Một số giải pháp nhằm tăng cường tạo việc làm bền vững ở Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Lao động - việc làm là một trong những lĩnh vực quan trọng đối với mỗi quốc gia bởi con người vừa là nguồn lực vừa là mục tiêu của phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, đối với các nước đang phát triển có lực lượng lao động lớn như Việt Nam, giải quyết việc làm cho người lao động và phát triển thị trường lao động là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, góp phần tích cực vào việc hình thành thể chế kinh tế thị trường, đồng thời tận dụng lợi thế để phát triển, ti

doc95 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1538 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm tăng cường tạo việc làm bền vững ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ến kịp khu vực và thế giới. Mặc dù có tầm quan trọng như vậy nhưng lĩnh vực lao động - việc làm ở Việt Nam hiện nay vẫn còn rất nhiều bất cập, đó chính là chất lượng lao động thấp, cơ cấu đào tạo nghề bất hợp lý, việc làm ổn định và thu nhập cao còn ít…Bên cạnh đó vấn đề đảm bảo quyền lợi người lao động, việc thực hiện các chế độ bảo trợ xã hội còn nhiều hạn chế như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, các chương trình hỗ trợ những nhóm người yếu thế, trẻ em…, quan hệ lao động trong các doanh nghiệp ngày càng trở nên căng thẳng, cơ chế đối thoại xã hội với sự tham gia của doanh nghiệp, người sử dụng lao động và người lao động chưa được quan tâm đúng mức, gây ảnh hưởng tới công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trước thực trạng đó và những yêu cầu ngày càng trở nên cấp thiết của hội nhập kinh tế thế giới khi mà Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), việc nâng cao chất lượng lao động, tăng cường tạo việc làm bền vững đã và đang trở thành mối quan tâm hàng đầu không chỉ của Nhà nước, các doanh nghiệp mà chủ yếu là người lao động, những người đóng góp trực tiếp vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Xuất phát từ những đòi hỏi thực tế, qua thời gian thực tập ở Vụ Lao động-Văn hoá-Xã hội, Bộ Kế hoạch & Đầu tư, tôi đã hoàn thành chuyên đề với đề tài “Một số giải pháp nhằm tăng cường tạo việc làm bền vững ở Việt Nam”. Kết cấu đề tài gồm 3 phần chính sau: - Chương I: Sự cần thiết tăng cường tạo việc làm bền vững ở Việt Nam. - Chương II: Đánh giá tình hình tạo việc làm bền vững ở Việt Nam. - Chương III: Một số giải pháp nhằm tăng cường tạo việc làm bền vững ở Việt Nam. Do thời gian hạn có hạn và trình độ bản thân còn nhiều hạn chế nên bài viết này không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tôi mong rằng sẽ nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn. Tôi xin chân thành cám ơn Thạc sỹ Nguyễn Thị Hoa đã trực tiếp hướng dẫn, Chị Nguyễn Thị Hồng Lê, chuyên viên Vụ Lao động – Văn hoá – Xã hội, Bộ Kế hoạch & Đầu tư đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành bài viết này. Sinh viên thực hiện Phạm Anh sơn CHƯƠNG I SỰ CẦN THIẾT TĂNG CƯỜNG TẠO VIỆC LÀM BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM I/ CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC LÀM BỀN VỮNG 1. Một số khái niệm cơ bản 1.1. Việc làm - Theo quan điểm kinh tế học lao động: Việc làm được hiểu là sự kết hợp giữa sức lao động với tư liệu sản xuất nhằm biến đổi đối tượng lao động theo mục đích của con người. - Theo Bộ luật Lao động: Việc làm được xác định là: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm” Từ quan niệm trên cho thấy, khái niệm việc làm bao gồm các nội dung sau: Là hoạt động lao động của con người Hoạt động lao động nhằm mục đích tạo ra lợi nhuận Hoạt động lao động đó không bị pháp luật ngăn cấm 1.2. Bền vững. Quan niệm về cụm từ “bền vững” ở đây được gắn với cụm từ “phát triển bền vững” bởi sự bền vững luôn luôn được gắn với sự phát triển, thiếu một trong hai yếu tố đó thì không thể thực hiện được các mục tiêu của mỗi quốc gia. Xuất phát từ góc độ bảo vệ môi trường, cũng là bảo vệ sự sống, vấn đề phát triển bền vững được đề cập lần đầu tiên vào năm 1987 trong báo cáo của Uỷ ban Môi trường và Phát triển thế giới (WCED). Theo Uỷ ban này, phát triển bền vững là sự phát triển để đáp ứng những nhu cầu của ngày hôm nay mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. Như vậy, trong quá trình phát triển phải luôn luôn đặt ra các câu hỏi như: Quy mô và tốc độ khai thác các tài nguyên như hiện nay có đảm bảo cho các tài nguyên này có khả năng tái tạo đủ cung cấp cho các thế hệ tương lai hay không? Các tài nguyên thay thế có tương xứng với các tài nguyên bị cạn kiệt và không có khả năng tái tạo hay không? Ở Việt Nam, phát triển bền vững được hiểu một cách toàn diện: “Phát triển bền vững bao trùm cac mặt của đời sống xã hội, nghĩa là phải gắn kết sự phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, gìn giữ và cải thiện môi trường, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh”. Như vậy, phát triển bền vững là sự phát triển trong mối liên hệ gắn kết chặt chẽ thực hiện bốn nhóm mục tiêu lớn: mục tiêu kinh tế, mục tiêu xã hội, mục tiêu môi trường và an ninh quốc phòng. Bền vững về kinh tế đòi hỏi nền kinh tế phải tăng trưởng GDP và GDP bình quân đầu người cao; cơ cấu kinh tế phải hợp lý, đảm bảo cho tăng trưởng GDP ổn định; lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chí phấn đấu cho tăng trưởng. Bền vững về xã hội lý giải một điều rằng, liệu một xã hội có thể được coi là phát triển bình thường, nếu dân số giảm sút? Quá trình đó bao gồm: mở rộng các cơ hội lựa chọn cho mọi người; mọi người cùng tham gia vào quá trình phát triển và mọi người cùng được hưởng từ quá trình phát triển bền vững này. Bền vững về môi trường, đối với từng cá nhân cũng như cả loài người, môi trường có 3 chức năng: là không gian sinh tồn của con người; là nơi cung cấp tài nguyên cần thiết cho cuộc sống và hoạt động sản xuất của con người; là nơi chứa đựng, xử lý, tái chế các phế thải của con người. Vì thế, môi trường bền vững là môi trường luôn luôn thay đổi nhưng đảm bảo thực hiện cả ba chức năng nói trên. Xã hội phát triển bền vững là xã hội mà con người có cuộc sống chất lượng cao trên nền tảng sinh thái bền vững. Như vậy khái niệm “bền vững” được đề cập đến trong nội dung nghiên cứu của đề tài chính là đảm bảo đầy đủ lợi ích kinh tế - xã hội của người lao động đó là có thu nhập ổn định, đảm bảo các nhu cầu của cuộc sống, xoá bỏ khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp…ngoài ra, “bền vững về môi trường cũng là một nội dung quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển lâu dài của một quốc gia. 1.3. Việc làm bền vững. Theo Tổng giám đốc ILO, Juan somavia thì mục tiêu chính của ILO ngày nay là tạo cơ hội cho nam và nữ có được việc làm bền vững và năng suất trong điều kiện tự do, công bằng, an toàn và tôn trọng giá trị nhân phẩm. Việc làm bền vững tóm tắt những khát vọng của con người trong cuộc sống lao động của họ về cơ hội và thu nhập, quyền lợi, tiếng nói và sự thừa nhận; sự ổn định gia đình và phát triển cá nhân; sự công bằng và bình đẳng như nhau. Việc làm bền vững phản ánh mối quan tâm của Chính phủ, người lao động và người sử dụng lao động, những người sẽ cùng nhau tạo ra một sự hợp nhất về đối thoại ba bên. Việc làm bền vững được đúc kết trong bốn chiến lược mục tiêu: Những nguyên tắc và quyền cơ bản ở nơi làm việc và tiêu chuẩn lao động quốc tế; công việc và cơ hội thu nhập; bảo trợ xã hội; cơ chế tham vấn ba bên và đối thoại xã hội. Những mục tiêu này được đưa ra cho tất cả người lao động, nam và nữ trong cả nền kinh tế chính thức và phi chính thức; trong tiền lương lao động hoặc làm việc dựa trên tài khoản của họ; trong địa phương, xí nghiệp và văn phòng; trong gia đình và trong cộng đồng. Việc làm bền vững chính là kết quả của sự nỗ lực để giảm tình trạng nghèo nàn, và nó có ý nghĩa quan trọng để đạt được sự công bằng, giới hạn của sự phát triển. ILO làm việc để phát triển việc làm bền vững – phương pháp định hướng cho các chính sách kinh tế - xã hội trong sự cộng tác với các cơ quan quan trọng và sự tham gia của nhiều phía và nền kinh tế toàn cầu. Sự phát triển đòi hỏi hành động ở cấp độ toàn cầu. ILO đang phát triển các chương trình nghị sự cho cộng đồng nơi làm việc được miêu tả là đối thoại ba bên để huy động nguồn lực đáng kể của họ để tạo ra cơ hội và giúp làm giảm và trừ bỏ sự nghèo nàn. Chương trình nghị sự việc làm bền vững đưa ra một nền tảng cho khung làm việc vững chắc và đúng đắn hơn cho sụ phát triển toàn cầu. ILO cung cấp sự hỗ trợ thông qua việc tham gia vào chương trình quốc gia về việc làm bền vững qua sự phối hợp với các cơ quan của ILO. Họ xác định những thuận lợi và mục tiêu trong khuôn khổ phát triển của quốc gia mục đích để giải quyết những vấn đề tài chính thiếu hụt chủ yếu trong việc làm bền vững thông qua những chương trình hiệu quả để đi theo những mục tiêu trên. 2. Các yếu tố cấu thành việc làm bền vững. 2.1. Các quyền tại nơi làm việc Những nguyên tắc của nền kinh tế toàn cầu nên trở thành những mục tiêu về nâng cao các quyền, nghề nghiệp, an toàn và cơ hội cho con người, gia đình và các cộng đồng trên toàn thế giới. (World commission on the Social Dimension of Globalization, 2004). Việc đưa ra về các quyền tại nơi làm việc chính là một sự đảm bảo về quyền lợi của người lao động và việc không sủ dụng lao động trẻ em, xoá bỏ sự phân biệt đối xử về nghề nghiệp và bóc lột sức lao động. Các quyền tại nơi làm việc được thể hiện trên bốn khía cạnh sau đây: - Tự Do hiệp hội Quyền của người lao động và người sử dụng lao động được hình thành và tham gia vào các hiệp hội là một phần không thể thiếu của sự tự do và xã hội mở. Đó là nền tảng cho quyền của công dân một nước phục vụ cho việc xây dựng khuôn mẫu cho phát triển kinh tế và xã hội. Đó chính là sự thừa nhận đúng đắn về quyền thương lượng của tập thể. Tiếng nói và sự đại diện là những thành phần quan trọng của việc làm bền vững. - Xoá bỏ Lao động cưỡng bức. ILO cũng nhấn mạnh về hiệu quả luật pháp quốc gia và sự vững chắc của cơ chế ép buộc như một sự thừa nhận của luật pháp và người lao động chống lại một cách mạnh mẽ những người bóc lột sức lao động. Bằng sự nâng lên của nhận thức cộng đồng, ILO tìm ra những điểm nổi bất về sự vi phạm về quyền lao động và quyền con người. - Xoá bỏ sự phân biệt đối xử. Hàng trăm triệu người phải chịu đựng sự phân biệt đối xử về việc làm trên thế giới. Nó không những vi phạm những quyền con người cơ bản nhất mà còn gây ra hậu quả về kinh tế và xã hội. Sự phân biệt đối xử hạn chế các cơ hội, lãng phí trí tuệ con người cần cho sự phát triển kinh tế và nhấn mạnh áp lực xã hội và sự không bình đẳng. Cuộc chiến chống lại sự phân biệt đối xử là phần chủ yếu của tạo việc làm bền vững và thành công này sẽ vượt ra ngoài phạm vi nơi làm việc. - Xoá bỏ lao động trẻ em Có hơn 200 triệu trẻ em đang làm việc trên toàn thế giới, trong đó rất nhiều là làm cả ngày. Chúng bị thiếu một sự giáo dục đầy đủ, sức khỏe và tự do cơ bản. Trong đó, 126 triệu - hoặc cứ 12 trẻ em thì có 1 trẻ em trên thế giới bị vứt bỏ tới những nơi lao động trẻ em nguy hiểm gây tổn hại tới sức khoẻ, tinh thần và sự phát triển trí tuệ. Như các yếu tố khác của việc làm bền vững thì xoá bỏ lao động trẻ em chính là sự phát triển cho thấy quyền con người. Các chương trình và chính sách của ILO đều nhằm mục đích đảm bảo trẻ em nhận được sự giáo dục và đào tạo mà chúng cần để chúng trở thành người có ích trong việc làm bền vững. 2.2. Tạo việc làm. Đây là một nội dung quan trọng trong việc làm bền vững, mục đích chính của tạo việc làm không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế như: giải