm nhìn đến năm 2020: - Mục tiêu của chương trình là nhằm nâng cao nguồn lực lao động kỹ thuật cho địa phương Đồng Nai, phấn đấu đến năm 2010 đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề trên địa bàn tỉnh lên 40%. Trong đó, tỷ lệ thợ giỏi ngày càng tăng về số lượng và chất lượng. Trước mắt sẽ tập trung đào tạo lại, nhằm nâng cấp nhanh trình độ lao động kỹ thuật đang làm việc tại doanh nghiệp; bổ sung, cải tiến, cập nhật chương trình đào tạo ban đầu cho các khóa đào tạo nghề dài hạn; thu hút học sinh tham gia học nghề. - Căn cứ vào dự báo nhu cầu lao động qua đào tạo, thì kế hoạch mục tiêu đào tạo riêng trong năm 2010 là 1.393.000 lao động, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề là 40%. Trong đó đào tạo lại, đào tạo bồi dưỡng nâng cao cho đối tượng là lao động đang làm việc theo yêu cầu của doanh nghiệp bình quân là 2% tổng số lao động đang làm việc. - Để đào tạo được nguồn lực lao động kỹ thuật phục vụ phát triển kinh tế xã hội tỉnh Đồng Nai, Sở LĐTB & XH cho biết sẽ tập trung vào các giải pháp như: bồi dưỡng chuẩn hóa, cập nhật kiến thức kỹ năng cho đội ngũ cán bộ, giáo viên của các cơ sở đào tạo, dạy nghề; Tổ chức các hội thảo chuyên đề về xây dựng, cải tiến chương trình đào tạo nghề theo góp ý, tư vấn của các doanh nghiệp và học sinh sau khi tốt nghiệp đang làm việc trong các thành phần kinh tế; Biên soạn, cải tiến các chương trình đào tạo dài hạn, ngắn hạn, các mô đun đào tạo công nghệ mới nhằm giải quyết nhu cầu bổ sung chương trình đào tạo ban đầu, xây dựng chương trình đào tạo lại và nâng cao cho lực lượng lao động đang làm việc, trong đó bao gồm các đối tượng là bác sỹ, kỹ sư, thợ bậc cao, công nhân đang trực tiếp sản xuất của doanh nghiệp, lao động kỹ thuật công nghiệp, lao động nông thôn phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại; Tăng cường mời gọi xã hội hóa đào tạo nghề nhằm nâng cấp cơ sở vật chất, thiết bị, phương tiện dạy nghề cho các cơ sở dạy nghề trong và ngoài công lập thuộc tỉnh; Xây dựng nội dung kiểm định đào tạo làm cơ sở thực hiện các biện pháp củng cố, tăng cường chất lượng đào tạo, thương hiệu hóa các loại hình đào tạo tiến đến đấu thầu chỉ tiêu đào tạo, hợp đồng đào tạo theo đơn đặt hàng của đơn vị sử dụng lao động. Đồng Nai được Bộ Lao động thương binh xã hội hỗ trợ 3 chương trình lớn trong việc đào tạo nghề. Đó là các chương trình: Dự án giáo dục kỹ thuật và dạy nghề đào tạo cho 14 giáo viên của các trường dạy nghề, trong đó trường Công nghiệp kỹ thuật Đồng Nai là một trong 15 trường trọng điểm quốc gia được nhận dự án. Dự án hỗ trợ xây dựng chương trình đào tạo cho dạy nghề theo Modul (đào tạo lại), dự án này dành cho tất cả các trường dạy nghề và các doanh nghiệp trên địa bàn. Dự án SVTC do Thuỵ Sỹ tài trợ cho công tác dạy nghề ngắn hạn chỉ dành cho 3 cơ sở dạy nghề trên địa bàn Đồng Nai là trung tâm dạy nghề Định Quán; dạy nghề và thẩm mĩ Nguyên My và Trung tâm dạy nghề sửa xe gắn máy Đồng Nai. Cùng với ba chương trình trên, sự năng động của các cấp, các ngành Đồng Nai trong những chuyến xúc tiến mời gọi đầu tư hợp tác tại Hoa Kỳ, vùng Rhôn Alpes của Pháp