Một số giải pháp nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả FDI

ĐẶT VẤN ĐỀ Văn kiện đại hội đảng IX của Đảng đã coi kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một thành phần kinh tế, là bộ phận cấu thành của nền kinh tế nhiều thành phần ở VIệt Nam, được khuyến khích phát triển, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm và đề ra nhiệm vụ cải thiện nhanh môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài. Đây là bước phát triển mới về quan điểm, nhận thức của Đảng ta

doc36 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1511 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả FDI, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
so với các đại hội trước về vai trò vị trí của đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI đối với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam, thể hiện chủ trương nhất quán của Đảng ta là phát huy nội lực động thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế thế giới để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, kết hợp chặt chẽ giữa nội lực và ngoại lực để tạo thành nguồn lực tổng hợp cho công cuộc đổi mới và phát triển của đất nước. Và thực tế ngày nay đã chứng minh rằng FDI trở thành một tất yếu kinh tế trong điều kiện quốc tế hóa sản xuất và lưu thông. Không có một quốc gia nào dù lớn hay nhỏ dù phát triển theo con đường TBCN hay XHCN lại không cần đến nguồn vốn FDI và tất cả đều coi là một nguồn lực quan trọng cần khai thác để từng bước hòa nhập với cộng đồng quốc tế. ngay cả quốc gia có tiềm lực kinh tế mạnh như Mỹ, Nhật Bản dưới tác động của cuộc cách mạng XHCN hiện nay cũng không tự mình giải quyết các vấn đè kinh tế xã hội đã, đang và tiếp tục đặt ra. Đặc biệt là Việt Nam, Việt nam đi lên từ đống tro tàn của chiến tranh, nền kinh tế thấp kém lạc hậu. đến nay ta từng bước tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Việt Nam cần phải có một nguồn vốn lớn và FDI là một lựa chọn hợp lý hội tụ đầy đủ những yếu tố cần thiết giúp kinh tế ViệtNam nhanh chóng thoát khỏi lạc hậu tiến lên vững mạnh. Chính vì lý do đó việc tìm hiểu FDI trở nên rất quan trọng đặc biệt là đối với sinh viên kinh tế những người đang và sẽ trực tiếp gánh vác trọng trách xây dựng kinh tế nước nhà trở nên một nền kinh tế giàu mạnh. Nội dung trong bài tiểu luận sẽ làm rõ những vấn đề cơ bản nhất về FDI và vai trò của nó trong việc phát triển kinh tế nước nhà. B- NỘI DUNG. I.CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN: 1.Khái quát về FDI: a).Các khái niệm: -Đầu tư: Là tập hợp các hoạt động bỏ vốn và sử dụng vốn theo một chương trình đã được hoạch định trong một khoảng thời gian tương đối dài nhằm thu dược lợi ích lớn hơn cho các nhà đầu tư và cho xã hội cho cộng đồng. -Đầu tư nước ngoài: Là việc các nhà đầu tư ở quốc gia này bỏ vốn vào các quốc gia khác theo một chương trình đã được hoạch định ttrong một khoảng thời gian dài nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường và mang lại lợi ích lớn hơn cho nhà đầu tư và xã hội. -Đầu tư trực tiếp nước ngoài:(Foregin Direct Inventment-FDI) Là hoạt động đầu tư do tổ chức kinh tế hay cá nhân nước ngoài tự mình hay tham gia bỏ vốn với các tổ chức kinh tế hay cá nhân của nước đầu tư trực tiếp quản lý và điềiu hành đối tượng bỏ vốn để thu lợi nhuận cho nhà đầu tư và cho xã hội. b).Các hình thức huy động vốn: - Khái niệm huy động vốn nước ngoài nằm trong một khái niệm rộng lớn là các dòng lưu chuyển vốn quốc tế (international capitalflas). Khái niệm sau về thực chất biểu thị quá trình, chuyển giao tài chính (financial ansction) trên thế giới. - Có hai dòng lưu chuyển vốn chủ yếu: dòng từ các nước phát triển đổ vào các nước chậm phát triển và dòng nội bộ các nước phát triển. Trong những giai đoạn khác nhau hai dòng vốn này có những hướng vận động khác nhau. Dòng vốn đổ vào các nước đang phát triển diễn ra dưới nhiều hình thức. Mỗi hình thức có đặc điểm, mục tiêu và định hướng thực hiện