quyết việc làm, nâng cao năng suất, tạo ra thu nhập cao, ổn định cho người lao động góp phần quan trọng vào sự phát triển của doanh nghiệp nói riêng mà còn đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia nói, ngoài ra còn mang nhiều ý nghĩa về mặt xã hội, đó chính là: giải quyết tình trạng thất nghiệp, hạn chế các hiện tượng xã hội nổi cộm, đẩy mạnh sự phát triển của từng vùng, dần hướng tới sự bình đẳng trong thu nhập cũng như khoảng cách giàu nghèo có thể được thu hẹp lại. 2.3. Bảo trợ xã hội. Mục đích để thúc đẩy chăm sóc con người và sự ủng hộ của xã hội trên quy mô rộng lớn và trở nên có ích và không thể thiếu được cho hoà bình xã hội, nâng cao tăng trưởng kinh tế. 2.3.1. Định nghĩa. “Bảo trợ xã hội được hiểu một cách rộng rãi như là một loạt các chính sách, chương trình công và tư được xã hội thực thi để đáp lại nhu cầu nảy sinh trong những tình huống khác nhau để cân bằng sự thiếu hụt hoặc suy giảm đáng kể của thu nhập từ công việc; để trợ giúp cho các gia đình có trẻ em cũng như cung cấp cho mọi người với những sự chăm sóc về sức khoẻ và nhà ở”. Mục đích của việc xây dựng hệ thống bảo trợ xã hội được thể hiện ở các khía cạnh sau đây: - Bảo trợ xã hội bao gồm những sự phản hồi, đáp ứng từ xã hội đối với các mức độ về rủi ro hoặc bị mất đi/giảm đi để đáp ứng được những nhu cầu tối thiểu được đạt được những quyền cơ bản. Những điều này bao gồm việc tiếp cận với thu nhập, phương kế sinh nhai, việc làm, các dịch vụ giáo dục và ytế, dinh dưỡng và nhà ở. - Bảo trợ xã hội nhằm giải quyết các vấn đề liên quan tới việc bị mất đi hoàn toàn và yếu thế của những người dân nghèo nhất, cũng như nhu cầu của những người hiện không phải là người nghèo nhằm bảo trợ cho họ có thể ứng phó với những cú sốc và những thay đổi trong cuộc đời họ (cụ thể là khi họ về già). - Đặc điểm của sự đáp ứng về mặt chính sách này có thể liên quan đến rất nhiều cơ quan khác nhau như: Chính quyền Trung ương hoặc địa phương, xã hội, dân sự (các hội thành viên hay tự nguyện, công đoàn, các tổ chức phi chính phủ), khu vực tư nhân. - Có hai phạm trù nổi bật về bảo trợ xã hội. Trợ giúp xã hội bao gồm những hoạt động công được thiết kế để chuyển tải những nguồn lực tới các nhóm có đủ điều kiện nhận sự trợ giúp do lâm vào hoàn cảnh khó khăn. Bảo hiểm xã hội là một sự trợ giúp về mặt an toàn xã hội, có nguồn tài chính xuất phát từ những sự đóng góp và được dựa trên nguyên tắc bảo hiểm, đó là những cá nhân hoặc hộ gia đình có nhu cầu bảo vệ bản thân họ trong việc ứng phó với các rủi ro bằng cách kết hợp các nguồn lực của họ với những người cùng trong hoàn cảnh như mình. 2.3.2. Các thành phần của bảo trợ xã hội. Bảo trợ xã hội có 5 thành phần chủ chốt được đề cập trong biểu sau đây: Biểu 2.1: Những hình thức bảo trợ xã hội. Hình thức bảo trợ xã hội Người hưởng Lợi dự kiến Các chương trình thị trường lao động. Lực lượng lao động tích cực bao gồm những người mới tham gia lực lượng lao động, những người lao động bị nghỉ việc từ những doanh nghiệp nhà nước. Bảo hiểm xã hội. Người lao động và những thành viên gia đình sống phụ thuộc vào họ mà đối mặt với việc mất nguồn thu nhập. Những chương trình trợ giúp theo khu vực, mang tính trợ giúp vi mô. Người lao động trong khu vực chính thức, nông thôn và thành thị. Chương trình bảo vệ trẻ em. Những người sẽ tham gia vào thị trường lao động trong thời gian sắp tới. Trợ giúp xã hội. Hầu hết những nhóm người yếu thế (người cao tuổi bị tàn tật), người nghèo nhất, những người không thể tham gia thị trường lao động, những người chịu nhiều hoàn cảnh khó khăn, ảnh hưởng bởi các khủng hoảng, những người bị xã hội ruồng bỏ. 2.4. Đối thoại xã hội. ILO chỉ rõ đối thoại xã hội bao gồm sự đàm phán, tư vấn, trao đổi thông tin giữa đại diện của chính phủ, người sử dụng lao động và nguươì lao động về việc đưa ra quyền lợi chung. Đối thoại xã hội hiệu quả phụ thuộc vào: - Sự tôn trọng quyền cơ bản của tự do hiệp hội và thương lượng tập thể. - Vững chắc, sự độc lập về tổ chức của người lao động và người sử dụng lao động với năng lực kỹ thuật và kiến thức được yêu cầu tham gia vào đối thoại xã hội. - Về chính trị sẽ đưa ra các cam kết về bảo trợ xã hội trở thành phần của các cuộc đối thoại. - Hỗ trợ cơ quan thích hợp. Mục tiêu chính của đối thoại xã hội là việc thúc đẩy xây dựng sự nhất trí và sự dân chủ. Thể chế đối thoại xã hội thành công. Quá trình đó có khả năng giải quyết các vấn đề kinh tế và xã hội quan trọng, khuyến khích sự quản trị tốt, tiến bộ xã hội và hoà bình công nghiệp, ổn định và thúc đẩy phát triển kinh tế. II/ SỰ CẦN THIẾT PHẢI TĂNG CƯỜNG TẠO VIỆC LÀM BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM. 1. Những đòi hỏi nội tại nền kinh tế và yêu cầu hội nhập kinh tế thế giới. Việt Nam đang dần thoát khỏi tình trạng lạc hậu, phát triển và đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào kinh tế quốc tế, trong bối cảnh đó thì yêu cầu về tạo việc làm bền vững ngày một quan trọng, tuy nhiên sẽ có những thách thức không nhỏ cả về nội tại nền kinh tế cũng như yêu cầu của hội nhập kinh tế thế giới. 1.1 Những đòi hỏi nội tại nền kinh tế. - Số lượng lao động và tỷ lệ lao động đã qua đào tạo, đặc biệt ở khu vực nông thôn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa, các vùng chậm phát triển còn rất thấp và chậm được cải thiện. Lao động đã qua đào tạo vẫn còn nhiều bất cập so với nhu cầu của thị trường lao động, đặc biệt là lao động lành nghề, lao động trình độ cao phục vụ nhu cầu phát triển các ngành, các lĩnh vực sản xuất mới, các khu công nghiệp và cho xuất khẩu lao động. Ngoài ra, ý thức tổ chức kỹ thuật, kỷ luật lao động và kỷ luật công nghệ cũng rất cần được đưa vào chương trình giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực. - Chính sách lao động việc làm chủ yếu hướng vào giải quyết vấn đề tăng số lượng việc làm, nên sự tác động đối với sự thay đổi tiến bộ về chất lượng việc làm còn hạn chế. Mặc dù số lượng việc làm mới được tạo ra lớn và tăng liên tục qua các năm, song phần lớn là việc làm thủ công, việc làm không cần trình độ chuyên môn kỹ thuật. Rõ ràng là vấn đề chất lượng việc làm còn nhiều hạn chế cần phải được nâng lên. - Một số chính sách vĩ mô nhằm ưu tiên tạo việc làm chưa rõ ràng chính sách đầu tư chưa thể hiện rõ vào việc ưu tiên, khuyến khích phát triển các ngành, sản phẩm có dung lượng lao động lớn. Nhiều nguồn vốn lớn của Nhà nước được tập trung cho các ngành, sản phẩm dung lượng vốn lớn mà tạo được ít việc làm (xi măng, hoá chất, luyện cán thép…). - Một số giải pháp hỗ trợ tạo việc làm, giải quyết việc làm còn chưa mạnh. Ví dụ quy định về khoản giá trị tín dụng cho các hộ gia đình còn nhỏ (Mặc dù đã nâng lên 20 triệu đồng/hộ nông dân), việc tổ chức dạy nghề còn chưa thực sự gắn với nhu cầu thực tế…Chưa có những giải pháp chính sách cụ thể đối với nhóm lao động thanh niên mới ra nhập thị trường lao động. - Thị trường lao động kém phát triển, sức cạnh tranh yếu và có nguy cơ tụt hậu ngày càng xa so với các loại thị trường khác trong nước cũng như so với thị trường lao động các nước trong khu vực thể hiện ở tỷ lệ lao động làm công ăn lương thấp, hệ thống giao dịch kém phát triển, chi phí giao dịch cao, thông tin Thị trường lao động thiếu cập nhật và khó tiếp cận đối với đại đa số người lao động. - Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong nhóm tuổi từ 15-24 ở khu vực thành thị còn rất cao ở hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước, cũng như xu hướng tăng tỷ lệ thất nghiệp ở lao động đã qua đào tạo. - Chưa có giải pháp tổng thể và hữu hiệu nhằm giải quyết vấn đề việc làm cho lao động ở các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất, ở các vùng đô thị hoá; chưa có giải pháp giải quyết những vấn đề xã hội phát sinh tại các khu công nghiệp tập trung và các vùng đô thị hoá. - Hiểu biết về luật lao động, về quyền và nghĩa vụ của cả người lao động và chủ sử dụng lao động còn hạn chế, dẫn đến những tranh chấp lao động, kể cả đình công xảy ra ở nhiều nơi. - Hệ thống đảm bảo xã hội chưa hoàn thiện, chưa đảm bảo là lưới an toàn cho các nhóm yếu thế trong thị trường lao động. 1.2. Thách thức hội nhập kinh tế thế giới. Thách thức lớn nhất đối với Việt Nam khi tham gia vào thị trường quốc tế nói chung và thị trường lao động nói riêng đó chính là sự hoàn thiện của hệ thống văn bản chính sách pháp luật theo các thông lệ quốc tế và sự yếu kém về tăng trưởng kinh tế, tình trạng nhập siêu, hạ tầng kinh tế…ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng tạo việc làm bền vững ở Việt Nam. - Mặc dù tốc độ xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền được duy trì ở mức độ cao, thậm chí còn được đẩy nhanh hơn với thời kỳ Việt Nam đàm phán gia nhập WTO. Chất lượng văn bản đảm bảo tuân thủ nội dung của cam kết quốc tế, góp phần làm cho hệ thống văn bản pháp luật thương mại, kinh tế của Việt Nam hội nhập nhanh hơn với các thông lệ quốc tế, tuy nhiên vẫn còn có một số văn bản không theo kịp lộ trình cam kết, chẳng hạn việc xây dựng thông tư liên tịch về việc xử lý hình sự các vi phạm pháp luật sở hữu trí tuệ, đành rằng việc ban hành chậm đó có nhiều lý do chính đáng, trong đó đặc biệt là các lý do khách quan, do hạn chế về kiến thức pháp luật…Đồng thời, vấn đề quan ngại lớn nhất là pháp luật Việt Nam chậm đi vào cuộc sống, cơ chế thực thi pháp luật còn lỏng lẻo, chưa nghiêm. - Hệ thống toà án và thực thi luật pháp còn nhiều hạn chế do các thủ tục còn rườm rà và chi phí cao, thiếu tính minh bạch. Hiệu quả của dịch vụ hành chính vẫn còn yếu kém chưa được tinh giản, tốc độ cải cách hành chính vẫn chậm, nạn quan liêu, tham nhũng vẫn còn nhiều và ngày càng tinh vi, rất khó phát hiện. - Sở hữu trí tuệ vẫn là vấn đề nóng hiện nay và là một trở ngại gây thiệt hại không chỉ doanh nghiệp nước ngoài mà cả doanh nghiệp trong nước. Tình trạng chiếm dụng thương hiệu, làm nhái sản phẩm của những thương hiệu nổi tiếng, hàng nhái, hàng giả, hàng kém chất lượng, tranh chấp bản quyền... Theo nhận định của Cục Sở hữu trí tuệ, trong suốt một năm qua, kể từ thời điểm kết thúc đàm phán, Việt Nam không ngừng nỗ lực để đưa hệ thống sở hữu trí tuệ của Việt Nam đến chỗ hoàn toàn phù hợp với chuẩn mực quốc tế, cụ thể ở các hoạt động hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực thi pháp luật. Đến nay, hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ của Việt Nam đã hầu như đạt được chuẩn mực quốc tế, thậm chí còn được các chuyên gia Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới đánh giá là một hệ thống bảo hộ tiên tiến, nhưng vẫn còn một số điểm cần được bổ khuyết. - Tình trạng nhập siêu ở mức hai con số; Cơ sở hạ tầng bao gồm hệ thống đường giao thông , cảng, điện… trở nên quá tải; Thiếu lao động trình độ cao trong hầu hết các ngành đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ cao, dịch vụ… đang kìm hãm quá trình chuyển dịch cơ cấu. 2. Vai trò của việc làm bền vững đối với phát triển kinh tế xã hội. Với những nội dung đã trình bày ở phần đầu, việc làm bền vững đóng một vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu về phát triển kinh tế xã hội: - Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và tính bền vững của nền kinh tế. - Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn đầu tư cho phát triển. - Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. - Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. - Đẩy mạnh cải cách hành chính, phát huy hiệu lực của bộ máy nhà nước đáp ứng yêu cầu phát triển III/ KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG TẠO VIỆC LÀM BỀN VỮNG. 1. Kinh nghiệm của Singapore. 