Phần mở đầu
Tính cấp thiết của đề tài
Làng nghề truyền thống ở nước ta đã có từ lâu đời với nhiều làng nghề nổi tiếng trong và ngoài nước. Cùng với các làng nghề truyền thống các nghề mới, làng nghề mới cũng xuất hiện. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay các làng nghề có vị trí đặc biệt quan trọng chúng là một bộ phận cơ bản của công nghệp nông thôn. Các làng nghề có khả năng thu hút nhiều lao động góp phần tích cực vào việc giải quyết tình trạng thất nghiệp tăng thu nhập cho người la
63 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1563 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm phục hồi & phát triển các làng nghề ở tỉnh Thái Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o động nhất là ở vùng nông thôn.
Thái Bình là một tỉnh thuần nông với 94% dân số sống ở nông thôn là nơi có số lượng làng nghề tập trung đông, nhiều làng nghề truyền thống nổi tiếng. Các làng nghề đã có những đóng góp đáng kể vào quá trình phát triển kinh tế chung của toàn tỉnh. Tuy nhiên trong những năm gần đây mặc dù Nhà nước đã có những chính sách cho phép và khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh nhưng các làng nghề vẫn gặp rất nhiều khó khăn một số làng nghề bị mai một. Do đó chưa tạo điều kiện để thu hút hết lực lượng lao động cũng như sử dụng hết khả năng tay nghề của người thợ nhằm phát huy tối đa tiềm năng kinh tế vốn có của tỉnh.
Việc khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống cũng như các làng nghề mới có ý nghĩa vô cùng quan trọng không chỉ về mặt kinh tế mà về mặt ổn định chính trị xã hội.
Để góp phần vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội thực hiện CNH HĐH mà cụ thể là phát triển các làng nghề ở Thái Bình, cần phải nghiên cứu đưa ra được những giải pháp hữu hiệu đó chính là yêu cầu của đề tài "Một số giải pháp nhằm phục hồi và phát triển các làng nghề ở tỉnh Thái Bình".
Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
Làm rõ cơ sở khoa học và thực tiễn của việc phát triển các làng nghề ở vùng nông thôn.
Phân tích đánh giá thực trạng của các làng nghề, tìm ra những thuận lợi và khó khăn của làng nghề.
Trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nhằm phát triển làng nghề tạo thêm nhiều chỗ làm cải thiện đời sống người nông dân.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu tình hình sản xuất kinh doanh và hiệu quả của các làng nghề thông qua các số liệu đã điều tra.
Phạm vi nghiên cứu: Vùng nông thôn tỉnh Thái Bình trong đó tập trung vào một số làng nghề tiêu biểu các tư liệu, số liệu được thu thập từ 1991 - 2000.
Phạm vi nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu chuyên đề có sử dụng các phương pháp sau:
+ Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
+ Phương pháp phân tích tổng hợp.
+ Phương pháp thống kê kinh tế, điều tra chọn mẫu....
Tên và kết cấu chuyên đề:
+ Phần mở đầu
+ Chương I Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát triển các làng nghề ở nông thôn.
+ Chương II Thực trạng về các làng nghề ở nông thôn tỉnh Thái Bình.
+ Chương III Định hướng và một số giải pháp phát triển làng nghề ở Thái Bình.
+ Kết luận và kiến nghị
Chương I
Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát triển các làng nghề ở nông thôn.
I. Các khái niệm và đặc trưng của làng nghề
1.Các khái niệm:
- Làng nghề
Lịch sử nông thôn việt nam gắn liền với các thôn làng và các làng nghề chúng là đặc trưng cho truyền thống kinh tế văn hoá của xã hội thông thôn các làng nghề là cầu nối giữa công nghiệp và nông nghiệp giữa nông thôn và thành thị giữa truyền thống và hiện tại là nấc thang quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá ở nông thôn nước ta.
Nói đến làng nghề chúng ta cần chú ý 2 yếu tố cấu thành đó là làng và nghề. Làng là một khu vực địa lý một không gian lãnh thổ nhất định ở đó tập hợp những người dân cùng sinh sống cùng sản xuất. Các làng nghề gắn bó với các ngành nghề phi công nghiệp các ngành nghề thủ công ở các thôn làng.
Để nhận dạng làng nghề người ta sử dụng hai tiêu chí sau:
+ Tỷ trọng số hộ làm nghề trong làng.
+ Tỷ trọng thu nhập từ nghề trong tổng thu nhập của làng.
Làng nghề là một khái niệm mang tính tương đối nó phụ vào chủ trương chính sách của từng địa phương.
