LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang nỗ lực xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông vận tải-hàng không-viễn thông-cầu cảng-sân bay và đặc biệt là điện lực nhăm mục đích tăng trưởng kinh tế.
Trong thời gian tới,Việt Nam muốn duy trì tốc độ tăng trưởng như hiện nay thì việc đầu tư vốn cho cơ sở hạ tầng càng phải lớn và đa dạng hơn.Chính phủ trong vài năm qua đã thấy rằng cần thiết phải thu hút vốn đầu tư tư nhân vào lĩnh vực này vì nhu cầu vốn ngày càng cao,nguồn vốn Chính phủ không đáp ứng hết,nguồn vốn vay có h
61 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1309 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào ngành điện Việt Nam trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạn,đồng thời, Chính phủ cũng nhận thấy rằng mô hình tổ chức độc quyền Nhà nước trong xây dựng cơ sở hạ tầng không phải là mô hình duy nhất,thậm chí cần phải cải tổ để nâng cao hiệu quả hoạt động.
Ngành điện là một ngành đặc biệt trong cơ sở hạ tầng,ngoài tính chất là ngành liên quan đến an ninh năng lượng quốc gia còn là ngành cung cấp yếu tố đầu vào không thể thiếu cho sản xuất công nghiệp và mọi hoạt động của xã hội.Để đáp ứng tăng trưởng kinh tế,nhu cầu về điện ngày càng tăng,ngành điện phải đi trước một bước trong việc cunh cấp điện.Vì vậy,vốn đầu tư cho ngành điện là rất lớn,nếu chỉ dựa vào huy động như trước đây (vốn vay nước ngoài,vay trong nước,vốn ngân sách,vốn tự có) chắc chắn sẽ không đảm bảo.Cho nên,cần xây dựng hành lang pháp lý thông thoáng hiệu quả nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài,đặc biệt là dòng vốn FDI
Chính vì sự cần thiết này nên trong quá trình thực tập tại phòng Công nghiệp và Xây dựng thuộc Cục đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch đầu tư và dưới sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn,em đã triển khai đề tài “ Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào ngành điện Việt Nam trong thời gian tới”..
Đề tài của em gồm 3 phần chính:
Chương 1: Cơ sở lý luận về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Chương 2 : Thực trạng thu hút FDI vào ngành điện hiện nay.
Chương 3 : Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào ngành điện Việt Nam trong thời gian tới.
Do một số hạn chế về khả năng và thời gian nên trong đề tài này không thể tránh khỏi sai sót,em rất mong được sự góp ý của cô giáo và các cán bộ,nhân viên của Cục Đầu tư nước ngoài.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo hướng dẫn PGS.TS Đoàn Thị Thu Hà và các cán bộ Cục Đầu tư nước ngoài thuộc Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư đã giúp em hoàn thành đề tài này.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VỐN ĐÂU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI FDI
1.1.Khái niệm và các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
1.1.1.Khái niệm
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế IMF,vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được định nghĩa là “Một khoản đầu tư với những quan hệ lâu dài.Theo đó,một tổ chức trong một nền kinh tế(nhà đầu tư trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác.Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế khác đó”.
Hội nghị Liên Hợp Quốc về thương mại và phát triển UNCTAD cũng đưa ra một số khái niệm về FDI.Theo đó,luồng vốn FDI bao gồm vốn được cung cấp( trực tiếp hoặc thông qua các công ty liên quan) bởi nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài cho các doanh nghiệp FDI,hoặc vốn mà nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài nhận được từ doanh nghiệp FDI.FDI gồm có ba bộ phận: vốn cổ phần,thu nhập tái đầu tư và các khoản vay trong nội bộ công ty.
Các nhà kinh tế quốc tế dịnh nghĩa: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là người sở hữu tại nước này mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của nước khác,đó là một khoản tiền mà nhà đầu tư trả cho một thực thể kinh tế của nước ngoài để có ảnh hưởng quyết định đối với thực thể kinh tế ấy hoặc tăng thêm quyền kiểm soát trong thực thể kinh tế ấy.
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam năm 1987 đưa ra định nghĩa: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức,cá nhân nước ngoài đư vào Việt nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kì tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh,doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của luật này.
Từ những khái niệm trên,ta có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau: Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại một quốc gia là việc nhà đầu tư ở một nước đưa vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào vào quốc gia khác để có quyền được sở hữu và quản lý hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế tại quốc gia đó,với mục tiêu tối đa hóa lợi ích của mình.
1.1.2.Các hình thức FDI.
1.1.2.1.Hình thức liên doanh liên kết.
Doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài gọi tắt là liên doanh là hình thức được sử dụng rộng rãi nhất của đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới từ trước đến nay. Nó là công cụ để thâm nhập vào thị trường nước ngoài một cách hợp pháp và có hiệu quả thông qua hoạt động hợp tác.
Liên doanh là một hình thức tổ chức kinh doanh có tính chất quốc tế, hình thành từ những sự khác biệt giữa các bên về quốc tịch, quản lý, hệ thống tài chính, luật pháp và bản sắc văn hoá,hoạt động trên cơ sở sự đóng góp của các bên về vốn, quản lí lao động và cùng chịu trách nhiệm về lợi nhuận cũng như rủi ro có thể xảy ra.Hoạt động của liên doanh gồm cả hoạt động sản xuất kinh doanh, cung ứng dịch vụ, hoạt động nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu triển khai.
Đối với nước tiếp nhận đầu tư:
- Ưu điểm: giúp giải quyết tình trạng thiếu vốn đầu tư,giúp đa dạng hóa sản phẩm,đổi mới công nghệ,tạo thị trường mới và tạo cơ hội cho người lao động làm việc và học tập kinh nghiệm quản lý của nước ngoài.
- Nhược điểm: mất nhiều thời gian thương thảo các vấn đề liên quan đến dự án đầu tư,thường xuất hiện mâu thuẫn trong quản lý điều hành doanh nghiệp,đối tác nước ngoài thường quan tâm đến lợi ích toàn cầu.Vì vậy,đôi khi liên doanh phải chịu thiệt thòi vì lợi ích ở nơi khác…,thay đổi nhân sự ở công ty mẹ có ảnh hưởng tới tương lai phát triển của liên doanh.
Đối với nhà đầu tư nước ngoài:
- Ưu điểm: tận dụng được hệ thống phân phối có sẵn của đối tác nước sở tại,được đầu tư vào trong nhiều lĩnh vực kinh doanh dễ thu lời,lĩnh vực bị cấm hoặc hạn chế đối với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.Tham nhập được những thị trường độc quyền của nước chủ nhà.
- Nhược điểm: khác biệt về nhìn nhận chi phí đầu tư giữa hai bên đối tác,mất nhiều thời gian thương thảo mọi vấn đề liên quan đến dự án đầu tư.
1.1.2.2.Hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng,hợp tác kinh doanh
Hình thức này là hình thức đầu tư mà trong đó các bên quy trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh mà không thành lập pháp nhân mới.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản được kí kết giữa đại diện có thẩm quyền của các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh cho mỗi bên Đặc điểm là các bên kí kết hợp đồng hợp tác kinh doanh, trong qúa trình kinh doanh các bên hợp doanh có thể thành lập ban điều phối để theo dõi, giám sát việc thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Phân chia kết quả kinh doanh: hình thức hợp doanh không phân phối lợi nhuận và chia sẻ rủi ro mà phân chia kết quả kinh doanh chung theo tỷ lệ góp vốn hoặc theo thoả thuận giữa các bên. Các bên hợp doanh thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước sở tại một cách riêng rẽ. Pháp lý hợp doanh là một thực thể kinh doanh hoạt động theo luật pháp nước sở tại chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước sở tại. quyền lợi và nghĩa vụ của các bên hợp doanh được ghi trong hợp đồng hợp tác kinh doanh..
1.1.2.3.Hình thức doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cũng là hình thức doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhưng ít phổ biến hơn hình thức liên doanh trong hoạt động đầu tư quốc tế.
Khái niệm doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là một thực thể kinh doanh có tư cách pháp nhân và được thành lập dựa trên các mục đích của chủ đầu tư cùng nước sở tại.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động theo sự điều hành quản lý của chủ đầu tư nước ngoài nhưng vẫn phải tuỳ thuộc vào các điều kiện về môi trường kinh doanh của nước sở tại, đó là các điều kiện về chính trị, kinh tế,pháp luật,văn hóa mức độ cạnh tranh.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có tư cách pháp nhân là 1 thực thể pháp lý độc lập,hoạt động theo luật pháp nước sở tại. Thành lập dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần.
Đối với nước tiếp nhận:
- Ưu điểm: nhà nước thu được ngay tiền thuê đất, tiền thuế mặc dù DN bị lỗ; giải quyết được công ăn việc làm mà không cần bỏ vốn đầu tư; tập trung thu hút vốn, công nghệ của nước ngoài vào những lĩnh vực khuyến khích xuất khẩu và tiếp cận được thị trường nước ngoài.
- Nhược điểm: khó tiếp thu kinh nghiệm quản lý cũng như công nghệ nước ngoài để nâng cao trình độ cán bộ quản lý, cán bộ kĩ thuật ở các doanh nghiệp trong nước.
Đối với nhà đầu tư:
- Ưu điểm: chủ động trong quản lý điều hành doanh nghiệp.Thực hiện được chiến lược toàn cầu của tập đoàn, triển khai nhanh dự án đầu tư, được quyền chủ động tuyển chọn và đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển chung của tập đoàn
- Nhược điểm: chủ đầu tư phải chịu toàn bộ rủi ro trong đầu tư.Phải chi phí nhiều hơn cho nghiên cứu tiếp cận thị trường mới, không xâm nhập được vào những lĩnh vực có nhiều lợi nhuận thị trường trong nước lớn, khó quan hệ với các cơ quan quản lý Nhà nước nước sở tại.
1.2.Vai trò của FDI.
1.2.1.Vai trò của FDI đối với sự phát triển kinh tế xã hội.
Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nước tiếp nhận đầu tư.Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Trước tiên, FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng vào tổng đầu tư xã hội,góp phần cải thiện cán cân thanh toán trong giai đoạn vừa qua. Các nghiên cứu gần đây của Freeman (2000), Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2003), Nguyễn Mại (2004) đều rút ra nhận định chung rằng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp quan trọng vào GDP với tỷ trọng ngày càng tăng. Khu vực này góp phần tăng cường năng lực sản xuất và đổi mới công nghệ của nhiều ngành kinh tế, khai thông thị trường sản phẩm (đặc biệt là trong gia tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá), đóng góp cho ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho một bộ phận lao động. Bên cạnh đó, FDI có vai trò trong chuyển giao công nghệ và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,tạo sức ép buộc các doanh nghiệp trong nước phải tự đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất. Các dự án FDI có tác động tích cực tới việc nâng cao năng lực quản lý và trình độ của người lao động làm việc trong các dự án FDI, tạo ra kênh truyền tác động tràn tích cực hữu hiệu,nâng cao chất lượng nguời lao động.
1.2.1.1.Về mặt kinh tế
FDI thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bổ sung nguồn vốn cho phát triển kinh tế - xã hội. Đầu tư là yếu tố vô cùng quan trọng, tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Vốn đầu tư cho phát triển kinh tế được huy động từ hai nguồn chủ yếu là vốn trong nước và vốn ngoài nước. Vốn trong nước được hình thành thông qua tiết kiệm và đầu tư. Vốn nước ngoài được hình thành thông qua vay thương mại, đầu tư gián tiếp và hoạt động FDI. Với các nước nghèo và đang phát triển, vốn là một yếu tố đặc biệt quan trọng đối với phát triển kinh tế. Những quốc gia này,luôn lâm vào tình trạng thiếu vốn đầu tư.Hoạt động sản xuất và đầu tư ở những nước này như là một “vòng đói nghèo luẩn quẩn” (theo Paul A. Samuelson). Để phá vỡ vòng luẩn quẩn ấy, các nước nghèo và đang phát triển phải tạo ra “một cú huých lớn”, mà biện pháp hữu hiệu là tăng vốn cho đầu tư, huy động các nguồn lực để phát triển nền kinh tế nhằm tạo ra tăng trưởng kinh tế dẫn đến thu nhập tăng,đời sống của người dân cũng được nâng cao đáng kể.
Phần lớn,vốn FDI đầu tư cho lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ.Trong đó,có những ngành chủ chốt như xây dựng cơ sở hạ tầng, khai thác chế biến dầu khí, hóa chất và sản xuất thiết bị và hàng tiêu dùng. FDI góp phần làm tăng tỉ trọng của những ngành này trong nền kinh tế,đồng thời tạo điều kiện để hiện đại hóa nền sản xuất nông nghiệp và phát triển nông nghiệp nông thôn. Khu vực có vốn FDI còn giúp hình thành các ngành công nghiệp và dịch vụ hiện đại như điện tử, tin học, viễn thông, lắp ráp ô tô và xe máy, giúp chuyển giao công nghệ và kĩ năng quản lý tiên tiến,nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. FDI có tác động mạnh đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước tiếp nhận theo nhiều phương diện: chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu theo nguồn vốn và cơ cấu vốn đầu tư.
1.2.1.2.Về mặt xã hội.
Thông qua hoạt động đầu tư,các doanh nghiệp FDI góp phần giải quyết việc làm,tăng thu nhập cho người lao động. Các doanh nghiệp FDI trực tiếp tạo việc làm thông qua việc tuyển dụng lao động ở nước sở tại. Song song đó, doanh nghiệp FDI còn gián tiếp tạo việc làm thông qua việc tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành,phát triển của các doanh nghiệp vệ tinh cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho khu vực kinh tế này.
Sự tác động của FDI trong việc giải quyết việc làm phụ thuộc trực tiếp vào các nhân tố như: quy mô đầu tư, lĩnh vực sản xuất, trình độ công nghệ, chính sách công nghiệp và chính sách thương mại của nước tiếp nhận đầu tư. Mặt khác, tác động của FDI đến thị trường lao động cũng phụ thuộc vào cơ cấu nền kinh tế, định hướng phát triển cũng như chất lượng lao động và chính sách lao động của nước tiếp nhận đầu tư.
Ngoài tác động tạo việc làm cho người lao động FDI còn đóng góp rất tích cực vào việc nâng cao chất lượng lao động và phát triển nhân lực ở nước tiếp nhận đầu tư. FDI làm thay đổi cơ bản năng lực, kỹ năng lao động,quản trị doanh nghiệp thông qua hoạt động đào tạo và quá trình làm việc của lao động. Làm việc trong các doanh nghiệp FDI,đòi hỏi người lao động phải có kiến thức và khả năng đáp ứng yêu cầu cao về cường độ và hiệu quả công việc.
Ngoài ra, các doanh nghiệp FDI luôn đòi hỏi người lao động phải nỗ lực không ngừng để hoàn thiện mình thông qua những yêu cầu ngày càng cao đối với công việc, cơ hội phát triển, cơ hội thăng tiến…. Vì vậy, trong các doanh nghiệp FDI trình độ học vấn và trình độ nghiệp vụ của người lao động tương đối cao so với mặt bằng chung.
Những yêu cầu trên,đòi hỏi người lao động phải không ngừng phát triển bản thân cả về thể lực và trí lực. Bên cạnh đó, để người lao động đáp ứng được các yêu cầu của công việc,các doanh nghiệp FDI thường tiến hành tuyển chọn, đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ khá chặt chẽ, nhất là các ngành nghề đòi hỏi chất lượng lao động cao. Nhờ đó, FDI vừa gián tiếp khuyến khích người lao động tăng đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực vừa trực tiếp đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực.
Thêm nữa, do chi phí thuê lao động nước ngoài cao hơn lao động địa phương, các doanh nghiệp trong khu vực FDI phải tuyển dụng lao động địa phương. Để người lao động có thể sử dụng thành thạo máy móc thiết bị và công nghệ hiện đại các doanh nghiệp FDI phải có kế hoạch đào tạo. Thế nên, trong chiến lược phát triển của các tập đoàn lớn hay các công ty đa quốc gia luôn có kế hoạch đào tạo lao động địa phương để từng bước thay thế lao động người nước ngoài.
1.2.2.Vai trò của FDI đối với sự phát triển của lĩnh vực điện.
Để đàm bảo nhu cầu điện trong giai đoạn 2006-2025 vốn đầu tư trong ngành điện là rất lớn,trung bình hằng năm toàn ngành cần khoảng 5 tỷ USD.Hiện nay,vốn đầu tư của EVN vẫn chiếm tỷ trọng lớn,nguồn vốn này EVN huy động từ nhiều nguồn cả trong và ngoài nước.Nguồn vốn tự có của EVN là rất thấp,vốn vay lại hạn chế.Theo cân đối tài chính dài hạn của EVN,giai đoạn 2005-2010,EVN cần huy động 202.559 tỷ đồng vốn cho đầu tư thuần,nhưng khả năng đáp ứng của EVN là 102.518 tỷ đồng từ nguồn vốn tự có,vốn ngân sách,vốn vay thương mại trong và ngoài nước.Vì vậy việc huy động các thành phần bên ngoài,đặc biệt là vốn FDI đã góp phần tăng nguồn vốn đầu tư đáng kể cho ngành điện.Tuy dòng vốn FDI chỉ mới đầu tư vào 4 dự án lớn nhưng 4 dự án này có vốn đầu tư rất lớn từ 480 triệu USD đến 1,6 tỷ USD,góp phần đáng kể vào tăng nguồn vốn cho hệ thống.Trong tương lai,nguồn vốn FDI vào ngành điện sẽ ngày càng tăng và đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển ngành điện.
Ngoài việc bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển ngành điện,các dự án FDI còn góp phần tạo công ăn việc làm,mang lại thu nhập ổn định cho người lao động và góp phần đổi mới,cải tiến công nghệ,kỹ thuật.
1.3.Những nhân tố ảnh hưởng tới thu hút FDI
1.3.1.Hệ thống pháp luật,chính sách.
Mục tiêu của Nhà nước,là muốn tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi nhất để có thể thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài.Nhà đầu tư sẽ muốn đầu tư vào những nước có một môi trường đầu tư thông thoáng,hệ thống pháp luật chặt chẽ,thủ tục đơn giản.Một hệ thống pháp luật không ổn định,thủ tục rườm rà sẽ khiến nhà đầu tư e ngại khi quyết định đầu tư.
1.3.2.Cơ sở hạ tầng.
Đây cũng là một nhân tố quan trọng trong việc thu hút các nhà đầu tư,bởi khi đầu tư vào nước mà có cơ sở hạ tầng đảm bảo thì sẽ giúp họ giảm bớt kinh phí xây dựng cơ sở hạ tầng ban đầu.Vì vậy,Chính phủ cần hết sức chú ý đầu tư cho những dự án xây dựng cơ bản để tạo tiền đề thu hút nhà đầu tư.
1.3.3.Chính trị xã hội.
Sự ổn định về chính trị sẽ giúp nhà đầu tư yên tâm hơn về quyết định đầu tư của mình.Chính vì vậy,mà một nước có nền chính trị ổn định thường có khả năng thu hút đầu tư cao hơn những nước bất ổn về chính trị.
1.3.4.Nguồn lao động.
Nguồn lao động và chất lượng nguồn lao động là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới việc thu hút FDI vào nước đó.
Một nước có nguồn lao động dồi dào,giá nhân công rẻ và chất lượng đáp ứng được nhu cầu của các nhà đầu tư thì nước đó sẽ có một lợi thế rất lớn và khả năng thu hút đầu tư nước ngoài là cao hơn các nước khác.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG THU HÚT FDI VÀO NGÀNH ĐIỆN HIỆN NAY
2.1.Giới thiệu tổng quan về ngành điện Việt Nam và sự cần thiết thu hút FDI vào ngành điện hiện nay.
2.1.1.Chức năng,nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của EVN .