1.1. Thúc đẩy tính linh hoạt của thị trường lao động. - Thay đổi Luật lao động cho phù hợp. Pháp luật lao động cần được rà soát thường xuyên để đảm bảo rằng các điều luật đáp ứng được nhu cầu của chủ sử dụng lao động và người lao động và nhu cầu của nền kinh tế trong môi trường kinh doanh thay đổi nhanh chóng. Điều luật được sửa đổi quy định về quyền và nghĩa vụ của chủ sử dụng lao động và người lao động trong công ty tiến hành tái cấu trúc và đưa ra cơ chế để giải quyết tranh chấp. Một trong những nguyên tắc quan trọng của luật sửa đổi là đảm bảo tính liên tục của việc làm cho những người lao động bị thuyên chuyển. - Thực hiện hệ thống trả lương linh hoạt và dựa vào hiệu quả SXKD. 1.2. Tăng cường khả năng có việc làm thông qua nâng cao tay nghề và phát triển lực lượng lao động. - Tổ chức các hoạt động ở cấp quốc gia về phát triển kỹ năng tay nghề cho lực lượng lao động nhằm giúp cho các doanh nghiệp và các ngành công nghiệp duy trì được khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế mới. Lao động có tay nghề có thể tìm được việc dễ dàng hơn, và nhờ đó họ có chất lượng cuộc sống tốt hơn. - Nhằm hỗ trợ người lao động nâng cao tay nghề, WDV đã ban hành khung tiêu chuẩn quốc gia về trình độ và kỹ năng vào tháng 11/2005, gọi tắt là hệ thống trình độ tay nghề quốc gia Singapore. Hệ thống này đặt ra một lộ trình rõ ràng về đào tạo và cấp chứng chỉ cho người lao động nhằm nâng cao năng lực và tay nghề cho họ, và đưa ra những hướng dẫn các doanh nghiệp, các ngành công nghiệp làm thế nào để nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động. Với cách tiếp cận theo ngành, người lao động có thể có được những kỹ năng công nghiệp và kỹ năng tay nghề đáp ứng yêu cầu công việc. - Nhằm xây dựng năng lực cho lực luợng lao động, cơ quan WDV cũng đã đưa ra những sáng kiến cụ thể cho từng ngành ví dụ như chương trình ” vị trí và đào tạo” nhằm lấp các chỗ trống về tay nghề. Chương trình này được thực hiện ở các ngành công nghiệp có quy mô lớn như thực phẩm và đồ uống, hàng không vũ trụ, dệt và chế biến hoá chất. Những chương trình này giúp đào tạo và tạo ra lực lượng lao động địa phương có năng lực sẵn sàng cho người sủ dụng lao động khi cần thiết. - Ngoài việc giúp đỡ người lao động có việc làm, tổ chức phát triển tay nghề đào tạo còn tạo điều kiện tiếp cận cơ hội việc làm cho những người tìm việc qua mạng lưới Liên kết nghề nghiệp ( Distributed careerLink Network). Mạng lưới này được thành lập với sự tham gia của 13 thành viên của Singapore. 1.3. Quan hệ công nghiệp hài hoà và quan hệ đối tác ba bên. Môi trường quan hệ Lao động hài hoà là một cơ sở then chốt để có được môi trường đầu tư thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế, và nó sẽ tác động trở lại tạo ra nhiều việc làm được trả công tốt hơn cho người lao động. - Chủ sủ dụng lao động, công đoàn và người lao động được khuyến khích để làm việc như một tập thể chung nhằm phòng ngừa không để các mối bất hoà leo thang thành sự đối đầu căng thẳng và gây ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của doanh nghiệp và lợi ích lâu dài của người lao động. - Ở cấp quốc gia, sự hợp tác 3 bên đã được xây dựng từ lâu và đây cũng là một lợi thế cạnh tranh trong việc đảm bảo sự hài hoà trong các mối quan hệ công nghiệp cả trong những thời điểm thuận lợi cũng như khi xảy ra khủng hoảng. - Ban hành Luật về Quan hệ công nghiệp và đã đi vào thực hiện. Mục tiêu chính của Luật này là: (1) Phát triển lực lượng lao động có khả năng làm việc hiệu quả và tận tuỵ vì sự thành công trong kinh doanh; (2) phát huy đầy đủ tiềm năng của người lao động, tạo điều kiện để họ có thể có thu nhập cao hơn và có cuộc sống tốt hơn; (3) đóng góp vì một môi trường làm việc hài hoà, tăng cưòng sự hợp tác ba bên và nâng cao tính cạnh tranh tổng thể của cả nền kinh tế Singapore phục vụ tăng trưởng cao. 1.4. An toàn và vệ sinh lao động tại nơi làm việc - Uỷ ban tư vấn về Vệ sinh an toàn tại nơi làm việc đã được thành lập với đại diện của các ngành công nghiệp nhằm thúc đẩy tính tự tuân thủ và quán triệt tính tự chủ và tự giác về an toàn vệ sinh lao động của các ngành công nghiệp. Xây dựng các tiêu chuẩn và quy phạm về an toàn vệ sinh lao động, nâng cao nhận thức về ATVSLĐ và khuyến khích các ngành công nghiệp nâng cao tiêu chuẩn vệ sinh an toàn của ngành mình, đào tạo cho các bên liên quan chính nhằm nâng cao năng lực và khả năng về ATVSLĐ. Những nguyên tắc chính của chương trình ATVSLĐ là: (1) giảm thiểu rủi ro tại nguồn bằng cách yêu cầu các bên liên quan giảm thiểu tối đa hoặc loại trừ nguy cơ rủi ro mà họ gây ra; (2) yêu cầu các ngành công nghiệp phải chịu trách nhiệm cao hơn về các kết quả ATVSLĐ; (3) phòng ngừa tai nạn lao động thông qua việc áp dụng hình phạt nặng hơn đối với những trường hợp quản lý kém về ATLĐ. 1.5. Tăng cường An ninh thu nhập và khả năng có việc làm suốt đời cho người lao động Singapore. - Chế độ hưu trí phù hợp. Để đảm bảo cho mọi người dân Singapore có đủ tiền tiết kiệm cho các nhu cầu về hưu trí, nhà ở và chăm sóc sức khoẻ, Chính phủ Singapore đã thành lập Quỹ tiết kiệm trung ương (Central provident Fund). Hệ thống này đảm bảo rằng mỗi người lao động phải tích luỹ thu nhập hàng tháng trong thời gian đi làm và những tiết kiệm này có thể sử dụng để mua nhà, chăm sóc y tế và những nhu cầu tuổi già, đặc biệt là hưu trí. - Hỗ trợ người lao động thu nhập thấp thông qua “ bồi dưỡng việc làm”. Khoản hỗ trợ được thực hiện trong 6 lĩnh vực chính: (1) hỗ trợ công việc thông qua ưu đãi về tiền cho những người lao động và hỗ trợ mua nhà một lần cho người mua lần đầu tiên; (2) hỗ trợ xã hội để người lao động có thể đi làm việc; (3) nâng cao tay nghề để đi tìm việc làm tốt hơn thông qua các chương trình đào tạo nghề phù hợp và dễ tiếp cận;(4) Mở rộng cơ hội việc làm và sắp xếp lại các việc làm hiện có thông qua tự động hoá, đẩy mạnh hình ảnh công việc, xác định lại quy mô trách nhiệm công việc và tiêu chuẩn nghề;(5) Xây dựng niềm tin và hy vọng vào tương lai thông qua các chương trình giáo dục chi phí thấp, hỗ trợ thanh niên không đi học để họ có được năng lực và khả năng có việc làm;(6) Chia sẻ với Uỷ ban quốc gia thông qua việc chia sẻ ngân sách còn dư của chính phủ và mọi người dân Singapore nhằm đem lại phúc lợi tốt hơn cho gia đình có thu nhập thấp. 2. Kinh nghiệm của Hồng Công. - Hồng Công áp dụng Công ước quốc tế số 2 về Thất nghiệp, Công ước số 122 về Chính sách việc làm và Công ước số 142 về Phát triển nguồn nhân lực mà không có bất kỳ một điều chỉnh nào. - Chính sách cốt lõi của chính quyền Hồng Công trong một thời gian dài là thúc đẩy việc làm đầy đủ, năng suất và người lao động có thể tự do lựa chọn việc làm. - Chính sách việc làm là phát triển lực lượng lao dộng được đào tạo chuyên môn, có động lực rõ rệt và có khả năng thích nghi cao. Việc đầu tư vào nguồn nhân lực, tài sản giá trị nhất của Hồng Công là một trong những ưu tiên hàng đầu của Chính phủ. Thông qua việc làm giàu kiến thức và nâng cao kỹ năng của lực lượng lao động, người dân có thể có được việc làm bền vững và năng suất. - Dịch vụ việc làm: Trong ấn phẩm của ILO “Dịch vụ việc làm công trong một thị trường lao động đang chuyển đổi”, các chức năng chính của dịch vụ việc làm này là: + Môi giới việc làm (quá trình sắp xếp để người tìm việc có được việc làm và người sử dụng lao động lấp được việc làm trống). + Cung cấp thông tin thị trường lao động. + Quản lý các chương trình điều tiết thị trường lao động. + Quản lý vấn đề bảo hiểm thất nghiệp. Dịch vụ việc làm công được coi là một lối vào quan trọng để giúp người thất nghiệp đi theo đúng hướng thị trường lao động và các chương trình hỗ trợ khác. Trong Bộ Lao động, PES được cung cấp thông qua 5 bộ phận sau: + Ban dịch vụ việc làm. + Ban thông tin và xúc tiến việc làm. + Ban việc làm thanh niên. + Ban bố trí việc làm đặc biệt: hỗ trợ bố trí công việc cho người tàn tật. Nhằm đối phó với những thách thức về thất nghiệp. Họ đã đưa ra hàng loạt các chưong trình giúp người yếu thế để họ tham gia vào thị trưòng lao động. Các biện pháp đó là: + Bắ._.t đầu tiến hành tin học hoá tất cả các Trung tâm việc làm, bao gồm việc thiết lập một hệ thống máy tính. + Đưa ra chương trình xúc tiến thông tin việc làm để tăng cường quan hệ với người sủ dụng lao động và tiếp cận các việc làm đang trống. + Thiết lập trung tâm dịch vụ việc làm qua điện thoại. + Tái tăng cường và lồng ghép trung tâm việc làm vào các hoạt động của các ban Quan hệ lao động để cung cấp dịch vụ một cửa cho người tìm việc. + Xúc tiến trang web dịch vụ việc làm tương hỗ (IES). +Phát động chương trình bồi dưỡng kiến thức trước khi vào nghề cho thanh niên. + Thiết lập siêu liên kết giữa IES với các trang web việc làm khác và để các cơ sở việc làm tư nhân đăng tin tuyển dụng lên IES. + Lập kế hoạch Đào tạo và Kinh nghiệm làm việc cho thanh niên. + Phát động chương trình việc làm cho người trung niên + Cơ chế phối hợp xét xử về việc làm. - Chương trình việc làm dành cho một số nhóm đối tượng khác. + Chương trình đào tạo kiến thức trước khi làm việc cho thanh niên. Khoá đào tạo được chia làm 4 phần riêng biệt: + Khoá 1: Đào tạo khả năng lãnh đạo, tính kỷ luật và kỹ năng làm việc theo nhóm. + Khoá 2: Tìm hiểu về công việc và kỹ năng làm việc với nhiều người. + Khoá 3: Sử dụng vi tính ở mức độ sơ/trung cấp. + Khoá 4: Các kỹ năng của một công việc cụ thể. + Việc làm cho thanh niên và kế hoạch đào tạo: cải thiện khả năng làm việc cho thanh niên trong độ tuổi 15-24 sau khi đã kết thúc việc học tập ở mức độ thấp thông qua cung cấp cho họ những kinh nghiệm làm việc thực tiễn trong thời gian đào tạo trực tiếp qua công việc từ 6-12 tháng. Qua chương trình này, học viên thực tập được đào tạo về nghề nghiệp và được cung cấp các kỹ năng thông qua làm việc trực tiếp dưới sự hướng dẫn của những người có kinh nghiệm do người chủ sử dụng lao động chỉ định. + Chương trình việc làm cho trung niên: Bộ Lao động dã áp dụng hàng loạt các biện pháp tiên phong nhằm hỗ trợ người có tuổi tìm việc làm. Các biện pháp này bao gồm việc cung cấp dịch vụ ưu tiên cho những người tìm việc từ 50 tuổi trở lên hoặc các dịch vụ cá nhân, ngoài ra Bộ Lao động cũng trtiển khai Chương trình thí điểm sử dụng lại lao động là đối tượng trung niên. Chương trình EPM có mục tiêu ỗ trợ các đối tượng thất nghiệp trên dưới 40 tuổi và đảm bảo việc làm thông qua việc cấp kinh phí trợ cấp đào tạo nhằm khuyến khích người sử dụng lao động tuyển những lao động trên toàn thời gian và đào tạo họ trên cơ sở vừa học vừa làm. + Chưong trình thử việc (WTS): nhằm tăng cường khả năng có việc làm cho người tìm việc có khó khăn đặc biệt trong tìm kiếm việc làm. Đối tượng này bao gồm những người đã đăng ký với Bộ Lao động trong một thời gian dài nhưng vẫn thất nghiệp và những người liên tiếp trượt vòng phỏng vấn xin việc. Những người tham gia chương trình được đưa vào làm những công việc thực sự do các tổ chức tham gia bố trí trong một thời gian thử việc là một tháng. Trong suốt giai đoạn này, sẽ không có quan hệ lao động giữa ngưòi tham gia và tổ chức này. Các tổ chức đựoc khuyến khích để tuyển dụng những người đã tham gia chương trình sau khi họ kết thúc tốt đẹp giai đoạn thử việc. Như vậy Chương trình PES với các dịch vụ hỗ trợ của nhiều NGOs đã hội đủ 6 yếu tố của một chính sách thị trường lao động tích cực: + Thiết lập mối liên kết xã hội. + Trợ cấp bố trí việc làm. + Đào tạo nghề. + Hỗ trợ tìm việc làm. + Thúc dẩy việc làm trong doanh nghiệp, tự tạo việc làm. + Giới thiệu các biện pháp hỗ trợ thanh niên yếu thế. 3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Qua những kinh nghiệm của Singapore và Hồng công được trình bày ở trên, chúng ta cần phải học hỏi kinh nghiệm của các nước