Lời nói đầu
Sự ra đời của mô hình Công ty tài chính trong Tổng công ty Nhà nước ở Việt Nam là một bước tiến mới cho thị trường tài chính phát triển, có thêm một kênh dẫn vốn mới đáp ứng nhu cầu vốn của thị trường nói chung và của Tổng công ty nói riêng. Mục đích của việc thành lập Công ty tài chính trong Tổng công ty là để xây dựng mô hình Tổng công ty 90-91 thành những tập đoàn kinh tế lớn mạnh của đất nước. Chức năng chính của Công ty tài chính trong mô hình này là đáp ứng nhu cầu vốn và các
76 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1481 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm tăng cường huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Công ty Tài chính Bưu Điện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dịch vụ tài chính cho Tổng công ty.
Đối với các nước phát triển thì mô hình Công ty tài chính khá phổ biến, nhưng ở nước ta thì Công ty tài chính còn khá mới mẻ. Nhất là Công ty tài chính lại hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ rất nhạy cảm này. Chính vì vậy mà Công ty tài chính ở Việt Nam gặp không ít khó khăn trong công tác huy động và sử dụng vốn.
Trong khi đó chiến lược phát triển kinh tế xã hội năm 2000, Đảng đã xác định: “Chính sách tài chính quốc gia hướng vào việc tạo vốn và sử dụng vốn có hiệu quả trong toàn xã hội, tăng nhanh sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, điều tiết quan hệ tích luỹ, tiêu dùng theo hướng tăng dần tỷ lệ tích luỹ ”. Như vậy, các đơn vị kinh tế không những phải chú trọng đến việc tạo vốn mà còn phải sử dụng vốn có hiệu quả cao nhất, đem lại lợi ích nhiều nhất cho xã hội.
Nhận thức được tầm quan trọng của vốn và những khó khăn trong việc huy động và sử dụng vốn của Công ty tài chính trong Tổng công ty Nhà nước Việt Nam, trong thời gian thực tập tại Công ty Tài chính Bưu Điện em đã chọn đề tài: “ Một số giải pháp nhằm tăng cường huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Công ty Tài chính Bưu Điện.”
Kết cấu đề tài gồm:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về vốn và hiệu quả sử dụng vốn của Công ty tài chính.
Chương II: Thực trạng huy động và sử dụng vốn của Công ty Tài chính Bưu Điện trong thời gian qua.
ChươngIII: Một số giải pháp tăng cường huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Công ty Tài chính Bưu Điện.
Do thời gian nghiên cứu không nhiều và trình độ còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót về lý luận lẫn thực tiễn. Em rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các thầy, cô giáo và những người quan tâm đến đề tài này.
Chương I :
những vấn đề cơ bản về vốn và hiệu quả sử dụng vốn
của công ty tài chính
Vốn và vai trò của vốn trong các doanh nghiệp
Khái niệm về vốn
Tất cả các doanh nghiệp khởi đầu hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải có một lượng tiền vốn để thực hiện những khoản đầu tư ban đầu cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp, để dảm bảo sự vận hành (mua nguyên vật liệu, trả tiền công, lãi suất tiền vay và thuế) và sự tăng trưởng của doanh nghiệp (mua sắm thiết bị mới, mở rộng doanh nghiệp). Điều đó có nghĩa là vốn được dua vào sản xuất kinh doanh và được thể hiện ở nhiều hình thái vật chất khác nhau. Do đó có sự tác động của lao động vào đối tượng lao động thông qua tư liệu lao động, hàng hoá dịch vụ được tạo ra và tiêu thụ trên thị trường. Sau cùng các hình thái vật chất khác nhau sẽ lại được chuyển hoá về hình thái tiền tệ ban đầu. Quá trình trao đổi đó bảo đảm cho sự ra đời, vận hành và phát triển của doanh nghiệp có thể được diễn ra như sau:
Tài sản có thực tế
Tiền Tài sản có thực tế Tài sản có tài chính Tiền
Tài sản có tài chính
Sự trao đổi trên sẽ làm thay đổi số dư ban đầu (đầu kỳ) của ngân quỹ và sẽ dẫn đến số dư cuối kỳ lớn hơn số dư đầu kỳ, tạo ra giá trị thặng dư. Điều đó có nghĩa là số tiền thu được do tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ phải đảm bảo đảm bù đắp toàn bộ chi phí đã bỏ ra và có lãi. Như vậy số tiền ứng ra ban đầu không những chỉ được bảo tồn mà nó còn được tăng thêm do hoạt động kinh doanh đem lại. Toàn bộ giá trị ứng ra cho quá trình sản xuất kinh doanh đó dược gọi là vốn. Những phân tích trên đây cho ta hiểu khái quát về vốn nói chung: Vốn là giá trị đem lại giá trị thặng dư. Sự bảo tồn và tăng trưởng của vốn là nguyên lý và là điều kiện đảm bảo cho sự phát triển doanh nghiệp. Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì vốn bao gồm toàn bộ các nguồn lực kinh tế khi được đưa vào chu chuyển. Nó không chỉ bao gồm tiền vốn các tài sản hiện vật như máy móc, vật tư, lao động, tài nguyên, đất đai,...mà còn bao gồm giá trị của những tài sản vô hình như vị trí của đất đai, các thành tựu khoa học và công nghệ, quyền phát minh, sáng chế,...
Từ quan niệm trên, chúng ta thấy rằng các nhân tố cấu thành vốn bao gồm: vốn tiền tệ, các dạng của cải, vốn con người, vốn tư liệu sản xuất,...trong đó vốn tiền tệ là điểm xuất phát được ứng ra để chuyển hoá thành các yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá và làm gia tăng giá trị.
Vậy có thể nói một cách tổng quát về khái niệm về vốn như sau: Vốn là toàn bộ giá trị tài sản của doanh nghiệp được dùng vào sản xuất kinh doanh, số vốn này được hình thành từ khi thành lập doanh nghiệp và được bổ sung trong suốt quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Như vậy, vốn là tiền vì muốn có vốn thì phải có tiền song chưa hẳn tiền là vốn. Tiền chỉ có thể trở thành vốn khi nó hoạt động trong lĩnh vực sản xuất lưu thông. Tức là nó phải kèm theo các điều kiện:
- Tiền phải đại diện cho một lượng hàng hoá nhất định.
- Tiền phải được tích tụ vốn và tập trung đến một lượng nhất định.
- Khi đã có đủ về lượng tiền phải nhằm được mục đích sinh lời.
Một doanh nghiệp muốn tiến hành sản xuất kinh doanh thì đòi hỏi có các yếu tố đầu vào. Đó là tiền dùng để xây dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc thiết bị và nguyên vật liệu cũng như trả lương cho công nhân. Sau quá trình kinh doanh, doanh nghiệp thu được các hình thái vật chất khác nhau và nó lại được chuyển hoá về hình thái tiền tệ ban đầu. Số tiền thu được này một phần được dùng cho tiêu dùng cá nhân, nộp thuế và còn lại tiếp tục chuyển hoá thành các điều kiện sản xuất cho các chu kỳ sản xuất tiếp theo. Như vậy, toàn bộ giá trị ứng ra ban đầu và các quá trình tiếp theo cho sản xuất kinh doanh được gọi là vốn. Vốn được biểu hiện bằng cả tiền mặt lẫn giá trị các vật tư, tài sản và hàng hoá.
Vai trò của vốn trong các doanh nghiệp
Ngay từ khi ra đời, các doanh nghiệp đều phải có một lượng vốn nhất định để đảm bảo điều kiện tối thiểu về trang thiết bị, nguyên vật liệu, hàng hoá,... cho doanh nghiệp có thể hoạt động một cách ổn định. Trong quá trình phát triển, do yêu cầu của sự cạnh tranh trên thị trường, doanh nghiệp phải nâng cao trình độ, nâng lực sản xuất bằng việc cải tiến công nghệ, đào tạo nhân công,... để nâng cao chất lượng sản phẩm. Muốn thực hiện được điều đó thì đòi hỏi doanh nghiệp phải có vốn.
Vậy có thể thấy vốn là yếu tố sống còn của doanh nghiệp, nó gắn liền với hầu hết các hoạt động của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp sử dụng vốn hợp lý, có hiệu quả thì sẽ giúp cho doanh nghiệp phát triển. Còn nếu sử dụng không hợp lý, gây lãng phí thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn dẫn đến thất bại trong hoạt động kinh doanh của mình.
Đối với một nền kinh tế thì đồng vốn đầu tư là yêu cầu cấp thiết không thể thiếu được cho sự tồn tại và phát triển. Có vốn thì xã hội mới giải quyết thoả đáng những vấn đề mang tính chung cho cộng đồng như an ninh quốc phòng, giáo dục,... Bên cạnh đó vốn còn làm cho nền kinh tế phát triển một cách đồng đều, ổn định.
Như vậy, đối với một doanh nghiệp hay với cả một nền kinh tế nói chung thì vốn là điều kiện cần thiết để tồn tại và phát triển. Dù mục đích của hoạt động là gì đi chăng nữa thì cũng cần phải có nguồn vốn ban đầu để thực hiện. Do đó cần phải chú trọng huy động vốn để có thể giúp cho nền kinh tế nói chung và hoạt động của doanh nghiệp nói riêng ngày càng phát triển.
Phân loại vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Có nhiều cách phân loại vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tuỳ theo mục đích nghiên cứu.