Ngành điện hiện nay,được tổ chức quản lý theo ngành dọc,cả ba khâu phát điện-truyền tải-phân phối va kinh doanh điện đều do một doanh nghiệp nhà nước quản lý,đó là tập đoàn điện lực Việt Nam(EVN).Ngoài EVN còn có Bộ Công thương,Cục Điều tiết điện lực ERAV,Vụ năng lượng và dầu khí là các đơn vị cùng tham gia quản lý ngành điện.Tuy vậy,vai trò của FDI là rất lớn do tập đoàn này sở hữu phần lớn tài sản trong khâu phát điện và hoàn toàn độc quyền trong hai khâu còn lại.
Tập đoàn Điện lực Việt Nam(EVN),được thành lập năm 2006 trên cơ sở tổ chức lại Tổng công ty Điện lực Việt Nam.EVN hiện nay,hoạt động như một tập đoàn doanh nghiệp được định nghĩa trong Luật Doanh nghiệp năm 2005 và chịu sự điều chỉnh của các qui định trong luật này liên quan tới mối quan hệ giữa công ty mẹ và các công ty con.Trong đó,có các yêu cầu rằng:(a) các hợp đồng,giao dịch và các mối quan hệ khác giữa công ty mẹ và các công ty con phải được thực hiện một cách độc lập và (b) cần có những báo cáo kế toán riêng và báo cáo kế toán tổng hợp.
Công ty mẹ bao gồm: ba nhà máy thủy điện lớn,trung tâm chuyển tải điện quốc gia,các ban quản lý dự án điện,trung tâm thông tin ngành điện.Công ty mẹ nắm giữ 100% cổ phần của một số công ty con,trong đó có một vài nhà máy điện,các công ty phân phối điện lớn nhất,công ty chuyển tải điện hợp nhất và công ty EVN Telecom.EVN nắm giữ ít nhất 50% cổ phần trong các công ty con khác.Tập đoàn này cũng kiểm soát một số đơn vị chuyên môn, như Viện năng lượng và các cơ sở đào tạo.
Với vị thế hiên nay,EVN là một công ty điện hoàn toàn hợp nhất với quyền kiểm soát toàn bộ khâu phát điện,chuyển tải phân phối,bán lẻ điện.Tập đoàn này cũng hợp nhất với cả những đơn vị bán điều tiết như Viện năng lượng và sở hữu một số tài sản trong cơ khí điện,tư vấn và đào tạo.EVN cũng sỡ hữu cả EVN Telecom,là một đơn vị nắm quyền cấp phép dịch vụ viễn thông và Ngân hàng An Bình.
Cho đến năm 2005, EVN đã có tổng tài sản lên tới 7.2 tỉ đô la.Tổng doanh thu tăng 18% năm 2005 đến 2.4 tỉ đô la,tương đương tổng mức lợi nhuận trước thuế là 200 triệu đô la.Tập đoàn này có khoảng 80000 nhân viên và sản xuất 41 tỉ kwh năm 2005 trong tổng số điện năng của cả nước là 52 tỉ kwh.
2.1.2.Chu trình từ phát điện đến cung cấp điện cho người sử dụng
2.1.2.1.Phát điện.
Tổng công suất phát điện hiện tại của Việt Nam là 12000MW.Tổng công suất này được phân chia giữa các đơn vị phát điện như sau: 7300 MW của EVN,1800 MW của các đơn vị đã cổ phần hoá của EVN,2600MW bằng các dự án BOT và 210MW của các nhà cung cấp điện độc lập.Ở miền Bắc,các nhà máy phát điện gồm có cả thủy điện và nhiệt điện chạy bằng than,ở miền Trung chủ yếu là thủy điện và ở miền Nam chủ yếu là thủy điện chạy bằng khí.Thủy điện là nguồn phát điện chủ yếu và Việt Nam lại chịu nhiều rủi ro về thủy năng.Thời gian gần đây,lượng mưa ít ở các khu vực đầu nguồn làm hạn chế sản lượng của các nhà máy thủy điện,dẫn đến việc không đáp ứng được hết nhu cầu điện của cả nước.
Tính đến hết năm 2006,Việt Nam có 17 dự án cung cấp điện độc lập với tổng công suất 210MW.Ngoài phát điện bằng thủy điện,hiện không có nguồn điện tái sinh đáng kể nào khác tại Việt Nam.Tuy nhiên một chương trình phát triển năng lượng tái sinh đang được xây dựng,nhấn mạnh vào các nguồn cung ngoài lưới cho các vùng sâu vùng xa.Cùng với đó,Việt Nam cũng có đầu nối với miền Nam Trung Quốc và hiện đang nhập khẩu khoảng 500MW.
2.1.2.2.Chuyền tải điện.
Khối truyền tải điện trước đây gồm có 4 công ty truyền tải điện 1,2,3,4 nay hợp thành Tổng công ty Truyền tải điện quốc gia trực thuộc EVN.Xương sống của hệ thống chuyển tải điện là đường dây 500KV,nối các nguồn phát điện chính và các trung tâm.Năm 2005,có hơn 3000km đường dây 500KV với các trạm I I 500KV.Tuy nhiên, khả năng tận dụng tối đa các nguồn phát điện giữa các vùng khác nhau của cả nước bị hạn chế do công suất của đường dây.Một đường dây 500KV thứ hai,song song với đường dây hiện nay vừa mới được xây dựng để giải quyết những hạn chế trên và cho phép sử dụng tối ưu các nguồn điện.
Bên cạnh đường dây 500KV,có hơn 5000km đường dây 220KV và gần 1100km đường dây 110KV năm 2005.Trung tâm Chuyển tải điện quốc gia chịu trách nhiệm vận hành toàn bộ hệ thống chuyển tải điện từ 100KV đến 500KV.
2.1.2.3.Phân phối và bán lẻ điện.
Mạng lưới phân phối điện chính được bố trí xung quanh 9 công ty phân phối điện của các vùng,tất cả đều thuộc sỡ hữu của EVN.Tại vùng nông thôn,một số cộng đồng địa phương sở hữu và vận hành những mạng lưới hạ thế.Các khách hàng công nghiệp lớn ở khu kinh tế cũng có khả năng nhận cung ứng điện trực tiếp từ một nhà máy IPP hay BOT.Giá bán điện,đối với những trường hợp như vậy được giới hạn trong phạm vi mức 25% so với mức bán điện của EVN.
Giá bán điện đã tăng thêm 8.8% vào năm 2006 lên mức trung bình là 852 đồng/kWh và hiện nay là 1.058 đồng/kWh.Dự tính,giá điên sẽ còn tăng.Nhưng xét về giá trị thực thì giá lại giảm xuống,và giá bán điện của Việt Nam là tương đương hoặc thấp hơn so với các nước láng giềng.
2.1.3.Thu hút FDI trong khâu phát điện.
Lĩnh vực có nhiều tiềm năng thu hút FDI và thu được lợi ích từ FDI nhất là khâu phát điện.Ngoài ra,chính sách của Chính phủ là khuyến khích đầu tư trong khâu phát điện trước tiên để tạo được thị trường phát điện cạnh tranh.Khâu truyền tải vẫn tiếp tục được Nhà nước độc quyền và có ít khả năng nhà ĐTNN quan tâm đến khâu phân phối bán lẻ điện.Mạng lưới phân phối mang tính độc quyền,do Nhà nước xây dựng,sử dụng,bảo hành,sửa chữa và không có lý do kinh tế nào nhà ĐTNN xây dựng một mạng lưới thứ hai.Thêm nữa phân phối bán lẻ điện bị khống chế giá bán đầu ra nên mức lợi nhuận sẽ bị điều tiết chặt chẽ.Vì vậy,trong bài này em chủ yếu phân tích thu hút FDI trong khâu phát điện.
2.1.4. Sự cần thiết thu hút FDI vào ngành điện hiện nay.
Việt Nam đã rất thành công trong việc thu hút FDI trong khu vực sản xuất,nhất là trong lĩnh vực sản xuất giành cho xuất khẩu.Tuy nhiên,trong khu vực đầu tư vào cơ sở hạ tầng cần nhiều vốn lớn nước ta chủ yếu sử dụng vốn ngân sách hoặc vay vốn ODA. Để thu hút nhiều hơn nữa khu vực tư nhân tham gia vào đầu tư cơ sở hạ tầng,Chính phủ,cần phải xây dựng môi trường đầu tư trong lĩnh vực này thông thoáng,minh bạch,phải có các điều kiện về đảm bảo rủi ro,bảo hiểm cho các nhà đầu tư,vv…trong thời gian tới đầu tư trong khu vực cơ sở hạ tầng như hệ thống giao thông vận tải,thông tin liên lạc,điện lực rất cần thu hút đầu tư từ khu vực tư nhân,đặc biệt từ khu vực FDI.Để thấy sự cần thiết phải thu hút FDI trong ngành điện hiện nay ta xem xét trên bốn góc độ sau.
a.Theo lộ trình cải tổ ngành điện của Chính phủ.
Mô hình tổ chức hiện tại của ngành điện,là liên kết dọc,cả 3 khâu phát điện-truyền tải-phân phối kinh doanh điện đều do EVN quản lý,hạch toán kinh doanh chưa tách bạch rõ ràng,chi phí ở từng khâu trong dây chuyền phát điện-truyền tải-phân phối không được hạch toán riêng rẽ,nên khó đánh giá hiệu quả của từng khâu. Mô hình độc quyền này,chưa tạo ra cơ chế khuyến khích các đơn vị trong ngành tiết kiệm chi phí,nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh nhằm giảm giá thành tạo cạnh tranh.Do đó,cần thiết phải có một kế hoạch tổng thể nhằm tái cơ cấu ngành điện để chống độc quyền,thúc đẩy cạnh tranh,thu hút tư nhân tham gia đầu tư vào ngành.
