LỜI MỞ ĐẦU
Để tạo đà cất cánh cho giai đoạn phát triển, giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cả dân tộc ta đang bắt tay vào sự nghiệp trồng người với quy mô lớn, chất lượng cao. Con người được đào tạo, có trí thức và được nhân lên bởi lòng yêu nước, đoàn kết trong từng cộng đồng và cả dân tộc là sức mạnh như sóng thần của Việt Nam. Chỉ có giáo dục, đào tạo và huy động nguồn lực trí tuệ của nhân dân, đoàn kết dân tộc mới giữ gìn và xây dựng nước Việt Nam phát triển và bền vững.
Sự
104 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1361 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm tăng cường quản lý chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục quận Hai Bà Trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp giáo dục - một sự nghiệp to lớn khó khăn và gian khổ của chúng ta hôm nay đang đứng trước những vận hội gian khổ của chúng ta hôm nay đang đứng trước những vận hội và những thử thách lớn lao trong khi ngân sách nhà nước ngày càng eo hẹp, nhu cầu chi cho giáo dục đào tạo lại cực kỳ lớn và tăng lên từng ngày, bỏ xa điểm cân bằng giữa cung và cầu trong giáo dục. Với mâu thuẫn đó, vấn đề đáng quan tâm là sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước như thế nào để đạt được điểm tối ưu về hiệu quả trong đầu tư cho giáo dục. Để khắc phục những tồn tại, khiếm khuyết đó thì cần thiết phải đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường tính hiệu quả trong quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục.
Qua thời gian tìm hiểu thực tế công tác quản lý ngân sách nhà nước ở quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, em đã đi sâu vào tìm hiểu hoạt động quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục thông qua thực hiện đề tài: "Một số giải pháp nhằm tăng cường quản lý chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục quận Hai Bà Trưng".
Đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về Ngân sách nhà nước và sự cần thiết quản lý chi Ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục ở nước ta
Chương II: Thực trạng công tác quản lý chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp Giáo dục trên địa bàn quận Hai Bà Trưng - Thành phố Hà Nội
Chương III: Một số biện pháp tăng cường quản lý chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục quận Hai Bà Trưng - thành phố Hà Nội
Đề tài này được hoàn thành trong điều kiện thời gian thực tập khá hẹp, trình độ chuyên môn hạn chế, khả năng nhận thức lý luận và thực tiễn còn chưa sắc bén, xuất phát từ sự thiếu kinh nghiệm của một sinh viên sắp tốt nghiệp. Cho nên đề tài này chắn chắn không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế.
Vì vậy, em kính mong sự phê bình, góp ý của thầy giáo để đề tài này và những đề tài sau được tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chương I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ SỰ CẦN THIẾT QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC Ở NƯỚC TA
I. KHÁI QUÁT VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC.
Ngân sách nhà nước ra đời như một yếu tố khách quan gắn liền với sự ra đời và tồn tại của nhà nước, ngay từ khi ra đời để đảm bảo chức năng, nhiệm vụ của mình như việc đảm bảo ổn định xã hội, xây dựng các biện pháp cưỡng chế nhằm duy trì sự tồn tại của nhà nước, duy trì sự lãnh đạo của giai cấp thống trị. Ngoài những chức năng trên, nhà nước ngày nay còn phải tham gia vào các vấn đề có tính chất xã hội như việc tham gia vào hoạt động cung ứng hàng hóa thiết yếu ( hàng hoá công cộng ) để phục vụ xã hội, như chủ động thiết lập các mối quan hệ quốc tế, và sử dụng các nguồn lực mà nó nắm giữ để kinh doanh nhằm phát triển nền kinh tế của đất nước. Để hoàn thành được những chức năng, nhiệm vụ của mình cũng như để duy trì được sự tồn tại của mình, nhà nước có nguồn kinh phí để hoạt động. Chính vì thế mà ngân sách nhà nước được hình thành. Nhà nước dùng quyền lực của mình để đề ra những chính sách, biện pháp để tập trung thu cho ngân sách nhà nước rồi dùng Ngân sách nhà nước để chi trả cho bộ máy hành chính của mình, cũng như để đảm bảo trật tự an ninh xã hội, cũng như phát triển kinh tế đất nước. Chính vì vậy mà Ngân sách nhà nước trở thành một công cụ cực kỳ quan trọng đối với nhà nước, mà không một nhà nước nào lại không quan tâm quản lý ngân sách một cách chặt chẽ.
1.Khái niệm về Ngân sách nhà nước.
2. Khái niệm :
Có nhiều khái niệm về Ngân sách nhà nước, tùy theo quan điểm, vai trò của Ngân sách nhà nước đối với từng quốc gia, mà Ngân sách nhà nước được gọi theo các quan điểm khác nhau:
+ Ở nước Nga: Người ta gọi Ngân sách nhà nước là bảng thống kê các khoản thu, các khoản chi bằng tiền của nhà nước trong một giai đoạn nhất định (thường là một năm).
+ Ở nước Pháp: Người ta định Nghĩa ngân sách nhà nước là tất cả các tài liệu kế toán, mô tả trình bày những khoản thu và các khoản kinh phí của nhà nước trong một năm.
+ Đối với những nhà kinh tế học (kinh tế học của David Bec): Ngân sách nhà nước được gọi là bảng tường trình về kế hoạch chi tiêu tài trợ của cá nhân, doanh nghiệp và chính phủ. Trong đó ngân sách nhà nước của chính phủ mô tả hàng hóa và dịch vụ mà chính phủ sẽ mua sắm trong năm, hoặc mua trong năm tới, nhưng thanh toán chuyển nhượng trong năm.
+ Còn đối với Việt Nam: Khái niệm của Ngân sách nhà nước là tất cả các khoản thu và các khoản chi của nhà nước trong dự toán đã được chính phủ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng nhiệm vụ của nhà nước.
1.1. Bản chất của Ngân sách nhà nước.
Ngân sách nhà nước có ý nghĩa vô cùng quan trọng không chỉ liên quan đến sự tồn tại và phát triển của nhà nước mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia. Ngân sách nhà nước không chỉ đơn thuần tập hợp các khoản thu và các khoản chi, từ đó hình thành nên Ngân sách nhà nước để đáp ứng chức năng nhiệm vụ của nhà nước, mà còn ẩn chứa những mối quan hệ bên trong. Khi xét đến bản chất của Ngân sách nhà nước người ta thường nói đến bản chất kinh tế của Ngân sách nhà nước và xét trên phương diện pháp lý của Ngân sách nhà nước .
+ Về bản chất kinh tế của Ngân sách nhà nước: Thực vậy, Ngân sách nhà nước không chỉ đơn thuần bề ngoài là các khoản thu và các khoản chi mà bên trong nó ẩn chứa một mối quan hệ phức tạp. Để hình thành lên Ngân sách nhà nước một nguồn thu chủ yếu quan trọng là thu của các đối tượng và nhà nước chi tiêu ngân sách để thực hiện chức năng của mình. Khi nhà nước thu của đối tượng này sẽ làm cho thu nhập của đối tượng này giảm xuống, đồng thời khi nhà nước chi Ngân sách nhà nước thì thu nhập của đối tượng khác được tăng lên. Như vậy, quá trình này thể hiện mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể tham gia vào quá trình phân phối thu nhập hay phân phối sản phẩm xã hội. Do đó, thực chất hay bản chất kinh tế của Ngân sách nhà nước là mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể tham gia vào quá trình phân phối sản phẩm xã hội, trong đó phải có sự có mặt của nhà nước trong mối quan hệ này.
+ Xét trên phương diện pháp lý: Ngân sách nhà nước là một đạo luật cơ bản và hết sức đặc biệt. Bởi vì tất cả quá trình điều hành Ngân sách nhà nước thể hiện tính pháp lý rất cao, từ việc xây dựng dự toán cho đến việc thực hiện dự toán, được quy định hết sức chặt chẽ. Việc thực hiện xây dựng dự toán được tiến hành từ các đơn vị rất nhỏ, đơn vị cơ sở. Rồi từ đó tổng hợp lại theo từng cấp từ thấp đến cao, hình thành nên ngân sách địa phương và ngân sách trung ương rồi từ đó tổng hợp thành Ngân sách nhà nước rồi trình quốc hội. Tại quốc hội mọi người thảo luận, quốc hội có quyền chất vấn các cán bộ tài chính cao cấp (các bộ trưởng). Nếu quốc hội thông qua thì mọi cá nhân tổ chức phải chấp hành, giống như trình tự ban hành một bộ luật nào đó. Và nó là một đạo luật hết sức đặc biệt là ở chỗ: nó không có các điều luật cũng như các quy phạm điều khoản mà chỉ bao gồm các khoản thu, chi trong một năm, trên cơ sở đó phân phối hạn mức kinh phí.
1.2. Vai trò của Ngân sách nhà nước.
Ngân sách nhà nước có vai trò hết sức to lớn, nó ảnh hưởng đến toàn bộ đến sự hoạt động của nhà nước cũng như ảnh hưởng đến toàn bộ đến các vấn đề văn hóa, chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng cũng như đến sự nghiệp phát triển kinh tế của một quốc gia, một đất nước. Như vậy vai trò của Ngân sách nhà nước là cực kỳ quan trọng và nó được phân chia thành các vai trò cụ thể sau:
1. Đảm bảo cung cấp nguồn kinh phí để duy trì sự hoạt động của hệ thống bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước và các hệ thống tổ chức đoàn thể, xã hội. Bất kể một tổ chức nào muốn tồn tại và phát triển thì đều cần đến sự quản lý, để duy trì sự quản lý này thì phải có nguồn kinh phí để duy trì sự hoạt động của tổ chức đó. Để duy trì sự hoạt động của doanh nghiệp thì phải có nguồn vốn của doanh nghiệp, còn đối với cơ quan nhà nước để duy trì hoạt động của nó thì nguồn kinh phí do Ngân sách nhà nước cấp . Nguồn kinh phí này dùng để chi trả lương cũng như các chức năng nhiệm vụ mà các cơ quan nhà nước này được giao.
2. Ngân sách nhà nước được sử dụng như là một công cụ để tác động vào cơ cấu kinh tế, nhằm duy trì một cơ cấu kinh tế cân đối hợp lý: Trong xã hội nền kinh tế thị trường ngày càng có xu hướng mất ổn định, do nhiều yếu tố kinh tế, xã hội, chính trị. Chính vì vậy, duy trì một cơ cấu kinh tế ổn định là nhiệm vụ hàng đầu của chính phủ. Để đảm bảo được điều này, chính phủ có thể sử dụng Ngân sách nhà nước để chi tiêu, dùng chính sách tài khóa, đặc biệt là chi cho đầu tư phát triển các ngành nghề khác nhau, đầu tư xây dựng cơ bản, kết cấu hạ tầng, để từ đó phát triển những ngành nghề kém phát triển hoặc những ngành nghề đang trên đà suy thoái từ đó làm cân đối cơ cấu kinh tế. Ngoài ra, để khuyến khích hay hạn chế một ngành nghề chính phủ có thể sử dụng các công vụ biện pháp để tăng thu thuế hoặc giảm thuế, từ đó có thể khuyến khích hoặc kìm hãm sự phát triển của ngành đó, từ đó cơ cấu kinh tế sẽ được cân đối ổn định.
3. Ngân sách nhà nước được sử dụng như là một công cụ để duy trì sự ổn định của giá cả thị trường: Để duy trì sự ổn định của giá cả thị trường, chính phủ lập nên quỹ dự trữ, quỹ dự trữ này có thể bao gồm hiện vật hoặc tiền. Và nguồn kinh phí để lập và duy trì quỹ dự trữ được lấy từ Ngân sách nhà nước . Khi thị trường có biến động, giá cả các sản phẩm tăng lên ảnh hưởng đến lạm phát, gây khó khăn cho đời sống nhân dân, chính phủ có thể bình ổn giá cả bằng cách tăng cung hàng hóa lấy từ dự trữ. Ngược lại, khi giá cả hàng hóa xuống thấp, người sản xuất không có lãi, có nguy cơ thu hẹp sản xuất ,chính phủ có thể tăng dự trữ để đẩy giá lên hoặc trợ giá cho những người sản xuất để từ đó giá cả thị trường được ổn định.
4.Và Ngân sách nhà nước còn được sử dụng như một công cụ để giải quyết các vấn đề xã hội phát triển dẫn đến mức sống của người dân ngày càng chênh lệch, mất cân bằng xã hội. Để giảm bớt sự chênh lệch giàu nghèo, chính phủ sử dụng thuế dành cho những người có thu nhập cao, đồng thời trợ cấp cho những người có thu nhập thấp. Để đảm bảo trật tự an toàn xã hội chính phủ sử dụng Ngân sách của mình để chi cho bộ máy an ninh, quốc phòng, tuyên truyền giáo dụng người dân có ý thức chấp hành pháp luật đào tạo nghề nghiệp cho cộng đồng, nhằm giảm tỷ lệ thất nghiệp. Đồng thời khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường và tệ nạn xã hội.
2.Tổ chức hệ thống Ngân sách nhà nước.
Hệ thống Ngân sách nhà nước là tổng thể các cấp ngân sách, có mối quan hệ hữu cơ với nhau và được tổ chức theo những nguyên tắc nhất định. Như vậy, tổ chức hệ thống Ngân sách nhà nước là xây dựng tổ chức Ngân sách nhà nước thành một hệ thống ngân sách thống nhất và tập trung.
2.1. Các nguyên tắc tổ chức hệ thống Ngân sách nhà nước .
2.1.1. Nguyên tắc thống nhất.
Ngân sách nhà nước có vai trò hết sức to lớn đối với sự phát triển kinh tế của đất nước, để phát huy vai trò của Ngân sách, thì việc tổ chức hệ thống Ngân sách sao cho phù hợp là một điều hết sức quan trọng mà tất cả các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đều phải quan tâm. Ngân sách nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc thống nhất, sở dĩ khi tổ chức hệ thống Ngân sách nhà nước phải quán triệt nguyên tắc này, là vì đáp ứng yêu cầu đảm bảo tính thống nhất trong hoạt động tài chính của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, và đồng thời đảm bảo tính thống nhất trong hoạt động tài chính và hoạt động kinh tế quốc dân. Khi tổ chức hệ thống Ngân sách nhà nước, nếu không đảm bảo được nguyên tắc này thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của toàn bộ nền kinh tế, cũng như hiệu quả của nó, đồng thời dẫn đến việc trùng lắp giữa chức năng và nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước.
Nguyên tắc thống nhất được biểu hiện trong quá trình tổ chức hệ thống Ngân sách như: thống nhất về chế độ chính sách trong toàn bộ hệ thống Ngân sách, đảm bảo cho quá trình quản lý ngân sách được thuận lợi, rõ ràng , xác định được chức năng, nhiệm vụ của từng đối tượng cơ quan trong quá trình quản lý Ngân sách. Ngoài việc thống nhất về chế độ chính sách, còn thống nhất về nghiệp vụ trong toàn bộ hệ thống Ngân sách. Trong các cấp Ngân sách, mọi nghiệp vụ đều được quy định thống nhất với nhau, mỗi cấp đều phải thực hiện nhiệm vụ của mình trong tổ chức thực hiện, xây dựng dự toán và quyết toán các khoản chi, thu Ngân sách. Và đồng thời toàn bộ hệ thống Ngân sách còn thống nhất với nhau về thời gian của một năm Ngân sách.
2.1.2 Nguyên tắc tập trung dân chủ: Đây là nguyên tắc cơ bản trong hệ thống chính quyền nhà nước.
Khi tổ chức hệ thống Ngân sách nhà nước phải đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ đây là nguyên tắc hoàn toàn khách quan, trong xây dựng dự toán Ngân sách và thực hiện bằng cách xây dựng toàn bộ từ cơ sở .
Bắt đầu từ việc xác định nhu cầu của các đơn vị cơ sở về Ngân sách, rồi được các cá nhân tổ chức, đơn vị cơ sở lập lên rồi được tổng hợp dần lên . Cơ quan cấp trên tập hợp Ngân sách của cơ quan cấp dưới kết hợp với nhu cầu Ngân sách trên địa bàn mình để hình thành nên Ngân sách cấp mình . Từ đó gửi lên cơ quan cấp trên, và cuối cùng tập hợp thành Ngân sách nhà nước, được trình lên quốc hội để xem xét và phê chuẩn . Như vậy, việc tổ chức Ngân sách nhà nước được thực hiện từ thấp đến cao và tuân theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
2.2 Cơ cấu tổ chức hệ thống Ngân sách nhà nước :
Tổ chức hệ thống Ngân sách nhà nước thường căn cứ vào tổ chức của hệ thống chính quyền ở mỗi quốc gia. Như vậy thông thường hệ thống chính quyền là phù hợp với cơ cấu Ngân sách nhà nước ở từng cấp độ. Hiện nay, trên thế giới, hệ thống chính quyền thường được tổ chức theo hai mô hình, chủ yếu là nhà nước liên bang, điển hình như Mỹ, Nga từ đó hình thành nên Ngân sách liên bang, Ngân sách bang và Ngân sách địa phương. Còn ở các nước có hệ thống chính quyền được tổ chức theo mô hình thống nhất, có các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương, hình thành nên Ngân sách trung ương và Ngân sách địa phương bao gồm Ngân sách của các quận huyện xã phường.
Ở Việt Nam, hệ thống Ngân sách nhà nước ta bắt nguồn từ sự hình thành của hệ thống chính quyền nhà nước các cấp.Theo luật Ngân sách nhà nước thì hệ thống Ngân sách nhà nước ta bao gồm Ngân sách trung ương (NSTW) và Ngân sách của các cấp chính quyền địa phương ( NSĐP ). Trong đó NSTW đóng vai trò chủ đạo, góp phần quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu chiến lược về kinh tế-xã hội, còn NSĐP đóng vai trò độc lập tương đối cho sự phát triển của đất nước-cùng với việc củng cố và nâng cao quyền hạn, nhiệm vụ của các cấp chính quyền địa phương, cùng với việc hoàn thiện công tác phân cấp quản lý kinh tế -xã hội theo tinh thần đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, NSĐP ngày càng có vai trò quan trọng .
SƠ ĐỒ HỆ THỐNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY:
NSNN
NSTW
NSĐP
NS Tỉnh, TP
NS Quận , Huyện
NS Xã, Phường
3. Phân cấp quản lý Ngân sách nhà nước.
3.1 Khái niệm về phân cấp quản lý Ngân sách nhà nước.
3.1.1 Khái niệm:
Phân cấp quản lý Ngân sách nhà nước thực chất là giải quyết tất cả các mối quan hệ giữa các cấp chính quyền về các vấn đề liên quan đến quản lý và điều hành Ngân sách nhà nước.
Như vậy, theo quy định của luật Ngân sách nhà nước thì phân cấp quản lý Ngân sách nhà nước là việc giải quyết các vấn đề liên quan đến hệ thống pháp luật chính sách, chế độ quản lý, định mức chi tiêu cũng như thẩm quyền của các cấp trong quá trình quyết định dự toán, phân bổ Ngân sách, quyết toán Ngân sách và các quyết định liên quan đến việc triển khai thực hiện Ngân sách nhà nước.
3.1.2 Yêu cầu phân cấp quản lý Ngân sách nhà nước.
Khi tiến hành phân cấp quản lý Ngân sách nhà nước, để đảm bảo tính hiệu quả trong quản lý Ngân sách nhà nước, thì phân cấp quản lý Ngân sách nhà nước phải đảm bảo các yêu cầu sau:
+ Phải dựa trên phân cấp quản lý kinh tế và phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế. Bởi vì Ngân sách nhà nước ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển kinh tế, nguồn thu Ngân sách nhà nước phụ thuộc vào khả năng của nền kinh tế, khi kinh tế phát triển thì thu Ngân sách tăng và ngược lại khi nền kinh tế suy giảm thì khả năng thu Ngân sách cũng bị ảnh hưởng. Đối với chính sách chi Ngân sách nhà nước cũng vậy, chi Ngân sách nhà nước là để phục vụ cho sự phát triển kinh tế . Chính vì vậy, phân cấp quản lý Ngân sách nhà nước cần phải phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế và dựa trên phân cấp quản lý kinh tế. Mục đích là đảm bảo cân đối Ngân sách nhà nước cho địa bàn đó.
+ Phân cấp quản lý Ngân sách nhà nước đồng thời phải đảm bảo vai trò chủ đạo của NSTW và tính độc lập tương đối của NSĐP trong hệ thống Ngân sách nhà nước.Trong hệ thống Ngân sách nhà nước, NSTW phải giữ vai trò chủ đạo, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô, đáp ứng Ngân sách đầu tư cho những công trình lớn sử dụng cho toàn bộ nền kinh tế Quốc dân... mà những nhiệm vụ này không thuộc trách nhiệm của NSĐP.
+ Cuối cùng, phân cấp quản lý Ngân sách nhà nước phải đảm bảo tính công bằng giữa các địa phương. Để đáp ứng yêu cầu phát triển của từng vùng, từng khu vực cụ thể, để phát huy lợi thế so sánh của từng vùng cho sự phát triển, nhà nước cần có những biện pháp, cơ chế riêng cho từng khu vực, do đó phải đảm bảo Ngân sách nhà nước phù hợp với từng khu vực, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội của vùng đó, trên cơ sở đó đảm bảo tính công bằng Ngân sách nhà nước giữa các địa phương.
3.2 Nội dung của phân cấp quản lý Ngân sách nhà nước.
3.2.1 Phân cấp về các vấn đề liên quan đến chính sách, chế độ trong quản lý và điều hành Ngân sách nhà nước.
Phân cấp các vấn đề liên quan đến chính sách chế độ trong quản lý và điều hành Ngân sách nhà nước là việc phân cấp quyền hạn của các cấp từ trung ương đến địa phương trong việc ban hành tổ chức thực hiện, kiểm tra giám sát các chính sách liên quan đến việc quản lý điều hành Ngân sách nhà nước.
3.2.2 Phân cấp các vấn đề liên quan đến nghiệp vụ quản lý và điều hành Ngân sách nhà nước.
Bao gồm việc phân cấp trách nhiệm của các cơ quan trong việc ban hành các biểu mẫu liên quan đến Ngân sách nhà nước, và phân cấp về trình tự và trách nhiệm của các cấp trong việc xây dựng dự toán Ngân sách và tổ chức thực hiện kế hoạch.
3.2.3 Phân cấp về nội dung phân chia Ngân sách nhà nước.
3.2.3.1 Phân cấp về nội dung thu của Ngân sách nhà nước.
Thu Ngân sách nhà nước là một trong hai nội dung cơ bản của Ngân sách nhà nước, đó là quá trình nhà nước sử dụng các quyền lực có được của mình để phân phối lại sản phẩm trong xã hội, tạo nguồn thu cho Ngân sách nhà nước. Để quản lý thu Ngân sách nhà nước một cách hiệu quả, nhà nước tiến hành phân cấp các khoản thu Ngân sách. Quá trình phân cấp ở nước ta bắt nguồn từ năm 1967 và cho đến nay có thể chia thành ba giai đoạn:
Phân cấp các khoản thu hoàn toàn phụ thuộc vào cơ sở kinh tế :
Theo sự phân cấp này có sự tách biệt rõ rệt nguồn thu vào NSTW và NSĐP. Theo cơ chế phân cấp này, toàn bộ các khoản thu từ cơ sở kinh tế của trung ương được tập trung vào NSTW và toàn bộ các khoản thu của cơ sở kinh tế địa phương được tập trung cho NSĐP. Như vậy, phân cấp các khoản thu phụ thuộc vào các cơ sở kinh tế dẫn đến tình trạng các khoản thu tập trung chủ yếu vào NSTW.
Ưu điểm của phương pháp này: Do các nguồn thu của mỗi cơ sở kinh tế được tập trung hoàn toàn vào Ngân sách mình quản lý, do vậy ưu điểm của phương pháp này là sự cân đối của các NSĐP.
Nhược điểm: Tuy cân đối được Ngân sách của các địa phương nhưng phương pháp phân cấp theo các cơ sở kinh tế cũng mang nhiều nhược điểm. Phân cấp theo cơ chế này dẫn đến việc xây dựng chồng chéo các cơ sở kinh tế trung ương và địa phương, dẫn đến việc cạnh tranh về nhân công và nguyên nhiên liệu, đồng thời nó không gắn quyền lợi và trách nhiệm của các cấp địa phương trong việc đầu tư cơ sở vật chất hạ tầng phục vụ cho các cơ sở kinh tế do trung ương quản lý.
Phân cấp thu quốc doanh.
Phân cấp thu quốc doanh là việc phân chia nguồn thu của các cơ sở kinh tế của trung ương và địa phương cho các cấp Ngân sách. Cụ cụ thể thu từ các xí nghiệp của trung ương thì phần chủ yếu tập trung cho NSTW ,phần nhỏ còn lại tập trung cho NSĐP, còn đối với thu từ cơ sở kinh tế của địa phương thì chia cho NSĐP phần lớn, phần nhỏ chia cho NSTW .
Ưu điểm của phương pháp này: Do sự tập trung nguồn thu lớn từ cơ sở kinh tế cho chính Ngân sách đó, nên theo phương pháp này thì Ngân sách các địa phương cũng tương đối cân bằng.
Nhược điểm: Phương pháp này cũng giống như phương pháp tập trung các khoản thu lớn cho NSTW.
Phân cấp thu theo luật ngân sách: Theo phương pháp này, phân cấp thu theo luật Ngân sách có thể khắc phục được nhược điểm của hai phương pháp trên, đây là phương pháp phân cấp hết sức khoa học, đảm bảo mối quan hệ giữa hai ngân sách: NSTW và NSĐP được hài hòa, ổn định. Phương pháp này, các khoản thu Ngân sách không kể các khoản thu Ngân sách đó từ cơ sở kinh tế trung ương hay cơ sở kinh tế địa phương tức là không căn cứ vào nội dung, sở hữu các khoản thu theo sự phân cấp này mỗi cấp đều có các khoản thu sau:
Các khoản thu 100%:
+ Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
+ Thuế tiêu thụ đặc biệt.
+ Thuế lợi tức của các đơn vị hạch toán toàn ngành.
+ Các khoản thuế và thu khác từ các hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí (cả tiền thuế mặt đất mặt nước ) do trung ương quản lý .
+ Lợi tức từ vốn góp của nhà nước, thu hồi tiền cho vay của nhà nước, thu dự trữ nhà nước.
+ Các khoản do chính phủ vay, viện trợ không hoàn lại của chính phủ các nước, các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài theo quy định của pháp luật.
+ Các khoản phí và lệ phí nộp ngân sách trung ương: Lệ phí xuất cảnh, lệ phí bay qua bầu trời, phí giao thông và các khoản phí, lệ phí khác theo quy định của chính phủ.
+ Thu sự nghiệp của các đơn vị do cơ quan trung ương quản lý.
+Thu kết dư NSTW.
+ Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
Các khoản thu được phân chia theo tỷ lệ % giữa NSTW và Ngân sách cấp tỉnh.
+ Thuế doanh thu, trừ thuế doanh thu từ hoạt động xổ số kiến thiết.
+ Thuế lợi tức, trừ thuế lợi tức của các đơn vị hạch toán toàn ngành và thuế lợi tức thu được từ hoạt động xổ số kiến thiết.
+ Thuế thu nhập với người có thu nhập cao.
+ Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài của các tổ chức, cá nhân nước ngoài có vốn đầu tư tại Việt Nam.
+ Thuế tài nguyên.
+ Thuế sử dụng vốn Ngân sách của các doanh nghiệp nhà nước.
(*) Nguồn thu của Ngân sách cấp tỉnh.
Các khoản thu 100%:
+Tiền do thuế mặt đất, mặt nước đối với doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài.
+ Tiền thuế và tiền bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước.
+ Lệ phí trước bạ.