đã có tác dụng lớn trong việc hỗ trợ tìm đối tác trong dạy nghề. Bên cạnh đó một số trường dạy nghề ở Đồng Nai như Lilama II, Trường CNKT Đồng Nai, Trường dạy nghề số 2… đã chủ động phối hợp với doanh nghiệp và một số đối tác nước ngoài để nhận được sự hỗ trợ về trang thiết bị, tư vấn dạy nghề và giới thiệu các học sinh đi tu nghiệp ở nước ngoài… Với ưu thế là một tỉnh nằm trong vùng KTTĐPN, việc thu hút các ngành nghề, các doanh nghiệp, các tổ chức nước ngoài để tìm sự hỗ trợ, hợp tác trong đào tạo nguồn nhân lực cần phải được triển khai, nhân rộng ở các trường, các cơ sở đào tạo nghề. Chất lượng của nguồn lao động chính là một trong những yếu tố quan trọng để thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt trong quá trình hội nhập như hiện nay khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên WTO. 3.3.5. Phát triển hệ thống giao dịch thị trường lao động Phát triển hệ thống giao dịch của thị trường lao động ngày càng đa dạng về hình thức, phong phú về các hoạt động kết nối người lao động và người sử dụng lao động. Trong những năm qua, nhiều chính sách đã được ban hành nhằm tạo môi trường pháp lý về quan hệ lao động, hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm nhằm hỗ trợ phát triển giao dịch việc làm, tạo điều kiện cho người lao động dễ dàng tiếp cận với việc làm. Cần thường xuyên tổ chức nhiều hội chợ việc làm, sàn giao dịch việc làm, phiên giao dịch việc làm, điểm hẹn việc làm, tháng việc làm…tạo điều kiện để doanh nghiệp và người lao động tiếp xúc với nhau. Đồng Nai cần tiếp tục duy trì và phát triển hình thức Sàn giao dịch việc làm. Tới nay, Tỉnh đã tổ chức được 2 Sàn giao dịch việc làm. Ở mỗi lần tổ chức đều có sự hưởng ứng tham gia của nhiều doanh nghiệp và người lao động. Kết quả trong mỗi lần cũng rất khả quan và hứa hẹn sẽ là nhịp cầu tốt kết nối doanh nghiệp và người lao động. Cho đến nay, đây là hình thức kết nối cung-cầu hiệu quả nhất trong các hình thức kết nối mà Đồng Nai đã tổ chức. - Kết quả hoạt động của Sàn giao dịch việc làm lần 1: Có 42 doanh nghiệp tham gia tuyển dụng lao động trực tiếp. Số lượt người tham gia: 5.000 Truy cập trực tuyến vào Website: 12.176 lượt. Online bình quân 300 người/giờ Nhận hồ sơ : 2.316 người (Đại học: 838 người, công nhân kỹ thuật: 703 người, lao động phổ thông: 737 người) Như vậy có khoảng 47% được nhận hồ sơ (Ngày hội việc làm chỉ khoảng 10%.) Sàn giao dịch việc làm được tổ chức tiết kiệm, toàn bộ chi phí khoảng 100 triệu đồng; chủ yếu là chi cho tuyên truyền, quảng cáo, an ninh trật tự, vệ sinh và phòng chống cháy nổ được bảo đảm tốt. - Kết quả hoạt động của Sàn giao dịch việc làm lần 2: Có 44 doanh nghiệp tham gia tuyển dụng với tổng nhu cầu: 6537 lao động. Trong đó: + Tham gia tuyển dụng lao động trực tiếp có 32 doanh nghiệp, với nhu cầu: 4228 lao động. Trong đó, cao đẳng-đại hoc: 178 người, trung cấp- công nhân kỹ thuật: 915 người , lao động phổ thông: 3135 người. + Tham gia tuyển dụng lao động gián tiếp có 12 doanh nghiệp, với nhu cầu: 2309 lao động. Trong đó, cao đẳng-đại hoc: 27 người, trung cấp- công nhân kỹ thuật: 137 người , lao động phổ thông: 2145 người. Có khoảng 4500 lượt người lên sàn. Trực tuyến bình quân trên website: 370 người. Tư vấn việc làm nghề nghiệp: 1777 lượt người. Giải quyết việc làm cho 2089 lao động. Trong đó trực tiếp phóng vấn: 340 lao động. Như vậy, có thể thấy đây là một mô hình rất có ý nghĩa. Sàn giao dịch việc làm có vai trò thúc đẩy sự hình thành và phát triển thị trường lao động trong tỉnh và khu vực trên cơ sở kết nối và cung cấp thông tin có hệ thống, khoa học về lao động - việc làm cho các cá nhân và đơn vị có nhu cầu. Ngoài phương thức giao dịch trực tiếp, sàn giao dịch việc làm còn khai thác các ưu thế về công nghệ thông tin, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho mọi người nắm bắt thông tin về thị trường lao động một cách nhanh chóng qua giao dịch trực tuyến. - Đối tượng của sàn giao dịch việc làm ngoài người lao động và người sử dụng lao động còn có các tổ chức giới thiệu việc làm. - Tại sàn giao dịch việc làm, người lao động có thể tìm hiểu các thông tin liên quan về việc làm, học nghề, tham dự các buổi tư vấn về nghề nghiệp, việc làm để định hướng học nghề và việc làm phù hợp với nhu cầu xã hội cũng như bản thân mình; thông qua các hoạt động sẽ nâng cao kỹ năng tìm việc và quan trọng hơn, là có thể tham gia các buổi phỏng vấn của doanh nghiệp tuyển dụng lao động trực tiếp. - Với các doanh nghiệp, ngoài việc giới thiệu rộng rãi cho mọi người về ngành nghề sản xuất, qui mô hoạt động, các chính sách đối với người lao động, còn có thể thông báo nhu cầu tuyển dụng trước mắt và lâu dài, tìm hiểu nguồn cung ứng lao động để có kế hoạch phối hợp cũng như tuyển dụng trực tiếp được lao động. - Với các tổ chức giới thiệu việc làm, đây là cơ hội thu thập và cung cấp thông tin công khai, rộng rãi về thị trường lao động, tăng cường mối quan hệ và thực hiện cầu nối giữa doanh nghiệp - cơ sở đào tạo - người lao động, cũng như gắn hoạt động dạy nghề với giải quyết việc làm. 3.3.6. Phối hợp với các tỉnh lân cận trong việc đào tạo và giới thiệu lao động cho các doanh nghiệp KCN Đồng Nai. Tìm lao động cho Đồng Nai từ nguồn lao động dồi dào, chưa được khai thác hết của các tỉnh miền Tây Nam bộ như: tỉnh An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh…được coi là triển vọng về hợp tác giải quyết cung-cầu lao động cho các KCN của tỉnh này. Hiện tại, ở các KCN trên địa bàn Đồng Nai, nguồn lao động ngành may đang thiếu trầm trọng và không còn khả năng tìm được người lao động tại chỗ. Chỉ riêng 3 doanh nghiệp này hiện đang thiếu hơn 10 ngàn lao động. Đồng Nai cần nắm được những vấn đề cơ bản của thị trường lao động các tỉnh bạn để có hướng liên kết sau này, đồng thời tạo điều kiện để các doanh nghiệp Đồng Nai tiếp thị và đưa ra những yêu cầu tuyển dụng lao động của mình. Do đặc điểm riêng của từng vùng miền khác nhau nên thị trường lao động các tỉnh bạn có nhiều điểm khác thị trường lao động Đồng Nai. Hầu hết các tỉnh miền Tây Nam bộ chưa có những KCN lớn, nguồn lao động chủ yếu gắn bó với nghề nông. Nhưng điểm chung của thị trường lao động Đồng Nai và các tỉnh miền Tây Nam bộ là đều có nghịch lý thừa - thiếu lao động. Một