Để đáp ứng tốc độ tăng trưởng cao nhu cầu điện,nhu cầu vốn đầu tư cho ngành điện là rất lớn đặc biệt trong khâu phát điện,khả năng đáp ứng vốn từ Chính phủ khó đảm bảo,nguồn vốn vay là bị giới hạn.Cho nên,cần có một cơ chế thu hút đầu tư bên ngoài vào ngành mà trước mắt trong khâu phát điện,quá trình cải tổ ngành điện đã được Chính phủ xem xét qua các giai đoạn như sau:
- Năm 1995: Chính phủ đưa ra mục tiêu cải tổ ngành điện và được cập nhật năm 1997.
- Năm 1995: Thành lập Tổng công ty Điện lực Việt Nam EVN, đã tách chức năng quản lý nhà nước ra khỏi chức năng quản lý sản xuất kinh doanh.
- Năm 2003: Bắt đầu tiến hành cổ phần hóa các công ty trong EVN.
- Năm 2004: Chính phủ thông qua Luật điện lực trong đó có lộ trình phát triển thị trường điện cạnh tranh.
- Năm 2005: Thành lập Cục điều tiết điện lực trực thuộc Bộ Công thương.
Việc cải tổ ngành điện được dựa trên và điều tiết bởi Luật Điện lực năm 2004,bắt đầu có hiệu lực vào ngày 1/7/2005 và đây là luật điện lực đầu tiên tại Việt Nam. Luật điện lực cũng qui định rằng,thị trường điện sẽ được thành lập bằng cách cho phép cạnh tranh ở ba phân khúc của thị trường lần lượt theo ba giai đoạn:phát điện, bán buôn điện,bán lẻ điện.
Giai đoạn 1: Thị trường phát điện cạnh tranh
Bước 1: Thị trường phát điện cạnh tranh thử nghiệm dự kiến từ năm 2009-2010.
Bước 2: Thị trường phát điện cạnh tranh hoàn chỉnh dự kiến từ năm 2010-2015.
Cạnh tranh trong phát điện,sẽ dần được đưa vào giai đoạn 1 của quá trình chuyển đổi.
Một trong những yếu tố cơ bản nhất,trong việc áp dụng cơ chế cạnh tranh có hiệu quả trong lĩnh vực phát điện là việc nhanh chóng thành lập một “đơn vị mua duy nhất”.Theo cơ chế hiện nay,các nhà cung cấp điện độc lập bán điện cho EVN,là công ty hợp nhất theo chiều dọc.Năm 2009,tất cả các công ty phát điện đều đã bán điện cho một đơn vị mua duy nhất là EVN,đơn vị này sau đó sẽ cung cấp điện cho các công ty phân phối và người dân sử dụng cuối cùng.
Giai đoạn 2: Thị trường bán buôn cạnh tranh
Bước 1: Thị trường bán buôn điện cạnh tranh thử nghiệm dự kiến từ 2016-2020
Bước 2: Thị trường bán buôn điện cạnh tranh hoàn chỉnh dự kiến từ 2021-2025.
Chức năng đơn vị duy nhất sẽ dần được bãi bỏ,EVN trở thành một đơn vị mua buôn bình thường.Việc bán điện sẽ được thực hiện trong một khuôn khổ cạnh tranh,trong đó,những đơn vị mua buôn được tự do mua điện trực tiếp từ các công ty điện.Việc mua bán điện, sẽ được thực hiện theo những hợp đồng mua bán điện dài hạn đã được đàm phán hoặc thực hiện trên thị trường giao ngay.Các đơn vị mua buôn sẽ gồm có các công ty phân phối điện,các đơn vị sử dụng điện với số lượng lớn,hay những đơn vị chuyên mua buôn.Giai đoạn 2 dự tính sẽ có một thời gian thí điểm khoảng 3 năm.
Giai đoạn 3: Thị trường bán lẻ điện cạnh tranh.
Bước 1: Thị trường bán lẻ điện cạnh tranh thử nghiệm dự kiến từ 2021-2025.
Bước 2: Thị trường bán lẻ điện cạnh tranh hoàn chỉnh sau 2025.
Giai đoạn 3,được kì vọng là sẽ dẫn đến một thị trường điện cạnh tranh hoàn toàn,kể cả ở khâu bán lẻ.Đến thời điểm đó,các khách hàng mua lẻ có thể tiếp cận và lựa chọn các nhà cung cấp là những đơn vị độc lập với các công ty phân phối.Một giai đoạn thí điểm kéo dài 3 năm sẽ được bắt đầu từ 2022 và kết thúc vào năm 2025,tại thời điểm đó quá trình chuyển đổi được coi như đã hoàn tất.
Theo lộ trình cải tổ ngành điện, bắt đầu từ năm 2009 trở đi Chính phủ rất muốn thu hút các nhà đầu tư bên ngoài tham gia vào khâu phát điện để hình thành thị trường phát điện cạnh tranh,đặc biệt nhất là các doanh nghiệp FDI có đủ vốn và công nghệ đầu tư vào khâu phát điện.
Như vậy,nước ta sẽ mất khoảng 30 năm cho quá trình cải tổ ngành điện,đến sau năm 2025 thị trường điện sẽ là thị trường hoàn hảo,cạnh tranh hoàn toàn.So với các nước đã cải tổ,thì đây là khoảng thời gian ngắn hơn,tuy nhiên hiện nay rất nhiều ý kiến các chuyên gia cho rằng ta nên đẩy nhanh quá trình cải tổ hơn nữa vì ngành điện không đáp ứng nhu cầu phụ tải tăng lên rất cao,và môi trường đầu tư chưa thu hút các nhà đầu tư nước ngoài cho dù ngành điện được đánh giá là ngành hấp dẫn đầu tư,nhưng tất cả các ý kiến cho rằng đẩy nhanh quá trình cải tổ hơn nữa đều bị EVN bác bỏ vì EVN cho rằng thị trường điện là một thị trường vô cùng phức tạp,nếu cải tổ nhanh sẽ không đảm bảo an ninh năng lượng điện quốc gia.
b.Đứng trên góc độ cung cầu điện
Lượng điện bán ra trong những năm gần đây,đã tăng lên nhanh chóng,trung bình với tốc độ gần đạt 14.5%/năm trong giai đoạn từ 1997 đến 2006,với mức tăng thấp nhất là 10% (hình 2.1.).Đây là tốc độ tăng trưởng liên tục rất cao,và đã đạt được mặc dù hạn chế về nguồn cung cấp trong một số năm.
Hình 2.1 Lượng tăng điện bán ra của EVN qua các năm (%)
Nguồn : Báo cáo thường niên của EVN 2005-2006 và website của EVN
Tuy nhiên,nhu cầu phụ tải hàng năm lại tăng khoảng 17%,như vậy,có sự chênh lệch giữa nguồn cung và cầu,cụ thể là sự thiếu hụt nguồn cung điện.Hình 2.2 cho thấy một sự thiếu hụt về công suất hàng năm cho giai đoạn 2007-2010.Trong ngắn hạn,một phần sự thiếu hụt này có thể và sẽ được bù đắp bằng việc mua điện từ các nước láng giềng trong khu vực,nhất là Trung Quốc.Tuy nhiên,trong dài hạn sự thiếu hụt chỉ có thể giải quyết bằng cách thu hút thêm nhiều nhà đầu tư bên ngoài EVN vào các dự án nguồn điện của nước
Hình 2.2 Tăng công suất và dự kiến thiếu hụt phát điện năm 2007-2010
Nguồn : Báo cáo thương niên EVN 2005-2006 và dự báo của UNCTAD
Theo như thông báo của Tập đoàn Điện lực Việt Nam EVN,hiện nay nhu cầu sử dụng điện trên toàn hệ thống là 197 triệu Kwh/ngày với công suất 11.200 MW,nhưng công suất khả dụng cao nhất chỉ đạt 9.800MW.
EVN cho biết sản lượng điện thiếu hụt năm 2007 là 6,6 tỷ Kwh,năm 2008 là 8,6 tỷ Kwh,năm 2009 là 10,3 tỷ Kwh.
c.Đứng trên góc độ nhu cầu vốn đầu tư
Theo tổng sơ đồ 6,để đảm bảo nhu cầu điệ._.n trong giai đoạn 2006-2025 vốn đầu tư trong ngành điện là rất lớn,trung bình hằng năm toàn ngành cần đến khoảng 5 tỷ USD trong đó,có khoảng 70% tức là 3,3 tỷ USD đầu tư cho nguồn điện.EVN là người chịu trách nhiệm chính đầu tư các công trình nguồn điện.Hiện nay, EVN đầu tư vào nguồn điện chiếm 60% công suất,nguồn vốn này EVN phải huy động từ rất nhiều nguồn trong và ngoài nước.Nguồn vốn tự có của EVN là rất thấp còn nguồn vay thì hạn chế,nên việc huy động các thành phần bên ngoài là rất cần thiết đặc biệt từ khu vực FDI có công nghệ và nguồn vốn hấp dẫn.
Theo quyết định số 110/2007QĐ-TTg của thủ tướng Chính phủ Việt Nam,giai đoạn 2006-2015,EVN phải chịu trách nhiệm đầu tư 48 nhà máy với công suất 33.245MW.Riêng giai đoạn 2011-2015,EVN đầu tư 25 công trình với tổng công suất 27.545MW.Tổng nhu cầu đầu tư của EVN giai đoạn 2008-2015 cần khoảng gần 780.000 tỷ đồng để đầu tư các dự án điện lực.
Để có được nguồn vốn như vậy,EVN đề nghị Chính phủ nhiều giải pháp huy động vốn như là: ưu tiên bố trí vốn ODA,tín dụng ưu đãi,yêu cầu các ngân hàng thương mại cho vay vượt qua 15% vốn tự có,cho phép thực hiện cổ phần hóa với tất cả các công ty điện lực,bán 49% vốn huy động tối đa từ xã hội và có thể bán 49% cổ phần với một số nhà náy điện có công suất không lớn,không có vai trò quan trọng trong hệ thống.Ngoài ra,EVN còn kiến nghị Chính phủ ban hành cơ chế gía điện tự điều chỉnh theo các nhân tố đầu vào,theo thị trường điện,biểu giá bán lẻ điện khác nhau trên các địa bàn khác nhau.