riêng, nhưng hoàn toàn giống nhau. Để tiện phân tích có thể sử dụng cách phân loại thông thường và tương đối đơn giản theo đối tượng cho vay như sau: + Tài trợ phát triển chính thức (Offocial Development Finance ODF). Nguồn vốn này bao gồm: viện trợ phát triển chính thức (Official Dvelopment Assostonce- ODA) và các hình thức ODP khác. Trong loại này có viện trợ song và đa phương. ODA chiếm tử trọng chủ yếu trong ODF. + Tín dụng từ các ngân hàng thương mại. + Đầu tư nước ngoài trực tiếp ( Foregin Direct Invertment FDI ), viện trợ cho không của các tổ chức phi chính phủ (NGOS) và một số nguồn tài trợ tư nhân khác. c).Tìm hiểu sâu hơn về lịch sử của FDI: Các nghiên cứu về FDI đã được tiến hành sau Chiến tranh thế giới thứ hai, vào thập kỷ 60, 70 của thế kỷ XX. Từ thập kỉ 1980 trở đi do thế giới đã diễn ra những làn sóng FDI, nên có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này với những lý thuyết và quan điểm khác nhau. ở đây chúng tôi trình bày quan điểm chính thống của hai tổ chức quốc tế đóng vai trò quan trọng đối với FDI là tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển – OECD và Tổ chức Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và phát triển – UNCTAD. Theo Báo cáo đầu tư thế giới năm 1999 của UNCTAD thì “ FDI là hoạt động đầu tư bao gồm mối quan hệ dài hạn, phản ánh lợi ích và quyền kiểm soát lâu dài của một thực thể thường trú ở một nền kinh tế (nhà đầu tư nước ngoài hoặc công ty mẹ nước ngoài) đối với một doanh nhiệp thường trú ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp liên doanh hoặc chi nhánh nước ngoài)”. Định nghĩa này có hai đặc trưng là quyền kiểm soát và lợi ích khống chế. Về quyền kiểm soát, hầu như đã đạt được sự nhất trí của các nhà nghiên cứu về FDI; về lợi ích khống chế còn đang có những ý kiến khác nhau, nhưng hiện nay nhiều người đã thừa nhận rằng một công ty nước ngoài có tỷ lệ sở hữu cổ phần tối thiểu 10% thì có ảnh hưởng nhất định đến quyền kiểm soát doanh nghiệp, tác động đến chiến lược kinh doanh và quản trị doanh nghiệp. Quyền kiểm soát là đặc trưng tiêu biểu cua FDI so với các phương thức đầu tư quốc tế khác. Razin và cộng sự (1999) cho rằng, quyền kiểm soát làm cho các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài có được một lợi thế về thông tin so với các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài và những người gửi tiền tiết kiệm ở trong nước. Vì vậy, nhiều TNC lớn trên thế giới chủ yếu thực hiện FDI ở các nước khác hơn là tham gia FDI; nhiều công ty thực hiện các dự án FDI với điều kiện giành được quyền kiểm soát ít nhất là 51% cổ phần của doanh nghiệp; có công ty chỉ thực hiện hình thức 100% sở hữu vốn và quyền kiểm soát. OCED đã xuất bản tài liệu Định nghĩa chuẩn của OECD về FDI, trong đó có phân biệt ba khaí niệm: FDI,nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài và doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài. FDI phản ánh mục đích thu được lợi nhuận lâu dài của một thực thể thường trú ở một thực thể thường trú ỏ một nền kinh tế (nhà đầu tư trực tiếp) tại một thực thể thường trú ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư (doanh nghiệp đầu tư trực tiếp). FDI bao gồm mọi giao dịch ban đầu và các giao dịch vốn về sau giữa hai thực thể đó; cũng như giữa các doanh nghiệp liên doanh, kể cả hợp nhất và không hợp nhất. Nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài là một cá nhân, một doanh nghiệp nhà nước hay doanh nghiệp tư nhân, một chính phủ, một nhóm các cá nhân có quan hệ với nhau, một nhóm các doanh nghiệp hợp nhất và hoặc không phù hợp nhất có quan hệ với nhau, có một doanh nghiệp đầu tư trực tiếp – một công ty con, một công ty liên kết hoặc một chi nhánh hoạt động ở một nước không phải là nước hoặc các nước thường trú của nhà đầu tư. Doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài là một doanh nghiệp hợp nhất hoặc không, ở đó một nhà đầu tư nước ngoài sở hữu 10% trở lên cổ phần thông thường của một doanh nghiệp; hoặc quyền biểu quyết của một doanh nghiệp hợp nhất, hoặc mức tương đương của một doanh nghiệp không hợp nhất. Điều đó không đòi hỏi nhất thiết phải có sự kiểm soát tuyệt đối kinh doanh và quản trị doanh nghiệp của nhà đầu tư nước ngoài. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam xác định: đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Các tài sản này có thể là thiết bị, máy móc, nhà xưởng, công trình xây dựng hoặc giá trị quyền sở hữu công nghiệp, bí quyết kĩ thuật, quy trình công nghệ, dịch vụ kỹ thuật. Khái niệm nêu trong Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chủ yếu đề cập đến xuất xứ của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, không đề cập trực tiếp hai vấn đề cốt lõi của FDI là quyền kiểm soát và lợi ích khống chế. Hiệp định thương mại Việt nam – Hoa Kỳ xác định: đầu tư nước ngoài là mọi hình thức đầu tư trên lãnh thổ của một bên do các công dân hoặc công ty của bên kia sở hữu hoặc kiểm soát trực tiếp hay gián tiếp, thực hiện dưới các hình thức như một công ty hay một doanh nghiệp; cổ phần cổ phiếu và hình thức góp vốn khác, trái phiếu, giấy ghi nợ, các quyền theo hợp đồng, tài sản hữu tình và tài sản vô tình, quyền sở hữu trí tuệ…Khái niệm này gồm cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp, mà không phân biệt sự khác nhau giữa hai loại đó. 2.Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn: a).Đặc trưng của FDI: - Thứ nhất, FDI gắn liền với việc di chuyển tiền và tài sản giữa các quốc gia. FDI làm tăng lượng tiền và tài sản của nền kinh tế nước nhận đầu tư, làm giảm lượng tiền và tài sản của nước đi đầu tư. Tài sản ở đây bao gồm tài sản hữu hình (máy móc, thiết bị, công nghệ, nguyên vật liệu…), tài sản vô hình (sáng chế, nhãn hiêụ, bí quyết kỹ thuật, kinh nghiệm và kỹ năng quản lý). FDI không chỉ di chuyển vốn thuần túy, mà còn bao gồm chuyển giao công nghệ, cơ chế bảo hộ quyền sở hữu của nhà đầu tư về các đối tượng sở hữu. - Thứ hai, FDI được tiến hành thông qua thành lập các doanh nghiệp mới, mua lại các chi nhánh, doanh nghiệp hiện có, hoặc tiến hành các hoạt động hợp nhất và chuyển nhượng doanh nghiệp. Điều đó cho thấy hoạt động FDI có thể diễn ra theo nhiều hình thức và phương thức đa dạng. Một nước có thể khai thác tính đa dạng của các hình thức và phương thức đầu tư để tăng cường thu hút vốn FDI từ nước ngoài. Việc thành lập và phát triển các thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường chứng khoán là điều kiện thúc đẩy sự gia tăng nhanh chóng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Thứ ba, FDI là người chủ sở hữu hoàn toàn ( sở hữu 100% vốn đầu tư) hoặc đồng chủ sở hữu vốn với một tỷ lệ nhất định đủ mức khống chế và trực tiếp tham gia quản lý hoạt động của doanh nghiệp. Tỷ lệ sở hữu vốn khống chế này từ 10% trở lên trong tổng số vốn của doanh nghiệp do luật pháp từng nước quy định. Đây là yếu tố quyết định đến tính chất trực tiếp của nhà đầu tư nước ngoài trong việc đưa ra các quyết định đầu tư và quản trị doanh nghiệp. Chính vì có sự thay đổi cơ bản về hình thức sở hữu trong FDI nên cần có thể chỉ bảo hộ quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài rõ ràng và chặt chẽ thì mới tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn. Việc bảo đảm tỷ lệ sở hữu ở mức khống chế còn là cơ sở để các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trở thành những chi nhánh của các công ty của nước đầu tư. Đây là yếu tố làm tăng tính chất toàn cầu của mạng lưới các công ty đi đầu tư và tạo cơ sở để các công ty đó thực hiện hoạt động chu chuyển vốn, hàng hóa trong nội bộ công ty, tránh được hàng rào thuế quan, tiết kiệm chi phí giao dịch. Đặc trưng này là cơ sở để phân biệt sự khác nhau giữa FDI với hoạt động thương mại, gia công quốc tế. Đặc trưng này làm cho các khoản lợi nhuận thu được từ FDI lớn hơn nhiều so với thương mại quốc tế. - Thứ tư, FDI chủ yếu là hoạt động đầu tư của tư nhân với mục tiêu cơ bản thu