3.1. Căn cứ theo hình thái của vốn:
Vốn đầu tư là tổng số tiền mà nhà đầu tư phải bỏ ra để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà đầu tư. Vốn đầu tư là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh quy mô của doanh nghiệp. Những doanh nghiệp thường có vốn đầu tư lớn thường có khả năng cạnh tranh lớn, thị phần càng cao và có uy tín đáng kể trên thị trường. Những doanh nghiệp có số vốn nhỏ, quy mô sản xuất kinh doanh bé dễ bị phá sản.
3.1.1. Vốn cố định.
Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định. Tài sản cố định là những tư liệu lao động có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài, tham gia vào nhiều quá trình sản xuất kinh doanh và trong quá trình đó bị hao mòn dần. Giá trị của tài sản cố định được chuyển dần vào giá trị sản phẩm theo số năm sử dụng tài sản cố định. Tài sản cố định tham gia nhiều lần vào chu kỳ sản xuất kinh doanh và giữ nguyên hình thái giá trị ban đầu.
Theo quy định hiện hành, tài sản cố định phải hội tụ được hai điều kện:
- Thời gian sử dụng ít nhất một năm.
- Giá trị tối thiểu là năm triệu đồng.
Vốn cố định giữ vai trò quan trọng trong sản xuất kinh doanh, nó quyết định trình độ trang thiết bị cơ sở kỹ thuật, quyết định những tiến bộ thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến, là nhân tố quan trọng để đảm bảo tái sản xuất mở rộng và nâng cao đời sống cho người lao động. Tuỳ theo đặc điểm kinh tế kỹ thuật của từng ngành, khả năng về vốn kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, trên cơ sở nhu cầu thị trường đối với sản phẩm trong từng thời kỳ, trên cơ sở tiến bộ khoa học kỹ thuật của mỗi doanh nghiệp cần có kế hoạch đúng đắn cho việc mua sắm máy móc, đảm bảo hiệu quả trong việc sử dụng vốn cố định trong sản xuất.
Vốn cố định có hai mặt là mặt hiện vật và mặt giá trị vì thế khi quản lý chúng ta cần chú ý đến cả hai mặt này. Về mặt hiện vật, vốn cố định bao gồm những tài sản cố định như: Nhà cửa, thiết bị máy móc, phương tiện vận tải...Tài sản cố định tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh về hình thái hiện vật thì không thay đổi, song về mặt giá trị thì giảm dần sau mỗi chu kỳ sản xuất do giá trị của nó được chuyển dần vào giá trị sản phẩm qua hình thái khấu hao.
Việc nghiên cứu cơ cấu vốn cố định có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình quản lý và sử dụng vốn. Khi nghiên cứu vốn cố định phải nghiên cứu trên hai giác độ đó là: Nội dung kế hoạch và quan hệ tỷ lệ của từng bộ phận so với toàn bộ vốn. Vấn đề cơ bản là phải xây dựng được cơ cấu vốn hợp lý phù hợp được với đặc điểm kỹ thuật của sản xuất, phù hợp với khoa học kỹ thuật và trình độ quản lý, các nguồn vốn được sử dụng có hiệu quả nhất.
3.1.2. Vốn lưu động.
Vốn lưu động là một bộ phận trong vốn sản xuất, là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản lưu động để đảm bảo cho sản xuất và tái sản xuất của doanh nghiệp được bình thường.
Vốn lưu động tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất, qua mỗi chu kỳ sản xuất vốn lưu động chuyển qua nhiều hình thái khác nhau như: tiền tệ, đối tượng lao động, sản phẩm dở dang, thành phẩm, nguyên vật liệu... và chở lại hình thái tiền tệ sau khi tiêu thụ sản phẩm. Khác với vốn cô định, vốn lưu động chuyển toàn bộ giá trị vào sản phẩm sau mỗi chu kỳ sản xuất. Sự lưu thông về mặt giá trị được biểu hiện bằng công thức:
T - H – S.X .... H’ – T’ ...
Trong quá trình vận động, vốn lưu động biến đổi ỳ hình thái này sang hình thái khác sau đó trở về hình thái ban đầu. Một vòng khép kín đó là chu kỳ vận động của vốn lưu động.
Xác định cơ cấu vốn lưu động hợp lý có ý nghĩa quan trọng trong công tác sử dụng có hiệu quả vốn lưu động. Nó đáp ứng yêu cầu về vốn cho từng khâu, bảo đảm cho việc sử dụng tiết kiệm, hợp lý vốn lưu động. Trên cơ sở đó đáp ứng được yêu cầu của sản xuất kinh doanh trong điều kiện thiếu vốn cho sản xuất.
3.2. Căn cứ theo nguồn hình thành của vốn đầu tư
Nếu phân theo nguồn hình thành, vốn đầu tư trong doanh nghiệp được chia thành vốn chủ sử hữu và vốn đi vay.
3.2.1. Vốn chủ sở hữu.
Là số tiền vốn của các chủ sở hữu, các nhà đầu tư đóng góp. Số vốn này không phải là khoản nợ và doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán. Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu được hình thành theo những cách thức khác nhau. Thông thường vốn chủ sở hữu bao gồm:
- Vốn góp: Là số vốn của cá bên tham gia thành lập liên doanh tiến hành đóng góp và được sử dụng vào mục đích kinh doanh. Số vốn náy có thể được bổ sung thêm hoặc rút bớt trong quá trình sản xuất kinh doanh.
- Lãi chưa phân phối: Lãi là phần chênh lệch giữa một bên là toàn bộ doanh thu của các hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính và các khoản thu nhập bất thường với một bên là toàn bộ chi phí kinh doanh, chi phí tài chính, chi phí bất thường. Số lãi này khi chưa phân phối cho các lĩnh vực được sử dụng cho kinh doanh sẽ được coi như vốn chủ sở hữu.
3.2.2. Nợ phải trả.
Là số tiền vốn mà doanh nghiệp đi vay, đi chiếm dụng của các tổ chức, đơn vị, cá nhân. Bởi vậy doanh nghiệp có trách nhiệm phải trả. Phần vốn này doanh nghiệp được sử dụng với những điều kiện nhất định ( thời hạn sử dụng, lãi suất...) nhưng không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp.
Vốn vay có thể huy động từ hai nguồn chính: Vay các tổ chức tài chính ( ở Việt Nam chủ yếu là ngân hàng, một phần vay dưới dạng tài trự phát triển) và phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
3.3. Căn cứ vào cơ cấu vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
3.3.1. Vốn sản xuất.
Vốn sản xuất là toàn bộ tư liệu sản xuất được doanh nghiệp sử dụng hợp lý và có kế hoạch vào việc sản xuất những sản phẩm theo kế hoạch. Vốn sản xuất được huy động từ nhiều nguồn khác nhau tuỳ thuộc vào loại hình của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp Nhà nước thì đại bộ phận vốn được Nhà nước cấp phát giao quyền sử dụng.
Xét về hình thái vật chất, vốn sản xuất bao gồm hai yếu tố cơ bản: tư liệu lao động và đối tượng lao động. Đây là hai nhân tố quan trọng để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong bất kỳ tổ chức kinh tế nào. Đối tượng lao động tạo nên thực thể sản phẩm còn tư liệu lao động là phương tiện chuyển hoá đối tượng lao động thành thực thể sản phẩm. Giữa chúng có mối quan hệ mật thiết không thể tách rời trong quá trình sản xuất.
3.3.2. Vốn đầu tư.
Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuẫt xã hội nhằm duy trì, đẩy mạnh tiềm lực sẵn có.
3.4. Căn cứ vào thời gian huy động vốn và sử dụng vốn.
3.4.1. Nguồn vốn thường xuyên.
Bao gồm vốn chủ sở hữu và vốn dài hạn, đây là nguồn vốn có tính chất ổn định và dài hạn mà doanh nghiệp có thể sử dụng. Nguồn vốn này được dành cho việc mua sắm tài sản cố định và một bộ phận tài sản lưu động tối thiểu thường xuyên cần thiết cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
3.4.2. Nguồn vốn tạm thời.
Là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng các nhu cầu có tính chất tạm thời, Nguồn vốn này bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng,
3.5. Căn cứ vào phạm vi huy động.
3.5.1. Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp.
Là nguồn vốn có thể huy động được từ hoạt động của bản thân doanh nghiệp bao gồm tiền khấu hao tài sản cố định, lợi nhuận để lại, các khoản dự trữ, dự phòng, các khoản thu từ nhượng bán, thanh lý tài sản cố định.
3.5.2. Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp.
Là nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động được từ bên ngoài để đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh của mình bao gồm: Vay vốn của ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác, phát hành trái phiếu nợ người cung cấp và các khoản nợ khác.
Chi phí vốn và cơ cấu vốn của doanh nghiệp
Chi phí vốn của doanh nghiệp
1.1. Khái niệm về chi phí vốn
Những quyết định của nhà quản trị tài chính doanh nghiệp đều liên quan trực tiếp hay gián tiếp tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Lợi nhuận lại liên quan chặt chẽ đến thu nhập và chi phí bỏ ra để đạt được lợi nhuận đó. Do vậy, việc quyết định có nên thay thế máy móc không, có nên đầu tư không và quy mô huy động vốn đến mức nào để có lãi .v.v... là những vấn đề có liên quan tới chi phí vốn.