Trong số 5 hình thức huy động đầu tư,bao gồm phát hành trái phiếu doanh nghiệp,vay nợ,cổ phần hóa doanh nghiệp trực thuộc và triển khai các dự án điện độc lập thì phương án cuối cùng,khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển điện và phát triển thị trường điện được chú ý nhiều nhất.Theo ước tính của EVN, từ 14% tổng sản lượng cung ứng cho lưới điện toàn quốc năm 2006,các nhà cung cấp điện đã tăng lên 33% trong năm 2010.Bản thân các nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng đang yêu cầu được tham gia đầu tư nhiều hơn vào ngành điện.
d.Đứng trên góc độ cơ cấu nguồn phát điện
Cơ cấu nguồn phát điện hiện nay được minh họa trên hình 2.3.
Hình 2.3.Các nguồn phát điện ở Việt Nam (% trong tổng số)
Nguồn : Báo cáo thường niên EVN 2005-2006,có tính đến các nhà máy mới sẽ được xây dựng.
Nguồn thủy điện chiếm tỷ trọng lớn nhất 39% trong tổng công suất phát điện,tuy nhiên các,công trình thủy điện không chỉ làm nhiệm vụ phát điện mà là các công trình đa mục tiêu.Trong đó,có nhiệm vụ tưới tiêu,điều tiết lũ trong ngành nông nghiệp,hơn nữ, thủy điện lại phụ thuộc rất lớn vào tình hình thời tiết.Trong những năm khô hạn,khả năng phát điện bị hạn chế,tuy nhiên đây là hình thức phát điện sạch nhất trong cơ cấu phát điện hiện nay và tính về lâu dài khi khấu hao đã được bù đắp thì chi phí sản xuất điện là rẻ nhất trong các nguồn phát điện đã có hiện nay.Vì vậy,từ nay cho đến hết năm 2015 dự khiến Việt Nam sẽ xây dựng hầu hết các công trình thủy điện có thể xây được,EVN sẽ chỉ xây dựng và độc quyền trong các công trình thủy điện lớn và điện hạt nhân,còn các hình thức phát điện khác khuyến khích đầu tư bên ngoài.
Trong điều kiện thiếu điện như hiện nay,hầu như,chỉ có những nhà đầu tư ngoài nước mới đủ tiềm lực về vốn và công nghệ để phát triển các nhà máy chạy than,khí với quy mô lớn.Đối với các nhà đầu tư tư nhân trong nước,do không đủ vốn,công nghệ cũng như năng lực để đầu tư các nhà máy quy mô lớn.Vì thế,các doanh nghiệp này,chọn các công trình vừa tầm hoặc nhỏ,hầu như là thủy điện nhỏ và vừa.
2.2. Thực trạng thu hút FDI vào ngành điện thời gian qua
2.2.1 Một số kết quả thu hút FDI vào ngành điện thời gian qua
2.2.1.1 Xét theo vốn đầu tư
Vốn đầu tư các công trình thủy điện,và nhiệt điện được xác định từ khối lượng vốn từ các dự án đầu tư mới nhất và được điều chỉnh về mặt bằng giá hiện tại,còn các công trình chưa có dự án chi tiết thì,vốn đầu tư được xác định từ suất vốn đầu tư tùy thuộc vào quy mô công suất từng dự án nhà máy điện.Tổng vốn đầu tư của các dự án nguồn điện được tính toán từ vốn đầu tư chi tiết từng loại nguồn điện theo công suất tổ máy,nhà máy và tiến độ xây dựng rải vốn từng năm phù hợp với thời gian vào vận hành.Để đảm bảo đủ điện cung cấp cho nền kinh tế Chính phủ chủ trương xây dựng các chính sách nhằm thu hút các thành phần khác tham gia xây dựng nguồn điện.Tuy nhiên,EVN sẽ vẫn tiếp tục là nhà đầu tư chủ yếu.Vốn đầu tư trong các công trình thủy điện nhỏ thường trong khoảng trên dưới 1 triệu USD,so với tiềm năng của nhà ĐTNN thì đây là con số bé,nhưng các công trình thủy điện nhỏ này,đều do các nhà đầu tư trong nước làm chủ nên số vốn này tương đối lớn.Tuy vậy,tổng vốn FDI so với tổng vốn đầu tư trong ngành thì rất nhỏ do không có nhiều dự án FDI triển khai thêm từ năm 2005 trở lại đây.
Theo tính toán trong sơ đồ 6,tổng vốn đầu tư thuần nguồn điện giai đoạn 2006-2010 là 269.940 tỷ đồng,giai đoạn 2011-2015 là 244.390 tỷ đồng,giai đoạn 2016-2020 là 305.331 tỷ đồng và giai đoạn 2021-2025 sẽ là 206.685 tỷ đồng,tính giai đoạn 2006-2025 tổng vốn đầu tư thuần nguồn điện là 1.026.347 tỷ đồng tương ứng 64,96 tỷ USD,tính hằng năm cần đầu tư cho nguồn điện là 3,25 tỷ USD,nếu tính cả lãi trong thời gian xây dựng thì mỗi năm cần 3,62 tỷ USD.Trong tổng vốn đầu tư kể trên,đã tính cả các dự án của EVN,của EVN góp vốn liên doanh,các dự án IPP,BOT trong nước và nước ngoài.Số liệu tính trong năm 2005 vốn đầu tư của EVN bao gồm cả các công trình EVN góp vốn liên doanh chiếm 66,7% ,còn khoảng 33,7% tính cho đơn vị bên ngoài EVN trong đó,chủ yếu là các nhà đầu tư trong nước,vốn FDI chiếm tỷ trọng nhỏ chưa đến 10%.
Hình 2.4 Cơ cấu vốn đầu tư nguồn điện năm 2005
Bảng 2.1 Tỷ trọng VĐT của EVN và bên ngoài cho nguồn điện
2006-2020
Đơn vị: Phần trăm %
2005
2006-2010
2011-2015
2016-2020
Đầu tư của EVN
66,7
52
78
83
Đầu tư ngoài EVN
33,3
48
22
17
Nguồn: Tổng sơ đồ điện 6
Giai đoạn 2016-2020,vốn đầu tư của EVN sẽ tăng lên chiếm 83% là do giai đoạn này theo quy hoạch Việt Nam sẽ xây dựng nhà máy điện hạt nhân với tính toán sẽ cần khoảng vốn rất lớn do nhà nước độc quyền giao cho EVN chịu trách nhiệm xây dựng.Giải thích cho điều này,là vì tổng sơ đồ 6 do viện năng lượng một đơn vị thuộc EVN xây dựng,các công trình nguồn điện dự tính xây dựng từ nay cho đến năm 2020 chủ yếu do đơn vị của EVN hoặc EVN góp vốn liên doanh được chỉ định xây dựng từ trước,sau đó,mới tính đến các dự án cho các đơn vị trong nước như PVN,TKV hoặc tổng công ty sông Đà,cuối cùng sẽ là các dự án đấu thầu dạng BOT,BOO.Chính vì điều này,là một trong những nguyên nhân làm chậm tiến độ của hàng loạt các dự án xây dựng nhà máy điện do các đơn vị thuộc EVN doặc EVN góp vốn.Quá nhiều dự án dẫn đến tình trạng quá tải,hoạt động kém hiệu quả,và các đơn vị này thông thường được EVN chỉ định không qua đấu thầu,EVN cũng không có chế tài xử lý nào nếu như dự án chậm tiến độ,một đơn vị làm cùng một lúc hai,ba dự án thủy điện,kết quả là chẳng dự án nào xong.Trong khi đó,nếu tổ chức đấu thầu cạnh tranh các dự án này thì chắc chắn dòng vốn bên ngoài sẽ đổ vào nhiều hơn,đặc biệt là dòng vốn FDI,vì vậy,đây có thể nói lỗi là do EVN quá tin tưởng vào đơn vị mình dẫn đến xảy ra tình trạng chậm tiến độ và thiếu điện như hiện nay.
2.3.1.2 Xét theo công suất nguồn điện
Tính đến năm 2005,công suất các dự án FDI đầu tư trong ngành điện là 2.156MW chiếm 19,1% tổng công suất,các thành phần trong nước bên ngoài EVN chỉ chiếm 2.5% công suất,còn EVN với 11.288 chiến 78,4% công suất toàn hệ thống,đến thời điểm này,tổng công suất đã tăng đáng kể,tỷ trọng công suất các dự án FDI giảm đáng kể do không có dự án nào xây dựng từ đó đến nay trong khi đó các dự án nguồn điện của nhà đầu tư trong nước tăng lên nhanh chóng đặc biệt của 3 nhà đầu tư lớn nhất đó là PVN chiếm 15% tổng công suất,TKV và Tổng công ty sông Đà.
Hình 2.5 Tỷ trọng công suất phát điện năm 2005
Nguồn : Tổng sơ đồ 6
2.2.1.3 Xét theo cơ cấu nguồn phát điện
Cơ cấu nguồn điện,sẽ có sự thay đổi trong tương lai,hiện nay,thủy điện chiếm 40%,nhiệt điện than chiếm 20%,nhiệt điện khí chiếm 40% cùng với các nguồn thủy điện,nhiệt điện khí,than,các nguồn điện sử dụng năg lượng mới và tái tạo (điện sinh học,điện gió,điện mặt trời) và điện hạt nhân sẽ chiếm khoảng 3% năm 2010 tăng lên 4% năm 2020 và 10% năm 2050,điện hạt nhân sẽ chiếm 11% năm 2025 và lên khoảng 25-30% năm 2050.