lợi nhuận ( trừ một số doanh nghiệp nhà nước và một ít đầu tư của chính phủ). Hoạt động FDI diễn ra khi có thị trường đầu tư có khả năng tạo lợi nhuận cao, nghĩa là có chênh lệch về tỷ suất lợi nhuận cao, nghĩa là có chênh lệch về tỷ suất lợi nhuận đầu tư do tính quy luật cân bằng giữa cung và cầu về vốn đầu tư và chi phí. Điều này phân biệt FDI và ODA. Các khoản ODA của các chính phủ gắn với những cam kết và rằng buộc chặt chẽ giữa các nước viện trợ và nước nhận viện trợ, chịu sự chi phối đáng kể bởi quan hệ chính trị giữa hai nước. Khi đó, FDI ít có khả năng xảy ra tình trạng này vì chủ yếu là đầu tư do doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động đầu tư và kinh doanh, được tính toán kỹ trước khi quyết định đầu tư. Đồng thời, hoạt động FDI khác với vay tín dụng thương mại theo lãi suất thị trường với những cam kết và thế chấp hết sức nghiêm ngặt. - Thứ năm, FDI bảo đảm cho nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài tham gia kiểm soát, điều hành quá trình đầu tư và kinh doanh của doanh nghiệp. Việc điều hành và trực tiếp ra quyết định đầu tư là điều kiện để nhà đầu tư thực hiện được chiến lựơc kinh doanh của họ một cách chủ động và tối ưu. Tuy nhiên, trên thực tế thường nảy sinh khoảng lệch giữa mục tiêu thu hút vốn đầu tư của chính phủ với chiến lược kinh doanh của nhà đầu tư, vì trong một số trường hợp, mục tiêu của chính phủ không phù hợp với chiến lược kinh doanh của nhà đầu tư. Đặc trưng này đòi hỏi chính phủ tiếp nhận đầu tư chủ động quy hoạch phát triển các ngành, các vùng và có các chính sách hấp dẫn phù hợp với từng ngành, lĩnh vực để thu hút FDI. - Thứ sáu, đầu tư nước ngoài chủ yếu do các công ty xuyên quốc gia thực hiện. Đây là những tập đoàn có hệ thống các chi nhánh sản xuất ở nước ngoài, có tiềm lực lớn về vốn, công nghệ các nhãn hiệu sản phẩm có uy tín có danh tiếng lớn trên toàn cầu, tính năng động cao, đội ngũ các nhà quản lý có trình độ cao, có khả năng điều hành các hoạt động sản xuất phân phối trên toàn cầu, có năng lực cạnh tranh cao. Các nước đang phát triển và các doanh nghiệp của họ có thể tiếp cận từ các công ty xuyên quốc gia thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp để thu hút nguồn vốn lớn, công nghệ nguồn, đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ chuyên môn cao, cải thiện năng lực cạnh tranh và năng động hóa các quan hệ giao dịch. Bên nước tiếp nhận ngoài mục tiêu thu hút vốn đầu tư từ nhà đầu tư nước ngoài còn có mục tiêu tiếp nhận kiến thức và kỹ năng quản lý. Kỹ năng quản lý là loại tài sản vô hình cực kỳ quan trọng đối với các nước có nền kinh tế chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường; khía cạnh này tăng thêm tính chất đa phương diện của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các công ty đa quốc gia thường thuộc các nước công nghiệp phát triển, do đó dòng vốn đầu tư trực tiếp ban đầu xuất phát từ các nước công nghiệp và tạo nên những xu hướng chính trong hoạt động FDI. Các nước đang phát triển khi đã đạt đến trình độ phát triển nhất định, tích lũy được vốn, ngoại hối có thể và cần phải khuyến khích doanh nghiệp của nước đó đầu tư ra nước ngoài để tham gia ngày càng nhiều vào thị trường đầu tư thế giới. Về mặt lịch sử FDI ban đầu do các Công ty xuyên quốc gia của các nước chính quốc để khai thác nguyên liệu, thị trường tiêu thụ và nguồn lao động rẻ …của các nước thuộc địa. Do đó, khái niệm FDI chủ yếu được sử dụng để chỉ sự vận động của vốn từ các nước chính quốc sang các nước thuộc địa; từ các nước công nghiệp phát triển sang các nước đang phát triển. Sau đó, xuất hiện các hoạt động đầu tư lẫn nhau giữa các nước đang phát triển với nhau và tiếp đó là dòng vốn di chuyển từ nước đang phát triển ra nước ngoài, kể cả sang các nước công nghiệp phát triển để khai thác tính không hoàn hảo của thị trường. Hai dòng di chuyển vốn vào và ra này khác nhau về chiều hướng vận động và tác động của chúng đến nền kinh tế của các nước đầu