số không ít lao động được xem là thất nghiệp nhưng không có nhu cầu tìm việc, bởi họ có người thân ở nước ngoài chu cấp. Thời gian nhàn rỗi trong lao động nông nghiệp ở các tỉnh miền Tây Nam bộ chiếm tỉ lệ khá cao (khoảng 30%) nhưng nhiều người không có ý tận dụng khoảng thời gian nhàn rỗi này. Tâm lý của bà con nông dân là sợ làm xa nhà, ngại tiếp cận với lao động công nghiệp... Tuy nhiên, cũng như nhiều địa phương khác trên cả nước, các tỉnh bạn rất nỗ lực trong việc giải quyết việc làm theo các chương trình 120, xóa đói giảm nghèo, xuất khẩu lao động... Đặc biệt, hàng năm, mỗi tỉnh đều có kế hoạch đưa từ 5 đến 10 ngàn lao động đến làm việc ở TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Đông Nam bộ. Những giải pháp phối hợp được đề ra phải trên tinh thần đôi bên cùng có lợi. Cần có sự trao đổi thường xuyên giữa các ngành chức năng của Đồng Nai và Sở Lao động-thương binh xã hội các tỉnh về tình hình lao động, thông tin kịp thời các nhu cầu tuyển dụng, việc làm và thu nhập của người lao động. Các tỉnh bạn sẽ cập nhật, thông tin tình hình việc làm ở Đồng Nai để từ đó chỉ đạo cho các địa phương có nhiều lao động chưa có việc làm chuẩn bị nguồn lao động để kịp thời cung ứng khi các KCN Đồng Nai có nhu cầu... Về lâu dài, Đồng Nai có thể đẩy mạnh sự hợp tác như thế này tới các tỉnh xa hơn ở miền Trung, miền Bắc. 3.3.7. Chính sách đối với lao động nhập cư tại các KCN: Để người lao động nhập cư có cuộc sống ổn định và bình đẳng với những người lao động bản địa đòi hỏi các cấp, các ngành, các chủ doanh nghiệp phải quan tâm đến họ, tạo những điều kiện tối thiểu để họ có thể gắn bó hơn với các KCN và tạo sức hút lao động, giảm bớt áp lực thiếu lao động hiện nay. Một số các đề xuất liên quan đến chính sách đối với lao động nhập cư như sau: 3.3.7.1.Chính sách về hộ khẩu. Người nhập cư chỉ “lạc nghiệp”, khi họ được “an cư”. Vì thế, chính sách hộ khẩu đối với lao động nhập cư trong các KCN phải được ưu tiên. Chính quyền địa phương nên tạo điều kiện về nhà ở, đăng ký tạm trú đối với công nhân ngoại tỉnh. Đối với những trường hợp lao động có đủ điều kiện định cư lâu dài, cần nhanh chóng chính thức hoá tình trạng cư trú của họ ở địa phương để giúp họ an tâm trong công việc và cuộc sống. Khi doanh nghiệp có xác nhận người lao động đang làm việc tại cơ sở của mình và người lao động nhập cư có nguyện vọng nhập hộ khẩu sau một thời gian đăng ký tạm trú và làm việc (6-12 tháng) thì chính quyền sở tại cần tạo điều kiện để người lao động được nhập hộ khẩu chính thức. Hiện nay ở Đồng Nai, mặc dù có khoảng 70% lao động nhập cư có đăng ký hộ khẩu, nhưng chỉ có 4,5% được nhập hộ khẩu thường xuyên (KT1) còn lại khoảng 90% chỉ được đăng ký KT4 (diện KT4: Những người từ địa phương khác đến làm việc theo hợp đồng lao động hợp pháp tại các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất thuộc các thành phần kinh tế thì cấp tạm trú 12 tháng sau đó tiếp tục gia hạn theo hợp đồng làm việc. Nếu hết hạn hợp đồng nhưng không có việc làm ổn định thì không giải quyết cho tạm trú và yêu cầu trở về địa phương nơi thường trú.). Hộ khẩu và nhà ở luôn là