Chi phí vốn chính là tỷ lệ sinh lời cần thiết của khoản vốn mà người sở hữu yêu cầu. Tỷ lệ sinh lời cần thiết lại phụ thuộc vào rủi ro có thể xảy ra đối với việc đầu tư. Đối với nhà quản trị tài chính doanh nghiệp thì chi phí vốn được đo bằng tỷ suất lợi nhuận cần phải đạt được trên nguồn vốn huy động để không làm thay đổi thu nhập cho cổ đông thường cũ (hoặc vốn tự có của doanh nghiệp).
Trên phương diện quản trị tài chính doanh nghiệp, tỷ lệ sinh lời cần thiết là tỷ lệ sinh lời tối thiểu có thể chấp nhận được đối với một dự án đầu tư. Về mặt lý thuyết, những dự án có mức rủi ro càng cao thì đòi hỏi tỷ suất sinh lời cần thiết càng cao và ngược lại. Như vậy, tỷ suất sinh lời của dự án được coi là hợp lý nếu nó tương xứng với mức độ rủi ro của dự án.
1.2. Chi phí của các nguồn vốn cụ thể
1.2.1. Chi phí của nợ vay
Chi phí của nợ vay trước thuế, kd
Chi phí của nợ vay được đo bằng tỷ lệ sinh lời trên vốn vay đủ để trả lãi cho nợ vay. Đó chính là lãi tiền vay ký hiệu là kd.
Chi phí sau thuế của nợ, kd(1-t)
Chi phí sau thuế của nợ là kd(1-t) với t là thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp.
Chi phí sau thuế của nợ được sử dụng để tính chi phí bình quân gia quyền của vốn.
Chi phí của vốn cổ phần ưu đãi
Cổ phiếu ưu đãi là công cụ tạo vốn trung gian giữa trái phiếu và cổ phiếu thường.
Chi phí của vốncổ phần ưu đãi (kd) được xác định theo công thức sau:
kd =
Dp: Lợi tức cổ phần ưu đãi (cổ tức ưu đãi)
Pn: Là giá phát hành ròng tức là số tiền mà doanh nghiệp nhận được khi bán cổ phiếu ưu đãi trừ đi chi phí phát hành. Nếu như không phải cổ phiếu phát hành mới hoặcchi phí phát hành không đáng kể thì Pn chính là giá bán cổ phiếu ưu đãi trên thị trường.
Chi phí vốn cổ phần thường
Chi phí của lợi nhuận giữ lại (KS)
Chi phí của lợi nhuận giữ lại được đo bằng chi phí cơ hội và được xác định theo một trong các phương pháp sau:
Phương pháp 1:Sử dụng mô hình định giá tài sản – vốn(CAPM)
KS = KRF + ( KRM - KRF)b
Trong đó:
KS : Chi phí của lợi nhuận giữ lại
KRM : Tỷ lệ sinh lời kỳ vọng trên danh mụcđầu tư thị trường
KRF : Tỷ lệ sinh lời ở mức không có rủi ro
b: Hệ số bêta ước tính
Như vậy để sử dụng mô hình CAPM, chúng ta lần lượt tiến hành các bước sau:
+ Xác định tỷ lệ sinh lời ở mức không có rủi ro KRF, tỷ lệ sinh lời này thường được lấy tương đương với tỷ lệ lãi suất trái phiếu kho bạc.
+ Dự đoán hệ số b của cổ phiếu của doanh nghiệp đang xem xét và sử dụng nó như là chỉ số đánh giá rủi ro của lợi nhuận giữ lại để tái đầu tư.
+ Dự đoán tỷ lệ sinh lời kỳ vọng đối với giỏ đầu tư thị trường (KRM)
+ Thay thế vào công thức trên để tìm KS
Phương pháp 2: Sử dụng mô hình tăng trưởng không đổi hay phương pháp luồng tiền chiết khấu.
KS = + g
P0: Giá trị hiện tại của cổ phiếu
D1: Cổ tức mong đợi được trả vào cuối năm thứ nhất
D1/P0: Tỷ suất cổ tức mong đợi
g: Tốc độ tăng trưởng của cổ tức
Phương pháp 3: So sánh chi phí của vốn cổ phần và chi phí của nợ vay ( hay phương pháp lãi suất trái phiếu cộng với phần thưởng rủi ro)
Chi phí của vốn cổ phần thường mới (Ke)
Cổ phiếu thường mới và lợi nhuận giữ lại giống nhau về bản chất, chỉ khác nhau bởi chi phí phát hành như tiền in ấn, quảng cáo, hoa hồng ngân hàng,... Những chi phí bỏ thêm vào làm cho chi phí của vốn cổ phần thường mới cao hơn chi phí của lợi nhuận giữ lại. Nhưng nếu hết nguồn vốn từ nội bộ buộc công ty phải phát hành cổ phiếu thường mới để giữ cho cơ cấu vốn mục tiêu không đổi.
Khi áp dụng mô hình tăng trưởng không đổi thì:
Ke = + g
F: Chi phí phát hành( tỷ lệ phần trăm trên giá trị phát hành)
P0: Giá bán cổ phiếu mới
D1: Lợi tức cổ phần kỳ 1
g: Tỷ lệ tăng trưởng cổ tức
áp dụng mô hình tăng trưởng giảm dần:
Chi phí sử dụng vốn cổ phần mới được tính thông qua phương trình sau:
P0 (1-F) = + +
Trong trường hợp này: 2 năm đầu có cùng tốc độ tăng trưởng cổ tức, những năm còn lại có tốc độ tăng trưởng cổ tức là g.
Chi phí bình quân gia quyền của vốn
Một doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh với mục tiêu tối đa hoá giá trị doanh nghiệp sẽ thiết lập một cơ cấu vốn mục tiêu và hoạt động tài trợ cho sự phát triển phải tuân thủ cơ cấu vốn mục tiêu đó.
Trong cơ cấu vốn mục tiêu, mỗi nguồn vốn sẽ có một tỷ trọng nhất định và chi phí vốn của doanh nghiệp sẽ là chi phí bình quân gia quyền hay chi phí trung bình trọng số của vốn đầu tư.
Chi phí bình quân gia quyền của vốn(WACC) được xác định như sau:
WACC =
Trong đó:
Wi: Tỷ trọng của nguồn vốn thứ i
Ki: Chi phí của nguồn vốn thứ i
Tỷ trọng của mỗi nguồn vốn được xác định theo giá thị trường.
Cơ cấu vốn của doanh nghiệp
Cơ cấu vốn là thuật ngữ dùng để chỉ một doanh nghiệp sử dụng các nguồn vốn khác nhau với một tỷ trọng nhất định để tài trợ cho tổng tài sản của nó.
Cơ cấu vốn có liên quan đến việc xác định chi phí bình quân gia quyền của vốn và nó được sử dụng trong quyết định dự toán vốn. Cơ cấu vốn tối ưu là cơ cấu vốn làm cân bằng tối đa giữa rủi ro và lãi suất, thông qua đó làm tối đa hoá giá trị doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có cơ cấu vốn tối ưu thì chi phí bình quân gia quyền của vốn là thấp nhất.
Một doanh nghiệp khi đi vào hoạt động thì nguồn vốn được huy động rất hiếm khi chỉ từ một nguồn duy nhất mà hầu hết các doanh nghiệp đều phải huy động từ nhièu nguồn khác nhau. Điều đó nhằm giúp cho doanh nghiệp và bên đầu tư tránh được những rủi ro không đáng có hoặc không đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh.
Vì vậy, các doanh nghiệp phải xác định cho mình một cơ cấu vốn hợp lý giữa tỷ trọng vốn nợ vay, tỷ trọng vốn tự có, tỷ trọng lợi nhuận giữ lại và chi phí lưu thông; giữa tỷ trọng vốn cố định với tỷ trọng vốn lưu động.
III. Công tác huy động và sử dụng vốn của công ty tài chính
1. Công ty tài chính trong nền kinh tế thị trường
1.1. Khái niệm về công ty tài chính
Theo Frederich S.Minskin, giáo sư trường Đại học Côlômbia (Mỹ), thì công ty tài chính là công ty thu hút vốn bằng cách phát hành thương phiếu, cổ phiếu , trái phiếu và dùng tiền thu được để cho vay (thường là các món tiền nhỏ), đặc biệt thích hợp với nhu cầu của các doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Tuy nhiên vẫn có những khái niệm khác về công ty tài chính bắt nguồn từ sự khác biệt về môi trường pháp lý và công cụ tài chính tại các nước. Tại Thái Lan, công ty tài chính được định nghĩa là công ty có vốn chủ yếu bằng cách vay mượn từ nhân dân thông qua phát hành tín phiếu.
Tại Việt Nam, thuật ngữ công ty tài chính được dùng để chỉ những công ty quốc doanh cổ phần, hoạt động chủ yếu cho vay bằng nguồn vốn tự có và vốn vay của dân cư dưới hình thức phát hành trái phiếu.
Có nhiều khái niệm khác nhau về công ty tài chính trên thế giới , tuy nhiên qua nghiên cứu một số khái niệm, ta có thể rút ra khái niệm chung về công ty tài chính như sau:
Công ty tài chính là một tổ chức trung gian-môi giới,đóng vai trò quan trọng thúc đẩy lưu thông loại hàng hoá đặc biệt : Vốn. Một sự dịch chuyển vốn từ người cung ứng sang người có nhu cầu vốn được thực hiện bởi tổ chức này bằng hình thức phát hành trái phiếu, tín phiếu cùng những dịch vụ tiện ích kèm theo cho các đối tượng có liên quan.