ở Thái Bình theo quy định tạm thời làng (xã) nghề là một khu vực dân cư ở nông thôn tập hợp từ 50% số hộ nông dân trở lên làm nghề CN - TTCN dịch vụ thương mại có sản phẩm hàng hoá khá lớn tiêu thụ ở trong và ngoài nước có thu nhập ít nhất chiếm 30% tổng thu nhập của làng (xã).
Nói tới làng nghề người ta thường chỉ chú ý đến làng nghề truyền thống mà ít liên hệ đến làng nghề mới.
Làng nghề truyền thống là những làng nghề xuất hiện từ lâu đời trong lịch sử và còn tồn tại đến ngày nay, những làng nghề với những giá trị đặc sắc đã tồn tại hàng trăm năm thậm chí hàng ngàn năm. Các làng nghề truyền thống thường có nhiều thế hệ nghệ nhân tài hoa, có bí quyết nghề nghiệp và đặc biệt là tạo ra những sản phẩm tiêu biểu độc đáo cho Việt nam có giá trị, chất lượng cao, vừa là hàng hoá và là sản phẩm văn hoá nghệ thuật.
Ngày nay khi nền kinh tế ngày càng phát triển các làng nghề mới hình thành ngày một nhiều. Chúng được hình thành do sự lan toả của các làng nghề truyền thống và sự ra đời của những ngành nghề mới.
Các làng nghề ra đời ban đầu là nhằm giải quyết dư thừa lao động lúc nông nhàn ở nông thôn, sau này một số làng nghề phát triển mạnh mà tách dần ra khỏi nông nghiệp. Chính vì thế mà trong các làng nghề hiện nay thường cùng tồn tại ba loại hộ là hộ thuần nông, hộ kiêm nghề, hộ chuyên nghề và cơ sở chuyên ngành nghề nông thôn.
Hộ nông nghiệp thuần là những hộ có toàn bộ hoặc phần lớn lao động tham gia sản xuất nông lâm ngư nghiệp, đó cũng là nguồn sống của những hộ này.
Hộ kiêm là những hộ vừa làm nông nghiệp vừa làm ngành nghề. Đây là loại hộ nhiều ở các vùng nông thôn tỉnh Thái bình
Hộ chuyên là những hộ có toàn bộ hoặc phần lớn lao động trong hộ cũng như thuê thêm lao động ngoài tham gia các ngành nghề phi nông nghiệp và đây cũng chính là nguồn thu chủ yếu cuả họ. Các hộ chuyên có thể có đất nông nghiệp song sản xuất nông nghiệp chỉ là thứ yếu.
Bên cạnh đó các hình thức tổ chức sản xuất mới cũng không nghừng được hình thành đó gọi chung là các cơ sở ngành nghề. Cơ sở chuyên ngành nghề nông thôn là những cơ sở ở nông thôn chuyên các hoạt động sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp đã được cấp đăng ký kinh doanh theo luật định.
Phân loại theo thành phần kinh tế cơ sở chuyên nghề được chia thành 5 nhóm: Tổ hợp sản xuất, hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân, Công ty TNHH và xí nghiệp quốc doanh. Các cơ sở chuyên nghề hình thành ngày càng nhiều với vai trò quan trọng trong phát triển ngành nghề nông thôn.
Đồng thời cùng với sự thăng trầm của làng nghề số lượng hộ, lao động cũng có biến động rất mạnh mẽ với những nghề phát triển mạnh số hộ, lao động làm nghề tăng nhanh và ngày càng có nhiều hộ chuyên sống bàng nghề đó. Cũng có những nghề truyền thống bị mai một số người làm nghề ngày càng giảm thậm chí chỉ còn một vài hộ làm nghề cũ đa số các hộ chuyển sang làm nghề khác, nhưng khi có điều kiện thuận lợi để khôi phục và phát triển trở lại nghề cũ chắc chắn họ sẽ tiếp tục làm và phát triển nghề truyền thống mà nhiều đời họ đã lưu truyền và dìn giữ. Như vậy không chỉ căn cứ vào số hộ lao động làm nghề nhiều hay ít để xác định có phải là làng nghề truyền thống hay không mà còn phải dựa vào thực tiễn lịch sử phát triển của địa phương đó để xem xét.
Ngoài ra người ta còn có khái niệm về làng một nghề và làng nhiều nghề để chỉ số nghề tiểu thủ công nghiệp mà số làng này làm và chúng có đóng góp đáng kể vào thu nhập của họ ngoài nghề nông.