hai vấn đề gắn chặt với nhau, là một trong những nan giải nhất của người lao động nhập cư. Vì hộ khẩu thuộc diện KT4 nên người lao động nhập cư rất khó có cơ hội để mua được nhà. Việc quản lý hộ khẩu cần có cách tiếp cận thích hợp. Người nhập cư cống hiến sức lao động của mình cho sự phát triển chung của xã hội, vì vậy không thể coi họ là công dân đô thị loại hai. Trong thời gian qua, ở các thành phố lớn đã quá coi trọng hộ khẩu, thường có các biện pháp xử lý dựa vào hộ khẩu. Do đó, những người nhập cư chưa có hộ khẩu thường tiếp cận hạn chế với các dịch vụ cơ bản... Vì vậy, công tác quản lý hộ khẩu cần cải tiến linh hoạt hơn, dễ tiếp cận và không gây phiền hà cho người dân. Trong những năm qua, lợi dụng việc có nhiều người muốn chuyển đến đô thị, KCN tìm việc làm, một số cá nhân đứng ra tổ chức cho người di cư và đã lừa gạt người nhập cư với những thông tin sai lệch để trục lợi. Sự tham gia của chính quyền địa phương trong việc ngăn chặn những hành động trục lợi này sẽ giảm đáng kể nguy cơ rủi ro do thiếu thông tin của người di dân. 3.3.7.2. Chính sách về nhà ở. Người lao động nhập cư gặp rất nhiều khó khăn, nên việc mua được nhà là không hề dễ. Vì thế, cần tạo nhiều cơ hội để người lao động nhập cư có thể thuê được nhà với giá rẻ, giá ưu đãi. Khó khăn nhất trong việc xây nhà cho thuê giá rẻ là đất đai và vốn đầu tư ban đầu. Để thực hiện chính sách nhà ở chính quyền sở tại có thể kết hợp với các KCN để xây dựng nhà ở bán kiên cố cho người lao động nhập cư. Với chính sách cho thuê nhà ở tập trung cũng sẽ tạo điều kiện đảm bảo an ninh hơn cho người lao động nhập cư. Giải pháp về nhà ở cho người lao động là một giải pháp vừa có tính cấp bách vừa mang tính lâu dài. Một số giải pháp cụ thể là: - Để giải quyết các vấn đề xã hội phát sinh liên quan tới việc phát triển KCN, trong Nghị định hướng dẫn Luật Đầu tư cần quy định những điều kiện và nội dung cụ thể, ràng buộc trách nhiệm của địa phương và chủ đầu tư trong việc quy hoạch và phát triển KCN. Bảo đảm việc phát triển các KCN phải đồng bộ với việc quy hoạch, phát triển nhà ở và các điều kiện về hạ tầng xã hội thiết yếu cho công nhân, có những chính sách hỗ trợ đầu tư kết cấu hạ tầng ngoài hàng rào KCN, chính sách hỗ trợ phát triển và đào tạo nghề, chính sách đặc biệt ưu đãi nhằm phát triển nhà ở cho công nhân (hỗ trợ bồi thường, giải phóng mặt bằng; ưu đãi cao nhất về thuế thu nhập doanh nghiệp,…). - Cần điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung Quy hoạch tổng thể phát triển KCN ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 kịp thời, phù hợp nhằm tạo điều kiện và sự chủ động cho các địa phương triển khai xây dựng và phát triển các KCN theo quy hoạch một cách đồng bộ với quy hoạch phát triển đô thị và các công trình dịch vụ - tiện ích công cộng cần thiết khác; tránh thành lập KCN để chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách chủ quan, duy ý chí, gây nên sự lãng phí về đất đai và vốn đầu tư, đồng thời giúp các bộ, ngành có căn cứ theo dõi và kiểm tra việc phát triển các KCN ở các địa phương. - Bộ Xây dựng cần sớm nghiên cứu xây dựng cơ chế