1.2. Sự khác biệt giữa công ty tài chính với ngân hàng thương mại
Công ty tài chính và ngân hàng thương mại có sự khác biệt cơ bản là ở chỗ : Các ngân hàng thương mại có nhận tiền gửi thường xuyên trong khi các công ty tài chính thì sử dụng vốn tự có để cho vay và đầu tư, không thực hiện dịch vụ thanh toán, không nhận tiền gửi ngắn hạn (dưới một năm), không mở tài khoản của dân chúng và các tổ chức, không sử dụng vốn vay để làm phương tiện thanh toán,...Trong khi đó quá trình trung gian tài chính của các công ty tài chính có thể được mô tả rằng họ vay những món tiền lớn nhưng lại thường cho vay những món tiền nhỏ, một quá trình hoàn toàn khác so với quá trình trung gian của các ngân hàng thương mại. Chính vì thế quá trình cho vay của các công ty tài chính đặc biệt thích hợp với nhu cầu của các doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Các quốc gia có nền kinh tế phát triển, do yêu cầu mở rộng phạm vi hoạt động nên các công ty tài chính đều muốn mở rộng và đa dạng hoá các nghiệp vụ của mình để phục vụ tốt hơn nhu cầu của khách hàng, dẫn đến sự phân chia giữa các tổ chức ngân hàng và các công ty tài chính. Vì vậy, tuỳ theo sự phát triển kinh tế xã hội và đặc thù của mỗi quốc gia mà chính phủ mỗi nước thường can thiệp vào việc thiết lập mô hình công ty tài chính bằng cách giới hạn nội dung và phạm vi hoạt động của các công ty tài chính nhằm phát huy cao nhất tính hiệu quả của mô hình này trong hệ thống tài chính quốc gia. Như ở Mỹ, một số công ty tài chính có thể làm gần hết chức năng của một ngân hàng. Còn ở Pháp, luật ngân hàng năm 1984 quy định một công ty tài chính đảm nhận ít nhất một trong ba hoạt động có tính chất ngân hàng sau: nhận tiền gửi từ dân cư, cung cấp tín dụng và cung ứng những phương tiện chi trả như séc du lịch, thẻ tín dụng, hối phiếu ngân hàng,...
Các công ty tài chính có một lợi thế là họ không gặp phảI một hạn chế nào từ phía chính phủ về việc mở chi nhánh, về những tài sản mà họ đang nắm giữ. Việc không hạn chế giúp cho các công ty tài chính có thể phục vụ khách hàng một cách tốt hơn.
1.3. Vai trò của các công ty tài chính
Các công ty tài chính đang ngày càng phát triển và là một định chế không thể thiếu của mỗi một quốc gia, thể hiện vai trò chức năng của một tổ chức tài chính trung gian.
Thứ nhất, thu hút và cung cấp vốn cho các nhà kinh doanh có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh. Các công ty tài chính là nơi tích tụ tập trung vốn, phục vụ các mục tiêu kinh tế xã hội. Trong cơ chế thị trường nhu cầu vốn của các doanh nghiệp để mở rộng sản xuất kinh doanh là rất lớn, chính vì vậy các tổ chức tín dụng nói chung và công ty tài chính nói riêng phải tạo dựng được một thị trường vốn có khả năng đáp ứng nhu cầu về vốn của doanh nghiệp.
Tổ chức tài chính trung gian
Vốn
Vốn
Những người cho vay:
Doanh nghiệp
Chớnh phủ
Hộ gia đỡnh
Người nước ngoài
Những người đi vay:
Doanh nghiệp
Chớnh phủ
Hộ gia đỡnh
Người nước ngoài
Thị trường
tài chớnh
Vốn
Vốn
Tài chính gián tiếp
Tài chính trực tiếp
Thứ hai, giúp cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Đặc trưng cơ bản của tín dụng là sự vận động trên cơ sở sự hoàn trả có lợi tức. Thông qua lãi suất tín dụng, công ty tài chính thúc đẩy các doanh nghiệp phải hạch toán kinh tế nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng vòng quay của vốn, tăng khả năng sinh lời,... Mặt khác, thông qua việc thẩm định cho vay, công ty tài chính đã thẩm định tính khả thi củaviệc sử dụng vốn rồi mới quyết định cho vay.
Thứ ba, phân bổ vốn giữa các vùng trong quốc gia, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế xã hội. Sự phát triển không đồng đều giữa các vùng lãnh thổ trên một quốc giacó thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng nhìn lại thì vẫn là thiếu vốn để đầu tư sản xuất. Việc mở chi nhánh của công ty tài chính tại vùng lãnh thổ đó có thể điều hoà vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu để đảm bảo cho sự phát triển cân đối giữa các vùng.
Thứ tư, các công ty tài chính góp phần chống lạm phát và là một trong những công cụ quản lý của nhà nước có hiệu quả, tạo sự công bằng và ổn định.
Thứ năm, các công ty tài chính là cầu nối với thế giới bên ngoài tạo nên môi trường phát triển ngoại thương. Ngoài việc thu hút vốn trong nước, các công ty tài chính còn là một kênh dẫn vốn quan trọng của các dòng đầu tư nước ngoài. Với đội ngũ chuyên gia giàu kinh nghiệm cùng với uy tín của mình,các công ty tài chính sẽ tư vấn cho các nhà đầu tư cũng như quản lý hữu hiệu vốn đầu tư của khách hàng uỷ thác.
1.4. Các mô hình công ty tài chính
Theo tổng kết của các chuyên gia tư vấn IFC (công ty tài chính quốc tế) thì trên thế giới có hai mô hình công ty tài chính:
- Công ty tài chính độc lập
- Công ty tài chính thuộc tập đoàn
1.4.1. Công ty tài chính độc lập
Là loại hình công ty tài chính đứng độc lập, được chia thành hai loại sau:
- Công ty tài chính độc lập đầu tư vào nhiều lĩnh vực như Công ty tài chính Thương mại (tập trung cho vay, đầu tư trung và dài hạn cho các doanh nghiệp và cá nhân), đại diện là các công ty CIT GROUP,HELLER FINANCIAL, CENTERY BUSINESS CREDIT CORP,...
- Công ty tài chính độc lập đầu tư vào một lĩnh vực như Công ty tài chính Tiêu dùng (tài trợ cho các cá nhân gia đình để mua hàng tiêu dùng dưới hình thức tín dụng), đại diện là các công ty BENEFICIAL CORPORATION, HOUSEHOLD INTERNATIONAL INC,…hoặc các Công ty tài chính bán lẻ (tài trợ cho các hộ gia đình để mua các loại hàng hoá sử dụng lâu bền như ô tô, đồ gỗ, trang thiết bị gia đình,...), đại diện là các công ty AT&T CAPITAL, ITT COMMERCIAL FINANCE, TRANSAMERICA COMMERCIAL FINANCE...
1.4.2. Công ty tài chính thuộc tập đoàn
Là các công ty tài chính do một công ty mẹ lập nên và thường đóng vai trò đầu tư trong nội bộ tập đoàn với một số hoạt động như:
- Thu xếp các khoản vay cho các công ty con khác trong tập đoàn
- Quản lý nguồn tiền mặt và tình hình tiền mặt cho các công ty con
- Quản lý đầu tư vào các khoản tiền chưa sử dụng đến cho các công ty con
- Quản lý rủi ro tài chính trong toàn bộ tập đoàn bao gồm các rủi ro về lãi suất, ngoại hối, mất cân đối giữa tài sản và nguồn vốn,...
Bên cạnh quản lý tài chính nội bộ, một số công ty tài chính thuộc tập đoàn có quy mô lớn cũng cung cấp tài chính cho các khách hàng để mua hàng và các dịch vụ chính của tập đoàn. Các công ty này thường là của các hãng lớn như Công ty GE CAPITAL, ABB FINANCIAL, FORD MOTOR CREDIT, IBM CREDIT CORP,...
Các công ty này sử dụng nguồn vốn của tập đoàn để cung cấp tài chính cho bên ngoài thông qua các hoạt động cho thuê thiết bị, máy móc, tài trợ xuất khẩu và đầu tư vào các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động của tập đoàn.
2. Các nguồn huy động và sử dụng vốn của công ty tài chính
2.1. Các nguồn huy động
2.1.1. Nhận tiền gửi có kỳ hạn trên 1 năm
Các công ty tài chính được phép nhận tiền gửi với kỳ hạn trên 1 năm của các tổ chức, cá nhân theo quy định của luật pháp nước đó hoặc do ngân hàng trung ương quy định.
2.1.2. Phát hành giấy tờ có giá
Công ty tài chính được phát hành tín phiếu, trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu công trình trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật.
Trái phiếu là tên chung của các giấy vay nợ trung và dài hạn, thường được phát hành để vay vốn dài hạn. Khi huy động bằng phương thức này công ty phải chịu trách nhiệm về số vốn đã huy động được như một khoản nợ phải trả lãi vay theo một tỷ lệ nhất định. Tuỳ theo tình hình cụ thể của công ty và sự phát triển của thị trường tài chính nước đó mà lựa chọn loại trái phiếu thích hợp.