tư và các nước nhận đầu tư. Do đó, đòi hỏi phải có cách ứng xử về mặt chính sách để điều chỉnh và quản lý dòng vận động của vốn đầu tư. b). Lợi ích của vốn nước ngoài đối với việc phát triển kinh tế của các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam: Thứ nhất: là tạo công ăn việc làm. Đây là tác động kép song song với tạo công ăn việc làm là tăng thêm thu nhập cho người lao động, và cho đất nước, làm tăng GNP của các quốc gia giải quyết nạn thất nghiệp và kéo theo hậu quả của nó. Thứ hai: Tác dụng chuyển giao khoa học kĩ thuật, lợi ích quan trọng thứ hai mà đầu tư nước ngoài có thể mang lại là kĩ thuật công nghệ hiện đại, kĩ xảo chuyên môn, bí quyết và trình độ quản lý tiên tiến cũng như năng lực thị trường của các nước đi trước xét về lâu dài đây chính là lợi ích căn bản đối với các nước tiếp cận vốn trong đó có Việt Nam. Thứ ba: Lợi ích về vốn và ngoại tệ. Lợi ích này dưới dạng tổng quát hơn, chính là lợi ích tăng trưởng của đất nước. Xét riêng về vốn, ngoại tệ, nguồn lực huy động từ bên ngoài có những tác dụng căn bản sau: - Rút ngắn thời gian tích lũy vốn ban đầu cho công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. - Tạo ra những cơ sở xuất khẩu cho đất nước trong tương lai. - Thu một phần lợi nhuận của các công ty nước ngoài. - Thu ngoại tệ từ các hoạt động du lịch, dịch vụ,… c).Vai trò của FDI đối với việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò của FDI đối với việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có thể xem xét dưới những góc độ sau: -Thứ nhất,FDI tạo ra cơ hội cũng như thách thức với sự phát triển bền vững. Ngày nay, phát triển bền vững đang là mục tiêu quan trọng của các quốc gia trên toàn thế giới. Phát triển bền vững được hiểu là sự tăng trưởng kinh tế đi liền với cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiên tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”. Việt Nam là một quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên và có lực lượng lao động đồi dào, song các yếu tố về vốn, trình độ cũng như tay nghề của lực lượng lao động còn rất nhiều hạn chế, khoa học - công nghệ đã tụt hậu khá xa so với các nước phát triển. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định vai trò quan trọng của việc thu hút FDI và đề ra nhiều giải pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuân lợi để thu hút FDI, góp phần thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội. Việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam về bản chất, là một kiểu tổ chức và phát triển nền kinh tế - xã hội vừa dựa trên nguyên tắc, quy luật của nền kinh tế thị trường và nguyên tắc, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Định hướng này không chỉ đòi hỏi nền kinh tế tăng trưởng ở mức độ cao, mà còn đòi hỏi phải xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và công minh; trong đó phát triển nguồn nhân lực và phát triển xã hội bền vững được coi là trọng tâm. Ngày 29/12/1987, Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ 2 đã thông qua Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Đây là đạo luật đầu tiên được xây dựng theo cơ chế của nền kinh tế thị trường và cũng là đạo luật đầu tiên thể hiện đường lối mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Kể từ năm 1988 đến nay FDI đã tác động đến cả chiều rộng và chiều sâu của quá trình tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Đầu tư nước ngoài đã góp phần quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam. Do đầu tư chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, đầu tư nước ngoài đã góp phần nâng cao tỷ trọng giá trị công nghiệp và dịch vụ trong tổng sản phẩm xã hội. Mặt khác, nhiều ngành sản xuất quan trọng đối với sự phát triển của đất nước đã ra đời như sản xuất xi măng; lắp ráp, sản xuất xe máy, ôtô, viễn thống quốc tế, thăm dò và khai thác dầu khí … Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng thu hút và giải quyết việc làm cho một lực