bạn ở một số điểm sau: - Thúc đẩy mạnh mẽ nền kinh tế phát triển theo hướng thị trường; xây dựng hệ thống quản lý theo các nguyên tắc của WTO. - Điều chỉnh quy hoạch ngành, đặc biệt là ngành nông nghiệp,theo hướng ưu tiên những ngành có lợi thế và cho xuất khẩu. - Thu hút nguồn vốn và công nghệ từ bên ngoài; chú trọng công nghệ cao; chuẩn hóa chỉ tiêu/thông số kỹ thuật. - Áp dụng hạn ngạch thuế quan đối với một số ngành dễ bị tổn thương hoặc dễ có tác động xấu đến đời sống của người nông dân. - Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển thông qua quỹ phát triển (khuyến khích các doanh nghiệp lớn đầu tư ra nước ngoài, tạo điều kiện giải quyết vấn đề liên quan tới các vụ kiện chống bán phá giá, khuyến khích giao dịch điện tử, hỗ trợ đăng ký thương hiệu, phát triển kết cấu hạ tầng…). - Hỗ trợ cho các doanh nghiệp đầu tàu (trong mắt xích phát triển), tạo điều kiện thúc đẩy liên kết, hợp tác kinh doanh. - Đào tạo nguồn nhân lực thông qua các khóa học bồi dưỡng, công tác truyền thông, phối hợp đạo tạo giữa viện, trường, trung tâm, và bộ ngành. - Bảo vệ môi trường sinh thái thông qua việc xây dựng các khu sinh thái nông thôn, khu phát triển bền vững nông thôn, khu nông nghiệp sạch, khu nông sản sạch, khu nông sản hữu cơ. Kết luận: Kết hợp vai trò của việc làm bền vững đối với phát triển kinh tế xã hội với những vấn đề đặt ra trong nền kinh tế cũng như yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi cần tăng cường tạo việc làm bền vững ở Việt Nam. CHƯƠNG II ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH TẠO VIỆC LÀM BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM I/ TỔNG QUAN VỀ TẠO VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM. 1. Tình hình lao động, việc làm ở Việt Nam. Đến năm 2007, dân số trong độ tuổi lao động của Việt Nam là 53,951 triệu người, tăng 2,2 triệu so với năm 2005, bình quân hàng năm tăng 1,1 triệu người. Cũng trong khoảng thời gian đó, số lao động có việc làm tăng lên 2,06 triệu người, từ 42,527 triệu năm 2005 lên 44,590 triệu năm 2007. Tỷ lệ thất nghiệp cũng có xu hướng giảm liên tục từ 5.3% năm 2005 xuống còn 4.99% năm 2007 và dự báo kế hoạch đến năm 2010 còn 4.51%. Biểu 1.1: Xu hướng thay đổi dân số trong độ tuổi lao động và số người có việc làm. (Nguồn: TCTK, Bộ KH & ĐT) Biểu 1.2: Tỷ lệ lao động thất nghiệp thành thị (%). (Nguồn: - Số thực hiện: Tổng cục thống kê - Số kế hoạch: Bộ Kế hoạch và Đầu tư). Trong những năm vừa qua, nhờ tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định, số lượng việc làm được tạo ra hàng năm tăng nhanh. Kể từ năm 2005, tốc độ tăng việc làm cao hơn tốc độ tăng lực lượng lao động, số việc làm tăng thêm hàng năm đã vượt số lượng tăng thêm của lực lượng lao động. Đó là lý do cơ bản làm giảm tỷ lệ thất ngiệp của khu vực thành thị. Số liệu điều tra lao động, việc làm hàng năm cũng cho thấy, trong giai đoạn này tình hình thiếu việc làm và sử dụng thời gian lao động ở nông thôn được cải thiện. Bên cạnh đó cơ cấu việc làm cũng thể hiện những thay đổi tích cực phản ánh xu hướng biến động hợp lý của nền kinh tế, được cho bởi biểu đồ dưới đây: Biểu 1.3: Cơ cấu việc làm (%). (Nguồn: Tổng cục thống kê, Bộ KH&ĐT) Tỷ trọng các ngành Công nghiệp- Xây dựng và Thương mại - Dịch vụ có xu hướng tăng trong những năm vừa qua, tuy nhiên tốc độ tăng còn chậm và chính điều này phản ánh một tỷ trọng Nông-Lâm-Ngư nghiệp vẫn còn cao, mặc dù tỷ trọng của khu vực này đã có xu hướng giảm nhưng tốc độ còn chậm. Đây cũng chính là một khó khăn trong việc giải quyết việc làm cho lao động mang tính thời vụ, chuyên môn thấp của khu vực này. Trong những năm vừa qua,số lao động được giải quyết việc làm có xu hướng tăng nhưng với tốc độ chậm và dự báo trong những năm sắp tới sẽ có giảm đôi chút, có nhiều nguyên nhân cho những con số dự báo này, đó chính là những khó khăn trong thu hút các nguồn vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng, các khu công nghiệp…Bên cạnh đó còn là trình độ chuyên môn cũng như kỹ năng của người lao động còn thấp gây khó khăn cho công tác đào tạo và tuyển dụng lao động. Biểu 1.4: Số lao động được giải quyết việc làm trong năm (1000 người). (Nguồn: - Số thực hiện: Tổng cục thống kê - Số kế hoạch: Bộ Kế hoạch và Đầu tư). 2. Các chính sách tác động tới tạo việc làm ở Việt Nam. 2.1. Chính sách phát triển nguồn nhân lực. 2.1.1. Chính sách phát triển giáo dục cơ bản. Giáo dục cơ bản có ý nghĩa tạo nền móng cần thiết ban đầu, là tiền đề cần thiết cho phát triển đầo tạo nguồn nhân lực và qua đó góp phần tích cực đối với quá trình tạo việc làm cho người dân. Vì vậy, với việc đổi mới về nội dung, yêu cầu của chính sách việc làm, chính sách phát triển giáo dục cũng phải thay đổi tương ứng. Trình độ phát triển giáo dục phổ thông (tỷ lệ biết chữ, trình độ phổ cập giáo dục - số năm giáo dục bắt buộc, tỷ lệ đi học của trẻ em trong các nhóm tuổi của mỗi cấp học…) được coi là nhân tố thuận lợi hay trở ngại cho việc đầu tư, hoạt động kinh doanh và giải quyết việc làm. Chính sách phát triển giáo dục cơ bản với trọng tâm là chính sách phổ cập giáo dục và xoá mù chữ đã nâng mục tiêu từ phổ cập tiểu học vào năm 2000 lên phổ cập tung học cơ sở vào năm 2010 và ở những nơi có điều kiện thuận lợi sẽ thực hiện phổ cập trung học phổ thông. Với mục tiêu chính sách như vậy, trình độ học vấn của dân số và lực lượng lao động biến đổi theo hướng giảm dần tỷ lệ không biết chữ, giảm nhanh tỷ lệ tốt nghiệp tiểu học và tăng nhanh tỷ lệ tốt nghiệp trung học cơ sở và trung học phổ thông. Biểu 2.2: Trình độ học vấn người lao động theo các cấp học (%). Trình độ học vấn 2000 2004 2006 Tổng số 100.00 100.00 100.00 Không biết chữ 3.97 4.24 3.5 Chưa tốt nghiệp cấp I 16.49 15.48 Tốt nghiệp tiểu học 29.29 31.51 Tốt nghiệp THCS 33.01 30.40 26.85 Tốt nghiệp PTTH 17.24 18.37 23.5 (Nguồn: Điều tra lao động – việc làm hàng năm). 2.1.2. Chính sách phát triển đào tạo và dạy nghề. Phương hướng chung là khuyến khích tăng nhanh quy mô đào tạo ở tất cả các cấp trình độ từ dạy nghề ngắn hạn, trung học chuyên nghiệp, đào tạo cao đẳng, đại học và sau đại học. Trong những năm vừa qua quy mô tuyển mới ở tất cả các cấp đào tạo tăng khá nhanh. Biểu 2.3: Quy mô tuyển mới ở tất cả các cấp giai đoạn 2001-2007 (nghìn người). 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 I.Quy mô tuyển mới * 1. Tuyển mới dạy nghề 887,3 1.005,0 1.074,1 1.153,0 1.181,0 1.375,8 1.602.8 2. Tuyển mới THCN 148 166 194 250 267 320 384 3. Tuyển mới ĐH và CĐ 250 282 300 320 346 387 434 4. Tuyển mới sau đại học 5,9 8,8 11,5 14,5 15,6 16.8 18.2 II.Quy mô sinh viên ** 1. Trung học, chuyên nghiệp 271,2 389,3 360,4 465,3 535,5 855,5 1.239,5 2. Đại học, cao đẳng 974,1 1.020,7 1.131,0 1.319,8 1.430,6 1.817,6 2.251,6 (Nguồn: Bộ KH và ĐT (*), Niên giám thống kê (**) Bên cạnh tăng nhanh số lượng, để đáp ững yêu cầu tìm kiếm việc làm của người lao động và nhu cầu thực tế phát triển kinh tế, xã hội, cơ cấu đào tạo (theo trình độ đào tạo và theo ngành nghề đào tạo) được đổi mới theo hướng tăng nhanh hơn quy mô dạy nghề và từng bước điều chỉnh tăng quy mô đào tạo các ngành nghề công nghệ, kỹ thuật và nông nghiệp. Đáng chú ý là sự chuyển biến có tính nhảy vọt trong đào tạo nghề: * Về quy mô và cơ cấu đào tạo nghề. - Ngày càng có nhiều người học nghề, tốc độ tăng hàng năm là 6.5%.Với kết quả này, đến cuối năm 2007, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề khoảng 25%. Năm 2002, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 48/2002/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch mạng lưới các trường dạy nghề đến năm 2010. Trên cơ sở đó, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương kiện toàn hệ thống dạy nghề, thành lập thêm nhiều cơ sở dạy nghề, đặc biệt là cơ sở dạy nghề gắn với địa bàn dân cư, đào tạo theo các ngành nghề phù hợp với nhu cầu lao động của địa phương; phát triển cơ sở dạy nghề tư nhân, dạy nghề tại các doanh nghiệp, kèm cặp, truyền nghề tại làng nghề. Cho đến cuối năm 2007 đã thành lập mới hơn 100 trường dạy nghề, trong đó có 20 trường thuộc Bộ, ngành, 10 trường thuộc Tổng công ty, 40 trường công lập địa phương và còn lại là ngoài công lập. Xoá tình trạng các tỉnh trắng trường nghề ở các địa phương. - Củng cố và đầu tư nâng cao năng lực các trung tâm dạy nghề: thành lập mới 288 trung tâm dạy nghề, cho đến nay số lượng trung tâm dạy nghề trên cả nước là trên 400 trung tâm. - Phát triển các lớp dạy nghề trong các trường cao đẳng – trung học chuyên nghiệp, doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh tư nhân và các làng nghề. Hiện nay có trên 200 trường cao đẳng và THCN tham gia đào tạo nghề và hàng trăm cơ sở dạy nghề khác. Mạng lưới cơ sở dạy nghề phát triển đa dạng, từng bước dáp ứng nhu cầu lao động có nghề cho thị trường lao động, nhất là lao động có kỹ thuật cao cung cấp cho các ngành kinh tế mũi nhọn. Đồng thời, mở rộng quy mô dạy nghề ngắn hạn cho người lao động, nhất là lao động nông nghiệp, nông thôn, người dân tộc thiểu số, bộ đội xuất ngũ, góp phần thúc đẩy chuyển dich cơ cấu lao động, thực hiện công bằng xã hội trong dạy nghề. Như vậy, đến nay tất cả các địa phương đều đã có trường dạy nghề; hệ thống các truờng dạy nghề quân đội và ở một số ngành kinh tế như đóng tàu, gốm sử, xi măng phát triển mạnh; số lượng cơ sở dạy nghê ngoài công lập tăng mạnh; mạng lưới trung tâm dạy nghề cấp huyện từng bước đáp ứng được nhu cầu học nghề của lao động nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động, tạo việc làm và xoá đói giảm nghèo. * Về nâng cao chất lượng và hiệu quả. Chất lượng dạy nghề trong những năm qua đã có bước chuyển dịch tích cực nhằm gắn kết hiệu quả hơn với quá trình giải quyết việc làm. Tuy nhiên nhìn chung chất lượng dạy nghề còn chưa sát với nhu cầu thực tế và chưa thể dáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thị trường lao động. 2.2. Chính sách về phát triển thị trường lao động. Có thể nói, hiện tại thị trường lao động ở Việt Nam còn ở trong giai đoạn hình thành nên còn nhiều khuyết tật (kém phát triển, bị chia cắt khá mạnh giữa các khu vực và theo lãnh thổ, thiếu khuôn khổ pháp lý…). Chính sách việc làm thúc đẩy mạnh phát triển thị trường lao động trong các khu vực phi nông nghiệp (công nghiệp-xây dựng và dịch vụ), còn đối với khu vực nông-lâm-ngư kết quả tác động còn rất hạn chế. Với hình thức kinh tế hộ gia đình quy mô nhỏ còn rất phổ biến. Trong tổng số người có việc làm, thì tỷ lệ làm thuê nông-lâm-ngư nghiệp chỉ chiếm khoảng 8%, tỷ lệ làm thuê phi nông nghiệp là 25%, còn lại 67% là tự làm, đồng thời mức độ phát triển thị trường lao động, tính theo tỷ lệ người làm công ăn lương, khác nhau khá nhiều giữa các vùng và địa phương. Để đẩy nhanh sự phát triển của thị trường lao động, thời gian qua Chính phủ đã có nhiều biện pháp thúc đẩy các thể chế, ban hành các công cụ và tăng cường hoạt động của thị trường lao động: * Dịch vụ việc làm. Đến năm 2007, trên phạm vi cả nước có hơn 200 Trung tâm giới thiệu việc làm và trên 3000 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tư vấn, giới thiệu việc làm. Số lượng và chủng loại các loại dịch vụ tư vấn, giới thiệu việc làm do các Trung tâm và doanh nghiệp thực hiện khá lớn và đa dạng. Tuy nhiên, chất lượng dịch vụ việc làm vẫn được đánh giá là chưa cao và chưa hiệu quả, do thiếu thông tin về thị trường lao động, thiếu mối liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp và cơ sở đào tạo. * Hội chợ việc làm. Cùng với hoạt động của các Trung tâm giới thiệu việc làm và các doanh nghiệp dịch vụ việc làm, một loại hình công cụ của thị trường lao động được tổ chức và hoạt động có hiệu quả là Hội chợ việc làm. Kể từ năm 2001 đến nay