Một trong những vấn đề cần xem xét trước khi phát hành trái phiếu là lựa chọn loại trái phiếu nào cho phù hợp với điều kiện của công ty và tình hình trên thị trường tài chính. Việc lựa chọn trái phiếu thích hợp là rất quan ._.trọng vì có liên quan đến chi phí trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu. Công ty có thể lựa chọn các loại trái phiếu dưới đây:
Trái phiếu có bảo đảm và trái phiếu không có bảo đảm
Trái phiếu có bảo đảm là trái phiếu được bảo đảm bằng tài sản của công ty. Các tài sản sử dụng để đảm bảo thường là các bất động sản, trong một số ttrường hợp có thể là các trang thiết bị đắt tiền. Loại trái phiếu này đem lại cho trái chủ (người nắm giữ trái phiếu) mức độ an toàn khá cao.
Trái phiếu không có bảo đảm là loại trái phiếu mà không được bảo đảm khả năng thanh toán bằng một loại tài sản cụ thể nào. Tuy nhiên, chúng ta vẫn được bảo đảm chắc chắn bằng thu nhập tương lai và giá trị thanh lý của các tài sản của công ty theo thứ tự ưu tiên của luật phá sản ( quyền lợi ưu tiên của các trái phiếu bao giờ cũng đứng trước cổ phiếu khi công ty phá sản ). Đây là loại trái phiếu phổ biến ở các công ty.
Trái phiếu có thể thu hồi sớm
Tuỳ theo tình hình tài chính của công ty, công ty có thể huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu có khả năng thu hồi sớm, tức là công ty có thể mua lại trái phiếu trước ngày đáo hạn trái phiếu. Loại trái phiếu này có thể giúp công ty giảm bớt được lượng vốn vay khi cần thiết, hoặc có thể giúp công ty thay thế nó bằng một loại trái phiếu tốt hơn.
Trái phiếu có lãi suất thả nổi và trái phiếu có lãi suất cố định
Trái phiếu có lãi suất cố định là loại trái phiếu có lãi suất được ghi ngay trên mặt trái phiếu và không thay đổi trong kỳ hạn của nó, nhưng giá trị của trái phiếu lại thay đổi theo những biến động của thị trường. Đây là loại trái phiếu phổ biến nhất trong các công ty.
Trái phiếu có lãi suất thả nổi: Đây là loại trái phiếu có nhiều rủi ro và việc quản lý nó phức tạp hơn nhiều so với trái phiếu có lãi suất cố định. Khi thị trường vốn thay đổi liên tục do nền kinh tế không ổn định, các công ty có thể phát hành loại trái phiếu này.
2.1.3. Vay vốn của các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước
Trong quá trình hoạt động các công ty tài chính có thể vay vốn từ các ngân hàng thương mại và các định chế tài chính khác trong và ngoài nước. Nguồn huy động từ các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước có thể là nguồn ngắn trung và dài hạn tuỳ theo nhu cầu và điều kiện của từng công ty.
2.1.4. Vay vốn trên thị trường liên ngân hàng
Đây là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn, đáp ứng nhu cầu tức thời của công ty cho khách hàng vay nhưng trong ngân quỹ không đủ tiền. Công ty tài chính sẽ vay trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất thường thấp hơn lãi suất thị trường. Tuy nhiên các công ty tài chính chỉ được huy động với thời hạn ngắn, một vài ngày, cùng lắm là một tuần.
2.1.5. Huy động từ nguồn vốn uỷ thác của công ty mẹ và các tổ chức cá nhân trong nền kinh tế
Theo từ điển “Kinh tế hiện đại” thì nghiệp vụ uỷ thác là việc tài sản của một người được giao cho một người khác kinh doanh và quản lý. Người được nhận trách nhiệm quản lý tài sản không được thụ hưởng lợi nhuận được sinh ra của tài sản, còn người được giao tài sản không có quyền nắm giữ tài sản của mình. Ngoài ra, người giao quản lý tài sản còn phải trả cho người quản lý một khoản phí.
Nghiệp vụ uỷ thác quyền sử dụng vốn là việc đơn vị uỷ thác chuyển quyền quản lý và sử dụng tài sản sang bên thụ thác, bên thụ thác coi tài sản đó như một phần vốn kinh doanh của mình và sử dụng số vốn này để kinh doanh sinh lời.
Như vậy, vốn uỷ thác thực chất là tài sản mà bên uỷ thác tin tưởng giao cho bên thụ thác để tổ chức này kinh doanh sinh lời hộ bằng cách đầu tư hoặc cho vay.
2.2. Hoạt động sử dụng vốn
2.2.1. Cho vay
Công ty tài chính có thể cho tổ chức, cá nhân vay ngắn, trung và dài hạn:
- Cho vay ngắn hạn: Nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống.
- Cho vay trung và dài hạn: nhằm thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống.
2.2.2. Đầu tư chứng khoán
Công ty tài chính sử dụng vốn của mình để mua các loại chứng khoán như: Trái phiếu chính phủ, cổ phiếu của các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán.
Hoạt động này đem lại cho công ty một khoản lợi nhuận không nhỏ và thường là rủi ro thấp. Nó giúp cho công ty đa dạng hoá hình thức đầu tư vốn, giảm rủi ro có thể xảy ra.
2.2.3. Góp vốn đầu tư với các tổ chức kinh tế
Công ty tài chính có thể dùng vốn tự có của mình để góp vốn với các doanh nghiệp đầu tư sản xuất kinh doanh. Đây là hình thức khá phổ biến đối với các công ty tài chính, nó giúp cho công ty năng động hơn trong việc sử dụng vốn.
2.2.4. Kinh doanh ngân quỹ
Công ty tài chính có thể dùng ngân quỹ của mình để gửi tại các ngân hàng để thu lợi nhuận. Các quỹ như quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, quỹ dự phòng đầu tư tài chính,... trong một thời gian nhất định có thể chưa dùng tới, công ty có thể gửi các quỹ này vào các tổ chức tín dụng khác. Mặt khác, nguồn vốn tự có của công ty tài chính không phải khi nào cũng sử dụng hết, vì vậy gửi vào các tổ chức tín dụng khác để kiếm lời cũng là một biện pháp tốt.
2.2.5. Các hoạt động khác
- Tiếp nhận vốn uỷ thác đầu tư và làm đại lý huy động vốn trong và ngoài nước đầu tư vào các công trình, dự án để thu phí
- Làm đại lý phát hành trái phiếu doanh nghiệp
- Thực hiện các dịch vụ khác khi được ngân hàng trung ương cho phép.
3. Hiệu quả sử dụng vốn của công ty tài chính
Khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, các công ty tài chính luôn theo đuổi một mục tiêu chính - đó là hiệu quả kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn nhân tài, vật lực của công ty để đạt được kết quả cao nhất trong quá trình kinh doanh với tổng chi phí thấp nhất.
Hoạt động sản xuất kinh doanh được đánh giá trên hai mặt là hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Trong đó, hiệu quả kinh tế có một ý nghĩa quyết định tới hiệu quả xã hội Hiệu quả kinh tế là lợi ích kinh tế đạt được sau khi đã bù đắp hết các khoản chi phí bỏ ra cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Như vậy, hiệu quả là một chỉ tiêu chất lượng phản ánh mối quan hệ giữa hiệu quả thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh với chi phí bỏ ra để có được hiệu quả đó dựa trên nguyên tắc của hạch toán“ doanh thu nào, chi phí ấy”.
Có vốn là yếu tố quan trọng, song việc sử dụng vốn sao cho đạt hiệu quả cao mới thực sự là nhân tố quyết định cho sự tăng trưởng của công ty. Việc thường xuyên kiểm tra tình hình tài chính, tiến hành phân tích để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn là nội dung quan trọnh trong công tác tài chính của công ty.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ đảm bảo khả năng an toàn tài chính cho công ty, ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của công ty đó. Như vậy, công ty tài chính sẽ đảm bảo được khả năng thanh toán và khắc phục được rủi ro trong kinh doanh. Mặt khác, đối với công ty tài chính, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ làm tăng uy tín, thế lực của mình, đồng thời tạo ra sản phẩm dịch vụ với chất lượng cao, giá thành hạ, đáp ứng nhu cầu khách hàng, tăng khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường. Bên cạnh đó, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn còn tạo ra lợi nhuận lớn, nâng cao đời sống, thu nhập cho cán bộ công nhân viên, nâng cao hiệu quả đóng góp cho xã hội,...
3.1. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn của công ty tài chính
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của công ty tài chính, người ta thường sử dụng các hệ thống chỉ tiêu. Việc sử dụng các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn là sử dụng các công cụ phân tích tài chính để đưa ra các đánh giá và quyết định tài chính.
Trong phần này chúng ta sẽ sử dụng một số nhóm các chỉ tiêu sau để phân tích hiệu quả sử dụng vốn:
3.1.1. Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng hoạt động
Các chỉ tiêu về khả năng hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của công ty tài chính. Nguồn vốn của công ty được dùng để đầu tư cho các loại tài sản khác nhau như tài sản cố định, tài sản lưu động. Do đó, các nhà phân tích không chỉ quan tâm tới việc đo lường hiệu quả sử dụng của toàn bộ vốn mà còn chú trọng tới hiệu quả sử dụng vốn của từng bộ phận cấu thành nguồn vốn của công ty.