2.Đặc trưng của làng nghề:
Hầu hết các làng nghề tiêu thủ công nghiệp đòi hỏi vốn đầu tư sản xuất không lớn tạo ra được nhiều chỗ làm tại địa phương.
Đây là một thuận lợi có bản để các ngành nghề phát triển trong điều kiện còn nhiều khó khăn về vốn, về kiến thức sản xuất kinh doanh.
Các làng nghề truyền thống thường có bí quyết gia truyền và có một vị tổ nghề riêng. Trước đây phương thức truyền nghề chủ yếu là ở phạm vi gia đình theo những quy định nghiêm ngặt. Tuy nhiên từ sau khi thực hiện cải cách công thương nghiệp phương thức dạy nghề và truyền nghề trở nên đa dạng và phong phú hơn. Theo kết quả khảo sát 1995 của Trung tâm dân số và nguồn lao động tại vùng Đồng bằng sông Hồng cho thấy phương thức truyền nghề trong phạm vi gia đình chiếm 31,81%, tự học 27,24%, tự nhận đào tạo 13,28% địa phương (huyện xã) đào tạo chiếm 10,16% Nhà nước đào tạo chiếm 0,78%.
Thời gian dạy nghề đối với các nghề rất khác nhau một số nghề có thời gian đào tạo ngắn như nhóm các nghề mây tre đan, chế biến lương thực thực phẩm... các nghề cần thời gian học việc dài hơn là nghề mộc chạm bạc, gốm sứ...
Một nét chung trong đào tạo thợ cho các làng nghề truyền thống là hầu hết người thợ phải vừa học vừa làm và thông qua việc đó mà học hỏi được kỹ thuật, củng cố tay nghề cho mình.
Sản phẩm của các làng nghề thủ công truyền thống chứa đựng những giá trị văn hoá nghệ thuật đặc sắc.
Các sản phẩm của nghề gốm sứ, chạm khắc dệt vải dệt lụa... trước hết đó là những vật phẩm nhằm thoả mãn yêu cầu sử dụng của con người nhưng trên đó là giá trị về bản sắc văn hoá của cả một dân tộc. Sản phẩm thủ công truyền thống Việt nam bao giờ cũng phản ánh sâu sắc tư tưởng tình cảm và quan niệm thẩm mỹ của dân tộc Việt nam. Một đặc thù khác quan trọng của hàng thủ công truyền thống là tính cá biệt, tính riêng mang phong cách của mỗi nghệ nhân và nét địa phương tồn tại trong sự giao lưu với cộng đồng.
Yếu tố văn hoá đậm nét của hàng thủ công truyền thống đã tạo nên vị trí quan trọng của các sản phẩm này trên thương trường và giao lưu quốc tế.
Trong điều kiện toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới như hiện nay sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt nếu phải xem xét để tìm ra được những sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế của những nước đang phát triển như Việt nam thì trên hết phải kể đến sản phẩm các làng thủ công truyền thống.
II. Phân loại làng nghề
1. Phân theo lịch sử tồn tại và phát triển:
Theo tiêu chí trên người ta phân chia các làng nghề thành làng nghề truyền thống và làng nghề mới.
Chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã tạo ra một sức sống mới cho các làng nghề. Rất nhiều làng nghề trước đây bị mai một nay đã bắt đầu phát triển và lan rộng ra các nơi khác. Theo số liệu thống kê cả nước hiện có trên 1400 làng nghề trong đó ĐBSH là nơi tập trung đông nhất tới trên 700 làng nghề với khoảng 200 làng nghề truyền thống thu hút gần 600.000 lao động.
Bảng 1: Làng nghề và lao động ĐBSH (1998)
Thái Bình
Tổng số
Truyền thống
Mới
Lao động
làm nghề
Thái Bình
82
14
68
88.505
Ninh Bình (*)
161
20
141
87.221
Nam Định
90
29
61
52.132
Hà Nam
37
16
21
38.802
Hải Dương
42
30
12
34.440
Hưng Yên
39
11
28
22.391
Hải Phòng (**)
80
15
65
33.762
Hà Nội (***)
40
20
20
68.679
Hà Tây
88
20
68
113.956
Tổng
731
215
516
594.303
Nguồn : Báo cáo tổng hợp của các ban kinh tế, sở công nghiệp, sở nông nghiệp các tỉnh.