đã có hơn 100 Hội chợ việc làm được tổ chức ở nhiều địa phương trên cả nước. Ngoài hội chợ việc làm tổng hợp, nhiều Hội chợ việc làm chuyên ngành và dành riêng cho từng nhóm đối tượng đã được tổ chức. Tại các Hội chợ, hàng vạn người đã được tư vấn về đào tạo nghề và được giới thiệu việc làm và tìm kiếm được việc làm. * Hình thành trung tâm thông tin việc làm. Các trung tâm thông tin việc làm, các trang Web người tìm việc, việc tìm người, các trang báo giới thiệu việc làm đang được hình thành ngày một nhiều và đóng góp ngày càng to lớn cho sự phát triển của thị trường lao động. Một ví dụ điển hình là trong khuôn khổ dự án thúc đẩy phát triển thị trường lao động, việc xây dựng cơ sở dữ liệu và thông tin về việc làm và thị trươờng lao động đã được tổ chức thí điểm và hoạt động có hiệu quả ở một số địa phương. Tuy nhiên, mới chỉ thực hiện được việc thu thập và công bố thông tin về cầu lao động, mà chưa cung cấp được thông tin về cung lao động. Trong những năm tới, số lượng lao động tham gia vào thị trường lao động sẽ tiếp tục tăng và thị trường lao động ngày càng đa dạng hơn. Vì vậy cần có những quy định cụ thể hướng dẫn và điều tiết kịp thời các hoạt động của thị trường lao động nhằm tăng hiệu quả cung - cầu lao động, cũng như bảo vệ quyền lợi, xác định rõ trách nhiệm của những bên tham gia vào thị trường lao động. Quản lý tốt thị trường lao động có ý nghĩa quan trọng trong quá trình sắp xếp việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp và thúc đẩy tính cơ động, linh hoạt của lực lượng lao động, cũng như ngăn chặn và khắc phục nhiều hậu quả kinh tế - xã hội khác. 2.3. Chính sách về môi trường và điều kiện lao động. Môi trường và điều kiện làm việc là một trong những nội dung quan trọng của chính sách lao động, việc làm. Trên thực tế, môi trường và điều kiện lao động được thể hiện trong các văn bản chính sách và quy định của Nhà nước về an toàn, bảo hộ lao động và vệ sinh lao động. Tuy nhiên , có thể nói, sự quan tâm và đầu tư nhằm cải thiện môi trường và điều kiện lao động hiện còn chưa tương xứng với yêu cầu và chưa theo kịp những tiến bộ về khoa học, công nghệ sản xuất và vệ sinh, an toàn lao động. Bộ máy tổ chức và nhân lực làm việc trong lĩnh vực vệ sinh, an toàn lao động còn mỏng và rất thiếu. Tình trạng số vụ và số người bị tai nạn lao động liên tục tăng lên trong những năm qua là bằng chứng rõ nhất về việc chưa thực sự quan tâm đầy đủ và thường xuyên vấn đề môi trường và điều kiện lao động. Nguyên nhân chính của tình hình này là: - Do sự bức bách và cấp thiết về tạo việc làm giải quyết việc làm cho người lao động mà chủ yếu quan tâm nhiều hơn đến nội dung có được thêm nhiều việc làm, giải quyết việc làm được cho nhiều người mà chưa chú ý đến điều kiện lao động, tức là mối quan tâm, coi trọng về số lượng việc làm mà chưa chú ý đến chất lượng của việc làm (xét trên khía cạnh môi trường và điều kiện làm việc). - Thiếu vốn đầu tư: Vì nguồn vốn đầu tư hạn chế, còn thiếu nên các dự án đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất thường chỉ tập trung vào dây chuyền công nghệ sản xuất sản phẩm, mà ít hoặc chưa chú ý dành vốn đầu tư hoặc chỉ đầu tư ở mức tối thiểu cho những giải pháp về môi trường và điều kiện lao động. Thậm chí vấn đề môi trường và điêù kiện lao động chưa được đề cập một cách đầy đủ ngay từ giai đoạn thiết kế công nghệ hoặc nếu có thì cũng bị cắt xén trong quá trình thực thi. - Khung khổ pháp lý chưa đầy đủ và còn lỏng lẻo. Chưa có những quy định cụ thể, đầy đủ về đảm bảo môi trường và điều kiện lao động đối với các dự án đầu tư cũng như đối với các cơ sở sản xuất, dịch vụ đang hoạt động. Quy định về thưởng, phạt chưa đủ mạnh. Bộ máy làm công tác trong lĩnh vực vệ sinh, an toàn lao động còn thiếu, trình độ hạn chế, chưa theo kịp thực tế, công tác thanh tra, giám sát còn yếu, chưa được thực hiện thường xuyên. 2.4. Chính sách việc làm. 2.4.1. Các chính sách vĩ mô về tạo việc làm. Đó là những chính sách về tạo việc làm và điều tiết trạng thái việc làm trên bình diện vĩ mô. Mục tiêu của những chính sách thuộc nhóm này là tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động và thúc đẩy chuyển dich cơ cấu việc làm theo hướng tiến bộ, hiện đại nhằm nâng cao năng suất lao động xã hội, cải thiện đời sống của người lao động. Nhóm chính sách này thể hiện những chủ trương, đường lối lớn, cơ bản của nhà nước, là những định hướng lớn, được xác định cho thời kỳ kế hoạch trung hạn và dài hạn phát triển kinh tế - xã hội và lao động việc làm của đất nước. Các chính sách vĩ mô về việc làm quan trọng bao gồm: - Chính sách đa dạng hoá việc làm và theo đó là đa dạng hoá các nguồn vốn và chủ thể tạo việc làm: Đó là những chính sách khuyến khích và hỗ trợ tạo việc làm tác động đến tất cả các chủ thể trong xã hội tạo việc làm cho người lao động. - Chính sách đầu tư nhằm khuyến khích, hỗ trợ tạo việc làm: Nhà nước chủ động và tích cực trực tiếp tạo việc làm trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân, trong đó ưu tiên các ngành có tác dụng kích thích và lan toả đến các thành phần kinh tế khác tạo việc làm và chính sách hổ trợ các thành phần kinh tế, mọi người dân tự tạo việc làm. Nội dung chính của chính sách không chỉ nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi mà còn hỗ trợ về tài chính. - Chính sách về cơ cấu việc làm: Thông qua chính sách đầu tư, theo đó Nhà nước trực tiếp đầu tư và có những giải pháp khuyến khích hoặc hạn chế đầu tư vào những ngành, lĩnh vực, vùng lãnh thổ…để tạo việc làm sẽ có ý nghĩa quyết định và tác động liên ngành, liên vùng nhằm tạo ra sự chuyển dịch tiến bộ về cơ cấu việc làm với ba hình thức cơ cấu chính là cơ cấu việc làm theo ngành, cơ cấu việc làm trang bị theo kỹ thuật và cơ cấu việc làm theo khu vực lãnh thổ. 2.4.2. Các chính sách cụ thể về việc làm. Đó là những chính sách, giải pháp cụ thể trực tiếp tạo việc làm và hỗ trợ về tạo việc làm. Những chính sách này được thể hiện trong các chương trình hành động, các kế hoạch, các dự án cụ thể được soạn thảo và thực hiện trong từng thời kỳ nhất định. Ví dụ, Quyết định 120/QĐ-TTg của thủ tướng Chính phủ về Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và xoá đói giảm nghèo thời kỳ 2006-2010, các chính sách đối với lao động trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước…Ngoài ra, còn nhiều chính sách quan trọng khác có liên quan đến những người tham gia vào quá trình tạo việc làm, điều tiết các mối quan hệ lao động như chính sách tiền lương tối thiểu và chính sách quản lý tiền lương, chính sách bảo hiểm xã hội, những quy định về bảo hộ lao động, an toàn và vệ sinh lao động. 2.4.3. Các chương trình hỗ trợ người thất nghiệp. - Trợ cấp cho những người mất việc làm. Bộ luật lao động năm 1994 (được sửa đổi năm 2002) và các văn bản dưới luật quy định chế độ trợ cấp mất việc làm và trợ cấp thôi việc như sau: + Trợ cấp việc làm: Trong trường hợp doanh nghiệp thay đổi cơ cấu, thay đổi công nghệ mà bị mất việc làm, người lao động được trợ cấp, gọi là trợ cấp mất việc làm, theo đó cữ mỗi năm làm việc được hưởng một tháng lương. Khoản trợ cấp trên do người chủ sử dụng lao động trả, nguồn được lấy từ quỹ dự phòng của doanh nghiệp được trích lập từ lợi nhuận của doanh nghiệp. + Các trường hợp thôi việc do chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động đã làm việc thường xuyên trong doanh nghiệp từ một năm trở lên thì cứ mỗi năm làm việc, ngưòi lao động được hưởng trợ cấp thôi việc bằng 50% tháng lương. Nguồn kinh phí chi trả trợ cấp thôi việc này được hạch toán vào giá thành hoặc phí lưu thông. Gần đây, thực hiện chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, Chính phủ đã ban hành Nghị định 41/2002/NĐ-CP ngày 11-4-2002, theo đó Chính phủ lập quỹ xử lý lao động dôi dư với số tiến là 6000 tỷ đồng để chi trả cho người lao động. Theo chương trình này, tất cả những người lao động mấ việc làm đều được hưởng một khoản trợ cấp tuỳ thuộc theo thời gian công tác, mức lương đang hưởng và được đóng BHXH. - Hỗ trợ đào tạo và đào tạo lại cho người lao động bị mất việc làm. Bộ luật lao động quy định doanh nghiệp có trách nhiệm đào tạo lại chi người lao động bị mất việc để họ tìm việc làm mới. Nghị định 41/2002/NĐ-CP ngày 11-4-2002 quy định ngoài khoản trợ cấp mất việc làm và cho về hưu sớm, lao động dôi dư còn được tham gia vào các chương trình đào tạo miễn phí tối đa 6 tháng tại các trung tâm dạy nghề do Sở Lao động – Thương binh – Xã hội chỉ định để chuyển sang làm các công việc khác cho phù hợp. (Thông tư số 19/2004/TT-BLĐTBXH ngày 22/11/2004 về hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 41/2002/NĐ-CP ngày 11/4/2002 của chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước đã được sửa đổi bổ sung tại Nghị định số 155/2004/NĐ-CP ngày 10/8/2004 của Chính phủ). + Dịch vụ việc làm. Với hệ thống hơn 200 Trung tâm giới thiệu việc làm của Nhà nước trong cả nước, hàng năm tư vấn nghề, tư vấn việc làm cho trên 60 vạn lượt người lao động, giới thiệu cung ứng lao động cho gần 50 vạn lao động, trong đó có cả người thất nghiệp. Kể từ năm 2000, hàng trăm trung tâm dịch vụ việc làm tư nhân đã được thành lập và hoạt động theo luật doanh nghiệp đã tham gia cung cấp các dịch vụ việc làm cho người lao động. + Hỗ trợ cho vay vốn để giải quyết việc làm. Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm cung cấp các khoản vay lãi suất ưu đãi để người lao động tự tạo việc làm và hỗ trợ đào tạo nghề nghiệp. Hàng năm, Quỹ này đã tạo việc làm cho từ 30-35 vạn lao động, trong đó có người thất nghiệp, người mất việc làm. Ngoài ra người thất nghiệp có thể tham gia vào các chương trình tín dụng, hỗ trợ việc làm của các tổ chức phi chính phủ, của các tổ chức chính trị - xã hội. 3. Đánh giá chung về tạo việc làm ở Việt Nam. Lao động, việc làm là một trong những lĩnh vực quan trọng đối với mỗi quốc gia bởi con người vừa là nguồn lực, vừa là mục tiêu của phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt đối với các nước đang phát triển có lực lượng lao động lớn như Việt Nam, giải quyết việc làm cho ngưòi lao động và phát triển thị trường lao động là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, góp phần tích cức vào việc hình thành thể chế kinh tế thị trường, đồng thời tận dụng lợi thế để phát triển, tiến kịp khu vực và thế giới. - Các cơ chế, chính sách về lao động-việc làm được kịp thời đánh giá, bổ sung và sửa đổi đảm bảo ngày càng thông thoáng, phù hợp với cơ chế thị trường và hội nhập, đảm bảo quyền và lợi ích của người lao động, người sử dụng lao động và tuân thủ các quy luật kinh tế thị trường. - Vai trò của Nhà nước chuyển từ tạo việc làm trực tiếp sang gián tiếp thông qua các chính sách, nguồn lực hỗ trợ, đặc biệt thông qua Chương trình mục tiêu Quốc gia về việc làm. Trong những năm qua, Chương trình đã có sự lồng ghép hiệu quả với các Chương trình phát triển kinh tế - xã hội khác, thực hiện các dự án về tín dụng việc làm với lãi suất ưu đãi từ Quỹ quốc gia về việc làm góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, gắn dạy nghề với tạo việc làm, thúc đẩy thị trường lao động phát triển. - Không chỉ thúc đẩy phát triển cung, cầu lao động,thực hiện chủ trương của Đảng về phát triển thị trường lao động, Nhà nước ban hành nhiều chính sách khuyến khích tạo thuận lợi phát triển các hoạt động giao dịch trên thị trường. Đến nay đã có hơn 200 Trung tâm giới thiệu việc làm và hàng nghìn doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tư vấn, giới thiệu việc làm cho hàng triệu lượt người. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, vấn đề lao động, việc làm vẫn là một vấn đề bức xúc, còn tồn tại nhiều hạn chế cần khắc phục: - Các văn bản, chính sách về lao động, việc làm ra đời nhưng việc ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện chậm, chưa đầy đủ, chưa thực sự theo sát thực tiễn, hiệu quả triển khai thực hiện chính sách còn chậm, lúng túng và thấp; một số địa phương còn lúng túng trong việc triển khai và chấp hành các văn bản của cơ quan quản lý cấp trên. Nhìn chung công tác thanh tra, kiểm tra thực hiện chính sách chưa được thường xuyên, chỉ mang tính hình thức ảnh hưởng không tốt đến việc giải quyết việc làm và phát triển thị trường lao động. - Chất lượng việc làm chưa cao tính ổn định, bền vững trong việc làm thấp, hiệu quả tạo việc làm chưa cao; mặc dù cơ cấu lao động ngày càng chuyển dịch theo hướng tích cực nhưng lao động chủ yếu vẫn trong lĩnh viực nông nghiệp, có đến 75% lực lượng lao động tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn gây sức ép lớn về giải quyết việc làm, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập. Với tốc độ này thì để đạt mục tiêu đặt ra là đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại đòi hỏi phải có sự nỗ lực rất lớn của tất cả các cấp, các ngành. Nhu cầu việc làm vẫn là một vấn đề bức xúc của xã hội do cung vẫn lớn hơn cầu rất nhiều, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị còn cao, ở nông thôn dư thùa lao động còn lớn. - Lao động Việt Nam tuy đông nhưng chất lượng chưa cao, nhìn chung, trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động Việt Nam vẫn còn yếu về chất lượng, thiếu về số lượng, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói chung và doanh nghiệp nói riêng. Có tới gần 70% lao động Việt Nam chưa qua đào tạo, còn có một bộ phận lao động đã qua đào tạo hoặc sủ dụng không đúng ngành nghề đào tạo hoặc phải đào tạo lại mới có thể làm việc trong các doanh nghiệp, thiếu nghiêm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao, lao động dịch vụ cao cấp (tài chính, ngân hàng, du lịch, bán hàng…); giữa thành thị và nông thôn vẫn còn một khoảng cách nhất định. Mặt khác, hầu hết người lao động của nước ta hiện nay còn mang thói quen, tập quán sản xuất nhỏ, thiếu năng động và sáng tạo, chưa được đào tạo về kỷ luật tác phong lao động công nghiệp; chưa được trang bị kiến thức và kỹ năng làm việc theo nhóm. Với những khó khăn như vây, Nhà nước cần có những chính sách quyết liệt hơn nhằm tạo việc làm cho người lao động trong bối cảnh nền kinh tế ngày càng hội nhập sâu và rộng vào nền kinh tế thế giới. III/ THỰC TRẠNG VỀ TẠO VIỆC LÀM BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM. 1. Khuyến khích các quyền cơ bản tại nơi làm việc. Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam đã khẳng định lao động là một quyền cơ bản và mọi công dân đều có quyền có việc làm. Quyền này được xác định một cách cụ thể hơn trong Bộ luật lao động. Điều 5 quy định “ mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp, không bị phân biệt bởi về giới tính, dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo. Cấm ngược đãi người lao động; cấm cưỡng bức lao động dưới bất kỳ hình thức nào”. - Quyền lập hội. Hiến pháp 1992 (điều 69) nêu rõ: “mọi công dân có quyền tự do thể hiện ý kiến, thông tin, lập hội và biểu tình theo quy định của luật pháp”. Bộ luật lao động 1995 (điều 7, khoản 2) nêu rõ “Mọi người lao động có quyền thành lập, tham gia công đoàn theo quy định của luật công đoàn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ”. Hiện tại luật về hội đang trong quá trình hoàn thiện để trình Quốc hội thông qua. - Quyền ký thoả ước lao động tập thể. Luật pháp Việt Nam quy định việc ký kết thoả ước lao động tập thể phải đảm bảo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, công khai và tuân theo luật pháp. Một số kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy 100% doanh nghiệp nhà nước có tổ chức công đoàn, song._.oạch và đầu tư bố trí nguồn lực. 2. Định hướng tạo việc làm bền vững trong thời gian tới. 2.1 Định hướng thực hiện có hiệu quả các quyền tại nơi làm việc - Tự do hiệp hội: tăng cường hơn nữa vai trò của các tổ chức công đoàn, trong đó người lao động nắm các vị trí chủ chốt trong công đoàn nhằm tham gia vào các quyết định của doanh nghiệp liên quan đến quyền lợi của người lao động. - Xoá bỏ lao động cưỡng bức: thực thi quyết liệt hơn pháp luật lao động liên quan đến vấn đề lao động cưỡng bức nhằm đảm bảo thực hiện một cách đầy đủ các quyền con người. - Xoá bỏ lao động trẻ em: Trong những năm tới cần hoàn thiện về các chính sách, luật pháp liên quan đến vấn đề trẻ em để các em có điều kiện thực hiện đầy đủ về các quyền trẻ em và có những biện pháp quyết liệt với những cơ sở sử dụng lao động trẻ em. - Xoá bỏ phân biệt đối xử: Nhà nước cũng như các doanh nghiệp cần quan tâm hơn đến việc hạn chế sự phân biệt đối xử người lao động thuộc các thành phần khác nhau để để tạo ra các cơ hội việc làm tốt hơn giúp ổn định cuộc sống. 2.2 Định hướng tạo và giải quyết việc làm trong thời gian tới theo 3 hướng sau đây: - Thứ nhất, giải quyết việc làm thông qua các chương trình phát triển kinh tế-xã hội: Thực hiện chủ trương và chính sách phát triển mạnh các thành phần kinh tế; đổi mới, sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nước, phát triển kinh tế tập thể, khuyến khích kinh tế tư nhân và kinh tế hộ gia đình, thu hút vốn đầu tư ngoài nước. Đây là điều kiện cơ bản nhất để tạo việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động. Bên cạnh đó, nhiều chương trình kinh tế trọng điểm cần được triển khai thực hiện, như chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn với các mô hình kinh tế trang trại, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, nuôi trồng, khai thác và chế biến thuỷ hải sản; xây dựng và phát triển các khu công nghiệp, khu công nghệ cao; xây dựng các công trình trọng điểm như đường Hồ Chí Minh, thuỷ điện Sơn La, lọc dầu Dung Quất đã mở ra nhiều cơ hội việc làm. - Thứ hai, khi chuyển sang kinh tế thị trường, có một bộ phận người lao động, do những khó khăn nhất định, khó hội nhập được vào thị trường lao động. Đó là những người mất việc, không có việc làm và thiếu việc làm, người lao động dôi dư khi sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước, người tàn tật và các đối tượng yếu thế khác. Nhằm hỗ trợ các đối tượng này, Chính phủ cần xây dựng và triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm. Hoạt động chính của Chương trình tập trung vào triển khai Quỹ Quốc gia hỗ trợ việc làm, hiện đại hoá và nâng cao năng lực của các Trung tâm giới thiệu việc làm, tổ chức tốt hệ thống thông tin thị trường laođộng và đào tạo, tập huấn cho cán bộ quản lý lao động- việc làm. - Thứ ba, là đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Đây trở thành một hướng quan trọng của chương trình việc làm, tăng thu nhập và xoá đói, giảm nghèo. Để thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước là tạo nhiều việc làm bền vững và chất lượng cao cho người lao động, phát huy tối đa nhân tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cần có hệ thống chính sách và giải pháp đồng bộ. Do vậy, cần nghiên cứu và tiếp tục hoàn thiện thể chế phát triển thị trường lao động, các chính sách về việc làm, dạy nghề; có các chính sách khuyến khích đầu tư tạo việc làm và tự tạo việc làm; các chính sách hỗ trợ, bảo vệ người lao động trong trường hợp mất việc làm, tìm việc làm để ổn định cuộc sống. 2.3 Định hướng phát triển hệ thống bảo trợ xã hội. - Đổi mới chính sách trợ giúp xã hội theo hướng bao phủ toàn bộ đối tượng bảo trợ xã hội. Để thực hiện định hướng này trong giai đoạn tới cần giải quyết tốt hai vấn đề: Thứ nhất là bổ sung thêm đối tượng trợ giúp cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn; Thứ hai là nghiên cứu rà soát lại tiêu chí xác định đối tượng trợ giúp, đối tượng trợ cấp xã hội theo hướng linh hoạt hơn, mềm dẻo hơn, loại bỏ những điều kiện cứng (đủ) mà quan tâm nhiều hơn đến điều kiện thực tế (cần) để thực sự bao phủ hết số đối tượng có hoàn cảnh khó khăn. - Đổi mới chính sách trợ giúp xã hội theo hướng nâng cao mức trợ cấp xã hội để có sự tác động mạnh đến chất lượng cuộc sống của đối tượng. Đảm bảo mức trợ cấp xã hội hợp lý, phải dựa vào chi phí tối thiểu cần thiết để duy trì cuộc sống cho một người một tháng. Mức này ít nhất phải bằng chuẩn nghèo áp dụng cho từng thời kỳ. Nhà nước cũng chỉ nên quy định mức chuẩn trợ cấp xã hội tối thiểu và cho phép các địa phương có quyền chủ động xác định mức cụ thể cho phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa phương, nhưng không thấp hơn mức trợ cấp xã hội tối thiểu do nhà nước quy định. Mặt khác cần khuyến khích các địa phương nâng cao mức trợ cấp xã hội cho các đối tượng bảo trợ xã hội - Cùng với việc đổi mới chính sách trợ cấp xã hội, cũng cần đổi mới toàn bộ các cơ chế, chính sách giúp các đối tượng bảo trợ xã hội trên các lĩnh vực liên quan đến nhu cầu bức xúc của từng nhóm đối tượng bảo trợ xã hội như: trợ giúp khám chữa bệnh, chỉnh hình phục hồi chức năng; học văn hoá, học nghề, tạo việc làm; trợ giúp hoạt động văn hoá thể thao, vui chơi giải trí; tiếp cận các công trình công cộng, tiếp cận giao thông; tiếp cận công nghệ thông tin…Về nguyên tắc các cơ chế, chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội phải hoà nhập với các cơ chế, chính sách hiện có của Nhà nước. Mặt khác cũng tiến tới cơ chế chi trả trực tiếp hoặc trực tiếp thanh toán, chi trả dịch vụ trợ giúp (bảo hiểm y tế, trợ giúp học văn hóa, học nghề…) không có sự phân biệt dịch vụ đó do các tổ chức của Nhà nước cung cấp hay tư nhân cung cấp. - Đẩy mạnh hoàn thiện hệ thống chính sách tiến tới hình thành các Luật, các Luật này sẽ điều chỉnh các đối tượng xã hội cần trợ giúp đặc biệt. Các nội dung chính sách được quy định cụ thể trong Luật này là bảo vệ, chăm sóc, hỗ trợ các đối tượng bảo trợ xã hội phát triển toàn diện cả về thể lực, nhân cách và trí tuệ; Đồng thời cũng tạo điều kiện cho các đối tượng bảo trợ xã hội tham gia đầy đủ và bình đẳng vào các hoạt động xã hội như những người bình thường khác. - Phát triển hệ thống các cơ sở bảo trợ xã hội theo hướng tiêu chuẩn hoá và đa dạng hoá thành phần tham gia; nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở bảo trợ xã hội. - Hoàn thiện cơ chế tài chính và cơ chế huy động nguồn lực. Cần phải xây dựng cơ chế tài chính minh bạch hơn cho các địa phương thực hiện. Cần phải đẩy mạnh huy động đa nguồn, nguồn ngân sách ưu tiên cho thực hiện chính sách trợ cấp, các nguồn huy động khác cho thực hiện các chương trình và dự án. 2.4 Định hướng nâng cao chất lượng đối thoại xã hội. Trước thực trạng tranh chấp lao động và đình công hiện nay, chúng ta cần phải nỗ lực hơn nữa trong công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật lao động đến các doanh nghiệp và người lao động, tăng cường hơn nữa sự tham gia của Chính phủ, các Bộ, Ngành, địa phương trong việc xây dựng các cơ chế, chính sách và giải pháp nhằm chấm dứt tình trạng đình công, xây dựng quan hệ lành mạnh trong các doanh nghiệp góp phần ổn định, phát triển kinh tế - xã hội. III/ GIẢI PHÁP TĂNG CƯÒNG TẠO VIỆC LÀM BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM. 1. Giải pháp thực hiện hiệu quả các quyền tại nơi làm việc. - Tăng cường hơn nữa sự tham gia của người lao động vào trong các tổ chức công đoàn, trở thành các cổ đông lớn của doanh nghiệp, từ đó đóng góp vào những quyết định của doanh nghiệp liên quan đến lợi ích doanh nghiệp và quyền lợi người lao đông. - Nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung các điều khoản của Bộ Luật Lao động, đưa ra các biện pháp cứng rắn và quyết liệt hơn nhằm hạn chế một cách tối đa tình trạng lao động bị cưỡng bức trong các cơ sở sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp. - Tạo ra ngày càng nhiều việc làm tốt hơn, xoá bỏ tình trạng phân biệt đối xử người lao động giúp họ hoà nhập tốt hơn vào cộng đồng và tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh, giúp ổn định đời sống. - Cần có sự hỗ trợ về mặt kinh phí, tạo điều kiện cho trẻ em được đến trường, các địa phương cần có sự quan tâm, động viên thường xuyên đến các gia đình có trẻ em có hoàn cảnh khó khăn nhằm đưa các em thoát khỏi tình trạng bóc lột sức lao động. 2. Giải pháp về tạo việc làm. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển thị trường lao động là tất yếu khách quan và có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng. Đây là một thị trường không thể thiếu trong hệ thống đồng bộ các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo quan niệm của thế giới, thậm chí chỉ một yếu tố của thị trường lao động là tiền lương thôi, nếu tiền lương không theo định hướng thị trường và do thị trường quyết định, thì nền kinh tế đó chưa thể được công nhận là nền kinh tế thị trường. Thị truờng lao động liên quan đến phát triển con người, giải phóng và phát huy triệt để tiềm năng, vốn con người, tạo nhiều việc làm, giảm thất nghiệp, cải thiện đời sống người lao động; đồng thời đảm bảo ổn định kinh tế xã hội trên cơ sở xây dựng mối quan hệ lao động lành mạnh, hợp tác, hài hoà lợi ích, đồng thuận xã hội. Hoàn thiện thể chế thị trường lao động bao gồm nhiều nội dung: 2.1 Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về lao động và thị trường lao động. Cơ chế, chính sách và pháp luật về lao động và thị trường lao động cần hướng vào phát triển một thị truờng lao động linh hoạt, minh bạch, liên thông, không còn rào cản; tạo điều kiện để doanh nghiệp dễ dàng tuyển được người lao động, người lao động dễ dàng tìm được việc làm; các thoả thuận về việc làm, hợp đồng lao động, tiền lương, tiền công theo nguyên tắc thị trường; đảm bảo cung lao động đáp ứng được cầu lao động trên thị trường; đảm bảo có các lưới an toàn cho người lao động tránh rủi ro trong cơ chế thị trường. Triển khai tốt các luật đã ban hành như Luật Dạy nghề, Luật đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Luật Bảo hiểm xã hội, nghiên cứu trình ban hành các luật mới như Luật Việc làm, Luật Tiền lương tối thiểu, sửa đổi bổ sung Bộ Luật lao động. 2.2 Phát triển mạnh hệ thống dạy nghề đa cấp trình độ, chuyển từ dạy nghề trình độ thấp sang trình độ cao nhằm nâng cao chất lượng cung lao động cho thị trường lao động. Đây là giải pháp phát triển cung của thị trường lao động. Thực hiện dạy nghề theo 3 cấp trình độ (sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề) và liên thông giữa các cấp. Chuyển mạnh đào tạo nghề theo định hướng cầu lao động (đào tạo gắn với sủ dụng, gắn với nhu cầu của sản xuất); cung cấp lao động có chất lượng về tay nghề, sức khoẻ, có kỷ luật, tác phong công nghiệp, có văn hoá cho thị trường trong nước và hội nhập. Đa dạng hoá các loại hình thị trường, lớp dạy nghề (của Nhà nước, của tư nhân và nước ngoài). Thực hiện quy hoạch, đầu tư tập trung vào hệ thống dạy nghề kỹ thuật thực hành. Đặc biệt là xây dựng 40 trường dạy nghề trọng điểm quốc gia, trong đó có 15 trường đạt chuẩn khu vực; các tỉnh, thành phố đều có trường dạy nghề, mõi quận huyện đều có trung tâm dạy nghề. 2.3 Phát triển cầu lao động của thị trường. Giải pháp phát triển cầu lao động của thị trường gắn với việc có chính sách và cơ chế huy động các nguồn lực trong nước và nước ngoài cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, nhất là những ngành, lĩnh vực có khả năng thu hút nhiều lao động làm công ăn lương. Một số nội dung chính liên quan đến phát triển cầu lao động là: - Phát triển các vùng kinh tế động lực, trọng điểm ở 3 miền, sủ dụng nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là các doanh nhân giỏi và lao động kỹ thuật trình độ cao. - phát triển mạnh khu vực dân doanh, trước hết là phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ; phấn đấu đến năm 2010, cả nước có khoảng 500 ngàn doanh nghiệp; phát triển kinh tế trang trại, hợp tác xã; đặc biệt coi trọng phát triển kinh tế dịch vụ, công nghiệp chế biến nông sản, khôi phục và phát triển các làng nghề tiểu thủ công, mỹ nghệ sản xuất sản phẩm cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. - Tăng đầu tư vào vùng nông thôn, miền núi nhằm chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá để tăng lao động nông thôn tham gia thị trường lao động tại chỗ và di chuyển ra khỏi khu vực nông nghiệp, nông thôn. - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động nông nghiệp, nông thôn; di chuyển một phần đáng kể lao động nông thôn ra khỏi nông nghiệp bằng các biện pháp đào tạo nghề trình độ cao, trình độ lành nghề đối với lao động trẻ khoẻ, có trình độ văn hoá để cung ứng cho các vùng kinh tế động lực, các khu công nghiệp, khu du lịch và dịch vụ, xuất khẩu lao động. - Tập trung xử lý nợ, đánh giá tài sản doanh nghiệp, lao động dôi dư để tháo gỡ ách tắc trong cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước; giảm bảo hộ và ưu đãi của Nhà nước nhằm lành mạnh hoá môi trường kinh doanh; khắc phục tình trạng “đóng băng” trong đổi mới cơ cấu lao động hiện nay; tăng hiệu quả và khả năng cạnh tranh của khu vực kinh tế Nhà nước; nâng cao chất lượng việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Chuyển mạnh các đơn vị sự nghiệp cung cấp các dịch vụ công sang đơn vị tự chủ, tự chịu trách nhiệm và thực hiện chế độ hợp đồng lao động để lao động khu vực này tham gia vào thị trường lao động. - Mở rộng và phát triển thị trường lao động ngoài nước. Xây dựng chiến lược và tăng đầu tư mở rộng thị trường xuất khẩu lao động sang các khu vực, các nước phù hợp với lao động Việt Nam; tập trung đào tạo nghề cho xuất khẩu lao động, nhất là về tay nghề, ngoại ngữ, pháp luật; thực hiện luật về đưa lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đê đảm bảo các bên giao dịch thực hiện theo hợp đồng được thuận lợi. Xây dựng các doanh nghiệp xuất khẩu lao động mạnh, đủ năng lực cạnh tranh và hội nhập thị trường lao động quốc tế. - Tiếp tục thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và sử dụng hiệu quả quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm thông qua ngân hàng chính sách xã hội để người thất nghiệp, người thiếu việc làm có cơ hội việc làm. Trong đó, quan tâm hơn việc cho vay vốn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ; các hộ nuôi trồng thuỷ sản, sản xuất hàng xuất khẩu, các làng nghề; các dự án góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động tạ chỗ; doanh nghiệp sủ dụng nhiều lao động nữ; dạy nghề và tạo việc làm cho lao động là người tàn tật. Xây dựng và thực hiện hiệu quả đề án “Hỗ trợ thanh niên học nghề và tạo việc làm bằng nguồn vốn vay ưu đãi từ ngân sách Nhà nước”. 2.4 Hoàn thiện hệ thống giao dịch của thị trường lao động. Trong thị trường lao động, để cung cầu lao động gặp nhau nhanh chóng cần có các tổ chức giới thiệu việc làm, vừa rút ngắn thời gian tuyển người, vừa rút ngắn thời gian tìm việc, tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp và người lao động, giảm thiểu chỗ làm việc trống và người thất nghiệp. Tập trung quy hoạch và đầu tư hệ thống cơ sở giới thiệu việc làm ở các địa phương để người lao động dễ tiếp cận; đầu tư hiện đại hoá 3 trung tâm ở 3 vùng kinh tế trọng điểm (Bắc, Trung, Nam) đạt tiêu chuẩn các nước trong khu vực, sủ dụng công nghệ thông tin hiện đại để thực hiện giao dịch lành mạnh, hiệu quả và chuyên nghiệp, chống tiêu cực, nhất là lừa đảo người lao động. - Đa dạng hoá các kênh giao dịch trên thị trường lao động tạo điều kiện cho các giao dịch trực tiếp giữa người lao động và ngưòi sử dụng lao động. - Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động quốc gia và nối mạng, trước hết ở các vùng kinh tế trọng điểm, các thành phố lớn, khu công nghiệp tập trung, cho xuất khẩu lao động. Xây dựng các trạm quan sát thông tin thị trường lao động trên địa bàn cả nước để thu thập và phổ biến thông tin đầy đủ, kịp thời. - Quy định các hình thức hợp đồng lao động cá nhân mềm hơn để người sủ dụng lao động vận dụng linh hoạt, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể đổi mới cơ cấu lao động; doanh nghiệp muốn giữu người tài, lao động có tay nghề thì doanh nghiệp cần có chính sách, chế độ thưởng, đào tạo, thăng tiến cho người lao động; đồng thời cũng chính là tạo cho thị trường lao động hoạt động có hiệu quả hơn như vậy sẽ khuyến khích người lao động nâng cao trình độ, tay nghề. Mặt khác, nghiên cứu quy định hình thức thoả ước lao động tập thể cấp ngành. - Tiếp tục đổi mới cơ chế lao động - tiền lương - việc làm trong khu vực doanh nghiệp theo hướng đảm bảo sự công bằng trong quan hệ lao động giữa các loại hình doanh nghiệp. Trong đó, đặc biệt là tiến tới quy định mức lương tối thiểu thống nhất cho các loại hình doanh nghiệp; hướng dẫn các doanh nghiệp xây dựng các tiêu chuẩn lao động, các thanh, bảng lương. - Phát triển và vận hành có hiệu quả cơ chế đối thoại, thương lượng, thoả thuận giữa hai bên về quan hệ lao động phù hợp với kinh tế thị trường. Giải quyết tranh chấp lao động, đình công theo nguyên tắc tôn trọng quyền tự quyết định, tự định đoạt của các bên thông qua đối thoại, thương lượng đúng với cơ chế thị trường, Nhà nước chỉ giữ vai trò là người xúc tiến, không can thiệp trực tiếp vào quan hệ hai bên ở doanh nghiệp. 3. Phát triển hệ thống bảo trợ xã hội phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 3.1 Giải pháp về nhận thức. - Tiếp tục truyền thông nâng cao nhận thức của toàn xã hội về việc phát triển hệ thống chính sách trợ giúp xã hội, thay đổi cách nhìn từ khía cạnh hoạt động nhân đạo từ thiện, sang khía cạnh chia sẻ trách nhiệm xã hội và dựa vào nhu cầu và quyền con người. Đẩy mạnh việc tuyên truyền giáo dục pháp luật về trợ giúp xã hội cho các cấp, các ngành, các tổ chức và mọi người dân, trên cơ sở đó nâng cao ý thức trách nhiệm thực hiện pháp luật và chính sách xã hội. - Hình thành các chuyên mục trên báo, website, truyền hình về các hoạt động trợ giúp xã hội để chuyển tải các thông tin về mô hình hoạt động có hiệu quả và pháp luật của Nhà nước đến đông đảo người dân. - Thiết lập các kênh thông tin đa chiều để tiếp nhận và phản hồi ý kiến của người dân về các vấn đề có liên quan đến luật pháp, chính sách và việc tổ chức thực hiện các chính sách trợ giúp xã hội. 3.2 Giải pháp về cơ chế, chính sách. - Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách và nâng cấp thành các luật trợ giúp xã hội để nâng cao hiệu lực pháp lý và tổ chức thực hiện. Trước mắt từ nay đến năm 2010 tập trung vào xây dựng Luật Người cao tuổi, Luật về người khuyết tật. - Bổ sung một số chính sách trợ giúp các đối tượng có thu nhập thấp theo hướng mở dần đối tượng để bao phủ hết nhóm dân số có hoàn cảnh khó khăn, phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. - Song song với chính sách trợ giúp xã hội, cần hoàn thiện đồng bộ thể chế, chính sách bảo trợ xã hội theo một chỉnh thể thống nhất, có sự liên kết chặt chẽ với nhau thông qua các “mức chuẩn” và các chế độ bảo đảm công bằng xã hội trong hệ thống và tạo thành nhiều tầng lưới bảo trợ khác nhau, hỗ trợ cho nhau. - Chính sách trợ giúp xã hội trong trung hạn và dài hạn cũng phải từng bước tiếp cận theo hướng “phổ cập”, nhưng trước mắt, trong ngắn hạn vẫn cần một số chính sách trợ giúp mang tính “mục tiêu” để đảm bảo tính bền vững của hệ thống, đặc biệt là tính bền vững về tài chính. - Song song với hệ thống chính sách, cũng cần một số phong trào hoặc chương trình, đề án trợ giúp xã hội như chương