Các chỉ tiêu cơ bản của nhóm này gồm:
Doanh thu thuần
Hiệu suất sử dụng vốn cố định =
Vốn cố định bình quân
Trong đó:
Vốn cố định bình quân = (Vốn cố định đầu kỳ + Vốn cố định cuối kỳ)/ 2
Doanh thu thuần
- Vòng quay vốn lưu động =
Vốn lưu động bình quân
Trong đó:
Vốn lưu động bình quân = (vốn lưu động đầu kỳ + vốn lưu động cuối kỳ)/ 2
Lợi nhuận ròng
- Hiệu quả sử dụng vốn cố định =
Vốn cố định bình quân
Lợi nhuận ròng
- Hiệu quả sử dụng vốn lưu động =
Vốn lưu động bình quân
3.1.2. Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời
Lợi nhuận sau thuế
- Doanh lợi vốn =
Vốn kinh doanh bình quân
Lợi nhuận sau thuế
- Doanh lợi vốn chủ sở hữu =
Vốn chủ sở hữu
Tất cả các chỉ tiêu trên là để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của công ty tài chính trong một kỳ kinh doanh.
3.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của công ty tài chính
3.2.1. Các nhân tố khách quan
a. Chính sách tài chính tiền tệ của Nhà nước
Hoạt động của công ty tài chính phụ thuộc rất nhiều vào luật pháp của đất nước. Từ mô hình tổ chức cho đến các hoạt động cơ bản của công ty đều do pháp luật quy định, bắt buộc phải tuân thủ một cách vô điều kiện vì nó thể hiện ý chí của nhà nước. Tuỳ theo tình hình của đất nước mà nhà nước quy định công ty tài chính được phép thực hiện những nghiệp vụ nào.
ở các nước phát triển thì công ty tài chính được phép thực hiện gần hết chức năng của một ngân hàng. Còn ở nước ta, luật các tổ chức tín dụng quy định công ty tài chính không được nhận tiền gửi không kỳ hạn, không làm dịch vụ thanh toán.
Các chính sách như chính sách lãi suất, chính sách tỷ giá hối đoái,…sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của công tài chính. Một sự thay đổi lãi suất của ngân hàng trung ương sẽ tác động trực tiếp đến chính sách lãi suất của công ty tài chính, công ty sẽ phải thay đổi chính sách lãi suất của mình cho phù hợp. Sự thay đổi này sẽ làm ảnh hưởng đến mối quan hệ của công ty với khách hàng, ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty,...
Như vậy, chính sách tài chính tiền tệ của Nhà nước ảnh hưởng rất lớn đến khả năng huy động cũng như sử dụng vốn của công ty tài chính.
b. Nhân tố thị trường
Là một chủ thể trong nền kinh tế, hoạt động huy động và sử dụng vốn của công ty tài chính gắn bó chặt chẽ với nhân tố thị trường. Trên thị trường có rất nhiều đối thủ cạnh tranh, nhất là phải cạnh tranh với các ngân hàng thương mại đã có quan hệ lâu năm với khách hàng. Chính vì thế mà công ty phải luôn chú trọng nâng cao chất lượng, đa dạng hoá các dịch vụ của mình, nâng cao uy tín với khách hàng để tién tới chiếm lĩnh thị trường.
Công ty tài chính là một tổ chức tài chính trung gian mà hoạt động của nó gắn liền với sự phát triển của thị trường tài chính. Thị trường tài chính thực hiện chức năng cơ bản bằng cách truyền dẫn vốn từ người tiết kiệm sang người đầu tư. Thông qua thị trường tài chính, công ty tài chính có thể huy động vốn với các kỳ hạn khác nhau để phục vụ cho hoạt động của mình. Nếu thị trường tài chính phát triển thì việc thực hiện các nghiệp vụ huy động cũng như tìm kiếm khách hàng sẽ dễ dàng hơn, thông tin chính xác hơn, chi phí sẽ giảm xuống,... Tuy nhiên, nếu thị trường tài chính chưa phát triển sẽ là một khó khăn rất lớn cho công ty tài chính.
c. Các nhân tố khách quan khác
Ngoài những nhân tố trên đây, các nhân tố như sự ổn định của nền kinh tế, thu nhập của dân cư, trình độ dân trí,...cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng huy động và sử dụng vốn của công ty tài chính.
3.2.2. Các nhân tố chủ quan
a. Tình hình tài chính của bản thân công ty
Khi công ty có tình hình tài chính lành mạnh, ổn định thì khả năng huy động và sử dụng vốn của công ty sẽ có nhiều thuận lợi hơn. Trong quá trình ký kết hợp đồng giao dịch với một đối tác nào đó thì công ty phải nắm bắt được tình hình tài chính, khả năng thanh toán của đối tác. Cũng như vậy, phía đối tác cũng sẽ tìm hiểu tình hình tài chính của công ty. Nếu tình hình tài chính của công ty đang trong tình trạng xấu thì đối tác sẽ không mạo hiểm ký hợp đồng với công ty.
Do đó tình hình tài chính của công ty có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của công ty tài chính.
b. Các hình thức huy động và sử dụng vốn của công ty
Hình thức huy động và sử dụng vốn của công ty đưa ra càng phong phú, đa dạng, linh hoạt và thuận tiện bao nhiêu thì khả năng thu hút vốn cũng như sử dụng vốn có hiệu quả càng cao bấy nhiêu. Điều này xuất phát từ sự khác nhau trong nhu cầu và trong tâm lý của khách hàng. Chính sự đa dạng hoá các hình thức huy động vốn đã ngày càng thoả mãn được nhu cầu, mong muốn của khách hàng vì chủ thể tìm được phương thức đầu tư ưa thích nhất.
Uy tín, đặc điểm vật chất, cơ cấu nhân sự của công ty tài chính
Những nhân tố này cũng rất quan trọng, nó tác động tới khả năng huy động và hoạt động tín dụng của công ty. Nói chung, một công ty tài chính có uy tín lớn bao giờ cũng được khách hàng tin tưởng hơn, gắn bó chặt chẽ hơn. Chính vì thế mà hầu như các tổ chức tín dụng nói chung và công ty tài chính nói riêng bao giờ cũng đặt uy tín, chất lượng sản phẩm dịch vụ của mình lên hàng đầu.
Một công ty tài chính mạnh phải có cơ cấu nhân sự hợp lý, có người lãnh đạo tài tình, có uy tín đối với cán bộ nhân viên cũng như với đối tác. Ngoài ra phong cách phục vụ khách hàng cũng rất quan trọng, trụ sở khang trang, đội ngũ cán bộ phục vụ nhiệt tình, có trình độ thì càng thu hút được khách hàng.
Chương II:
thực trạng huy động và sử dụng vốn của công ty tài chính bưu điện trong thời gian qua
i. vài nét khái quát về công ty tài chính bưu điện
1. Quá trình hình thành của Công ty Tài chính Bưu điện
Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam là một trong những Tổng công ty mạnh trong số các Tổng công ty 90 – 91. Trước sự phát triển mạnh mẽ của nền khoa học công nghệ, Viễn thông , tin học trong thế kỷ 21 và để tránh tụt hậu, nhất là trong xu thế hội nhập cạnh tranh hiện nay, Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam đang xây dựng một lộ trình tham gia các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới. Nội dung cơ bản là nhanh chóng xây dựng cơ sở mạng lưới phát triển vững chắc,quy mô rộng lớn trước khi hội nhập và cạnh tranh bằng cách tiếp tục tiếp cập nhập các công nghệ hiện đại và đưa các dịch vụ mới vào khai thác trên mạng lưới. Để phù hợp với tốc độ phát triển của khoa học kỹ thuật, kinh tế trong và ngoài nước,Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam cũng đã chuẩn bị kế hoạch tiến tới trở thành một tập đoàn kinh tế.
Theo khái niệm thì Tập đoàn kinh tế là một tổ chức tiên tiến đại diện cho trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất và nền kinh tế xã hội, Là một thực thể kinh tế thể hiện sự liên kết giữa các thành viên. Một trong những đặc điểm của tập đoàn kinh tế là tập trung và điều hoà vốn. Việc hình thành tập đoàn xuất phát từ yêu cầu khách quan là khắc phục sự hạn chế về vốn của từng thành viên. Trong tập đoàn, việc huy động nguồn vốn từ các công ty thành viên để tập trung đầu tư vào các công ty, các dự án có hiệu quả kinh tế cao, khắc phục tình trạng phân tán vốn. Để giải quyết vấn đề này Công ty Tài chính Bưu Điện đã được thành lập. Nhiệm vụ của công ty tài chính lúc này là huy động vốn từ các công ty thành viên, điều hoà vốn vào các lĩnh vực cần phát triển hoặc có hiệu quả kinh tế cao.
Công ty Tài chính Bưu Điện là một doanh nghiệp nhà nước hạch toán độc lập trực thuộc Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam, là một tổ chức tín dung phi ngân hàng hoạt động theo luật tín dụng.
Công ty được thành lập theo quyết định số 415/1998/QĐ_TCCB ngày 08/07/1998 của Tổng cục Trưởng Tổng cục Bưu Điện trên cơ sở chủ trương đổi mới doanh nghiệp thể hiện tại Nghị định 51 ngày 01/08/1995 của chính phủ; hoạt động theo giấy phép số 03/GP-NHNN do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cấp ngày 10/10/1998 và bắt đầu đi vào hoạt động từ ngày 25/11/1998.