lượng lớn lao động, đến năm 2004 ước tính khoảng gần 850 ngàn lao động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp FDI. Lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được làm quen với phong cách và kỷ luật lao động mới, trình độ tay nghề từng bước được nâng cao phù hợp với yêu cầu của từng doanh nghiệp. Cũng cần lưu ý rằng, đội ngũ lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khi đã đạt được trình độ kỹ thuật và năng lực quản lý sẽ trở thành nguồn lực chủ yếu phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước. Có thể nói hoạt động đầu tư nước ngoài ở Việt Nam trong những năm qua đã có những đóng góp quan trọng, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng với tố độ cao, làm thay đổi cơ cấu kinh tế theo chiều hướng tích cực và nâng cao trình độ công nghệ chung của các ngành kinh tế. -Thứ hai, đầu tư nước ngoài tạo cho Việt Nam chủ động hội nhập với các nền kinh tế khu vực và thế giới. Khu vực hóa và toàn cầu hóa là những xu hướng tất yếu mà mọi nền kinh tế đều bị cuốn hút vào. Tuy nhiên, tùy thuộc và trình độ phát triển kinh tế và các nhân tố khác mà mỗi nước có chủ trương riêng trong hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời tác động đến tiến trình đó. Với chủ trương Việt Nam là bạn đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực, Việt Nam đã tạo ra thế và lực mới trên trường quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với khu vực thông qua việc gia nhập ASEAN, thực hiện AFTA và hướng tới xây dựng cộng động ASEAN-AC; đồng thời mở rộng quan hệ song phương và đa phương với các tổ chức quốc tế, tổ chức hợp tác khu vực, các quốc gia, chủ yếu và thương mại và đầu tư. Đặc biệt Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên chính thức thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO vào tháng 01/2007. Việc phát triển khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đảm bảo cho hội nhập kinh tế đạt hiệu quả cao. Thông qua FDI, các Công ty nước ngoài, nhất là các chi nhánh của Công ty xuyên quốc gia có mặt tại Việt Nam đã góp phần vào tăng trưởng kinh tế, mở rộng xuất khẩu, nâng cao năng lực tiếp cận thị trường và năng lực cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ trên thị trường thế giới. -Thứ ba, đầu tư nước ngoài tạo ra những điều kiện thuận lợi và thách thức đối với việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Nền kinh tế độc lập tự chủ được hiểu là nền kinh tế có trình độ phát triển đủ điều kiện không bị lệ thuộc vào nước khác. Thực tiễn cho thấy, muốn giữ được độc lập tự chủ nhất thiết phải có hai điều kiện: Có đường lối, chính sách phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước trong xu thế toàn cầu hóa và có thực lực kinh tế đủ mạnh. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ không có nghĩa là đối lập với vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế. Mục tiêu của hội nhập kinh tế quốc tế là tạo thêm nguồn lực, tạo thành sức mạnh tổng hợp nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Như vậy, việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ không đối lập với việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại mà lại là điều kiện quan trọng để nước ta chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tạo khả năng đón bắt thời cơ do toàn cầu hóa và khu vực hóa đem lại, kết hợp ngoại lực với nội lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển nhanh đất nước. Trong thế giới hiện tại, FDI là một trong những công cụ quan trọng thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Các quốc gia tiếp nhận FDI có điều kiện tăng vốn đầu tư, tăng năng lực sản xuất, giải quyết việc làm, đẩy nhanh quá trình đổi mới thiết bị, tiếp thu công nghệ hiện đại và nâng cao trình độ quản lý, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, mở rộng quan hệ giao lưu, hợp tác kinh tế quốc tế. Thông qua đó, kết hợp với phát huy nội lực, các quốc gia tiếp nhận đầu tư nhanh chóng