(*) Số liệu của NB là những làng có nghề
(**) Số liệu của HP gồm 26 xã điêu tra
(***) Số liệu của HN chỉ gồm 4 huyện ngoại thành
2. Phân chia theo chức năng và công dụng của sản phẩm
Nhóm I: bao gồm các nghề gốm sứ, sơn mài thêu rèn, thảm, chạm khắc gỗ chạm mạ vàng bạc, dệt tơ tằm, thổ cẩm mây tre đan các loại. Đây là những làng nghề thủ công mỹ nghệ có sản phẩm được ưa chuộng không những trong mà cả ngoài nước.
Nhóm II: Các làng nghề sản xuất các mặt hàng phục vụ tiêu dùng thông thường gồm dệt chiếu, làm nón, đan mành rổ rá bồ sọt, dệt vải các loại. Đây là những làng nghề mà sản phẩm của chúng đang bị chèn ép lớn do sự phát triển của khoa học công nghệ của vật liệu mới...
Nhóm III: Gồm các làng nghề làm thuốc và chế biến lương thực thực phẩm: Làm bún, bánh, làm đường, làm mật...
Nhóm IV: Các làng nghề phục vụ cho sản xuất và đời sống như nề, mộc rèn, hàn đúc làm cây bừa...
Việc phân loại như trên chỉ mang tính tương đối bởi lẽ một số nghề có thể vừa thuộc nhóm này lại vừa thuộc nhóm khác. Một số nghề đối với địa phương cơ sở được coi là nghề truyền thống nhưng trên phạm vi vĩ mô thì có thể chưa được coi là làng nghề truyền thống.
Ngoài ra để thuận tiện cho quản lý người ta còn thực hiện phân chia làng nghề theo địa giới hành chính, tỉnh, huyện, xã.
III. Vai trò của các làng nghề trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
1.Tính tất yếu của việc hình thành làng nghề ở nông thôn:
- Phát triển ngành nghề ở nông thôn là vấn đề mang tính lịch sử. Từ xa xưa khi sản xuất còn giản đơn, việc sản xuất và mua bán các sản phẩm công nghiệp chưa phát triển sản xuất nông nghiệp là chủ yếu và thời điểm nông nhàn người nông dân tự sản xuất ra các đồ dùng sinh hoạt chogia đình, bản thân. Khi lực lượng sản xuất phát triển hơn bắt đầu có phân công lao động xã hội sự trao đổi hàng hoá đã dần dần hình thành nên các làng nghề để trao đổi sản phẩm cho nhau. Những hoạt động đó dần dần được đúc kết lại lưu truyền qua các thế hệ và trở thành các ngành nghề truyền thống ở nông thôn. Cùng với những kỹ thuật truyền thống và nguồn nguyên liệu sẵn có ở địa phương các ngành nghề phát triển mạnh và có mối quan hệ chặt chẽ với các hoạt động kinh tế xã hội ở địa phương đặc biệt là sản xuất nông nghiệp.
Nước ta là một nước nông nghiệp có đến 80% dân số ở nông thôn, một đặc điểm lớn của nghề nông là tính thời vụ và thu nhập thấp. Hàng năm người nông dân sau những mùa cấy gặt vất vả là lúc nông nhàn. Diện tích đất bình quân đầu người ngày càng thấp đã khiến cho tình trạng thất nghiệp trở nên trầm trọng. Hơn nữa lao động nông nghiệp chủ yếu là lao động chân tay không kỹ năng lao động, không có tay nghề, chính vì thế để tạo việc làm cho lực lượng này không gì hơn là phát triển các ngành nghề ngay tại địa phương. Do yêu cầu của vấn đề việc làm, thu nhập cùng với các điều kiện sẵn có ở địa phương mà đã hình thành nên các làng nghề. Tuy nhiên để các làng nghề tồn tại phát triển được còn phải dựa vào nhiều nhân tố khác nữa.
-Trong đíều kiện của một nền kinh tế còn nhìều yếu kém với tiềm lực về khoa hoc, công nghệ còn hạn chế, vốn thiếu, lao động dư thừa nhiều chưa có khả năng tiến thẳng lên nền đại công nghiệp thì phải chú trọng phát triển tiểu thủ công nghiệp coi đó là một bước song song với tích luỹ tạo tiềm lực cho CNH HĐH.
Cùng với quá trình phân công lao động xã hội bộ phận lao động TTCN sẽ được giải phóng tách hẳn ra khỏi nông nghiệp., từ đó công nghiệp nông thôn ngày càng lớn mạnh góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.