Tên chính thức của công ty: Công ty Tài chính Bưu Điện
Tên giao dịch : Post and Telecommunication Finance Company
Tên viết tắt : PTF
Trụ sở chính : 62-Nguyễn Du - Hai Bà Trưng - Hà Nội
Vốn điều lệ : 70 000 000 000 VNĐ
(Cơ cấu vốn: VCĐ là 4 tỷ, VLĐ là 66 tỷ)
Tài khoản số : 710A.01919 tại Sở giao dịch I Ngân hàng Công
Thương Việt Nam.
Thời gian hoạt động là 50 năm kể từ ngày thành lập nhưng không quá thời gian hoạt động của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam.
Tuy rằng mới bước vào hoạt động trong thời gian ngắn, nhưng sự ra đời của công ty tài chính trong tổng công ty nói chung và Công ty Tài chính Bưu Điện trong Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam nói riêng có những ý nghĩa rất quan trọng:
- Việc xây dựng mô hình công ty tài chính trong tổng công ty đã góp phần làm đa dạng hoá các dịch vụ, các loại hình tổ chức tín dụng ở Việt Nam.
- Sự ra đời của các công ty tài chính này góp phần tăng thêm nguồn vốn huy động, thực hiện chủ trương phát huy nội lực và nhất là tạo thêm kênh dẫn vốn mới bổ sung cho hoạt động ngân hàng truyền thống ở nước ta.
- Với phạm vi hoạt động chủ yếu trong nội bộ Tổng công ty, các công ty tài chính sẽ hỗ trợ đắc lực cho các thành viên, nhằm phát huy thế mạnh, tăng khả năng cạnh tranh của các đơn vị thành viên và của Tổng công ty, nâng tầm các Tổng công ty lên thành các tập đoàn đa năng, vững mạnh về tài chính.
2. Cơ cấu tổ chức, chức năng và cơ chế điều hành của công ty Tài chính Bưu Điện
2.1. Cơ cấu tổ chức
Công ty mới đi vào hoạt động được hơn 3 năm, lại hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ nên cơ cấu tổ chức đang dần được thay đổi cho phù hợp. Cán bộ công nhân viên của công ty hầu như được lựa chọn theo nguyên tắc tuyển dụng , được đào tạo theo chức danh , có kĩ năng nghề nghiệp ; chỉ có ba chức danh được bổ nhiệm đó là : Giám đốc , Phó Giám đốc và Kế toán trưởng. Hầu hết các cán bộ công nhân viên đều đã tốt nghiệp đại học, trên đại học, đáp ứng tốt yêu cầu của công việc. Trên cơ sở đó, mô hình tổ chức của Công ty Tài chính Bưu Điện hiện nay được tổ chức thành các phòng tổ thực hiện chức năng, nhiệm vụ phù hợp với mục tiêu nhiệm vụ của Công ty. Mô hình tổ chức đó được tổ chức như sau:
Giám Đốc
Phó giám đốc 1
phó giám đốc 2
Phòng
Kế toán - Ngân quỹ
Phòng
Tin học -Thống kê
g
Phòng
Tín dụng
Tổ
Thẩm định dự án
Phòng
Hành chính - Lễ tân
Phòng
Nghiên cứu - Thị trường
Tổ Tổng hợp -Kiểm soát
Phòng
Đầu tư
- Chứng khoán
Phòng
Tổ chức -Lao động
2.2. Cơ chế điều hành
Công ty thực hiện điều hành trực tuyến, tuân thủ theo các thể chế thống nhất qua các quy chế, quy trình, quy ước. Cùng với việc phân cấp trách nhiệm tương ứng với quyền hạn và được phân giao theo quy chế phân cấp.
Số liệu, sự kiện, thông tin, thống kê, kiểm soát, điều hành, quản lý, chỉ đạo được kết nối với nhau liên tiếp, đan xen và chặt chẽ.
Hoạt động kinh doanh, điều hành của công ty được gắn với hệ thống kiểm soát kinh doanh, kiểm soát điều hành thành một hệ thống chặt chẽ.
2.3. Chức năng của công ty
Công ty Tài chính Bưu Điện là đầu mối thực hiện việc huy động vốn để cho vay phục vụ nhu cầu của Tổng công ty, các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc trong Tổng công ty, các đơn vị hạch toán độc lập, các doanh nghiệp mà Tổng công ty góp vốn và các đơn vị cùng ngành kinh tế kỹ thuật thông qua hình thức vay tín dụng ưu đãi của chính phủ; tín dụng thương mại của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng trong nước và nước ngoài; phát hành tín phiếu, trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu công trình, mua bán giấy tờ có giá theo quy định của pháp luật; huy động vốn nhàn rỗi của cán bộ công nhân viên trong Tổng công ty.
Ngoài các chức năng trên, Công ty Tài chính Bưu Điện còn có các chức năng quan trọng sau:
- Điều hoà vốn và sử dụng có hiệu quả tài sản bằng tiền trong nội bộ Tổng công ty.
- Tham gia một số hoạt động kinh doanh được cho phép trên thị trường tài chính.
- Đầu tư tài chính cho Tổng công ty vào các pháp nhân không do Nhà nước đầu tư 100% vốn.
- Tư vấn, nhận uỷ thác các dịch vụ quản lý tài chính, tài sản, đầu tư.
2.4. Nhiệm vụ và quyền hạn của công ty
Công ty Tài chính Bưu Điện có trách nhiệm bảo toàn vốn được giao, sử dụng có hiệu quả và không ngừng tích luỹ vốn để đầu tư phát triển và chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Đồng thời công ty còn có nghĩa vụ nộp các khoản thuế cho nhà nước và các nghĩa vụ tài chính khác theo luật doanh nghiệp, phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động của công ty.
Công ty Tài chính Bưu Điện có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các quy định về nội dung và phạm vi hoạt động, dự trữ bắt buộc, các hệ số an toàn trong kinh doanh tiền tệ, lãi suất, thể lệ tín dụng... và phải chịu sự quản lý, giám sát, thanh tra của Ngân hàng Nhà nước và tuân thủ theo luật của các tổ chức tín dụng.
3. Tình hình hoạt động của công ty Tài chính Bưu Điện từ khi thành lập đến nay
Công ty Tài chính Bưu Điện được thành lập vào ngày 25/1/1998. Vốn mà Tổng công ty cấp cho Công ty là 70 tỷ VNĐ , và đây cũng là phần vốn tự có của Công ty. Do mới chính thức đi vào hoạt động được hơn 3 năm nên trong thời gian vừa qua hoạt động chủ yếu của công ty là hoàn thiện bộ máy tổ chức, mô hình hoạt động, dầo tạo cán bộ,xây dựng quy chế, quy trình hoạt động,...Do vậy, có thể nói các hoạt động kinh doanh của công ty mới chỉ ở bước khởi đầu, các hoạt động kinh doanh của Công ty mới thực sự bắt đầu từ năm 2000, tuy nhiên các kết quả đạt được cũng rất khả quan.
- Công ty đã trình Tổng công ty phương án phát hành trái phiếu Bưu Điện huy động vốn từ cán bộ công nhân viên, phần vốn tiếp tục vay với đầy đủ tính khả thi và chuẩn bị dần cho thị trường làm quen với trái phiếu Bưu Điện
- Xây dựng hoàn chỉnh phương án phát hành trái phiếu cho công ty, tư vấn và đại lý phát hành cho Tổng công ty và các đơn vị thành viên
- Hoàn thiện phương án trọn gói cổ phần hoá cho công ty xây dựng bưu điện , tạo tiền đề cho việc triển khai nghiệp vụ làm đại lý phát hành cổ phiếu của công ty vói Công ty Xây dựng Bưu Điện và các đơn vị khác trong ngành khi có yêu cầu cổ phần hoá
- Đã tư vấn nhiều vấn đề quản lý cho các đơn vị , hướng dẫn các đơn vị trong việc thực hiện thủ tục đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm thiết bị, thanh toán
- Thiết lập được mối quan hệ tín dụng với các đơn vị tín dụng , các đơn vị thành viên trong Tổng công ty đã dần dần thấy được vai trò của Công ty với chức năng huy động vốn cho các dự án thông qua việc kí kết các hợp đồng tín dụng và giải ngân cho các dự án .Công ty đã huy động đủ vốn cho các dự án được Tổng Công ty giao với mức độ khẩn trương và hiệu quả , lãi suất thấp hơn mức được Tổng Giám đốc cho phép .
Từ các hoạt động đó, Công ty đã đạt được một số kết quả thể hiện ở bảng 1.
Bảng 1: Bảng tổng hợp kết quả hoạt động kinh doanh
Đơn vị tính: triệu VNĐ
TT
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
KH
TH
%
KH
TH
%
KH
TH
%
1
Doanh thu
6706,0
5927,06
88,38
5946,82
6240,78
104,94
16700,0
16719,35
100,12
2
Chi phí
6186,0
4516,21
73,01
5529,00
5619,52
101,64
16105,0
15957,73
99,09
3
LN trước thuế
520,00
1410,85
271,3
299,96
621,26
207,12
595,00
761,62
128,00
4
Nộp NSNN
172,45
466,64
270,6
214,71
305,13
142,11
400,85
413,13
103,06
5
LN sau thuế
353,60
959,38
271,3
203,97
422,46
207,12
404,00
518,47
128,33
Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty Tài chính Bưu Điện năm 1999, 2000, 2001.