Bảng 2.2 Cơ cấu nguồn điện dự kiến giai đoạn 2005-2050
Đơn vị: %
Năm
Chỉ tiêu
2005
2010
2020
2050
Thủy điện
39
36
32
12
Nhiệtđiện than
24
27
34
38
Nhiệt điện khí
37
34
30
10
Điện tái tạo
3
4
10
Điện hạt nhân
30
Nguồn tổng sơ đồ điện 6
Tổng sơ đồ 6 cho rằng,sẽ tập trung ưu tiên nguồn điện,từ nay đến năm 2015 sẽ xây dựng hầu hết các nhà máy thủy điện ở những nơi có thể xây dựng được do thủy điện là nguồn điện sạch nhất và rẻ nhất,không gây ô nhiễm môi trường,tuy vậy,thủy điện lại chủ yếu có công suất nhỏ và chủ yếu do các đơn vị trong nước làm chủ đầu tư,hình thức tự chỉ định thầu không qua đấu thầu cạnh tranh là chủ yếu và do các đơn vị của EVN làm chủ đầu tư chiếm phần lớn.Chính vì điều này,mà hiệu quả các dự án bị giảm sút đáng kể và hầu hết là chậm tiến độ.Tuy nhiên, từ năm 2015 trở đi tỷ trọng của nhiệt điện bắt đầu lớn hơn để lấp đầy phần gia tăng nhanh chóng của phụ tải,việc đánh giá cân bằng tối ưu giữa nguồn nhiệt điện than và khí sẽ là vấn đề chủ chốt trong khi lập kế hoạch dài hạn,điều này phần lớn phụ thuộc vào phân tích đánh giá tương đối giữa than, khí và khả năng cung cấp cho tương lai.Trong vài năm tới,tất cả các nhà máy sử dụng than nội địa và khí hiện có,sẽ được triển khai càng nhanh càng tốt để đáp ứng nhu cầu điện đang tăng nhanh.Tuy nhiên,trong dài hạn,vấn đề cân bằng tối ưu trong phát triển nguồn điện cần phải được xem xét cẩn thận,gắn chặt với chính sách xuất khẩu than và khai thác dầu khí của Việt Nam
a.Nguồn nhiệt điện sử dụng than
Đây là nguồn nhiệt điện ra đời sớm nhất và cũng là nguồn điện gây ô nhiễm môi trường lớn nhất.Các nhà máy nhiệt điện chạy bằng than có ưu điểm là sử dụng nguồn nhiên liệu than có sẵn trong nước,vì chính sách hạn chế hoặc cấm nhập khẩu than của Chính phủ,mức độ vận hành phức tạp,sẽ tùy thuộc vào công suất nhà máy.Đặc biệt,các nhà máy nhiệt điện than có công suất rất linh hoạt từ nhỏ nhất là khoảng 5MW đến khoảng 1.500MW như hiện nay và có khả năng đổi sang nhiệt điện chạy dầu hoặc khí hoặc chu trình hỗn hợp.Hiện nay,các nhà máy điện sử dụng than trong nước sẽ vẫn tiếp tục là nguồn chính đáp ứng nhu cầu công suất phủ đáy cho miền Bắc.Than hiện do Tập đoàn Than-Khoáng sản Việt Nam cung cấp,công ty này,quản lý toàn bộ tài sản của nhà nước trong ngành than.Tổng lượng than đã cung cấp cho phát điện trong năm 2004 là 4,3 tỷ tấn,tương đương 22% tổng lượng than thương phẩm,lượng than xuất khẩu là 7,5 triệu tấn và 8,2 tiệu tấn sứ dụng trong nước.Sản lượng than khai thác,có thể tăng đáng kể từ các mỏ than hiện nay.Khả năng tăng sản lượng khai thác sau năm 2010 là không lớn trừ khi có các giải pháp khả thi,để khai thác tại vùng đồng bằng sông Hồng.Chi phí sản xuất than dự kiến sẽ tăng trong tương lai.
Các vấn đề của nhiệt điện than gồm giá than,các vị trí của nhà máy và vấn đề môi trường.
Giá than sẽ được đàm phán giữa TKV và các nhà đầu tư,thông thường hợp đồng mua bán than kéo dài ít nhất 1 năm trở lên,vì các nhà đầu tư an tâm rằng giá than sẽ là tương đối ổn định cho hoạt động sản xuất điện.Giá than sẽ thay đổi phụ thuộc vào 2 yếu tố là chi phí sản xuất than trong nước thay đổi và giá than trên thị trường thế giới biến động,khi đó ,TKV sẽ phải thay đổi giá bán than cho nhà đầu tư.Hiện nay,các dự án FDI trong nhà máy nhiệt điện than đều có qui mô nhỏ phục vụ trực tiếp các KCN-KCX,trừ có một vài dự án BOT sắp được xây dựng có qui mô rất lớn khoảng 1.200MW tại Quảng Ninh và Bình Thuận,các nhà ĐTNN thấy rằng nhiệt điện than ở Việt Nam rất có tiềm năng vì nguyên vật liệu đầu vào có sẵn và cam kết của Chính phủ,vì thế,trong tương lai dòng vốn đầu tư vào nhiệt điện than sẽ nhiều hơn.
Vấn đề vị trí các nhà máy nhiệt điện than phần lớn các nhà máy vẫn đang tiếp tục được xây dựng ở miền Bắc vì Quảng Ninh là nơi sản xuất than lớn nhất cả nước.Tuy nhiên,Chính phủ và ngành điện hiện đang lập kế hoạch phát triển các nhà máy nhiệt điện than ở miền Trung và miền Nam.
Các nhà máy nhiệt điện than có mức ô nhiễm lớn nhất,ảnh hưởng tiêu cực ở qui mô toàn cấu về phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính.Việc xây dựng nhiệt điện than sẽ được tính toán trong dài hạn,tác động đến môi trường sẽ là căn cứ quan trọng xây dựng các dự án.
b.Nguồn nhiệt điện sử dụng khí
Phát triển các nhà máy điện lớn sử dụng khí ngoài khơi,Việt Nam đòi hỏi có sự liên kết của một số cơ quan chức năng và trên cả hai phương diện huy động một lượng lớn vốn ban đầu và các cam kết trong dài hạn.Công ty khí Việt Nam(PVGC),một thành viên của Tổng công ty dầu khí Việt Nam, chịu trách nhiệm về điều hành khí đốt tự nhiên,đây là một công ty trung ương,nắm giữ cổ phần của Chính phủ trong các cơ sở sản xuất,độc quyền nắm giữ quyền bán lẻ khí,mua khí từ ngoài khơi,và bán lẻ cho người tiêu dùng cuối cùng.Về thăm dò và khai thác khí,PVGC liên doanh hoặc kí hợp đồng phân chia sản phẩm với các công ty dầu khí quốc tế.Về phía sản xuất điện,việc các nhà đầu tư ngoài EVN phát triển các tổ hợp IPP có công suất lớn là cực kì cần thiết do EVN bị hạn chế về nguồn vốn.Các nhà đầu tư IPP có thể gồm cả các bên phát triển khai thác dầu khí.Tuy nhiên,sự tham gia của các nhà đầu tư khác cũng rất cần thiết.EVN sẽ đại diện cho bên mua sản phẩm điện của nhà máy.Cuối cùng,Chính phủ Việt Nam,cần đóng vai trò quan trọng trong cả phê duyệt những thỏa thuận phát triển và cung cấp bảo đảm một phần rủi ro cho thỏa thuận bán điện cho các nhà đầu tư bên ngoài.Hai dự án đầu tư lớn nhất loại này là nhà máy Phú Mỹ 2 và Phú Mỹ 3 của nhà ĐTNN.Các ưu điểm của nhà máy chạy bằng khí là thời gian xây dựng nhanh,mức độ phức tạp trong việc vận hành và ô nhiễm đều thấp hơn nhiệt điện than. Khí ngoài khơi Việt Nam được sử dụng cho các tổ hợp sử dụng khí lớn trên bờ,trong đó,bên cạnh cung cấp cho một vài nhà máy sản xuất phân bón thì phần lớn tập trung cho phát điện.
Các mỏ khí chính bao gồm:
Mỏ Cửu Long: nằm ngoài phía Đông Nam ngoài khơi,Việt Nam đã khai thác dầu tại mỏ này từ năm 1995.Khí đồng hành từ các mỏ sầu chính của Vệt Na, được dẫn vào bờ qua hệ thống đường ống Bạch Hổ.Hiện tại,lượng khí đồng hành đang giảm dần,tuy nhiên một lượng khí mới hiện đang được nghiên cứu có thể khai thác từ đây.Thêm vào đó,đã có một phát hiện đầy hứa hẹn lượng khí không đồng hành tại khu Sư Tử Trắng trong mỏ Cửu Long,khoảng 40 tỷ m3 trở lên.
Mỏ Nam Côn Sơn: Cũng nằm ngoài khơi phía Đông Nam,tuy nhiên xa hơn mỏ Cửu Long.Khí từ mỏ này,hiện đang cung cấp cho tổ hợp Phú Mỹ.Sản lượng khí khai thác theo hợp đồng với BP và KNOC dự kiến sẽ tăng liên tục với mức 7 tỷ m3/năm là công suất thiết kế của đường ống dẫn khí.
Ngoài ra còn có các mỏ: Mỏ Tây Nam,Phú Mỹ và các vùng lân cận,Cà Mau,Ô Môn,Nhơn Trạch.Quy mô tối ưu của các tổ hợp nhiệt điện khí so với các nguồn điện khác ở nước ta là hết sức nhạy cảm với giá khí kí kết.Đến lượt mình,giá khí lại nhạy cảm với tính vững chắc và qui mô khai thác của các cam kết sử dụng khí.Do vậy, việc phát triển những cam kết vững chắc,ở qui mô lớn và dài hạn giường như rất cần thiết phải có để đạt được các giá điện cạnh tranh từ các nhà máy nhiệt điện khí.
Việc EVN tham gia sỡ hữu hầu hết các nhà máy điện là không khả thi,thậm chí cả khi dùng các nguồn vốn vay do khả năng vay của EVN là có giới hạn.Những đầu tư bên ngoài vào IPP,bên cạnh đầu tư của các công ty khai thác khí là cần thiết trong từng khu công nghiệp điện khí lớn.