xây dựng một nền kinh tế vững mạnh, tạo thế và lực cho việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. d).Sự phát triển nhận thức và quan điểm về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Một khó khăn lớn của hầu hết các nước đang phát triển trong giai đoạn đầu phát triển là thiếu vốn đầu tư. Đây là yếu tố quyết định để các nước có thể đầy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, cải thiện đời sống vật chất của nhân dân. ở các nước đang phát triển thường có nguồn lao động và tài nguyên thiên nhiên chưa sử dụng hết hoặc không được sử dụng vì thiếu các điều kiện vật chất của quá trình lao động sản xuất. Bản thân các nước đang phát triển lại ít có khả năng tự tích lũy vì năng xuất lao động thấp, sản xuất hầu như không đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Trong hoàn cảnh như vậy, nguồn vốn từ bên ngoài sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với bước phát triển ban đầu của các nước này. Đặc biệt là trong xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới hiện nay, các nước đang phát bị đặt trong tình huống phải tạo được tốc độ phát triển nhanh để đuổi kịp và từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới, nguy cơ tụt hậu không cho phép các nước đang phát triển được chậm chễ hay có cách lựa chọn nào khác. Trong điều kiện trên thế giới có nhiều quốc gia có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài thì các nước đang phát triển có cơ hội tranh thủ nguồn vốn và kỹ thuật của nước ngoài để phát triển kinh tế. Thực tế cho thấy quốc gia nào biết thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn nước ngoài sẽ tạo ra bộ mặt phát triển nhanh chóng của nền kinh tế. Ngoài những đặc điểm chung của một quốc gia đang phát triển Việt Nam còn có những nét đặc thù riêng của một đất nước đã phải trải qua nhiều năm chiến tranh ác liệt. Nền kinh tế sau chiến tranh đã bị tàn phá nặng nề lại vấp phải những sai lầm nghiệm trọng trong quản lý và điều hành cả trên tầm vĩ mô và vi mô, nên đã rơi vào khủng hoảng nghiệm trọng. Một nền kinh tế què quặt, nghèo nàn, lạc hậu: Đời sống của đại đa số nhân dân khó khăn thiếu thốn là gánh nặng không thể vượt qua được. Sau khi vượt qua được khủng hoảng, nền kinh tế Việt Nam bước vào giai đoạn ổn định và phát triển (từ năm 1991-2000).Cũng lại nhờ vào nguồn lực bên ngoài, thông qua vay nợ, viện trợ và hợp tác đầu tư ( trong thời kỳ 1991-1995-vốn FDI là 4,205 tỷ USD, so với 15,695 tỷ USD tổng vốn đầu tư toàn bộ nền kinh tế, vốn FDI chiếm 26,8%), cùng với khai thác và sử dụng một cách có hiệu quả nguồn lực trong nước chúng ta đã tạo ra được một bước phát triển đầu tiên khá vững chắc.Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn này là 8,2% và nhờ có sự tăng trưởng kinh tế mà đã tăng được tỷ lệ tích lũy lên gần 20% GDP vào năm 1995. Thực tiễn trên đây là kết quả của những thay đổi trong nhận thức và quan điểm của chúng ta về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đầu tư nước ngoài là một hoạt động kinh tế đối ngoại, vì vậy nó bị chi phối trước hết bởi đường lối phát triển kinh tế nói chung và chính sách kinh tế đối ngoại nói riêng. Sự thay đổi tư duy kinh tế đối ngoại ở Việt Nam chủ yếu nảy sinh từ tình hình thực tiễn mới diễn ra từ những năm 80 gắn liền với quá trình đổi mới tư duy kinh tế nói chung. Điểm mốc thời gian đánh dấu sự thay đổi này là năm 1986, năm diễn ra Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 6, Đại hội của đường lối đổi mới toàn diện đời sống kinh tế xã hội. Sau Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IV, với chính sách đổi mới toàn diện đất nước chúng ta đã đánh giá cao vai trò rất to lớn của các quan hệ kinh tế quốc tế nói chung và đầu tư nước ngoài nói riêng. Đảng cộng sản Việt Nam và Chính phủ cũng hiểu rằng, trong điều kiện nền kinh tế còn ở tình trạng lạc hậu, nếu muốn phát triển nhanh thì phải biết lợi dụng vốn và kỹ thuật của các cường quốc công nghiệp và nếu có phải trả (học phí) để có được trình độ kỹ thuật công nghệ cao, trình độ quản lý tiên tiến thì cũng phải và nên làm. Trên cơ sở những quan điểm đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam đưa ra. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã đựơc soạn thảo và ban hành vào tháng 12/1987. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt ra đời phù hợp với xu hướng của sự hợp tác nhiều mặt, nhiều chiều, tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi. Việt nam cũng như các quốc gia đang phát triển khác đang rất cần thu hút vốn và kỹ thuật –công nghệ của các nước tiên tiến trên thế giới.Nhưng chúng ta cũng hiểu rằng hoạt động này còn đang diễn ra một cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các nước và các khu vực trên thế giới, hơn nữa chúng ta lại là nước nhập cuộc sau và môi trường đầu tư trong nước chưa được thuận lợi. Vì vậy Luật đầu tư nước ngòai của chúng ta đã thể hiện tính cởi mở cao, hấp dẫn, tạo ra những lợi thế so sánh trong cuộc cạnh tranh quyêt liệt này. Lần thứ hai sửa đổi, bổ sung Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc hội nước CHXHCNVN thông qua ngày 23/12/1992. Rõ ràng là qua quá trình thực hiện, chúng ta mới hiểu biết nhiều hơn về đầu tư nước ngoài và cũng khẳng định được nhận thức trước đây của chúng ta về vấn đề này. Vì vậy lần sửa đổi bổ sung này chúng ta hoàn chỉnh thêm một bước bộ Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Trên cơ sở nhận thức ngày càng đúng về hoạt động ĐTNN, chúng ta đã có quan điểm rõ ràng về thu hút và sử dụng nguồn lực bên ngoài để phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH nền kinh tế. Chúng ta coi nguồn lực trong nước là quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng đối với sự phát triển lâu dài của nên kinh tế. Chúng ta chủ trương, đồng thời với việc tận dụng triệt để mọi thế mạnh và nguồn lực trong nước, cũng cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để khai có hiệu quả nguồn lực bên ngoài. 3.Đánh giá chung: Từ sự phân tích trên, có thể kết luận rằng việc tiếp nhận vốn phát triển từ nước ngoài là lợi thế hiển nhiên mà thời đại tạo ra cho các nước đi sau. Dù những gì có khả năng gây ra bất lợi (xét thuần túy liên quan đến kinh tế) thì đây vẫn là một xu hướng khách quan, một sự lựa chọn cho phép các nước nghèo thoát khỏi tình trạng lạc hậu, để gia nhập nhanh hơn vào quỹ đạo phát triển hiện đại (Vốn nước ngoài và chiến lược phát triển kinh tế ở Việt Nam- Nhà xuất bản chính trị Quốc gia – Lê Văn Châu). II.THỰC TRẠNG VỀ VAI TRÒ CỦA KHU VỰC KINH TẾ CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI. 1.Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam từ 1988 đến nay: a)Vốn đầu tư: Vốn đầu tư là một nguyên nhân quan trọng trong gia tăng và phân hóa thu nhập của các nhóm dân cư ở các vùng. Khi phân tích khả năng đầu tư của từng vùng đối với sự phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập, các nhà kinh tế đều thừa nhận những vùng kinh tế phát triển mạnh là vùng thu hút đầu tư cao nhất. Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là một minh chứng cho nhận định trên. Không ai có thể phủ nhận vai trò của vốn đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là những nước tăng trưởng kinh tế dựa chủ yếu vào nguồn vốn như nước ta. Năm 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 FDI/GDP 14% 15% 17.7% 24.3% 24.3% 27.1% 28.1% 28.3% Năm 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 FDI/GDP 29% 27.6% 29.6% 31.1% 32.1% 33.7% 35.3% 35.5% Bảng1:Tỉ lệ vốn FDI/GDP đơn vị phần trăm (nguồn tổng cục thống kê) Theo cục đầu tư nước ngoài, dự kiến vốn FDI đăng kí ở Việt Nam giai đoạn 2006 đến 2010 khoảng 25 tỷ USD. Đây là một con số dự đoán theo hướng thận trọng. Một số nhà nghiên cứu kinh tế ở Việt Nam và thế giới còn cho rằng con số này khả năng sẽ tăng lên 46 tỷ USD đăng ký và 29 tỷ thực hiện. Việc gi._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35825.doc
Tài liệu liên quan