Biểu đồ 1: Biểu đồ so sánh lợi nhuận sau thuế và nộp NSNN của Công ty Tài chính Bưu Điện trong các năm 1999, 2000, 2001.
Nguồn số liệu được trích từ bảng 1.
Như vậy, sau 3 năm hoạt động, Công ty Tài chính Bưu Điện đã nộp cho NSNN một khoản là 1,1849 tỷ VNĐ ; số lợi nhuận sau thuế thu được là : 1,9003 tỷ VNĐ ; tổng doanh thu là : 28, 88719 tỷ VNĐ .
Nhìn vào bảng trên ta thấy lợi nhuận sau thuế của năm 2000 và năm 2001 thấp hơn so với năm 1999 .Tuy nhiên không phải bởi vậy mà khẳng định rằng hoạt động kinh doanh của Công ty đang giảm sút , trái lại trên thực tế thì hoạt động kinh doanh năm 2000 phát triển hơn năm 1999 và năm 2001 phát triển mạnh mẽ hơn năm 2000 . Cụ thể là doanh thu của năm 2001 là: 16.719,35 triệu VNĐ so với 6.240,78 triệu VNĐ năm 2000 và 5.927,06 triệu VNĐ năm 1999 .
Trong năm 1999 lợi nhuận của Công ty lớn là do phần lớn vốn bằng tiền của công ty đều được gửi vào ngân hàng và lợi nhuận của công ty chủ yếu do lãi tiền gửi còn hoạt động tín dụng hầu như chưa phát sinh .Chính vì vậy số thuế nộp NSNN phát sinh rất ít (do chưa kinh doanh thì chưa phải nộp thuế GTGT, năm 1999 thuế GTGT bằng không chứng tỏ điều đó). Đến năm 2000 và 2001 thì một phần lớn vốn bằng tiền của công ty đã chuyển sang cho vay trung, dài hạn và một số nghiệp vụ khác , lãi của các khoản cho vay này chưa phát sinh trong hiện tại mà trong một vài năm tới nên lợi nhuận của năm 2000 và năm 2001 thấp hơn năm 1999. Nhưng so sánh năm 2000 với năm 2001 ta thấy lợi nhuận sau thuế năm 2001 đạt 518,47 triệu đồng (vượt 128,33% kế hoạch đề ra) lớn hơn lợi nhuận sau thuế của năm 2000 đạt 422,46 triệu đồng .
Như vậy kết quả này có thể chứng minh phần nào đó cho một thực tế là công ty đang dần dần hoạt động thực hiện các nghiệp vụ của mình dựa trên các nền tảng cơ sở đã được xây dựng trước .
II. thực trạng huy động và sử dụng vốn của công ty tài chính bưu điện
1. Tình hình huy động vốn
1.1. Huy động vốn bằng phương thức nhận tiền gửi trung và dài hạn
Công ty Tài chính Bưu Điện được phép nhận tiền gửi có kỳ hạn trên một năm của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam, các doanh nghiệp thành viên của Tổng công ty, các doanh nghiệp cùng ngành kinh tế kỹ thuật, các doanh nghiệp mà Tổng công ty góp vốn kinh doanh. Tuy nhiên, công tác huy động vốn từ nguồn này chưa thực hiện được, bởi vì tiền nhàn rỗi của các đơn vị này thường chỉ có kỳ hạn dưới một năm, vốn chưa đầu tư của tổng công ty cũng đang nằm trong tài khoản tại các ngân hàng thương mại.
1.2. Huy động vốn bằng phương thức phát hành trái phiếu, kỳ phiếu trong và ngoài nước
ở các nước phát triển, nguồn vốn huy động được bằng phương thức này chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động của công ty tài chính, chứng tỏ đây là một nguồn quan trọng mà công ty Tài chính Bưu Điện cần phải khai thác.
Hiện nay việc huy động vốn trên thị trường chứng khoán thông qua việc phát hành trái phiếu, kỳ phiếu của công ty chỉ mới dừng lại ở bước nghiên cứu. Sở dĩ như vậy là do thị trường chứng khoán nước ta chưa phát triển, Sở Giao Dịch Chứng Khoán TP HCM mới đi vào hoạt động nên việc lưu thông loại hàng hoá này còn nhiều khó khăn, chưa tạo được niềm tin cho nhà đầu tư. Hơn nữa, theo luật thì Công ty phải làm ăn có lãi trong 3 năm liên tiếp thì mới được niêm yết trái phiếu trên Sở Giao Dịch. Thời gian hoạt động của Công ty cũng chỉ mới là 3 năm nên phương thức huy động này chưa được thực hiện.
Tuy nhiên, nhận thấy tầm quan trọng của thị trường đầy tiềm năng này Công ty Tài chính Bưu Điện đã xây dựng và trình lên Tổng công ty phương án phát hành trái phiếu Bưu Điện để huy động vốn với đầy đủ tính khả thi.Trước tiên là huy động vốn từ cán bộ công nhân viên trong Tổng công ty. Đây sẽ là bước khởi đầu để chuẩn bị dần cho thị trường làm quen với trái phiếu Bưu Điện, sau đó Công ty có thể mở rộng phát hành ra thị trường.
1.3. Huy động từ nguồn vốn đồng tài trợ và uỷ thác đầu tư
Đây là hai nguồn vốn chủ yếu mà Công ty Tài chính Bưu Điện đang áp dụng huy động vốn để cho vay trong điều kiện hạn chế về hạn mức cho vay cũng như hạn chế về hoạt động huy động vốn của Công ty Tài chính nói chung ở Việt Nam.
Trong thời gian qua, Công ty đã tạo lập được mối quan hệ tốt, có uy tín với các ngân hàng: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bình Định, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân Đội, Ngân hàng Công thương Đống Đa,... Chính vì vậy mà số tiền huy động được từ các ngân hàng này thông qua hai hình thức đồng tài trợ và uỷ thác đầu tư rất lớn, nó được thể hiện ở bảng 2.
Như vậy, tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2001 thì Công ty Tài chính Bưu Điện đã ký được 6 hợp đồng đồng tài trợ và 11 hợp đồng uỷ thác đầu tư. Tổng giá trị các hợp đồng đồng tài trợ là 431.383.498.000 đồng và các hợp đồng uỷ thác đầu tư là 781.000.000.000 đồng.
Với nguồn đồng tài trợ, Công ty Tài chính Bưu Điện góp vốn cùng với đối tác để đầu tư vào các công trình, dự án của các đơn vị thành viên trong ngành Bưu chính Viễn thông nhằm thu lợi nhuận. Công ty đã góp 2% vốn với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bình Định, tức là 4.110.329.960 đồng; Với Ngân hàng Công thương Đống Đa là 4%, tức là 9.034.680.000 đồng. Số vốn mà Công ty bỏ ra rất nhỏ nhưng đã thu hút được một nguồn vốn khá lớn về cho các công trình, dự án trong ngành.
Với nguồn uỷ thác đầu tư, Công ty nhận uỷ thác để thu phí và thực hiện chức năng huy động vốn cho các đơn vị trong ngành. Công ty đã ký các hợp đồng uỷ thác với các đối tác như: NHTMCP Quân Đội, NHĐT&PT Bình Định, NHTMCP Hàng Hải Hà Nội. Nguồn uỷ thác đầu tư đạt được năm 2000 là 211.000.000.000 đồng, và năm 2001 đã tăng lên rất nhanh, đạt 570.000.000.000 đồng. Điều đó cho thấy tiềm năng của nguồn vốn này là rất lớn, cần phải khai thác.
Tiến độ giải ngân cũng đạt ở mức 65-70% số tiền mà Tổng công ty đã bảo lãnh. Nguồn đồng tài trợ đã giải ngân được 134.056.717.760 đồng, đạt 68% tổng giá trị các hợp đồng tài trợ. Trong lúc đó nguồn uỷ thác đầu tư năm 2000 cũng đã giải ngân được 20.266.997.000 đồng và năm 2001 đã giải ngân được 194.430.300.000 đồng, đạt 65% tổng giá trị các hợp đồng uỷ thác đầu tư.
Ngoài ra, Công ty Tài chính Bưu Điện đã làm việc với một số ngân hàng nước ngoài như: ANZ, Credit Lyonnair, Indovina,... Trong đó ngân hàng ANZ có khả năng có nguồn vốn nội tệ và có thể uỷ thác đầu tư qua Công ty. Số vốn có thể tiếp nhận lên đến vài chục tỷ VNĐ từ nguồn vốn uỷ thác của ANZ thông qua hình thức tín dụng giáp lưng, trong đó tiền gửi của Công ty sẽ được coi là tài sản bảo đảm cho khoản vay. Công ty cũng đã tiếp xúc với các tổ chức tài chính khác như Công ty Bảo Hiểm, rất thích hợp với hình thức uỷ thác đầu tư, mở ra một nguồn huy động vốn mới cho công ty.
Bảng 2: Nguồn vốn đồng tài trợ và nguồn uỷ thác đầu tư của Công ty Tài chính Bưu Điện năm 1999, 2000, 2001
Đơn vị: 1000 đồng
TT
Loại nguồn
Đối tác
Ngày ký
Giá trị hợp đồng
Số tiền TCT bảo lãnh
Nội tệ
Ngoại tệ (USD)
Quy đổi
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29770.doc