chính sách về xây dựng nhà ở đối với công nhân trong KCN; hướng dẫn thực hiện Luật Đầu tư, đầu tư xây dựng chung cư cho công nhân làm việc tại các KCN, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế; đầu tư xây dựng ký túc xá sinh viên và xây dựng nhà ở cho các đối tượng chính sách xã hội thuộc lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư. - Quy hoạch KCN phải được gắn với quy hoạch khu nhà ở cho công nhân. Quy hoạch khu nhà ở cho công nhân cần đáp ứng quy hoạch chung của đô thị, nhà ở dành cho công nhân và là một bộ phận cấu thành của hệ thống nhà ở đô thị. Vì vậy, việc quy hoạch xây dựng nhà ở cho công nhân phải gắn với các dự án nhà ở thương mại hoặc các dự án khu đô thị mới để đảm bảo tính đồng bộ về cơ sở hạ tầng xã hội. - Cần ban hành hệ thống tiêu chuẩn nhà ở tối thiểu cho người lao động trong KCN, đồng thời điển hình hóa các thiết kế nhà ở nhằm thống nhất và đảm bảo phù hợp với nhu cầu và khả năng của người lao động trong KCN. Đồng thời, khi quy hoạch nhà ở KCN cần tính toán nhu cầu, khả năng nhà ở của người lao động, từ đó định hướng việc xây dựng các loại hình nhà ở với quy mô, mức độ hiện đại và giá thành hợp lý. - Đa dạng hóa các hình thức đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân. Cần khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng nhà ở thương mại để cho thuê, thuê mua, bán trả dần (trả góp), trả chậm… theo cơ chế thị trường để góp phần tăng nguồn cung nhà ở trên thị trường, đáp ứng nhu cầu đa dạng của các đối tượng khách hàng, kể cả các đối tượng có thu nhập thấp; ban hành quy định cụ thể về phương thức thanh toán tiền mua, thuê, thuê mua nhà ở thông qua ngân hàng phù hợp với pháp luật về kinh doanh bất động sản. Khuyến khích xã hội hóa về nhà ở đồng thời thực hiện chính sách tạo điều kiện, không thả nổi cho thị trường tự điều tiết. Có chính sách hỗ trợ, miễn giảm tiền thuê đất đối với việc xây dựng nhà ở cho người lao động và người có thu nhập thấp để việc xây dựng nhà ở cho thuê hoặc bán đảm bảo: thu hồi được vốn và có lãi đối với các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân; tạo điều kiện cho người lao động có thể thuê hoặc mua được nhà với giá rẻ, chất lượng vừa phải. - Điều chỉnh hợp lý thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản nhà ở cho người lao động trong KCN và người có thu nhập thấp. Phát hành trái phiếu phát triển nhà ở để huy động vốn đầu tư trong lĩnh vực nhà ở, đặc biệt là nhà ở có giá cho thuê hợp lý. - Ưu đãi, hỗ trợ về thuế cho người dân tham gia xây dựng nhà ở cho người lao động tại các địa bàn có KCN như: miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân, thuế sử dụng đất đối với các cá nhân có nhà ở cho người lao động thuê nhằm giảm bớt chi phí đánh vào tiền thuê nhà ở của người lao động. Tuy nhiên, cần có quy định cụ thể về việc xây dựng nhà ở, quản lý nhân khẩu, an ninh, trật tự,… nhằm đảm bảo tốt hơn cuộc sống cho người lao động. - Thành lập quỹ nhà ở cho người lao động làm việc trong các KCN nhằm hỗ trợ tiền thuê, mua nhà cho người lao động có thu nhập thấp làm việc trong các doanh nghiệp KCN. Quỹ này được hình