+ Viện trợ không hoàn lại bằng tiền, bằng hiện vật của các tổ chức cá nhân ở nước ngoài trực tiếp cho cấp tỉnh theo quy định của pháp luật.
+ Các khoản phí, lệ phí nộp vào Ngân sách cấp tỉnh theo quy định của chính phủ.
+ Huy động của các tổ chức, cá nhân để đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng theo quy định của chính phủ.
+ Đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước.
+ Thu sự nghiệp của các đơn vị do cấp tỉnh quản lý.
+ Thu tiền vay cho đầu tư theo quy định tại khoản 3 điều 8 luật Ngân sách nhà nước.
+ Thu kết dư Ngân sách các tỉnh.
+ Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
+ Thu bổ sung từ NSTW.
2. Các khoản thu nhận chia theo tỷ lệ (%) giữa NS cấp tỉnh và NSTW
+ Thuế doanh thu ,trừ thuế doanh thu từ hoạt động xổ số kiến thiết
+ Thuế lợi tức,trừ thuế lợi tức của các đơn vị hạch toán toàn ngành và thuế lợi tức thuê từ hoạt động xổ số kiến thiết.
+Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao.
+Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài của các tổ chức , cá nhân nước ngoài có vốn đầu tư tại Việt Nam.
+Thuế tài nguyên.
+ Thuê sử dụng vốn ngân sách của các doanh nghiệp nhàn nước.
3. Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) giữa ngân sách cấp tỉnh,và ngân sách cấp huyện và ngân sách xã thị trấn.
+Thuế sử dụng đất nông nghiệp.
+Thuế chuyển quyền sử dụng đất.
+Thuế nhà,đất.
+Tiền sử dụng đất.
*Các nguồn thu của ngân sách cấp huyện,Quận.
ÊCác khoản thu 100%.
+Thuế môn bài,trừ thuế môn bài thu từ các hộ kinh doanh nhỏ trên địa bàn xã,thị trấn.
+Các khoản phí lệ phí từ các hoạt động do các cơ quan thuộc cấp huyện quản lý.
+Thu từ sự nghiệp của các đơn vị do cấp huyện quản lý.
+Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài trực tiếp cho các huyện theo quy định của pháp luật.
+Đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước cho ngân sách cấp huyện.
+Thu kết dư NS cấp huyện.
+Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
*Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) giữa NS cấp huyện và ngấn sách xã thị trấn.
+Thuế sử dụng đất nông nghiệp.
+Thuế chuyển quyền sử dụng đất.
+Thuế nhà,đất.
+Tiền sử dụng đất.
3.2.3.2 Phân cấp về nội dung chi NSNN.
Chi NSNN là quá trình sử dụng quỹ NSNN theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp nhằm thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội của nhà nước.
Tùy thuộc vào các tiêu thức khác nhau người ta có thể phân loại các khoản thu theo mục đích khác nhau.
Nếu xét theo đối tượng trực tiếp sử dụng các chi bao gồm:
+ Chi cho nhân viên.
+Các khoản chi về vật liệu và dịch vụ cho các cơ quan quản lý nhà nước,cơ quan an ninh quốc phòng.
+Các khoản chi cho công tác xây dựng (đường xá, phúc lợi, công cộng ..)
+Chi các khoản trợ cấp,các khoản trả lãi tiền vay.
+Chi các khoản khác.
Cách phân chia theo tính chất các khoản chi bao gồm:
+Chi thường xuyên (chi tiêu dùng).
+Chi đầu tư: Mang tính chất tích lũy, trực tiếp hoặc gián tiếp làm tăng tài sản trong tương lai.
Nhìn chung NSCW và NSĐP đều có các khoản chi cơ bản giống nhau, chỉ khác về phạm vi thực hiện các khoản chi.NSTW thương chi cho những công trình lớn sử dụng cho mục đích chung của xã hội, còn NSĐP chỉ trực tiếp liên quan đến mục đích địa phương.
Chi NSNN bao gồm:
1.Chi thường xuyên:
+Các hoạt động giáo dục, đào tạo, y tế, xã hội , văn hóa, thông tin, thể dục thể thao, sự nghiệp khoa học, công nghệ và môi trường và các sự nghiệp khác.
+Các sự nghiệp kinh tế.
+Quốc phòng, an ninh, và trật tự an toàn xã hội.
+Hoạt động của đảng cộng sản Việt Nam.
+Hoạt động của mặt trận tổ quốc Việt Nam, liên đoàn lao động Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, hội cựu chiến binh.
+Trị giá theo chính sách của nhà nước.
+Các chương trình quốc gia.
+Hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã hội theo quy định của chính phủ.
+Trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội.
+Tài trợ cho các tổ chức xã hội, xã hội-Nghề nghiệp theo quy định của pháp luật.
+Trả lãi tiền do nhà nước vay.
+Viện trợ cho các chính phủ và các tổ chức nước ngoài.
+Các khoản chi theo quy định của pháp luật.
2. Chi cho đầu tư phát triển.
+Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội không có khả năng thu hồi vốn.
+Đầu tư và hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp nhà nước, góp vốn cổ phần, liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của nhà nước theo quy định của pháp luật.
+Chi cho quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các quỹ hỗ trợ tự phát triển đối với các chương trình, dự án phát triển kinh tế.
+Chi dự trữ nhà nước.
+Cho vay của chính phủ để đầu tư phát triển.
3.Chi trả nợ gốc tiền vay.
4.Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính.
II. SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC VÀ VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI.
1.Khái quát về sự nghiệp giáo dục.
Trong tiến trình phát triển của nền văn minh nhân loại, con người luôn luôn tồn tại với hai tư cách: Vừa là chủ thể xã hội vừa là đối tượng của sự phát triển. Là chủ thể con người thực hiện sự phát triển xã hội mà trước hết là phát triển lực lượng sản xuất. Là đối tượng con người hưởng thụ những thành quả của sự phát triển đó. Không có con người thì không có sự thụ hưởng cũng như không có sự cống hiến, nghĩa là không có sự phát triển. Đó hoàn toàn là một lý thuyết phi thực tế và hoang đường, nhưng lại toát lên một chân lý trường tồn: Trong tất cả những gì có thể nói được về sự tiến báo của lịch sử trên trái đất, con người là trung tâm. Con người là nhân tố quyết định đến mọi hoạt động trong xã hội, điều khiển mọi hoạt động trong xã hội làm cho xã hội ngày càng phát triển hơn. Chính vì thế, nguồn lực của con người luôn được coi là quan trọng nhất trong sự phát triển kinh tế-xã hội của nhiều quốc gia.Tuy nhiên, để cho nguồn lực của con người có thể trở thành một vị trí trung tâm, phát huy mọi khả năng, sức mạnh kỳ diệu khi nguồn lục này được giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng trong môi trường văn hóa lành mạnh và tiên tiến. Một độc giả đã từng đề cao sự phát triển của nhân tố con người:” Yếu tố phát triển con người là yếu tố phát triển của mọi sự phát triển. Chiến lược phát triển kinh tế -xã hội thực chất là chiến lược con người mà trung tâm của nó chính là chiến lược giáo dục. Vì thế, trên tất cả giáo dục có vai trò rất lớn và ngày càng được coi trọng”.
Giáo dục được coi là một hoạt động sản xuất đặc biệt nhất trong tất cả các loại hoạt động sản xuất. Các hoạt động sản xuất khác cung cấp ra các loại hàng hóa, dịch vụ để phục vụ cho con người. Nhưng đối với giáo dục sản phẩm của nó tạo ra chính là con người một sản phẩm vô giá với đầy đủ phẩm chất tốt đẹp. Những tác phẩm đó bao gồm những phẩm chất. Không chỉ là kiến thức, năng lực, hành vi mà còn bao gồm cả sự xã hội hóa về lao động,ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm.
Hiểu một cách chung nhất, giáo dục trước hết là sự tác động của nhân cách này đến nhân cách khác, tác động của nhà giáo dục tới người được giáo dục và tác động qua lại giữa những người được giáo dục với nhau. Thông qua môi trường học tập trong giáo dục cũng như thông qua hoạt động học tập, trong các mối quan hệ xã hội mà nhân cách của mỗi con người được hình thành và phát triển.
Giáo dục không phải là áp dụng các khuôn mẫu cao siêu đến mấy chăng nữa. Giáo dục càng không có nghĩa là sự nẩy sinh các nhu cầu hợp lý. Giáo dục với ý nghĩa đích thực là sự khởi dậy các nhu cầu chân chính, là tạo điều kiện nẩy nở những khát vọng và hoài bão lớn lao, là rèn luyện và bồi dưỡng năng lực của con người để thực hiện những nhu cầu chân chính.
Tùy thuộc vào bản chất chế độ xã hội của mỗi quốc gia, mà người ta hướng các mục đích khác nhau, tuy nhiên mục đích của giáo về cơ bản là những nội dung sau:
- Giáo dục góp phần vào đào tạo một lực lượng lao động lành ngề và sáng tạo, thích ứng với bước tiến hóa của công ngệ và tham gia cuộc cách mạng trí tuệ đang là động lực của._. các nền kinh tế .
- Giáo dục đào tạo tri thức sao cho sự phát triển kinh tế đồng hành với việc quản lý có trách nhiệm với môi trường và con người.
-Đào tạo nên những con người mang đậm nét bản sắc văn hóa của chính dân tộc họ và trên cơ sở đó không ngừng mở mang học hỏi tiếp thu những tinh hoa văn hóa của các dân tộc khác ,trên cơ sở đó đào tạo nên những cá thể hoàn chỉnh về mặt nhận thức.
2.Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển kinh tế xã hội.
Ngay từ thời xa xưa, giáo dục đã được quan tâm đến như một vấn đề hàng đầu của xã hội, để cho xã hội ngày càng phát triển thì không riêng một chế độ xã hội phải quan tâm, mà toàn bộ mọi thể chế xã hội phải quan tâm đến nó. Không phải ngẫu nhiên mà người ta khẳng định rằng: Sự phát triển con người và giáo dục là hai yếu tố quan trọng, có ảnh hưởng to lớn đến sự tiến bộ về kinh tế xã hội .Và theo các học giả kinh tế cho rằng:Tăng trưởng theo thu nhập đầu người, tiến bộ trong giáo dục, sức khỏe dinh dưỡng và bảo vệ môi trường là những mục tiêu mà những quốc gia luôn hướng tới.
Trong thực tế, để đổi mới lực lượng sản xuất không chỉ đòi hỏi trang bị cơ sở vật chất mà điều vô cùng quan trọng đó là trình độ, tay ngề của lực lượng này, do vậy giáo dục luôn là nhân tố quan trọng để biến đổi lực lượng sản xuất, tiếp thu khoa học kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động. Đồng thời gáo dục cũng là nhân tố tích cực trong việc cải tạo, xây dựng củng cố và phát triển quan hệ sản xuất mới.
Giáo dục còn là nhân tố tạo nên động lực thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của xã hội .Theo đại hội VIII nghị quyết trung ương cho rằng nhân tố con người là nhân tố quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Con người giữ vị trí trung tâm và quyết định đến mọi nhân tố khác. Ngày nay, khi thế giới biến đổi mạnh mẽ thì nhân tố con người ngày càng trở nên quan trọng, con người dùng trí tuệ của mình làm biến đổi mạnh mẽ sâu rộng đến mọi mặt của đời sống kinh tế -xã hội chính trị. Như vậy hệ thống giáo dục ngày càng trở nên quan trọng tạo động lực thúc đẩy xã hội phát triển nhanh chóng.
Karl Mác đã từng nói: “tương lai của loài người hoàn toàn phụ thuộc vào việc giáo dục con người ”. Sự giáo dục toàn cầu cho mọi công dân là điều kiện cơ bản để chống lại sự ngu dốt . Đó là điều cơ bản cho sự phồn vịnh toàn cầu, là điều cơ bản để thỏa mãn nhu cầu đầy đủ về thể chất và trí tuệ của con người. Chính vì thế kỷ XXI phải là thế kỷ của giáo dục, thế kỷ của các nhà giáo. Như vậy giáo dục trong mọi thời đại, giáo dục luôn được đề cao. Phát triển giáo dục là sự nghiệp chung mang tính chất chiến lược toàn cầu, vì lợi ích chung của toàn bộ nhân loại.
Nhìn lại lịch sử thế giới và trong khu vực, nhiều quốc gia rất đề cao vai trò của giáo dục, họ tập trung mọi quyền lực để đầu tư phát triển nguồn nhân lực, để phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế xã hội của quốc gia mình, chính sách giáo dục đã được coi là một công cụ bền vững để phát triển. Chính do đường lối đứng đắn này, mà nhiều quốc gia đã gặt hái được nhiều thành tựu quan trọng trong các lĩnh vực khác nhau. Điển hình các quốc gia đầu tư vào nhân tố con người là đất nước Nhật bản, từ một nước không giầu về tài nguyên khoáng sản và bị thiệt hại nặng nề sau chiến tranh. Nhưng sau 20 năm khôi phục phát triển , nền kinh tế Nhật Bản đã tăng trưởng liên tục được gọi là giai đoạn “thần kỳ “ và trở thành một cường quốc về kinh tế - xã hội . Sở dĩ Nhật Bản đạt được những thành tựu như vậy là do họ đã quan tâm đến yếu tố con người như một yếu tố quan trọng hàng đầu , tập trung mọi nguồn lực để phát triển con người thông qua hệ thống giáo dục. Và ngày nay trên thế giới lại xuất hiện một số nước công nghiệp mới, được mệnh danh là những con rồng Châu Á (NIC), họ đã thành công nhờ biết phát huy yếu tố con người. Một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sự thành công ấy chính là giáo dục. Chính giáo dục đã tham gia vào chiến lược nguồn nhân lực và tạo gia động lực để phát triển kinh tế một cách thần kỳ ở các nước này trong thời gian qua .
Nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục - đào tạo mà đảng ta luôn khẳng định phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu . Đại hội đảng lần thứ Vii đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng về sự chuyển biến nhận thức của đảng đối với sự nghiệp giáo dục đào tạo. Đại hội đã khẳng định :” cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục đào tạo được xem là quốc sách hàng đầu, là động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, xây dựng và bảo vệ đất nước phải coi giáo dục như một trong những hướng chính của đầu tư phát triển , tạo điều kiện cho giáo dục đi trước, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội “ .Tại đại hội đảng lần VIII, tầm quan trọng của giáo dục đào tạo một lần nữa được khẳng định : Cùng với khoa học và công nghệ , giáo dục và đào tạo là quốc ấch hàng đầu nhằm năng cao dân trí, đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài để phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, coi trọng cả mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả. Để làm được điều này thì cần có sự nhất quán trong chế độ chính sách, trong quản lý và có sự đầu tư thích đáng cho sự nghiệp giáo dục. Có như vậy mới phát huy được hiệu quả.
III. CHI NSNN CHO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC Ở NƯỚC TA .
Chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục.
Trong xã hội, giai cấp thống trị tổ chức ra nhà nước để đảm cho quyền lợi của giai cấp mình, để nhà nước tồn tại và thực hiện chức năng của mình, nó dùng quyền lực để tập trung nguồn thu vào ngân sách rồi sử dụng ngân sách đó để trang chả, chi tiêu.
Chi NSNN là một nội dung quan trọng trong hoạt động NSNN. Chi NSNN thể hiện các quan hệ tiền tệ hình thành trong quá trình phân phối và sử dụng quỹ NSNN nhằm trang trải cho các chi phí bộ máy nhà nước và thực hiện chức năng kinh tế- xã hội theo những nguyên tắc nhất định.
Chi NSNN bao gồm các khoản chi thường xuyên và chi cho đầu tư phát triển. Trong cơ cấu chi thường xuyên thì chi cho các đơn vị sự nghiệp giáo dục - đào tạo chiếm tỷ trọng lớn .
Xét về bản chất , chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục là sự thực hiện quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị từ quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp , nhằm duy trì và phát triển một nền giáo dục của đất nước .
Xét về hiện tượng bên ngoài, khoản chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục là khoản chi mang tính chất tiêu dùng xã hội, không trực tiếp tạo ra của cải vật chất nhưng về mặt tác dụng lâu dài thì chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục là khoản chi cho đầu tư phát triển vì khoản chi này là nhân tố quyết định đến sự phát triển kinh tế xã hội trong hiện tại và tương lai của đất nước .
Nếu phân chia ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục theo nội dung từng khoản mục thì chi NSNN cho giáo dục bao gồm những khoán sau.
Chi cho nghiệp vụ chuyên môn : Bao gồm các khoản chi phục vụ trực tiếp cho sự nghiệp giáo dục, như các khoản chi về tài liệu, sách giáo khoa đồ dùng học tập và các khoản chi khác .
* Chi NSNN cho mua sắm, sửa chữa cơ sở vật chất phục vụ cho giáo dục.
Cơ sở vật chất dùng để phục vụ cho hoạt động giáo dục, cho quá trình sử dụng lâu dài nên bị hao mòn hư hỏng. Để đáp ứng yêu cầu đào tạo thì cơ sở trang thiết bị cần được duy trì bồi dưỡng. Để làm được điều này cần có kinh phí để mua sắm, sửa chữa những tài sản bị hư hỏng xuống cấp. Trong mỗi năm các đơn vị sẽ dành một phần trong tổng số hạn mức kinh phí được cấp để trang trải cho những khoản chi phí này.
Chi về con người : Các khoản chi cho con người bao gồm tiền lương cho giáo viên và người quản lý, đồng thời các khoản về phụ cấp lương bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, phúc lợi tập thể. Các khoản chi này nhằm đảm bảo đời sống cho những người phục vụ trong ngành giáo dục.
* Chi quản lý hành chính :
Đây là các khoản chi cho bộ máy tổ chức trong ngành giáo dục, cũng như các loại văn phòng phẩm, thông tin liên lạc.
* Các khoản chi khác : Là các khoản chi ngoài bốn khoản chi trên, như chi về hội nghị, phần thưởng, và các khoản khác.
Tổng hợp các khoản mục chi trên sẽ hình thành nên NSNN chi cho giáo dục, đây là các khoản chi phí phát sinh thường xuyên tương đối ổn định. Trong quá trình quản lý chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục, các cơ quan có thẩm quyền phải căn cứ vào tiêu chuẩn định mức để làm căn cứ xây dựng dự toán cũng như đánh giá tình hình thực hiện dự toán . Do đó cần thiết phải có sự quản lý, giám sát chặt chẽ, phải xây dựng được một định mức phù hợp với từng vùng, từng cấp học. Ngoài các khoản chi mang tính chất thường xuyên trên, chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục còn bao gồm các khoản chi ngoài định mức. Đó là những khoản chi cho các chương trình mục tiêu của ngành giáo dục như tăng cường cơ sở vật chất và thiết bị trường học, tăng cường chính sách giáo dục miền núi và vùng dân tộc , phổ cập giáo dục và xóa mù... Đây là những khoản chi phát sinh không thường xuyên nhằm cải tạo, nâng cấp chất lượng ngành giáo dục. Những khoản chi này không phát sinh thường xuyên nên không thể thực hiện chi theo định mức mà hoàn toàn phụ thuộc vào từng chương trình dự án cụ thể. Chính ở đây, công tác quản lý chi và sử dụng kinh phí cần hết sức chặt chẽ, và có hiệu quả bởi vì khoản chi này sẽ ảnh hưởng lớn đến mục tiêu kết quả đạt được .
Với những nội dung chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục cụ thể trên công tác quản lý Chi NSNN cho giáo dục không nằm ngoài việc quản lý các nội dung này là đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả. Trong quá trình quản lý nội dung các khoản mục này đòi hỏi phải phải tuân thủ nghiêm chỉnh quy trình quản lý NSNN, bao gồm các khâu lập dự toán, chấp hành ngân sách, và quyết toán ngân sách .
2. Vai trò của chi NSNN đối với sự nghiệp giáo dục ở nước ta hiện nay.
Sự nghiệp giáo dục là sự nghiệp toàn dân, do vậy nhà nước chủ trương huy động mọi nguồn lực để đầu tư cho sự phát triển của ngành giáo dục. Có thể nói ngành giáo dục được sự quan tâm của toàn đảng, toàn dân. Nguồn vốn để đầu tư cho sự nghiệp giáo dục cũng rất đa dạng bao gồm các nguồn sau :
- Nguồn đóng góp:
+ Tiền học phí do nhân dân đóng góp
+ Tiền đóng góp của nhân dân để đầu tư xây dựng cơ sở trường lớp.
- Nguồn được tài trợ:
+ Tiền đóng góp ủng hộ của các cá nhân , tổ chức trong nước và ngoài nước.
+Tiền viện trợ của các cơ quan chính phủ nước ngoài .
+ Các khoản được biếu tặng bằng tiền cũng như hiện vật của các tổ chức đoàn thể .
Vốn từ ngân sách nhà nước .
Chúng ta thường nói giáo dục là sự nghiệp của toàn dân, là trách nhiệm của cộng đồng. Vì thế cần có sự quan tâm đầu tư của tất cả các thành phần kinh tế, các cá nhân. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy trong tất cả các nguồn vốn đầu tư cho giáo dục thì nguồn vốn ngân sách nhà nước bao giờ cũng là nguồn quan trọng nhất , chiếm tỷ trọng lớn nhất và ồn định nhất . Do vậy, chất lượng của hệ thống giáo dục phụ thuộc chủ yếu vào nguồn vốn từ ngân sách nhà nước cấp. Vai trò của ngân sách nhà nước ở các mặt sau:
Ngân sách nhà nước là nguồn vốn thường xuyên ổn định , to lớn để duy trì và phát triển hệ thống giáo dục theo đúng định hướng của nhà nước. Trong cơ cấu nguồn vốn đầu tư cho giáo dục thì nguồn vốn ngân sách nhà nước là nguồn vốn có tỷ trọng lớn nhất trong tổng số các nguồn vốn mà không có một nguồn vốn nào có thể thay thế được vai trò của nó. Trong hệ thống giáo dục ở nước ta ngày càng xuất hiện nhiều trường lớp do nhân dân quản lý và đầu tư, nhưng hệ thống trường lớp vẫn chiếm 99,4% do vậy về cơ bản nguồn vốn đầu tư cho giáo dục về cơ bản vẫn là NSNN .
Thứ 2: NSNN là nguồn vốn tài chính cơ bản đảm bảo đời sống cho đội ngũ cán bộ, giáo viên. Để đảm bảo sự duy trì và phát triển của nền giáo dục thì yếu tố hàng đầu là phải xây dựng được một đội ngũ nhà giáo có chuyên môn và nhiệt tình. Để làm được điều này thì phải có những biện pháp chính sách mà quan trọng là phải đảm bảo đời sống vật chất của đội ngũ giáo viên .NSNN ngoài việc đảm bảo tiền lương hàng tháng cho cán bộ giáo viên mà còn bao gồm các khoản khuyến khích như phụ cấp khu vực, phụ cấp giảng dậy, ưu đãi ...
Thứ 3: NSNN là nguồn kinh phí chủ yếu để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng cũng như mua sắm, trang bị những thiết bị phục vụ cho công tác giảng dậy... Hệ thống trường lớp được hình thành từ NSNN, do NSNN đầu tư và hệ thống này không ngừng được đổi mới, trang bị hiện đại hơn nhằm đáp ứng yêu cầu giảng dậy đạt kết quả ngày càng cao.
Thư 4: NSNN góp phần phát triển toàn diện hệ thống giáo dục, trong việc đầu tư phát triển hệ thống giáo dục một cách đồng bộ, hợp lý và cân đối giữa các cấp và giữa các vùng. Nhà nước có thể điều chỉnh định hướng bằng việc sắp xếp lại mạng lưới trường học, lớp học, điều chỉnh giữa các vùng đồng bằng, trung du miền núi nhằm rút ngắn khoảng cách chênh lệch giáo dục.
Tóm lại: vai trò của NSNN hết sức quan trọng, quyết định tới sự tồn tại và phát triển của hệ thống giáo dục. NSNN vững mạnh kết hợp với chủ trương phát triển giáo dục đúng đắn sẽ thúc đẩy sự phát triển của hệ thống giáo dục.
3. Sự cần thiết phải quản lý chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục Quận.
Theo hệ thống tổ chức NSNN, hiện nay NSNN ta bao gồm 4 cấp là NSTW và NSĐP, trong đó NSĐP bao gồm NS Tỉnh, Thành phố, NS Quận, Huyện và NS xã, phường. Mỗi cấp ngân sách đảm đương những nhiệm vụ khác nhau và được quy định trong luật ngân sách. Trong những giai đoạn khác nhau nhiệm vụ chi cũng khác nhau và chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục tùy thuộc vào sự biến động trong quá trình hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý NSNN ở nước ta.
Trước khi luật ngân sách nhà nước ra đời, các khoản chi cho sự nghiệp giáo dục đào tạo trên địa bàn thành phố được cân đối vào ngân sách Quận, huyện từ năm 1993 các thành phố đã chuyển nhiệm vụ chi giáo dục cho NS thành phố đảm bảo vì ngân sách các Quận, Huyện không thể đảm được trách nhiệm này khi nhu cầu phát triển giáo dục ngày càng tăng. Tử đây NS Quận, Huyện chỉ đóng vai trò hỗ trợ cho sự nghiệp giáo dục đào tạo, chỉ đảm nhận một số khoản chi như mua sắm, sửa chữa.
Sửa chữa nhỏ chi cho tất cả các trung tâm dạy nghề. Kể từ đó Sở tài chính vật giá kết hợp với sở giáo dục đào tạo quản lý nguồn kinh phí cho sự nghiệp này.
Từ khi luật Ngân sách nhà nước ra đời và đi vào thực hiện, việc giao nhiệm vụ chi cho sự nghiệp giáo dục đào tạo, trên địa bàn thành phố đã thay đổi và quy định như sau: chi thường xuyên về sự nghiệp giáo dục đào tạo được phân cấp cho Ngân sách thành phố đảm nhận và thực hiện cấp phát theo hình thức cấp phát kinh phí ủy quyền, theo cơ quan tài chính cấp huyện. Thực hiện cơ chế phân cấp này có thể tránh tình trạng không thống nhất trong công tác quản lý theo ngành và theo lãnh thổ, đồng thời chính quyền cấp quận, huyện có thể nắm được tình hình Ngân sách cho sự nghiệp giáo dục trên địa bàn quận, huyện quản lý .
Quá trình tổ chức quản lý các khoản chi Ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục quận huyện được cấp phát theo hình thức cấp phát kinh phí ủy quyền có thể được khái quát như sau:
Hàng năm sở giáo dục có trách nhiệm phối hợp với Sở tài chính vật giá dự toán ngân sách toàn ngành và tỉnh ủy ban nhân dân thành phố, sau đó trình hội đồng nhân dân phê duyệt. Sau khi dự toán Ngân sách đã được phê duyệt, quá trình cấp phát được thực hiện như sau:
- Kinh phí các trường trực thuộc các sở quản lý, Sở tài chính cấp cho các sở hoặc các cấp trực tiếp cho các trường học.
- Các trường học thuộc quyền quản lý của quận, huyện được cấp ủy quyền qua quận huyện. Sở tài chính thực hiện cấp kinh phí ủy quyền cho quận huyện thông qua tài khoản hạn mức, kinh phí ủy quyền tại Kho bạc nhà nước quận huyện, các phòng tài chính quận huyện có trách nhiệm cấp phát cho các đơn vị theo tiến độ kế hoạch của toàn thành phố, kết thúc năm phải có báo cáo cho Sở tài chính - vật giá biết.
Nội dung chi thường xuyên của sự nghiệp giáo dục được Ngân sách thành phố cấp kinh phí ủy quyền gồm :
- Chi thường xuyên cho cấp mẫu giáo, nhà trẻ.
- Chi thường xuyên về sự nghiệp giáo dục tiểu học.