Hình thức nhiệt điện khí rõ ràng là thế mạnh của khu vực có vốn ĐTNN và cũng là hình thức phát điện mà nhà ĐTNN ưa thích,vì như ta đã nói ưu điểm của nhiệt điện khí là thời gian xây dựng nhanh,hiệu suất phát điện cao,ngoài ra,hình thức này cần số vốn đầu tư rất lớn,thậm chí,đầu tư khép kín từ khai thác khí,vận chuyển khí qua ống dẫn,rồi mới đến nhà máy điện khí,công nghệ hiện đại nhằm đảm bảo giảm thiểu thấp nhất ô nhiễm và tăng hiệu suất,cũng như nhiệt điện than,nhiệt điện khí sẽ là hình thức có nhiều nhà ĐTNN tham gia trong tương lai.Tuy nhiên,ở nước ta,cả EVN và PVN ngày càng tích lũy thêm được nhiều kinh nghiệm và có tiềm lực lớn hơn về vốn để sẵn sàng tham gia đầu tư vào cơ cấu phát điện hấp dẫn này.
c.Phát triển nguồn thủy điện
Việt Nam,đang có một kế hoạch nhằm khai thác phần lớn nguồn thủy điện tiềm năng nhất của đất nước trong thập kỷ tới.Tổng công suất của thủy điện trong năm 2004 là 4.227MW,trong đó,thủy điện Hòa Bình(1.920MW) và Yali(720) chiếm 60% tổng công suất của thủy điện.Kế hoạch sẽ phát triển thêm các nhà máy thủy điện lớn trên sông Đà,phía thượng lưu của Hòa Bình bao gồm có Sơn La(2.400MW) và Lai Châu(1.100MW).Khi hoàn thành,bậc thang gồm 3 thủy điện lớn trên sông Đà,sẽ có tổng công suất lên tới 5.400MW.Bên cạnh kế hoạch phát triển đó,chương trình khai thác thủy điện của Việt Nam còn tập trung vào 30 dự án qui mô vừa(công suất từ 100-350),và xem xét một số nhà máy thủy điện nhỏ khác(công suất nhỏ hơn 30MW).Các dự án này trải dài theo lưu vực chính của hệ thống sông ở miền Bắc,Trung,và Nam.Có 14 dự án thủy điện loại vừa đang được xây dựng vào đầu năm 2005 với tổng công suất 3.170MW.EVN cũng đang lên kế hoạch sẽ tiếp tục xây dựng thêm 16 nhà máy thủy điện qui mô vừa với tổng công suất 2.775MW càng sớm càng tốt.
Hiện nay,chưa có dự án FDI nào đầu tư vào cơ cấu thủy điện,nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là do hình thức tự chỉ định thầu từ EVN.Các công trình thủy điện,chủ yếu do các đơn vị của EVN làm chủ đầu tư không qua đấu thầu.Vì vậy,các đơn vị khác ít có cơ hội đầu tư.Ngoài ra,các công trình thủy điện mà tư nhân được tham gia đầu tư,chủ yếu có công suất nhỏ,vốn đầu tư không quá lớn do Chính phủ qui định các công trình thủy điện lớn sẽ hình thành hình thức độc quyền Nhà Nước.
d.Nhiệt điện hạt nhân
Theo qui hoạch điện hạt nhân sẽ được xây dựng tại tỉnh Ninh Thuận,dự kiến sẽ xuất hiện lần đầu tiên vào năm 2020 và sẽ chiếm 11% sản lượng điện quốc gia năm 2025 và 30% vào năm 2050.Đây sẽ là hình thức phát điện EVN độc quyến sở hữu,vận hành vì tính chất đặc biệt của điện hạt nhân liên quan đến môi trường và an ninh quốc gia.Vì vậy,hình thức này,sẽ không có các nguồn đầu tư bên ngoài tham gia.
e.Các nguồn điện sạch như điện sinh học,điện gió,điện mặt trời
Hiện nay,vẫn chưa có một khảo sát nào về trữ lượng,tiềm năng của nguồn điện sạch tại Việt Nam,nhưng xu hướng chung của thế giới hiện nay là sử dụng nguồn điện sạch đến mức tối đa,khai thác tiềm năng có thể,mặc dù chi phí xây dựng ban đầu sẽ lớ, nhưng về lâu về dài sẽ rất có lợi cho nền kinh tế cũng như môi trường.Tiềm năng thu hút FDI trong nguồn phát điện này của Việt Nam là rất lớn.Đặc biệt là,các tỉnh miền Trung có bờ biển kéo dài thuận lợi cho khai thác nguồn gió,nền nông nghiệp Việt Nam có thể cung cấp các nguyên liệu cho sản xuất điện sinh học…Ngoài ra,Chính phủ chủ trương đến năm 2010 nâng tỷ trọng dạng phát điện này chiếm 3% tổng công suất và tiếp tục tăng lên trong tương lai,đồng thời, đây cũng là dạng điện mà nhà ĐTNN có thế mạnh về kinh nghiệm và công nghệ,trong tương lai sẽ có nhiều nhà đầu tư trong nước quan tâm tới hình thức phát điện này.
2.3.1.4.Xét theo dự án đầu tư
Hiện nay,mới có 10 dự án lớn đầu tư trong khâu phát điện và cả 10 dự án đều là nhiệt điện(than,dầu,khí hoặc hỗn hợp) với 2 dự án dạng BOT đã phát điện,2 dự án đang xây dựng,còn lại 6 dự án IPP tại các KCN-KCX.
Các dự án BOT theo kiểu các dự án ở Phú Mỹ,có thể là kênh đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu trong khâu phát điện.Tuy nhiên,cần phải có một số biện pháp chung để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.
Có một số hình thức biến thể theo mô hình BOT,trong đó,có các dự án xây dựng-sở hữu-vận hành(BOO),theo đó không yêu cầu nhà đầu tư nước ngoài phải chuyển giao quyền sở hữu tài sản tại thời điểm kết thúc hợp đồng.Các nhà máy điện vẫn có thể tồn tại trong thời gian dài hơn so với thời gian của các hợp đồng PPA là 20 năm đối với các dự án điện ở Việt Nam.Tuy thế,chi phí bảo dưỡng sẽ tăng cùng với tuổi của nhà máy và chế độ vận hành có thể sẽ thay đổi khi những nhà máy mới có hiệu suất cao hơn được phê duyệt.Do đó,trên thực tế,sẽ khó có một tác động đáng kể nào của sự thay đổi đối với mô hình đầu tư được đề xuất.
Khu chế xuất Tân Thuận,là khu chế xuất đầu tiên được xây dựng tại Việt Nam vào đầu những năm 1990,là liên doanh giữa Tập đoàn Phát triển và Thương mại(CT&D,Đài Loan) và các cơ quan Việt Nam.Bên cạnh các cơ sở hạ tầng cơ bản dành cho khu chế xuất,CT&D còn xây một nhà máy điện công suất 375MW ở Hiệp Phước,để cung cấp điện ổn định cho các khách hàng trong khu chế xuất thông qua một đường dây chuyển tải riêng.Công suất thừa được cung cấp cho khu vực Nam Sài Gòn.
Hiện nay, giá bán điện trực tiếp từ nhà máy Hiệp Phước cho khách hàng trong khu chế xuất bị giới hạn ở mức 25% so với biểu giá của EVN.Chính phủ,cũng nói rõ rằng không muốn nhân rộng mô hình này
2.3.Hạn chế và những nguyên nhân
2.3.1.Hạn chế
Mặc dù,tiềm năng đầu tư trong ngành điện là rất lớn nhưng hiện nay chỉ có 2 dự án FDI dạng BOT và 6 dự án dạng IPP vậnj hành trong lĩnh vực phát điện,hàng loạt các dự án ngành điện đang kêu gọi đầu tư nhưng vẫn chưa được sự tham gia hưởng ứng từ các nhà đầu tư,với các dự án trong nước đầu tư chủ yếu do 2 tập đoàn PVN và TKV đầu tư,EVN chỉ kí kết hợp đồng triển khai dự án mà chưa có thỏa thuận cụ thể về công suất bao tiêu hằng năm,về giá mua bán điện,còn các nhà ĐTNN giá bán điện phải được thỏa thuận từ trước,sau đó họ mới tiến hành khởi công dự án.Vì vậy,thời gian đàm phán với EVN rất dài,ảnh hưởng lớn đến thời điểm kinh doanh và nhiệt tình đầu tư.
2.3.1.1.Chất lượng quy hoạch tổng thể ngành điện còn thấp
Trách nhiệm quy hoạch tổng thể ngành điện,mà thường gọi tắt là tổng sơ đồ điện 4,5,6 thuộc về Viện năng lượng - một đơn vị nằm trong EVN,tổng sơ đồ điện sẽ trình bày tất cả các khía cạnh liên quan đến ngành điện như:hiện trạng,cơ cấu tổ chức,tổng quan về năng lượng,dự báo nhu cầu phụ tải,các chương trình phát triển nguồn điện,lưới điện,phân phối và bán lẻ,vv…trong thời gian 5 năm,tính từ năm quy hoạch hoàn thành và quá trình Thủ tướng chính phủ,có tính đến 10 năm tiếp theo và tầm nhìn trong 10 năm,chẳng hạn, tổng sơ đồ điện 6 tính cho giai đoạn 2006-2010,tầm nhìn đến 2025.Một bản quy hoạch tốt sẽ dự báo được tương đối chính xác nhu cầu phụ tải trong tương lai và các biện pháp nhằm đáp ứng nhu cầu phụ tải đó,đồng thời,có đến độ nhạy cảm khi một vài tham số cơ bản thay đổi.Trong sơ đồ 4 và 5,nhu cầu phụ tải thực tế đều vượt quá thời gian dự đoán đã dẫn đến tình trạng thiếu điện trầm trọng trong những năm vừa qua,một bản quy hoạch tốt và được công khai cho tất cả các bên,sẽ giúp các nhà đầu tư tin tưởng và có được các kế hoạch kinh doanh nhanh và chính xác hơn.Tổng sơ đồ điện , dự kiến được phê duyệt năm 2006 nhưng đã bị lùi lại năm 2007 khiến các nhà đầu tư thực sự quan ngại khi họ phải chờ thêm một năm nữa cho các quyết định đầu tư của mình nhằm phù hợp với bản quy hoạch.Các nhà đầu tư cũng rất lo ngại rằng,bản quy hoạch được giao cho Viện năng lượng thuộc EVN,có thể sẽ dẫn đến thiên vị khi các đơn vị trong EVN sẽ được ưu tiên hơn nhà đầu tư nước ngoài trong việc tiếp cận thông tin và trong việc xây dựng các nguồn phát điện mới.Vì vậy,trong lộ trình cải tổ ngành điệ, nhiều chuyên gia cho rằng đơn vị xây dựng bản quy hoạch nên độc lập với EVN.