thành dựa trên đóng góp từ ngân sách địa phương, vận dụng đóng góp của các doanh nghiệp, tổ chức, cơ quan trên địa bàn. - Cần ban hành cơ chế kiểm soát giá chặt chẽ, cho thuê nhà ở chặt chẽ, tránh tình trạng đầu cơ, nâng giá nhà ở mua hoặc cho thuê ở mức bất hợp lý, không phù hợp với khả năng của người lao động trong KCN. - Xây dựng các chế tài cụ thể quy định rõ trách nhiệm của chính quyền địa phương, doanh nghiệp trong KCN, doanh nghiệp phát triển hạ tầng và người lao động trong việc xây dựng, quản lý, sử dụng nhà ở cho người lao động trong KCN. - Thực hiện chương trình an sinh xã hội và phúc lợi xã hội đối với lao động KCN. Trong đó, đặc biệt quan tâm đến tổ chức quản lý hành chính khu dân cư ngoài hàng rào KCN; thực hiện xã hội hóa vấn đề cung cấp dịch vụ nhà ở cho người lao động, khuyến khích người dân xây dựng nhà cho thuê theo tiêu chuẩn tối thiểu Nhà nước quy định thống nhất. Tổ chức tốt hệ thống cung cấp các dịch vụ phúc lợi công cộng ở khu dân cư, nơi lao động KCN sinh sống (nước, điện, văn hóa, thông tin, giải trí...) không vì mục tiêu lợi nhuận. 3.3.7.3. Các chính sách tạo ra sự công bằng xã hội. Các chính sách tạo ra công bằng xã hội liên quan đến người lao động nhập cư bao gồm tổng hợp các chính sách, như chính sách về giáo dục, về dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe, về cung cấp thông tin, về hỗ trợ vốn, về bảo hiểm xã hội…. Các chính sách đó phải đảm bảo không có sự phân biệt giữa người lao động nhập cư và người lao động bản địa. Trong những điều kiện như nhau lao động nhập cư có quyền được đối xử bình đẳng để đảm bảo rằng lao động là nguồn lực được phân bố một cách hiệu quả. Trên thực tế, vị thế và cơ hội của lao động nhập cư so với lao động địa phương không phải luôn luôn giống nhau. Các vấn đề về nhà ở, thu nhập thấp, thiếu thông tin được xem như là những cản trở cơ bản nhất của lao động nhập cư. Cơ hội thăng tiến của lao động nhập cư cũng thường ít hơn bởi các doanh nghiệp thường muốn tạo cơ hội đó cho những lao động địa phương vì họ tin tưởng lao động địa phương có tâm lý ổn định, yên tâm với công việc hơn. Mối quan hệ giữa lao động nhập cư với chính quyền nơi làm việc cũng như với doanh nghiệp có nhiều hạn chế, do đó ảnh hưởng không nhỏ tới việc xử lý các vấn đề liên quan đến lợi ích chung của các bên. Vì thế, cần thiết phải thu hẹp khoảng cách giữa lao động nhập cư và lao động địa phương 3.3.7.4. Các chính sách trong nội bộ doanh nghiệp. Ngoài những chính sách chung đối với người lao động, các doanh nghiệp trong các KCN cần có những chính sách hỗ trợ thêm người lao động nhập cư, như hỗ trợ đào tạo, đi lại, bố trí sắp xếp lao động, trợ cấp cho lao động ngoại tỉnh khi ốm đau, tùy thuộc vào điều kiện của từng doanh nghiệp. Trên thực tế, trong thời gian vừa qua nhiều doanh nghiệp công nghiệp Đồng Nai đã làm tốt điều này, nên ở những doanh nghiệp này rất ít xảy ra tình trạng lao động bỏ việc, và không rơi vào tình trạng thiếu lao động nghiêm trọng như nhiều doanh nghiệp khác. Lao động nhập cư vào các KCN là một tất yếu và ngày càng tăng trong những năm tới, sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Việc