- Chi thường xuyên về sự nghiệp giáo dục phổ thông trung học cơ sở.
- Chi thường xuyên về bổ túc văn hóa, đào tạo tay nghề, đào tạo ngắn hạn.
- Chi cho sự nghiệp giáo dục thường xuyên khác.
Trong mô hình quản lý này, phòng tài chính quận, huyện đóng vai trò trung gian trong việc chuyển các khoản chi giáo dục của Ngân sách thành phố cho các đơn vị thụ hưởng (các trường học ). Do đó việc quản lý của phòng tài chính - vật giá quận, huyện đối với các khoản kinh phí ủy quyền chi cho sự nghiệp giáo dục cũng phải quản lý theo những nguyên tắc dùng trong quản lý và sử dụng trong Ngân sách nhà nước, và nó ảnh hưởng lớn đến hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn vốn Ngân sách nhà nước, ảnh hưởng đến sự phát triển giáo dục.
Còn đối với Ngân sách Quận, Huyện, mặc dù không phải đảm đương nhiệm vụ chi thường xuyên cho sự nghiệp giáo dục Quận Huyện như trước đây nhưng ngân sách Quận, Huyện hàng năm phải đóng góp một phần Ngân sách của mình để hỗ trợ cho sự nghiệp giáo dục ở Quận, Huyện cấp mình quản lý. Ngân sách Quận Huyện phải có trách nhiệm hỗ trợ về kinh phí để hỗ trợ đối với nhiệm vụ chi về xây dựng cơ bản, chống xuống cấp và mua sắm tài sản cố định giáo dục cho hoạt động giáo dục ở quận huyện theo sự phân cấp của ủy ban thành phố và quản lý theo chế độ quản lý và đầu tư của nhà nước.
Như vậy, theo cơ chế quản lý mới đối với Ngân sách giáo dục vai trò quản lý từ Ngân sách thành phố là khá lớn, và chi trực tiếp cho các trường học đóng trên địa bàn Quận, Huyện quản lý,vì thế cần quan tâm đến công tác quản lý chi Ngân sách ở Quận, Huyện mà thực ra là quản lý kinh phí ủy quyền dành cho giáo dục Quận, Huyện. Đó cũng là lý do cho việc đi sâu vào phân tích tình hình chi Ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục Quận, Huyện tại một địa bàn cụ thể Quận Hai Bà Trưng.
4. Nội dung quản lý chi Ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục Quận
4.1 Quản lý chi Ngân sách nhà nước cho giáo dục từ nguồn kinh phí ủy quyền.
Để đảm bảo kinh phí cho sự nghiệp giáo dục Quận, Ngân sách thành phố phải đảm bảo nguồn kinh phí cho hệ thống giáo dục ở cấp Huyện, Quận. để đảm bảo vai trò này Ngân sách Thành Phố cấp kinh phí ủy quyền cho các đơn vị dự toán thông qua Ngân sách Quận , Huyện. Từ đây phòng tài chính vật giá trở thành mắt xích trung gian thực hiện dự toán, cấp phát, quyết toát nguồn kinh phí Ngân sách Thành Phố ủy quyền cho sự nghiệp giáo dục Quận.
Quy trình quản lý :
Nguồn Kinh phí ủy quyền cho sự nghiệp giáo dục Quận chính là khoản chi quan trọng, chủ yếu trong tổng chi Ngân sách hàng năm cho giáo dục trên toàn Thành Phố, cho nên quy trình quản lý Kinh phí ủy quyền cho giáo dục tuân theo quy trình quản lý Ngân sách nhà nước, bao gồm các khâu sau:
- Lập kế hoạch .
- Điều hành- cấp phát.
- Quyết toán.
a. Công tác lập kế hoạch:
Đây là khâu mở đầu cho toàn bộ chu trình Ngân sách nhà nước, nó quyết định đến chất lượng và hiệu quả của các khâu sau đó. Do đó lập kế hoạch là khâu mở đầu mang tính định hướng , có vai trò hết sức quan trọng trong công tác Ngân sách giáo dục.
- Căn cứ lập kế hoạch:
Kế hoạch chi Kimh phí ủy quyền hàng năm được lập căn cứ vào các yếu tố sau:
+ Các chủ trương, đường lối, chính sách trong phát triển kinh tế của thành phố và của Quận trong thời gian đó.
+ Hệ thống các định mức kinh tế, kỹ thuật tài chính và hệ thống các chỉ tiêu cụ thể, như các chỉ tiêu và lượng học sinh, giáo viên định mức kinh phí đối với mỗi học sinh.
+ Căn cứ vào chế độ phân cấp quản lý chi Kinh phí ủy quyền cho sự nghiệp giáo dục do UBND Thành Phố quy định .
+ Tình hình thực tế và thực hiện dự toán Kinh phí ủy quyền năm trước .
+ Yêu cầu, mục tiêu nhiệm vụ phát triển giáo dục hàng năm của Quận .
+ Một số biến động của thị trường, giá cả và một số yếu tố kinh tế xã hội có ảnh hưởng đến giáo dục.
- Quy trình lập dự toán.
Tất cả các nhà tư mẫu giáo, các trường do Quận, Huyện quản lý lập dự toán Ngân sách của đơn vị mình gửi lên phòng tài chính, phòng tài chính Quận tổng hợp dự toán chi rồi gửi lên Sở tài chính vật giá. Sở tài chính vật giá tập hợp dự toán của các Quận hình thành nên dự toán của Ngân sách của cấp mình. Như vậy theo trình tổng hợp từ thấp đến cao mà nguồn Kinh phí ủy quyền từ Ngân sách Thành Phố được hình thành.
- Giao dự toán chi ngân sách giáo dục bằng nguồn Kinh phí ủy quyền
Căn cứ vào nghị quyết của HĐND Thành Phố, UBND Thành Phố giao dự toán chi từ nguồn Kinh phí ủy quyền của Ngân sách Thành Phố cho UBND quận , UBND ra quyết định phân bổ dự toán năm cho phòng tài chính Quận.
b. Điều hành - cấp phát Kinh phí ủy quyền cho giáo dục Quận.
Cấp phát Kinh phí ủy quyền cho giáo dục hiện nay được thực hiện theo hai hình thức:
Cấp phát hạn mức kinh phí và cấp phát theo lệnh chi tiền.
- Đối với cấp phát bằng hạn mức kinh phí.
Sở tài chính
Kho bạc nhà nước
Phòng TC- vật giá quận
Ngân hàng thương mại
Sau khi dự toán kinh phí đã được phê chuẩn thì Sở tài chính - vật giá sẽ gửi dự toán kinh phí Kinh phí ủy quyền xuống cho Kho bạc nhà nước và phòng tài chính vật giá Quận. Trong thông báo này Sở tài chính mới thông báo tổng mức Kinh phí ủy quyền mà các đơn vị được hưởng.
Sau khi nhận được dự toán Kinh phí ủy quyền, phòng tài chính vật giá sẽ tiến hành phân bổ Kinh phí ủy quyền cho các trường một lớp và gửi thông báo xuống cho các đơn vị trực thuộc và cho cơ quan Kho bạc nhà nước. Bản thông báo này ghi chi tiết hạn mức được phân bổ thời gian trong năm.
Sau khi được phân bổ Kinh phí ủy quyền các cơ sở trường học, các đơn vị giáo dục rút tiền mặt trực tiếp từ kho bạc về để chi tiêu hoặc yêu cầu kho bạc chuyển sang tài khoản Ngân hàng.
Toàn bộ quá trình này được thực hiện và chịu sự kiểm soát đặc biệt theo đúng chế độ chính sách.
Sở tài chính
Kho bạc nhà nước
Ngân hàng thương mại
Phòng tài chính Quận
Các trường học
- Đối với cấp phát bằng lệnh chi tiền.
Theo phương pháp cấp phát bằng lệnh chi tiền: Sở tài chính gửi thông báo kế hoạch chi Kinh phí ủy quyền cho phòng tài chính vật giá quận, đồng thời Sở tài chính lập lệnh gửi sang cho Kho bạc nhà nước đang cấp, yêu cầu Kho bạc nhà nước cấp kinh phí cho đối tượng được hưởng.
c. Công tác quyết toán
Quyết toán là khâu cuối cùng trong quá trình quản lý chi Ngân sách nhà nước. Đó chính là quá trình kiểm tra, rà soát, chỉnh lý lại các số liệu đã được phản ánh sau một kỳ hạch toán nhằm phân tích, đánh giá kết quả chấp hành dự toán trong năm Ngân sách. Quyết toán Kinh phí ủy quyền bao gồm quyết toán nguồn kinh phí và tình hình sử dụng nguồn kinh phí đó.
Công tác quyết toán được tiến hành theo nguyên tắc đơn vị dự toán cấp dưới phải nộp báo cáo quyết toán cho đơn vị dự toán cấp trên xem xét và phê quyết.
Quy trình lập và nộp báo cáo quyết toán Kinh phí ủy quyền được thực hiện như sau:
Hàng năm, hàng quý tất cả các trường học trực tiếp sử dụng Kinh phí ủy quyền của Ngân sách thành phố lập báo cáo quyết toán quý, nhằm theo mẫu quy định của Bộ Tài chính. Ngoài bảng báo cáo quyết toán nắm về tình hình sử dụng kinh phí, các trường học còn phải gửi kèm bảng cân đối tài khoản, báo cáo thuyết minh, bảng đối chiếu hạn mức kinh phí có sự xác nhận của Kho bạc nhà nước
Sau đó phòng tài chính quận thực hiện kiểm tra, đối chiếu số liệu dư về Kinh phí ủy quyền với Kho bạc nhà nước để sử lý kịp thời những khoản chi không đúng chế độ trước khi lập quyết toán Kinh phí ủy quyền để gửi Sở tài chính. Thời gian duyệt quyết toán không quá 30 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo quyết toán của các trường học gửi lên. Sau khi duyệt quyết toán phòng tài chính thông báo cho các trường học biết rồi tổng hợp gửi lên Sở tài chính.
4.2. Quản lý chi Ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục từ nguồn Ngân sách quận.
Theo luật Ngân sách nhà nước hiện nay, nguồn Ngân sách quận dành cho giáo dục khác với nguồn Kinh phí ủy quyền. Nguồn Kinh phí ủy quyền dành cho giáo dục hàng năm được Sở tài chính cấp thẳng cho các trường học, căn cứ vào dự toán quý, năm thì nguồn Ngân sách Quận cấp cho phòng giáo dục Quận hoặc ủy ban quản lý để thực hiện các dự án sửa chữa, xây dựng mới các trường hợp, lớp học trên địa bàn Quận, các dự án này được duyệt trong dự toán xây dựng báo cáo hằng năm của Quận. Khi đó, phòng giáo dục hoặc ban quản lý dự án trở thành chủ đầu tư đối với các công trình sửa chữa, xây dựng mới và sẽ làm việc trực tiếp với phòng tài chính Quận trong suốt quá trình thực hiện.
Quy trình quản lý chi Ngân sách nhà nước cho giáo dục từ nguồn Ngân sách quận bao gồm các khâu: lập dự toán, điều hành - cấp phát, quyết toán. Quá trình quản lý này hoàn toàn phù hợp với quản lý Ngân sách nhà nước.
Lập dự toán
Đầu năm, các đơn vị cơ sở như phòng giáo dục, lập dự toán chi cho các công trình, dự án sửa chữa, xây dựng, chống xuống cấp thuộc Ngân sách Quận. Rồi từ đó tập hợp lại gửi lên phòng tài chính Quận để tổng hợp lập dự toán Ngân sách và phương án phân bổ dự toán Ngân sách trình UBND Thành Phố xem xét.
Điều hành cấp phát
Căn cứ vào kế hoạch năm và mức chi hàng quý đã thông báo, phòng tài chính Quận tổ chức cấp phát vốn cho các dự án theo đúng chế độ quy định. Việc cấp phát vốn được thực hiện thông qua kho bạc.
Khi có nhu cầu cấp vốn tạm thời hoặc cấp vốn thanh toán khối lượng xây dựng cơ bản hoàn thành, chủ đầu tư làm thủ tục đề nghị cấp vốn giữ lên phòng tài chính Quận. Sau khi kiểm tra giá trị khối lượng công việc hoàn thành và phiếu giá thanh toán của các dự án, phòng tài chính Quận chấp nhận cấp phát và yêu cầu Kho bạc nhà nước Quận thanh toán.
Quyết toán
Khi kết thúc năm kế hoạch, các đơn vị cơ sở báo cáo vốn đầu tư thực hiện trong năm. Khi dự án hoàn thành gửi phòng tài chính Quận, cơ quan thẩm tra quyết toán và người có thẩm quyền quyết định phê duyệt quyết toán theo quyết định của UBND Thành Phố.
Chương II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HAI BÀ TRƯNG - THÀNH PHỐ HÀ NỘI
I. VÀI NÉT VỀ ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ XÃ HỘI VÀ SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC QUẬN HAI BÀ TRƯNG
1. Địa lý hành chính .
Quận Hai Bà Trưng nằm ở vị trí quan trọng của thủ đô Hà Nội, quận Hai Bà Trưng nằm ở phía Đông Nam thành phố Hà Nội. Phía Đông giáp với sông Hồng và bên kia là huyện Gia Lâm, phía Tây giáp với quận Đống Đa và Thanh Xuân. Và phía Bắc giáp với quận Hoàn Kiếm, phía Nam giáp với huyện Thanh Trì. Như vậy, quận Hai Bà Trưng là quận có nhiều thuận lợi về vị trí trong nội thành Hà Nội, là quận có diện tích tương đối rộng với 14,5 km2, trong địa bàn Quận bao gồm tất cả 25 phường.
Địa bàn quận Hai Bà Trưng là khu vực tương đối đa dạng, kinh tế phát triển
diện tích đất được sử dụng vào các mục đích rất đa dạng, nhưng chủ yếu để phục vụ cho nhu cầu đời sống và sản xuất king doanh trong vùng. Cơ cấu diện tích đất quận Hai Bà Trưng được sử dụng như sau:
- Đất chuyên dùng: 6,3 km2, chiếm 43,43% tổng diện tích đất trên địa bàn.