trình giảm nghèo, trợ giúp người khuyết tật, người cao tuổi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, nhằm giải quyết những nhu cầu bức xúc của các đối tượng mà hệ thống chính sách trợ giúp xã hội chưa đáp ứng theo tinh thần xã hội hoá, Nhà nước và nhân dân cùng làm. - Tiếp tục hoàn thiện cơ chế trợ giúp xã hội theo hướng trao quyền cho cơ sở và các địa phương trong việc huy động, quản lý nguồn lực và tổ chức thực hiện, tạo sự năng động và tính chủ động cho địa phương cơ sở, bảo đảm tính mục tiêu và tính kịp thời. 3.3 Giải pháp về tài chính. - Đổi mới cơ chế lập dự toán và phân bổ định mức chi tiêu ngân sách Nhà nước về trợ giúp xã hội theo hướng công khai, minh bạch và xuất phát từ nhu cầu thực tế. Mặt khác cần cụ thể các tiểu mục chi của đảm bảo xã hội, trong đó có tiểu mục chi trợ cấp xã hội, không nên để chung như hiện nay, vì nó thiếu minh bạch và rất nhiều địa phương cho rằng không đủ nguồn chi. - Để có đủ nguồn chi và bảo đảm tính bền vững của hệ thống trợ giúp xã hội, Nhà nước cần đổi mới cơ cấu chi tiêu của Chính phủ theo hướng giảm chi cho đầu tư phát triển để tăng chi cho trợ giúp xã hội. 3.4 Giải pháp về tổ chức thực hiện. - Tiếp tục hoàn thiện bộ máy tổ chức thực hiện chính sách trợ giúp xã hội từ trung ương đến cơ sở, ưu tiên bảo đảm cấp xã có một cán bộ công tác xã hội để thực hiện nhiệm vụ của Ngành Lao động-Thương binh-Xã hội, trong đó có trợ giúp xã hội. - xây dựng và thực hiện Đề án phát triển công tác xã hội như một nghề chuyên nghiệp, trong đó có nội dung chính là xây dựng tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, phát triển nguồn nhân lực công tác xã hội, để từ nay đến năm 2015 có được đội ngũ nhân viên công tác xã hội chuyên nghiệp, hoạt động hiệu quả hơn. - Lồng ghép việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, các chương trình mục tiêu quốc gia đê nâng cao hiệu quả thực hiện các chính sách trợ giúp hiện có. - Thiết lập bộ chỉ số giám sát đánh giá việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội bao gồm ba nhóm chỉ tiêu cơ bản, đó là: (i) độ bao phủ, bao gồm cả việc so sánh tổng số đối tượng với dân số và số được trợ cấp xã hội so với tổng đối tượng; (ii) chỉ số tác động (so sánh mức trợ cấp bình quân với mức sống trung bình của dân cư); (iii) chỉ số về tài chính (so tổng nguồn chi với GDP hoặc Ngân sách Nhà nước hoặc chi tiêu của Chính phủ). - Tăng cường việc hướng dẫn triển khai thực hiện các chính sách hiện có và nhất là các chính sách mới ban hành. Cần xây dựng các tài liệu hướng dẫn thực hiện chính sách theo hướng gọn nhẹ, có thể bỏ túi được, khi cần có thể tra cứu để thực hiện đúng đối tượng, đúng mục tiêu, hạn chế sai sót. Hiện nay Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đang xây dựng đề án phát triển hệ thống bảo trợ xã hội đến năm 2020, với một số nội dung chủ yếu sau: Mở rộng phạm vi của Bảo hiểm xã hội BHXH sẽ bao gồm BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện: - Đối với BHXH bắt buộc sẽ mở rộng phạm vi, đối tượng tham gia; Điều chỉnh lương hưu và trợ cấp BHXH theo cơ chế tạo nguồn và bước đi độc lập tương đối đối với chính sách tiền lương, theo hướng sủ dụng nguồn từ bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH, giảm dần phần hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước; Thực hiện đồng bộ hệ thống các giải pháp nhằm đảm bảo quỹ BHXH được an toàn, sinh lời cao; giảm dần chi phí quản lý BHXH theo hướng hợp lý với chi phí thấp nhất. - Đối với BHXH tự nguyện sẽ thực hiện BHXH tự nguyện cho công dân Việt Nam trong độ tuổi lao động, không thuộc đối tượng BHXH bắt buộc; xác dịnh mức đóng góp BHXH tự nguyện hợp lý linh hoạt để mọi người có thể tham gia; Nghiên cứu thực hiện liên thông giữa BHXH tự nguyện và BHXH bắt buộc. Thực hiện chế độ Bảo hiểm thất nghiệp. Thực hiện BHTN cho lao động có quan hệ lao động để phòng ngừa rủi ro mất việc làm; Hình thành quỹ BHTN từ sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động; quỹ được quản lý thống nhất và hạch toán độc lập; gắn chế độ BHTN với đào tạo lại cho người lao động và giới thiệu việc làm để giảm thiểu rủi ro mất việc làm, hỗ trợ tích cực người mất việc làm quay trở lại làm việc; bảo tồn và phát triển quỹ. Xây dựng Luật Bảo trợ xã hội. Cần xây dựng Luật bảo trợ xã hội để thể chế hoá các hoạt động bảo trợ xã hội và cứu trợ xã hội. Tinh thần chung là xã hội hoá trong thực hiện chính sách an sinh xã hội nhằm huy động các nguồn lực trong dân cùng chia sẻ với nhà nước để cung cấp các dịch vụ an sinh xã hội, chăm sóc đối tượng chính sách xã hội được tốt hơn, nhất là đối với nhóm xã hội yếu thế, dễ bị tổn thương, giúp họ vươn lên, hoà nhập cộng đồng. Có thể hình thành một số quỹ với phương châm: - Tiếp tục phát triển và đa dạng hoá các quỹ xã hội, quỹ từ thiện của các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân hảo tâm, thành lập, vận động đóng góp và hỗ trợ các đối tượng cụ thể, nhất là hỗ trợ đối tượng phát triển sản xuất, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản (nhà ở, y tế, giáo dục, nước sạch…). - Chính phủ ban hành quy chế quản lý các loại quỹ xã hội, từ thiện từ nguồn huy động cộng đồng và sự trợ giúp từ ngân sách Nhà nước để đảm bảo quỹ hoạt động đúng mục tiêu, đối tượng và có hiệu quả, tránh tiêu cực, tham nhũng. - Giao cho các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội vận động, quản lý và điều phối sử dụng quỹ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, điều lệ hoạt động của tổ chức mình và quy định của pháp luật. 4. Giải pháp nâng cao chất lượng đối thoại xã hội. Trước thực trạng nêu trên, để phòng ngừa, hạn chế tranh chấp lao động và đình công, đặc biệt là chấm dứt tình trạng đình công không đúng trình tự pháp luật quy định, xây dựng quan hệ lao động lành mạnh trong doanh nghiệp, trong thời gian tới, tập trung triển khai thực hiện một số giải pháp sau: - Thứ nhất, tiếp tục rà soát các văn bản quy phạm pháp luật lao động để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp và ban hành đồng bộ để doanh nghiệp tổ chức thực hiện - Thứ hai, tổng kết và hướng dẫn việc thương lượng ký kết thoả ước lao động tập thể ngành về tiền lương tối thiểu ngành; xây dựng phương án và thực hiện thí điểm việc tham vấn tiền lương đối với một số doanh nghiệp. - Thứ ba, tăng cường công tác tập huấn tuyên truyền và hướng dẫn thực hiện các quy định của pháp luật cho người sử dụng lao động, người lao động và công chức làm công tác lao động ở các cơ quan quản lý nhà nước các cấp. - Thứ tư, tập trung lực lượng thanh tra viên phối hợp với các tỉnh, thành phố tăng cường thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật của các doanh nghiệp, trước mắt tập trung vào doanh nghiệp có nguy cơ đình công cao, biểu dương kịp thời những nơi thực hiện tốt và kiên quyết xử lý nghiêm những hành vi lẩn tránh, thực hiện không đúng quy định. - Thứ năm, phối hợp với các bên liên quan duy trì hoạt động của Uỷ ban quan hệ lao động cấp quốc gia để tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ về phương hướng, cơ chế, chính sách liên quan đến quan hệ lao động, triển khai thực hiện cơ chế phối hợp ba bên ở cấp quốc gia và địa phương làm cơ sở thúc đẩy cơ chế phối hợp hai bên ở doanh nghiệp. - Thứ sáu, thực hiện việc sơ kết, đánh giá tình hình triển khai thực hiện Chỉ thị số 06/2006/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, nghiêm túc kiểm điểm những việc làm được, chưa làm đuợc, trách nhiệm của các cấp, ngành và xây dựng kế hoạch, các giải pháp giải quyết vấn đề đình công và xây dựng quan hệ lao động lành mạnh, báo cáo ban bí thư, Thủ tướng và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. KẾT LUẬN Tạo việc làm bền vững mang ý nghĩa kinh tế - xã hội hết sức sâu sắc, đó chính là điều kiện để ổn định kinh tế, xã hội và sự phát triển bền vững ở mỗi quốc gia. Thực trạng lao động, việc làm ở nước ta hiện nay đã và đang đặt ra rất nhiều thách thức cần được giải quyết. Tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm vẫn đang ở mức khá cao, bên cạnh đó chất lượng nguồn nhân lực, cơ cấu đào tạo cũng như phân bố lao động theo ngành nghề và theo vùng lãnh thổ vẫn còn nhiều bất cập. Trong khi đó vấn đề sủ dụng lao động trẻ em, tình trạng lao động bị cưỡng bức, bị phân biệt đối xử, đình công và tranh chấp lao động trong các doanh nghiệp đang ở mức đáng lo ngại gây ảnh hưởng không tốt đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, phải coi tạo việc làm bền vững là một ưu tiên hàng đầu trong các chính sách của Đảng, Nhà nước và rất cần sự phối hợp của các Bộ, ban ngành và đặc biệt là doanh nghiệp và người lao động. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Kế hoạch hoá Phát triển kinh tế - xã hội, TS Ngô Thắng Lợi, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, NXB Thống Kê, 2006. 2. Giáo trình Kinh tế phá triển, GS.TS. Vũ Thị Ngọc Phùng, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, NXB Lao động – Xã hội, 2006. 3. Tài liệu tập huấn về Chiến lược Lồng ghép việc làm nhằm giảm nghèo trong Kế hoạch Phát triển kinh tế - xã hội, Bộ Kế hoạch & Đầu tư. 4. World Social Security Forum. 5. Hội nghị tổng kết công tác năm 2008 và triển khai nhiệm vụ năm 2008, Bộ Kế hoạch & Đầu tư. 6.Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam đến năm 2020, Bộ Kế hoạch & Đầu tư. 7. Hội thảo : “ Tăng cường quản lý về lao động nhằm thúc đẩy việc làm bền vững và hỗ trợ phát triển thị trường lao động tại Việt Nam”, Bộ LĐ – TB và Xã hội. 8. Hệ thống văn bản về bảo trợ xã hội và xoá đói giảm nghèo, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội. 9. Tạo việc làm tốt bằng các chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. MỤC LỤC Trang DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT WTO Tổ chức Thương mại Thế giới WCED Uỷ ban Môi trường và Phát triển thế giới GDP Tổng sản phẩm quốc nội ILO Tổ chức Lao động Quốc tế SXKD Sản xuất kinh doanh WDV Cơ quan phát triển lao động ATVSLĐ An toàn vệ sinh lao động ATLĐ An toàn lao động PES Chính sách dịch vụ việc làm công IES Dịch vụ việc làm tương hỗ EPM Chương trình việc làm cho trung niên WTS Chương trình thử việc NGOs Các tổ chức phi chính phủ THCN Trung học chuyên nghiệp BHXH Bảo hiểm xã hội MOLISA Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội TEHCĐB Trẻ em hoàn cảnh đặc biệt TEKT Trẻ em khuyết tật BTXH Bảo trợ xã hội BHYT Bảo hiểm y tế HĐLĐ Hợp đồng lao động TƯLĐTT Thoả ước lao động tập thể CSR Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Biểu 1.1 : Xu hướng thay đổi dân số trong độ tuổi lao động và số người có việc làm Biểu 1.2 : Tỷ lệ lao động thất nghiệp thành thị (%) Biểu 1.3 : Cơ cấu việc làm (%) Biểu 1.4 : Số lao động được giải quyết việc làm trong năm (1000 người) Biểu 2.1 : Những hình thức bảo trợ xã hội Biểu 2.2 : Trình độ học vấn người lao động theo các cấp học (%) Biểu 2.3 : Quy mô tuyển mới ở tất cả các cấp giai đoạn 2001-2007 (nghìn người) Biểu đồ 3.1 : Tình hình thiệt hại do bão lụt hạn hán từ 2000-2007 Biểu đồ 3.2 : Nguồn lực trợ giúp nạn nhân của thiên tai 2001-2007 Biểu đồ 3.3 : Số người cao tuổi và tỷ lệ sinh người cao tuổi Biểu đồ 3.4 : Cơ cấu độ tuổi của ngưòi tàn tật Biểu đồ 3.5 : Các dạng tàn tật của người tàn tật (đơn vị: %) Biểu đồ 3.6 : Nguyên nhân dẫn đến tàn tật (đơn vị:%) Biểu đồ 3.7 : Số lượng đối tượng được trợ cấp xã hội 2001-2007 (đơn vị: người) Biểu đồ 3.8 : Tỷ lệ đối tượng TCXH so đối tưọng thuộc diện trợ cấp (đơn vị: %) Biểu đồ 3.9 : Kinh phí thực hiện trợ cấp xã hội cộng đồng (tỷ đồng) Biểu đồ 3.10 : Tốc độ tăng đối tượng và kinh phí hàng năm (đơn vị: %) ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33110.doc
Tài liệu liên quan