thu hút lao động nhập cư vào các KCN đòi hỏi phải giải quyết tốt các chính sách liên quan như đã trình bày trên và phải có những điều tra, nghiên cứu chuyên sâu hơn đối tượng này. KẾT LUẬN Đã hơn 1 năm kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO. Một năm mới chỉ là khởi đầu cho việc Việt Nam hội nhập và tiếp cận với “luật chơi” của một thị trường toàn cầu không ranh giới. Trong điều kiện ngày càng hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, tuy mở ra nhiều thời cơ song bên cạnh đó cũng là những thách thức to lớn đối với nền kinh tế nước ta nói chung và đối với kinh tế tỉnh Đồng Nai nói riêng. Đóng vai trò là một cực tăng trưởng kinh tế của vùng KTTĐPN, Đồng Nai cần phát huy điều kiện xuất phát điểm phát triển đã có, kết hợp nội lực với các nguồn lực bên ngoài, chủ động nắm bắt thời cơ hội nhập để phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao hơn nữa vai trò động lực và đóng góp của tỉnh vào phát triển kinh tế-xã hội của vùng KTTĐPN và quá trình thực hiện CNH-HĐH của cả nước. Trong định hướng ưu tiên phát triển của mình từ nay đến 2020, Đồng Nai tiếp tục coi phát triển các KCN là hướng quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế của tỉnh. Bài toán nguồn nhân lực cho các KCN trước mắt đang cần được tháo gỡ. Làm thế nào để khớp nối số người được đào tạo tương đối lớn và liên tục tăng hàng năm với nhu cầu thực tế của các doanh nghiệp về lao động qua đào tạo, nhất là lao động trình độ cao đang là mối quan tâm của các nhà quản lý. Trong Chuyên đề này, em đã nêu ra một số giải pháp chủ yếu dựa trên những gì tìm hiểu được trong quá trình thực tập. Hy vọng rằng đó sẽ là những đóng góp tuy nhỏ bé nhưng có ích, góp phần tháo gỡ những khó khăn đang tồn tại trong các KCN của tỉnh Đồng Nai nói riêng và cũng là thực trạng khó khăn đang hiện hữu trong các KCN ở một số tỉnh khác của nước ta nói chung. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Báo cáo tổng hợp Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Đồng Nai đến năm 2020 (UBND tỉnh Đồng Nai). Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, quốc phòng-an ninh tỉnh Đồng Nai năm 2007 (UBND tỉnh Đồng Nai). Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, quốc phòng-an ninh tỉnh Đồng Nai năm 2008 (UBND tỉnh Đồng Nai). Quy hoạch phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đến năm 2010 có tính đến năm 2015 (Sở công nghiệp Đồng Nai). Các báo, tạp chí: Tạp chí KCN Việt Nam số 78/2007, số 87/2007. Tạp chí Lao động và Xã hội các số: 313, 317, 318, 319, 325 năm 2007. Tạp chí Kinh tế và Phát triển số 125 (tháng 11/2007). Các trang web: www.diza.vn www.vieclamdongnai.net www.bhxhdongnai.gov.vn www.baodongnai.com.vn www.dongnai.gov.vn www.molisa.gov.vn www.khucongnghiep.com.vn www.moi.gov.vn www.vienkinhte.hochiminhcity.gov.vn www.tapchicongsan.org.vn www.thongtinthuongmaivietnam.com.vn www.vir.com.vn www.dongnai-industry.gov.vn MỤC LỤC DANH MỤC VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG, HÌNH VẼ ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34825.doc
Tài liệu liên quan