- Đất nhà ở: 5,9 km2, chiếm 40,56% tổng diện tích đất tự nhiên.
- Đất nông nghiệp: 1km2, chiếm 7,5% tổng diện tích đất tự nhiên .
- Đất chưa sử dụng :1,2 km2 chiếm 8,58% tổng diện tích đất tự nhiên.
2) Đặc điểm về kinh tế.
Trong những năm vừa qua, tình hình phát triển kinh tế trên địa bàn đạt mức độ tăng trưởng khá cao và ổn định. Năm 1999 khu vực kinh tế nhà nước trung ương và thành phố trên địa bàn quận đạt mức tăng trưởng 9,3%, kinh tế địa phương tăng 6,5% so với năm 1998. Năm 2001 tốc độ tăng trên địa bàn Quận đạt khá cao từ 11 đến 12%.
Cơ cấu kinh tế trên địa bàn quận Hai Bà Trưng cũng tương đối đa dạng và ổn định. Trên địa bàn quận có 4 đơn vị kinh tế nhà nước thuộc Quận quản lý và ngoài ra còn một số khu công nghiệp trọng điểm như là các khu: Minh Khai, Vĩnh Tuy, Văn Điển, Pháp Vân. Bên cạnh sự phát triển của khu vực kinh tế nhà nước, thì khu vực kinh tế tư nhân cũng khá đa dạng ngoài một số các công ty thương mại, du lịch dịch vụ do Quận quản lý thì trên địa bàn Quận các hộ kinh doanh cá thể tương đối phát triển đa dạng. Họ tham gia vào nhiều lĩnh vực như sản xuất, kinh doanh thương mại dịch vụ, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế của thành phố và Quận.
Cùng với đà phát triển của đất nước, Thành Phố Hà Nội, quận Hai Bà Trưng đang có những bước phát triển hết sức mạnh mẽ, đóng góp chung vào sự phát triển của Thành Phố. Là khu vực thuận lợi do vị trí địa lý trung tâm. quận Hai Bà Trưng có nhiều thế mạnh trong hoạt động thương mại, dịch vụ kết hợp với đội ngũ lao động có trình độ. Trong tương lai quận Hai Bà Trưng sẽ có những bước tiến quan trọng trong phát triển kinh tế.
3) Đặc điểm về văn hóa - xã hội
Quận Hai Bà Trưng là một quận có dân số tương đối lớn 35 vạn người chủ yếu là dân kinh doanh buôn bán nhỏ. Trên địa bàn quận nhu cầu về văn hóa - xã hội là rất lớn. Bên cạnh đó yêu cầu xây dựng về cơ sở hạ tầng cũng được quan tâm. Hằng năm chưa kể nguồn vốn đóng góp, huy động thì Ngân sách quận dành một tỷ lệ khá cao để đầu tư cho các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao, các phong trào văn nghệ quần chúng.
Về vấn đề y tế chăm sóc sức khỏe cộng đồng: Cũng được cải thiện. Quận Hai Bà Trưng có hai phòng khám đa khoa, một nhà hộ sinh, một nhà chữa trị ma túy, 25 phong y tế. Ngoài ra trên địa bàn Quận còn có các bệnh viện lớn cùng đội ngũ thầy thuốc có tay nghề cao như bệnh viện Bạch Mai, Thanh Nhàn, sức khỏe của nhân nhân được chăm sóc đảm bảo.
Trong vài năm gần đây, tình hình xã hội trên địa bàn đã hoạt động rất tốt: Quản lý đô thị có nhiều tiến bộ, giải quyết công việc đúng tiến độ kịp thời, tuân thủ những văn bản hướng dẫn của UBND quận và HĐND quận, cũng như chấp hành chính sách của Thành Phố và nhà nước. Tình hình chính trị trật tự an ninh xã hội đạt được nhiều tiến bộ. Về cơ bản đã đạt được những chỉ tiêu đã đặt ra.
Tuy nhiên, do Quận Hai Bà Trưng là Quận có dân số đông, tình hình trật tự an ninh xã hội còn nhiều phức tạp, tỷ lệ hộ kinh doanh cá thể lớn. Do vậy đã tạo ra không ít khó khăn cho Quận trong việc triển khai thực hiện các phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế văn hóa xã hội trong thời gian qua và những năm tiếp theo.
Cũng chính do những đặc điểm về kinh tế xã hội - văn hóa trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng cả về những thuận lợi và khó khăn đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển văn hóa xã hội nói chung và sự nghiệp giáo dục nói riêng.
4) Đặc điểm về giáo dục Quận Hai Bà Trưng thành phố Hà Nội.
Quận Hai Bà Trưng là một quận có chất lượng giáo dục hàng đầu của Thành Phố Hà Nội. Trong những năm qua sự nghiệp giáo dục luôn được Quận và Thành Phố quan tâm, đầu tư phát triển.
Quán triệt._.quản lý hành chính. Không những thế, việc chọn lựa đầu tư giữa các khoản chi ngay trong mỗi nhóm chi còn quản lý lỏng lẻo dẫn đến tình trạng sử dụng sai mục đích, lãng phí ngân sách nhà nước (chẳng hạn cho nhóm chi cho quản lý hành chính: Các khoản chi giao dịch, điện thoại là các khoản chi có thể tiết kiệm được nhưng thực tế lại rất lãng phí. Trong khi đó lại không đủ kinh phí để tổ chức các buổi hội thảo vể chuyên môn, sinh hoạt chuyên đề...)
- Về công tác lập dự toán ngân sách nhà nước:
+ Mặc dù trong quá trình lập dự toán, phòng tài chính vật giá đã tổ chức thảo luận với phòng giáo dục đào tạo nhưng do hệ thống định mức không phù hợp nên khi thảo luận cơ bản là lập theo khả năng ngân sách, nhiều khi vướng mắc của ngành giáo dục không được giải quyết.
+ Một số trường hợp khi lập dự toán gặp nhiều vướng mắc (do dự hạn chế về trình độ của cán bộ kế toán, do không chấp hành đúng luật ngân sách: Như lập sai biểu mẫu, thiếu mục chi, chậm về thời gian...)
+ Khi lập dự toán, các trường đã không phản ánh các khoản chi từ nguồn thu để lại (thu học phí, các khoản đóng góp của phụ huynh cũng như các tổ chức khác).
+ Việc giao dự toán cho các đơn vị dữ toán ngân sách chưa thực hiện được trước ngày 31 tháng 12 của năm trước. Vì ngày 31 tháng 12 Chính phủ và Bộ Tài chính mới giao dự toán cho thành phố, và sau đó thành phố mới giao lại dự toán cho các Quận.
- Về công tác chấp hành dự toán: Phân cấp nhiệm vụ chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục còn nhiều bất cập. Phòng giáo dục - đào tạo được chủ động hơn trong sử dụng ngân sách nhưng cũng làm phức tạp hơn quá trình cấp phát kinh phí cho các trường. Ngoài ra dẫn đến tình trạng phân tán và sự vốn tại cơ sở. Các trường rút hạn mức và tự tổ chức thực hiện việc thanh toán, chi trả thiếu sự kiển tra của cơ quan tài chính và kho bạc. Dẫn đến tình trạng rút hạn mức tùy tiện, bằng mọi cách để rút hết hạn mức tuy nhiên đôi khi không sử dụng đúng mục đích. Hiện tượng chạy kinh phí cuối năm để khỏi chuyển trả về ngân sách thành phố cũng thường xẩy ra.
- Công tác quyết toán
Thời gian duyệt quyết toán không quá 30 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo quyết toán của các trường học gửi lên. Sau khi duyệt quyết toán phòng tài chính thông báo cho các trường học biết và tổng hợp gửi lên Sở tài chính.
Do những điểm mới cần quán triệt khi làm quyết toán năm mà luật ngân sách và các văn bản hướng dẫn quy định nên các đơn vị và cơ quan tài chính cũng gặp không ít khó khăn. Một vấn đề khác nữa đáng chú ý trong quá trình thực hiện quyết toán, hầu hết những nảy sinh làm cản trở đến việc tổng hợp quyết toán ở phòng tài chính Quận, lại xuất hiện từ những báo cáo quyết toán mà các trường học gửi lên. Một số báo cáo quyết toán được lập vội vã dẫn đến số liệu không chính sách, không cấp đúng khi phòng tài chính vật giá thực hiện đối chiếu với số thực chi và số liệu ở kho bạc. Hầu hết các báo cáo quyết toán không có phần thuyết minh, giải trình. Thực trạng vừa nên trên cũng chính là nguyên nhân chậm chễ trong việc lập vào nộp báo cáo quyết toán từ phòng tài chính quận lên Sở tài chính vật giá.
Trên đây là toàn bộ thực trạng công tác quản lý chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục Quận Hai Bà Trưng trong giai đoạn từ 1999 đến 2001. Trong điều kiện khó khăn chung Quận Hai Bà Trưng đã có nhiều có gắng nâng cao hiệu quả chi quản lý ngân sách nhà nước, tạo nên bước phát triển mới cho sự nghiệp giáo dục trên địa bàn tuy nhiên trong quá trình quản lý chi còn gặp nhiều vướng mắc và bộc lộ một số hạn chế, cần phải có biện pháp giải quyết trong thời gian tới.
Chương III
MỘT SỐ BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ CHI NSNN CHO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC QUẬN HAI BÀ TRƯNG - THÀNH PHỐ HÀ NỘI
I. MỤC TIÊU, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC QUẬN HAI BÀ TRƯNG TRONG THỜI GIAN TỚI.
Sự nghiệp giáo dục luôn luôn được coi là vấn đề hàng đầu không chỉ ở nước ta mà tất cả các nước trên thế giới đều như vậy. Nhất là khi chúng ta nhận thức được rằng ở nước ta trong bối cảnh hiện nay, nhân tố quan trọng hàng đầu đảm bảo cho sự thành công của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh chính là phẩm chất, năng lực và ý chí của con người Việt Nam. Thì hơn bao giờ hết, sự nghiệp giáo dục và đào tạo phải được coi trọng hàng đầu. Thực tế cho thấy chưa bao giờ sự nghiệp phát triển giáo dục - đào tạo ở nước ta lại thu hút nhiều sự quan tâm đến thế. Đảng và Nhà nước ta là người khởi xướng và khơi dậy sự quan tâm chú ý của mọi tổ chức cá nhân và toàn xã hội đến giáo dục. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định: "Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài".
Để thực hiện mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra đồng thời khắc phục những bất cập và tồn tại trong ngành giáo dục quận. Ban chấp hành Quận ủy Hai Bà Trưng đã xác định phương hướng phấn đấu của ngành giáo dục - đạo tạo quận Hai Bà Trưng từ nay đến 2005 là: "Phát huy những thành tích đã đạt được, khắc phục những mặt còn yếu kém theo hướng chấn chỉnh công tác quản lý, lập lại kỷ cương trường học. Sắp xếp và củng cố lại mạng lưới trường học xây dựng và bồi dưỡng cán bộ giáo viên, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục và đào tạo, từng bước hiện đại hóa cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác giảng dạy, học tập, thực hiện xã hội hóa giáo dục góp phần đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước".
Để thực hiện phương hướng trên, từ nay đến năm 2005 ngành giáo dục quận cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
Về quy mô phát triển và phổ cập giáo dục.
- Sắp xếp lại mạng lưới trường học ở 25 trường trên địa bàn quận và đặc biệt ở các trường học ở phường Trương Định, Tân Mai, Cầu Dền, Giáp Bát...
- Xây dựng một số trường tiểu học và trung học cơ sở đạt tiêu chuẩn quốc gia, chuyển một số trường bán công thành các trường dân lập đáp ứng yêu cầu quản lý và xã hội hóa giáo dục.
- Phấn đấu tỷ lệ trẻ ra mẫu giáo đạt 75%, 98% trẻ 6 tuổi vào học lớp một, phổ cập giáo dục phổ thông trung học đạt 80%, đạt tiêu chuẩn phổ cập tiểu học đúng độ tuổi.
- Xây dựng kế hoạch phân luồng học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở.
Về chất lượng.
- Hạ thấp tỷ lệ trẻ em đến độ tuổi nhưng chưa đi học, giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng xuống 8%. Học sinh tiểu học được học ngoại ngữ, tin học. Nâng cao chất lượng giảng dạy môn giáo dục công dân, giáo dục pháp luật, đạo đức. Đẩy mạnh các hoạt động vui chơi, giáo dục thể chất, văn hóa, văn nghệ. Phát huy vai trò hoạt động của công tác đội, công tác Đoàn.
- Xây dựng phương hướng biện pháp nhằm bồi dưỡng các học sinh giỏi, có chế độ khuyến khích nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển của những nhân tài cho đất nước.
- Không ngừng mở rộng các hình thức học tập cho những người khuyết tận, vô gia cư, xây dựng các lớp xóa mù, các trung tâm hướng nghiệp.
Về cơ sở vật chất.
- Trang bị đầy đủ các thiết bị giảng dạy - học tập theo quy định của Bộ giáo dục: như đồ dùng, đồ chơi, dụng cụ thể dục thể thao, mô hình mẫu vật, hóa chất...
- Phấn đấu đến năm 2005 tất cả các trường tiểu học có cơ sở vật chất riêng, không còn phòng học cấp 4. Các trường tiểu học và trung học cơ sở có phòng làm việc của Ban giám hiệu, văn phòng, phòng thí nghiệm, vi tính...
- Phấn đấu có 50% các trường có bài tập, có khu vui chơi giải trí.
Về đội ngũ giáo viên.
- Phấn đấu đến năm 2005 có 95% giáo viên mầm non đạt trình độ chuẩn, 90% giáo viên tiểu học và trung học cơ sở đạt trình độ chuẩn (có 50% tiêu chuẩn). Cán bộ quản lý có trình độ lý luận và quản lý nhà nước là 60%.