Vừa qua,kế hoạch phát triển năng lượng của Việt Nam,dựa trên quy hoạch điện 6,các Tổng sơ đồ 5 và 6 của EVN cùng với Bộ Công thương đã được đánh giá bởi một nhóm chuyên gia.Nhóm này nhận định,dự báo nhu cầu điện được trình bày sơ lược,không rõ ràng,thiếu thuyết phục.
Đây là nhóm chuyên gia của Trung tâm Hỗ trợ phát triển(CDA) ,sau khi đã trao đổi với TS Chris Greacen của Đại học Berkeley(Hoa Kỳ),đã phối hợp với Viện Nghiên cứu năng lượng(thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam),Viện Khoa học thủy lợi và một số chuyên gia năng lượng.
Đề án tính toán tốc độ tăng trưởng điện giai đoạn 2006-2010,là 16,3%/năm với phương án phụ tải cơ sở vả 17,2%/năm với phương án phụ tải cao(ứng với tốc độ tăng trưởng GDP 8,5%/năm).
Theo đó,nhu cầu năm 2010 là 112 tỷ Kwh(gấp đôi năm 2005),năm 2015 là 190 tỷ Kwh,2020 là 294 tỷ Kwh,năm 2025 là 431 tỷ Kwh.
Như vậy,tốc độ tăng nhu cầu điện năng,sẽ tăng gấp 2 lần tốc độ tăng GDP,điều này là khó thuyết phục.
Kết qủa nghiên cứu của các chuyên gia nói trên cho rằng,dự báo nhu cầu năng lượng điện của Tập đoàn Điện lực là chưa hợp lý,chỉ mới nêu kết quả theo kiểu cộng dồn,phải tính theo hệ số tăng trưởng dự kiến,phương án phụ tải cao và phương án phụ tải cơ sở như giống nhau,tốc độ bình quân là 11,6% và 11,8%
2.3.1.2.Thủ tục đầu tư phiền hà rắc rối
Chiến lược phát triển ngành điện theo sơ đồ điện 6 đã được Chính phủ phê duyệt năm 2007 có tính đến phát triển ngành điện trong 5 năm 2006-2010 và tầm nhìn đến năm 2025.Chủ trương của Chính phủ,là thu hút nhiều hơn nữa các dự án nguồn điện thuộc mọi thành phần kinh tế,EVN cũng kêu gọi các nhà đầu tư bên ngoài đầu tư do tập đoàn này không thể đảm nhận hết được các dự án nguồn điện với số vốn lớn.Tuy nhiên,thực tế cho thấy việc đàm phán phán với EVN rất lâu với nhiều thủ tục kéo dài.
Với các doanh nghiệp FDI tham gia đầu tư,quy trình đầu tư như sau:
Trước hết,EVN sẽ giới thiệu danh sách các dự án đang cần đầu tư cho nhà đầu tư lựa chọn.Sau đó,nhà ĐTNN phải tham gia đấu thầu dự án,nếu thắng thầu cũng mất trung bình 2 năm nữa cho quá trình được cấp phép dự án,cuối cùng,là việc đàm phán với EVN trong hợp đồng mua bán điện dài hạn,về giá điện,công suất bao tiêu hằng năm và thời gian của hợp đồng,đây là quá trình đàm phán rất khó khăn và kéo dài nhất,chẳng hạn như dự án BOT Phú Mỹ 2,2 mất 6 năm,Phú Mỹ 3 mất 3 năm..Sau giai đoạn nà, nhà ĐTNN mới chính thức được cấp phép đầu tư,nhiều dự án chưa thể xây dựng ngay vì còn vướng khâu giải phóng mặt bằng.Tuy nhiên,trong quá trình đàm phán nếu thấy tiến triển tốt thông thường trong hợp đồng kí tắt ban đầu EVN sẽ có trách nhiệm phối hợp cùng UBND các tỉnh có dự án tiến hành giải phóng mặt bằng.Đối với nhà đầu tư trong nước,việc đàm phán với EVN cũng gặp khó khăn tương tự như vậy.
Câu chuyện Tập đoàn Tân Tạo(ITA group), khiến cho nhiều nhà đầu tư IPP phải suy tính rất kĩ.Đó là,ITA vừa ký hợp đồng với các đối tác nước ngoài và tư vấn trong nước đầu tư dự án xây dựng Trung tâm nhiệt điện Kiên Lương,một trong những dự án nhiệt điện lớn nhất ở phía Nam,trị giá 6,7 tỷ USD.Nhưng ngay khi các hợp đồng của Tân Tạo với các đối tác được thông qua,Bộ Công thương đã phản hồi bằng văn bản cho rằng,ITA mới chỉ là đơn vị lập dự án,chưa được chấp thuận là chủ đầu tư chính thức,vì dự án này thuộc nhóm A,cần có thời gian nghiên cứu xem xét ở cấp độ cao hơn.Cách ứng xử này đã làm mất lòng nhà đầu tư.
Trao đổi với báo Tuổi Trẻ,bà Đặng Thị Hoàng Yến,chủ tịch HĐQT Tập đoàn Tân Tạo khẳng định rằng: Doanh nghiệp muốn đầu tư vào điện luôn đồng hành với các thủ tục hành chính rườm rà.Bên cạnh thủ tục đất đai phức tạp,mỗi khâu kéo dài từ 6 tháng đến 1 năm,và các doanh nghiệp tư nhân thường vướng nhiều qui định liên qan đến EVN.
Có dự án xây dựng nhà máy điện dù đã được Thủ tướng cho phép lập dự án đầu tư,nhưng đến khi triển khai lại bị vướng quy hoạch tổng sơ đồ điện 6 được chính Thủ tướng đã phê duyệt.
Ngoài ra,sau khi doanh nghiệp lập xong quy hoạch trình lên các bộ,doanh nghiệp vẫn phải làm đúng công thức: Xin các bộ cho phép làm chủ đầu tư,sau đó mới được phép lập dự án dù Thủ tướng đã cho phép trước đó.
Tập đoàn Tân Tạo vẫn còn may hơn so với các nhà đầu tư khác vì không phải chịu lỗ khi xây dựng xong dự án điện mà không được EVN mua hoặc mua không hết công suất.Trường hợp như Tập đoàn PVN và TKV xây xong dự án của mình mới đàm phán với EVN,lý do việc này là để 2 Tập đoàn này không thể chờ đợi thời gian đàm phán kéo dài như trường hợp của nhà ĐTNN,họ vừa xây vừa tiến hành đàm phán với EVN,nhưng, khi xây xong hai bên không thể thống nhất được giá mua-bán điện,kết quả là,EVN không mua hoặc mua một phần khiến nhà đầu tư bị lỗ.
2.3.1.3.Giá bán điện của nhà đầu tư cho EVN còn thấp
Giá bán điện hiện nay,chưa phản ánh đầy đủ giá trị thị trường ngành điện.Do chủ trường trước đây của Nhà nước với các mặt hàng thiết yếu như xăng dầu,viễn thông,điện lực,vv…là Nhà nước nắm giữ độc quyền.Tuy nhiên,hiện nay,do sưc ép cạnh tranh và mô hình mới với một số ngành không cần Nhà nước nắm giữ 100% nữa,chẳng hạn như là ngành viễn thông,đặc biệt là mạng di động giá cước đã giảm đang kể do các doanh nghiệp mới tham gia vào thị trường cạnh tranh làm giảm giá.Giá điện còn được Nhà nước trợ cấp khá lớn để đảm bảo mục tiêu chính trị xã hội của Đảng là đưa điện đến toàn dân.Theo báo cáo của UNCTADnăm 2009,giá điện của Việt Nam là tương đương hoặc thấp hơn các nước láng giềng.Một trong những nguyên nhân chính làm cho nền kinh tế chúng ta hoạt động không hiệu quả thời gian qua là hệ thống giá cả còn bao cấp.Để nhiều loại hàng hóa bị kìm nén tăng giá quá lâu,sẽ phá vỡ quy luật thị trường,đến khi bắt buộc phải tăng giá thì sẽ bung ra.Chính phủ sẽ từng bước khắc phục điều này,tuy nhiên,xem xét đến sức chịu đựng của nhền kinh tế,có chính sách đến từng khu vực đối tượng thụ hưởng.
Giá điện thấp cũng chính là nguyên nhân nhiều dự án đầu tư vào nguồn điện không thể thực hiện,đặc biệt,các dự án nguồn điện sạch như điện gió,điện mặt trời vì có chi phí đầu vào cao,và cũng là nguyên nhân của các cuộc đàm phán kéo dài giữa EVN và các nhà đầu tư thời gian qua.Giá điện và mức độ hấp dẫn đầu tư có mối liên hệ,giá điện cao sẽ thu hút được các nhà đầu tư,giải quyết tình trạng thiếu điện hiện nay,nhưng ngược lại đó là người tiêu dùng Việt Nam, sẽ chịu mức giá cao hơn,làm giảm tính cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam và của cả nền kinh tế.
2.3.1.4.Chưa có các hợp đồng mua bán điện dài hạn dạng chuẩn
Do đặc điểm nhu cầu đầu tư vào ngành điện đòi hỏi vốn lớn,thời gian hoàn vốn phải kéo dài,trung bình mất khoảng 10 năm,công nghệ hiện đại nhằm kéo dài không gây hại cho môi truờng về lâu dài.Vì vậy,với các dự án có công suất lớn,chỉ những nhà ĐTNN có đủ tiềm lực mới tham gia.đa số các dự án kiểu này nhà ĐTNN đều muốn kí ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26779.doc