- 100% tổng phụ trách, nhân viên thí nghiệm, văn phòng được bồi dưỡng nghiệp vụ. Đổi mới phương pháp dạy và học, đẩy mạnh các hoạt động chuyên môn. Phấn đấu có 40% giáo viên có trình độ tin học và ngoại ngữ phổ thông.
- Có chế độ khuyến khích giáo viên giỏi, cán bộ quản lý giỏi. Nhằm động viên khuyến khích họ trong công tác. Hỗ trợ giáo viên về đời sống vật chất, điều kiện sinh hoạt.
- Đẩy mạnh công tác phát triển Đảng trong đội ngũ cán bộ, giáo viên nâng tỷ lệ đảng viên trong ngành lên 40%.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ CHI NSNN CHO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC QUẬN HAI BÀ TRƯNG.
Để phát triển sự nghiệp giáo dục trên địa bàn quận Hai Bà Trưng thì một trong những nhiệm vụ hàng đầu là khắc phục những tồn tại trong quản lý chi NSNN cho giáo dục quận. Vì NSNN là nguồn kinh phí cơ bản, lớn nhất và quan trọng nhất để duy trì và phát triển hệ thống giáo dục quận. Để thực hiện những mục tiêu, phương hướng của ngành giáo dục quận trong thời gian tới nhằm tạo những bước tiến mạnh mẽ cho sự nghiệp giáo dục quận thì cần thiết phải đưa ra những giải pháp hữu hiệu, nhằm tăng cường hơn nữa hiệu quả của công tác quản lý chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục. Dưới đây là một số giải pháp mà em xin đề xuất sau khi tìm hiểu thực tế về công tác quản lý chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục quận Hai Bà Trưng - thành phố Hà Nội.
1. Tăng chi NSNN cho giáo dục cả về số tuyệt đối và tỷ trọng.
Với quan điểm giáo dục là vấn đề quyết định sự phát triển của đất nước là một bộ phận quan trọng hàng đầu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì không có gì chúng ta lại đầu tư quá ít cho nó. Một khi nhà nước vẫn còn giữ vai trò chủ đạo trong việc thực hiện xã hội hóa giáo dục thì nhà nước phải là chủ thể đầu tư chủ đạo, phần lớn nguồn vốn cho sự nghiệp giáo dục. Trong những năm tới nhà nước chủ trương đầu tư 30% GDP cho sự nghiệp giáo dục của đất nước. Đây là tín hiệu đáng mừng, được sự quan tâm đầu tư thích đáng của Nhà nước, sự nghiệp giáo dục nước nhà sẽ nhanh chóng phát triển.
Trên tinh thần này quận Hai Bà Trưng trong thời gian qua đã chú trọng đầu tư cho giáo dục quận và không ngừng tăng lên cả số tuyệt đối lẫn tỷ trọng. Năm 1999 là 935 triệu đồng, năm 2001 là 1577 triệu đồng, đây là một cố gắng đáng ghi nhận. Tuy nhiên tổng chi cho giáo dục từ nguồn NSNN chỉ đáp ứng được 70% đến 75% cho giáo dục trên địa bàn quận, trong đó nguồn kinh phí ủy quyền là chủ yếu. Tỷ trọng chi ngân sách quận cho giáo dục chỉ chiếm 2% đến 2,69% tổng chi ngân sách quận. Chính vì thế, trong những năm tới, thành phố Hà Nội cũng như quận Hai Bà Trưng cần xây dựng những kế hoạch trung hạn và dài hạn trong việc đầu tư cho giáo dục quận Hai Bà Trưng theo đó tăng chi NSNN cho giáo dục quận, đặc biệt tăng chi từ ngân sách quận Hai Bà Trưng cho giáo dục từ 2% đến 2,69% lên đến 7% đến 8% trong những năm tới. Với nguồn kinh phí đầu tư nhiều hơn cho giáo dục từ nguồn NSNN, ngành giáo dục quận sẽ có điều kiện tăng chi cho việc cải thiện tình hình cơ sở vật chất, nâng cao đời sống cũng như trình độ cho đội ngũ giáo viên. Từ đó chất lượng giảng dạy học tập sẽ có chiều hướng tăng lên.
2. Xây dựng cơ cấu chi NSNN cho giáo dục trên địa bàn quận một cách hợp lý.
Có thể nói xây dựng được một cơ cấu chi NSNN cho giáo dục một cách cân đối hợp lý, tỷ trọng của các nhóm chi này phụ thuộc vào yêu cầu tính chất của từng nội dung chi sẽ góp phần không nhỏ đem lại hiệu quả quản lý và sử dụng vốn ngân sách nhà nước ở mức cao nhất.
Nhìn vào cơ cấu chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục quận Hai Bà Trưng trong thời gian qua cho thấy những kết quả tương đối khả quan song còn nhiều bất cập. Năm 2001, tổng chi NSNN cho giáo dục quận được phân bổ như sau:
- Chi cho con người: 53,92%
- Chi quản lý hành chính: 5,47%
- Chi nghiệp vụ chuyên môn: 4,46%
- Chi mua sắm, sửa chữa: 33,57%
- Chi khác: 0,58%
Nếu xét đến cơ cấu chi NSNN cho giáo dục một cách hợp lý hiện nay thì thông thường chi ngân sách dành cho con người chiếm từ 65% đến 75% tổng chi. Tuy nhiên trong cơ cấu chi ngân sách cho giáo dục quận Hai Bà Trưng, thì nhóm chi cho con người tuy chiếm vị trí cao nhất song vẫn còn thấp chỉ chiếm 53,92% xấp xỉ 54%. Sở dĩ như vậy là vì nhóm chi cho mua sắm sửa chữa trong những năm qua liên tục tăng và chiếm tỷ trọng khá lớn từ 32,74% đến 34,95% năm 2000 và 33,57% năm 2001. Mặc dù nhu cầu mua sắm xây dựng cơ sở vật chất trong những năm qua trên địa bàn quận là khá lớn, nhưng với tỷ trọng như vậy lại quá cao cần phải giảm xuống. Năm 2001 tỷ trọng của nhóm chi này đã giảm xuống góp phần làm tăng tỷ trọng nhóm chi cho con người, nhưng kết quả chưa cao. Một điều bất hợp lý trong cơ cấu chi NSNN cho giáo dục trên địa bàn quận là tỷ trọng chi cho nghiệp vụ chuyên môn lại quá thấp, chỉ chiếm 4,37% đến 4,46%. Mà đây là nhóm chi có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giảng dạy, học tập của đội ngũ giáo viên và học sinh. Trong khi đó tỷ trọng của nhóm chi cho quản lý hành chính lại có tỷ trọng cao hơn nhóm chi cho nghiệp vụ, theo nhu cầu tính chất của từng nội dung thì tỷ trọng nhóm chi chi nghiệp vụ phải cao hơn nhóm chi cho quản lý hành chính.
Như vậy với những bất hợp lý trong cơ cấu chi như vậy thì cần phải phải xây dựng một cơ cấu tiến bộ hơn, hiệu quả hơn, đúng với chính sách chế độ và yêu cầu của nội dung chi. Theo cơ cấu chi hợp lý thì nhóm chi cho con người cần được tăng lên, đảm bảo đời sống vật chất tinh thần cho đội ngũ giáo viên, bên cạnh đó cầu tăng tỷ trọng chi cho nhóm nghiệp vụ chuyên môn, đồng thời giảm tỷ trọng chi cho quản lý hành chính. Còn đối với nhóm chi mua sắm sửa chữa: để đáp ứng nhu cầu về cơ sở vật chất vốn còn nghèo nàn lạc hậu trong địa bàn quận thì trong các năm tiếp theo tỷ trọng các nhóm dư này cần duy trì ở mức tương đối cao, sau đó các năm sau có thể giảm xuống dần.
3. Tăng cường quản lý chi NSNN cho giáo dục quận phải tăng cường ngay từ khâu lập kế hoạch điều cấp phát cho đến quyết toán.
Trong công tác quản lý tài chính, việc áp dụng một quy trình quản lý chặt chẽ, phù hợp và khoa học sẽ góp phần tăng hiệu quả trong công tác quản lý: tránh thất thoát, sử dụng lãng phí nguồn vốn ngân sách nhà nước. Quy trình quản lý ngân sách nhà nước bao gồm khâu lập kế hoạch điều hành cấp phát, quyết toán.
Đối với khâu lập kế hoạch.
Trước hết, cơ quan tài chính phải yêu cầu các trường học trực thuộc lập dự toán kinh phí cho đơn vị mình theo đúng trình tự và thủ tục lập kế hoạch ngân sách. Dự toán được lập phải dựa trên đầy đủ các căn cứ đã đặt ra nhằm đảm bảo tính chính xác và sát với thực tế. Dự toán nên được lập chi tiết đến từng mục chi và nên có những giải trình cần thiết về một số căn cứ quan trọng khi lập dự toán như tình hình biến động của số cán bộ giáo viên kế hoạch, số học sinh bình quân... nhằm tăng tính chính xác khoa học cho dự toán ngân sách. Nhờ vào đó mà cơ quan tài chính sẽ thuận lợi hơn trong việc duyệt dự toán, cấp phát kinh phí ở các đơn vị trường học. Mặt khác, với dự toán được lập chi tiết và sát với thực tế sẽ trở thành căn cứ vững chắc cho việc phân bổ dự toán một cách hợp lý giữa các mục chi, tránh được tình trạng chênh lệch về số được phân bổ với nhu cầu thực tế.
Đối với khâu điều hành cấp phát.
Việc cấp phát kinh phí luôn luôn phải đảm bảo yêu cầu đúng đối tượng, đúng định mức, đúng mục đích, kịp thời và đúng dự toán quý, năm được duyệt. Cơ quan tài chính cần tạo thế chủ động trong việc nắm giữ kinh phí mà ngân sách thành phố rót xuống. Để đảm bảo cấp phát nhanh gọn kịp thời, chính xác cho các trường học. Tránh phiền hà, quan liêu, giấy tờ trong khi đã có đầy đủ căn cứ để cấp cho các đơn vị thụ hưởng.
Trong quá trình cấp phát, cơ quan tài chính phải tạo mối quan hệ chặt chẽ với Kho bạc nhà nước nhằm thực hiện kiểm soát chi theo đúng quy định về quản lý ngân sách nhà nước hiện hành. Trong những trường hợp cần thiết, cơ quan tài chính có thể tổ chức những đợt kiểm tra thường xuyên hoặc đột xuất ở các trường học sau khi thực hiện cấp phát kinh phí. Việc kiểm tra sẽ nhằm vào tình hình sử dụng kinh phí được cấp phát ở các trường học như thế nào, từ đó ngăn chặn những hiện tượng như sai mục đích, kém hiệu quả, tăng cường chế độ chính sách trong quản lý tài chính.
Đối với khâu quyết toán.
Việc lập, nộp và duyệt báo cáo quyết toán hàng quý, năm, phải đảm bảo nhanh chóng, kịp thời và chính xác theo yêu cầu của cơ quan tài chính cấp trên. Công tác lập và báo cáo quyết toán phải đảm bảo sự thống nhất từ các đơn vị thụ hưởng cho đến cơ quan tài chính cấp trên, tránh tình trạng "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược" giữa các cơ quan tài chính với các đơn vị lập quyết toán. Nói cách khác phải có sự nhất quán ngay từ đầu trong việc ra các văn bản hướng dẫn việc lập báo cáo quyết toán. Đi kèm với báo cáo quyết toán phải có phần đánh giá chính xác việc thực hiện kế hoạch và hiệu quả, sử dụng kinh phí trong năm ngân sách. Điều này rất có ý nghĩa trong việc tìm hiểu nguyên nhân để đưa ra những biện pháp khắc phục kịp thời cho năm ngân sách tới.
4. Tăng cường khai thác và cải tiến cách thức quản lý các nguồn thu ngoài NSNN cho giáo dục.
Trong bối cảnh chung của cả nước, mọi ngành nghề cần được hỗ trợ đầu thị trường để phát triển. Tình hình giáo dục quận Hai Bà Trưng cũng như vậy, trong khi nhu cầu học tập, nhu cầu nâng cao dân trí đào tạo nguồn nhân lực đang gia tăng mạnh mẽ thì NSNN đầu tư cho giáo dục rất hạn hẹp. Việc đưa sự nghiệp giáo dục đạt thêm nhiều bước tiến mới không phải trong chốc lát mà là một quá trình lâu dài, đòi hỏi phải có sự góp sức của mọi người, mọi nhà, mọi ngành hơn bao giờ hết., Ngân sách nhà nước rất cần sự chia sẻ gánh nặng đầu tư cho giáo dục, bởi lẽ với quy mô và tốc độ phát triển giáo dục như hiện nay thì ngân sách nhà nước sẽ không thể kham nổi mà cần huy động bổ sung từ nhiều nguồn tài chính khác.
Trong thời gian qua sự nghiệp giáo dục quận đã nhận được sự hỗ trợ khá lớn từ những nguồn vốn ngoài NSNN. Những nguồn vốn này đang hứa hẹn có nhiều khả năng dồi dào hơn nếu hiệu quả công tác quản lý đối với những nguồn vốn này được tăng cường hơn nữa, các nguồn vốn có thể huy động được bao gồm:
- Vốn đóng góp từ nhân dân: bao gồm học phí, đóng góp xây dựng trường sở, quỹ hội phụ huynh... Việc huy động các khoản đóng góp này trước hết phải đảm bảo theo đúng quy định chung của của Bộ và quy định của thành phố. Học phí và các khoản đóng góp khác thường là vấn đề hết sức nhạy cảm, đụng chạm đến mọi gia đình, nhất là khi việc đóng học phí và các khoản khác hiện nay vẫn còn mang tính nghĩa vụ, chưa xuất phát từ sự tự nguyện của người dân. Do đó, để việc thu học phí và các khoản khác không trở thành nỗi sợ của mỗi người dân thì đi đôi với việc thực hiện nhu cầu tăng cường trách nhiệm quản lý thiết lập trật tự kỷ cương trong nhà trường, kiên quyết loại bỏ các lệ phí, phí ngầm ngoài quy định. Để làm được điều này cần có sự phối hợp giữa ngành giáo dục, ngành tài chính và các ngành khác có liên quan. Mặt khác việc thực hiện công khai tài chính đối với các khoản đóng góp ở các trường học là hết sức cần thiết bởi vì nó sẽ tạo sự kiểm tra, kiểm soát lẫn nhau giữa các trường học với dân từ đó hạn chế việc thu, chi thiếu minh bạch và gian lận đối với các khoản đóng góp.
- Vốn đóng góp của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp: cần nghiên cứu việc thành lập các quỹ hỗ trợ phát triển giáo dục trên cơ sở hình thành từ các khoản nộp bắt buộc của các doanh nghiệp tính theo tỷ lệ % so với doanh thu. Nếu quỹ này được thực hiện thì đây là một nguồn vốn không nhỏ đầu tư cho giáo dục trên địa bàn quận.
5. Khắc phục những tồn tại trong công tác quản lý tài chính ở các trường học.
Là những đơn vị dự toán ngân sách, trực tiếp sử dụng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, các trường học phải quán triệt những yêu cầu được đặt ra trong việc quản lý tài chính như sau:
- Thực hiện hạch toán một cách đầy đủ, rõ ràng các nguồn vốn được hưởng: nguồn vốn ngân sách cấp được hạch toán riêng với nguồn vốn ngoài ngân sách. Từ đó sẽ thuận lợi cho cơ quan tài chính trong việc thanh, kiểm tra tình hình sử dụng kinh phí, mặt khác các trường có kế hoạch quản lý, chi tiêu theo đúng quy định của nhà nước.
- Phải có hệ thống sổ sách ghi chép, bảng biểu phù hợp với quy mô của trường học và phù hợp với quy định chung của Bộ Tài chính, Sở tài chính, nhằm đảm bảo sự thống nhất, tạo điều kiện cho việc theo dõi quản lý tài chính được chặt chẽ chính xác.
- Xác định rõ ràng vai trò và trách nhiệm của chủ tài khoản trong quản lý tài chính của đơn vị. Từ đó tạo điều kiện cho việc quản lý được thu về một mối, thiết lập được tính kỷ luật, kỷ cương trong quản lý tài chính.
6. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền về vai trò của giáo dục đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và trách nhiệm của nhân dân.
Tổ chức tốt các biện pháp tuyên truyền về vai trò của giáo dục để nhân dân thấy rõ tầm quan trọng của chiến lược phát triển con người đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Chỉ có phát triển nguồn nhân lực một cách hợp lý, cân đối lao động giữa các ngành nghề, kết hợp với đội ngũ lao động trí thức mới là động lực quan trọng để thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà.
Ngoài các hình thức tuyên truyền về vai trò của giáo dục còn để nhân dân nhận thức được rằng: sự nghiệp giáo dục không chỉ riêng của Nhà nước mà còn là trách nhiệm của nhân dân, xây dựng một nền giáo dục toàn dân, nhân dân có trách nhiệm cùng nhà nước xây dựng sự nghiệp giáo dục ngày càng vững mạnh.
7. Chú ý đến công tác đào tạo, đào tạo lại trình độ quản lý tài chính của đội ngũ cán bộ trong ngành giáo dục.
Quận Hai Bà Trưng là một quận có bề dày lịch sử, quận có đội ngũ quản lý tài chính tương đối có trình độ. Tuy nhiên đội ngũ quản lý tài chính trong các trường học thì còn yếu, chưa đồng bộ, chủ yếu là trình độ sơ cấp, trung cấp. Đây là nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém hiệu quả trong công tác quản lý tài chính kế toán ở một số trường học, khả năng nắm bắt và thích nghi với những thay đổi trong chế độ tài chính, kế toán cũng hạn chế. Trong khi đó, nguồn lực đầu tư cho giáo dục quận trong những năm tới có xu hướng tăng lên cả về số tuyệt đối lẫn tỷ trọng, đòi hỏi phải có những cán bộ nắm chắc nghiệp vụ chuyên môn, cũng như chính sách chế độ về công tác tài chính kế toán.
Chính vì thế ngành giáo dục cần quan tâm hơn nữa đến đầu tư tạo điều kiện cho các cán bộ quản lý tài chính - kế toán tham gia các lớp đào tạo bồi dưỡng và đào tạo lại, cũng như bổ sung những cán bộ trẻ có trình độ chuyên môn cao nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý tài chính trong ngành.
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Để tạo điều kiện thực hiện các giải pháp đã đề ra trong nội dung bài viết này, em xin đưa ra một số kiến nghị sau:
Một là: các cấp Uỷ Đảng, chính quyền các cấp, phải tăng cường chỉ đạo nhằm tạo nên sự phối kết hợp chặt chẽ thống nhất giữa ngành giáo dục và các ngành liên quan khác. Đồng thời thực hiện việc tuyên truyền vận động một cách sâu rộng ý thức chấp hành luật ngân sách nhà nước và các quy định liên quan của các cấp các ngành.
Hai là: Trên cơ sở quy định của Chính phủ, Bộ Tài chính. UBND quận Hai Bà Trưng cần cấp hành nghiêm chỉnh các quy định và có các văn bản hướng dẫn quy định về thu, quản lý sử dụng các khoản thu trong trường học thực hành giáo dục - đào tạo. Đây là căn cứ để các trường học tổ chức, khai thác và sử dụng nguồn thu ngoài ngân sách nhà nước phục vụ cho sự nghiệp giáo dục. Đặc biệt khi quyết định mức thu tiền học phí, tiền xây dựng và các khoản đóng góp khác. UBND Quận cần tiếp thu những ý kiến đóng góp của ngành giáo dục Quận nhằm xây dựng một chính sách thu hợp lý, hiệu quả. Đồng thời thực hiện việc tuyên truyền vận động về vai trò của công tác giáo dục - đào tạo, công tác xã hội hóa giáo dục. Qua đó nâng cao ý thức tinh thần, trách nhiệm của mọi tầng lớn nhân dân đối với sự nghiệp phát triển giáo dục - đào tạo.
Ba là: Cần sửa đổi thời gian phân bổ dự toán nhằm đảm bảo tính khả thi:
+ Trung ương giao dự toán trước ngày 30 tháng 11 năm trước cho các bộ ngành, tỉnh thành phố trực thuộc trung ương (thay vì cuối tháng 12 như hiện nay).
+ UBND thành phối giao dự toán trước ngày 31 tháng 12 năm trước cho các Quận (thay vì cuối tháng 2 năm kế hoạch).
+ UBND Quận giao dự toán trước ngày 31 tháng 1 cho các phường (thay vì cuối tháng 3 như hiện nay)
KẾT LUẬN
Giáo dục hiện nay được coi là quốc sách hàng đầu trong chiến lược phát triển của mỗi quốc gia vai trò của giáo dục hết sức to lớn, nó đào tạo ra đội ngũ những người lao động hoạt động trong tất cả các ngành nghề đào tạo ra những con người có tri thức có kỹ năng và đặc biệt có sức khỏe, tinh thần, đạo đức. Theo Nghị quyết II đại hội VIII Đảng ta đã khẳng định, phát triển giáo dục để đào tạo ra nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước nhà. Để làm được điều này thì hàng năm nhà nước phải đầu tư một nguồn kinh phí không nhỏ từ nguồn ngân sách nhà nước cho giáo dục. Tuu nhiên mọi nguồn lực đều hữu hạn. Nguồn ngân sách nhà nước ta cũng vậy, ngoài nhiệm vụ chi cho giáo dục, ngân sách nhà nước còn phải đầu tư cho nhiều hoạt động kinh tế - chính trị - xã hội khác. Chính vì vậy một trong những biện pháp quan trọng phù hợp trong tình hình hiện nay, để góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục đất nước là tăng cường, quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục. Nhằm tăng cường hiệu quả đầu tư cho giáo dục. Nhận thức được điều này trong quá trình thực tập tại phòng Tài chính vật giá Hai Bà Trưng em đã chọn đề tài này.
Đề tài này bao gồm:
Phần đầu: Những lý luận chung về ngân sách nhà nước, và vai trò của chi ngân sách nhà nước đối với sự nghiệp giáo dục quận Hai Bà Trưng thành phố Hà Nội.
Phần hai: Căn cứ vào tình hình thực tế, em đã đi sâu vào phân tích thực trạng công tác quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục trong địa bàn quận.
Phần ba: Trên cơ sở những thành tựu và hạn chế trong công tác chi ngân sách cho giáo dục quận, em đã đưa ra một số biện pháp nhằm tăng cường quản lý chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục quận.
Trong đề tài này không thể tránh khỏi những sai sót do hạn chế về mặt nhận thức cũng như thời gian thực hiện. Một lần nữa em xin chân thành tiếp thu những ý kiến đóng góp của các thầy cô, bạn bè.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo quyết toán (1999-2001) về tình hình giáo dục quận Hai Bà Trưng.
2. Báo cáo quyết toán chi ngân sách nhà nước (1999-2001) của Phòng Tài chính vật giá quận Hai Bà Trưng.
3. Đổi mới ngân sách: GS -TS Tào Hữu Phùng và PTS Nguyễn Công Nghiệp, NXB Thống kê Hà Nội.
4. Giáo trình "lý thuyết tài chính" trường Đại học Tài chính Kế toán - thành phố Hồ Chí Minh.
5. Giáo trình "Tài chính Nhà nước" trường Đại học Tài chính Kế toán.
6. Kinh tế học, tập II - David Begg.
7. Hướng dẫn thực hiện Luật ngân sách nhà nước - Bộ Tài chính, nhà xuất bản tài chính.
8. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
9. Tạp chí tài chính số 2, 3, 4, 6, 10, 11, 12 (2001).
10. Thông tin tài chính số 10 năm 2001, số 3 năm 2002.
MỤC LỤC
Trang
[
Lời mở đầu 1
Chương I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ SỰ CẦN THIẾT QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC Ở NƯỚC TA 3
I. Kihái quát về ngân sách nhà nước. 3
1.Khái niệm về Ngân sách nhà nước. 3
2. Khái niệm : 3
1.1. Bản chất của Ngân sách nhà nước. 4
1.2. Vai trò của Ngân sách nhà nước. 5
2.Tổ chức hệ thống Ngân sách nhà nước. 7
2.1. Các nguyên tắc tổ chức hệ thống Ngân sách nhà nước . 7
2.2 Cơ cấu tổ chức hệ thống Ngân sách nhà nước : 8
3. Phân cấp quản lý Ngân sách nhà nước. 9
3.2 Nội dung của phân cấp quản lý Ngân sách nhà nước. 10
II. Sự nghiệp giáo dục và vai trò của giáo dục đối với sự phát triển kinh tế xã hội. 17
1.Khái quát về sự nghiệp giáo dục. 17
2.Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển kinh tế xã hội. 18
III. Chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục ở nước ta . 21
Chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục. 21
2. Vai trò của chi NSNN đối với sự nghiệp giáo dục ở nước ta hiện nay. 23
3. Sự cần thiết phải quản lý chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục Quận. 24
4. Nội dung quản lý chi Ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục Quận 27
4.1 Quản lý chi Ngân sách nhà nước cho giáo dục từ nguồn kinh phí ủy quyền. 27
4.2. Quản lý chi Ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục từ nguồn Ngân sách quận. 30
Chương II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HAI BÀ TRƯNG - THÀNH PHỐ HÀ NỘI 32
I. Vài nét về đặc điểm kinh tế xã hội và sự nghiệp giáo dục Quận Hai Bà Trưng 32
1. Địa lý hành chính . 32
2. Đặc điểm về kinh tế. 32
3. Đặc điểm về văn hóa - xã hội 33
4. Đặc điểm về giáo dục Quận Hai Bà Trưng thành phố Hà Nội. 34
II. Thực trạng công tác quản lý chi Ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục quận Hai Bà Trưng thành phố Hà Nội . 41
1. Nguồn vốn đầu tư cho sự nghiệp giáo dục Quận Hai Bà Trưng. 41
2. Tình hình quản lý chi Ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục Quận Hai Bà Trưng trong những năm qua. 45
2.1. Thực trạng chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục quận Hai Bà Trưng trong những năm qua. 45
2.2. Thực trạng quản lý chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục quận Hai Bà Trưng trong những năm qua. 74
2.2.1. Công tác lập kế hoạch ngân sách nhà nước . 74
2.2.2. Công tác thực hiện kế hoạch ngân sách nhà nước. 75
2.2.3. Công tác quyết toán 76
3. Đánh giá thực trạng quản lý chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục trên địa bàn quận Hai Bà Trưng. 78
3.1. Những thành tựu đã đạt được trong những năm qua. 78
3.2. Những tồn tại cần giải quyết 80
Chương III: MỘT SỐ BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ CHI NSNN CHO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC QUẬN HAI BÀ TRƯNG - THÀNH PHỐ HÀ NỘI 84
I. Mục tiêu, phương hướng và nhiệm vụ phát triển sự nghiệp giáo dục quận Hai Bà Trưng trong thời gian tới. 84
II. Một số giải pháp tăng cường quản lý chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục quận Hai Bà Trưng. 86
1. Tăng chi NSNN cho giáo dục cả về số tuyệt đối và tỷ trọng. 86
2. Xây dựng cơ cấu chi NSNN cho giáo dục trên địa bàn quận một cách hợp lý. 87
3. Tăng cường quản lý chi NSNN cho giáo dục quận phải tăng cường ngay từ khâu lập kế hoạch điều cấp phát cho đến quyết toán. 88
4. Tăng cường khai thác và cải tiến cách thức quản lý các nguồn thu ngoài NSNN cho giáo dục. 90
5. Khắc phục những tồn tại trong công tác quản lý tài chính ở các trường học. 91
6. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền về vai trò của giáo dục đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và trách nhiệm của nhân dân. 92
7. Chú ý đến công tác đào tạo, đào tạo lại trình độ quản lý tài chính của đội ngũ cán bộ trong ngành giáo dục. 92
III/ Một số kiến nghị: 93
KẾT LUẬN 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 95
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28619.doc