2. Vai trò của làng nghề
Sự phát triển của các làng nghề có tác dụng rất mạnh mẽ đối với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Thứ nhất: Hình thành loại hình sản xuất có tính chất công nghiệp ngay tại địa bàn nông thôn bên cạnh hoạt động nông nghiệp. Để hoạt động có hiệu quả bắt buộc các làng nghề phải áp dụng việc tổ chức sản xuất một cách khoa học dựa trên sự phân công và hợp tác lao động phù hợp với từng loại hình nghề nghiệp. Sự phân công hợp tác đó có thể là đơn giản như nghề (mây tre đan, thêu ren) có thể phức tạp như (rèn mộc chạm khắc) các trang thiết bị mới hiện đại thay thế dần sức lao động cũng được ưu tiên sử dụng. Như vậy sự phát triển của các làng nghề cũng là sự phát triển của công nghiệp địa bàn nông thôn làm cho nông thôn phát triển dần theo hướng CNH HĐH.
Thứ hai: Phát triển làng nghề sẽ giải quyết tốt nhu cầu việc làm tại chỗ góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Thực tế cho thấy ở những làng nghề đã được khôi phục và phát triển không chỉ lực lượng lao động trong từng hộ gia đình của điạ phương được toàn dụng mà có khi còn giải quyết được việc làm cho nhiều lao động ở nơi khác đến. Đáng chú ý là làng gốm sứ bát tràng hàng ngày thu hút thêm từ 3000-5000 lao động từ nơi khác đến làm thuê. Làng mộc mỹ nghệ cao cấp Đồng ky có 1550 hộ sản xuất với trên 3000 lao động ngoài ra còn thuê thêm hơn 1500 lao động từ các làng khác. Làng nghề chiếu cói, kim sơn đã sử dụng một lượng lớn lao động trong đó có 2000 lao động sản xuất nguyên liệu và 9679 lao động sản xuất các mặt hàng cói. Làng nghề dệt Vạn Phúc (Hà tây) có 1650 lao động nghề chiếm 72,3% lực lượng lao động của làng.... Nhờ có công ăn việc làm ổn định nên thu nhập của những làng nghề cao hơn hẳn các làng không nghề khác. Tuy nhiên, tuỳ theo từng loại nghề và mức độ phát triển của từng loại nghề mà mức thu nhập giữa chúng có sự chênh lệch đáng kể.
Bảng 2: Thu nhập bình quân lao động / tháng ở 1 số làng nghề.
STT
Ngành nghề
Thu nhập bình quân
1
Lao động làng gốm (Bát tràng)
430.000đ
2
Thợ điêu khác gỗ (Hà Tây)
800.000đ
3
Thợ chạm bạc (Đông Xâm-Thái Bình)
200.000đ
4
Thợ dệt đũi (Nam Cao – Thái Bình)
180.000đ
Nguồn : kết quả điều tra ngành nghề nông thôn 1997
Các làng nghề góp phần đáng kể vào sự gia tăng giá trị sản phẩm của các địa phương, cơ cấu kinh tế có bước chuyển đổi rõ rệt.
Năm 1995 tổng doanh thu từ nghề gỗ mỹ nghệ của làng Đồng kỵ đạt 25 tỷ, thu từ sản phẩm thêu Minh Lãng (Vũ thư - Thái Bình) đạt trên 4 tỷ đồng.
ở Tân lễ (Hưng hà - Thái bình) nơi có truyền thống dệt chiếu thu từ công nghiệp và dịch vụ đã chiếm trên 83% tổng giá trị sản lượng, tỷ lệ hộ khá và giàu chiếm 78% trong tổng số hộ của địa phương.
ở những làng nghề có tốc độ phát triển cao tỷ lượng lao động cũng có những chuyển biến tích cực.
Bảng 3: Tỷ trọng lao động ở 1 số làng nghề tỉnh Bắc Ninh (%)
Tên
Làng
Ngành
Dương ổ
Đa hội
Đồng kỵ
Lao động CN - TTCN
66
79,4
68,5
Lao động dịch vụ
5,2
6,5
1,7
Lao động nông nghiệp
28,8
14,1
29,8
Ba là: Phát triển làng nghề tạo điều kiện thúc đẩy sự nghiệp xây dựng nông thôn mới hiện đại. Việc xây dựng nông thôn mới hiện đại là mục tiêu lớn của sự nghiệp CNH HĐH theo tinh thần của Đại hội Đảng lần thứ VIII văn kiện nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII đã đặt CNH HĐH nông nghiệp nông thôn là nội dung đầu tiên và ghi rõ "Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội từng bước hình thành nông thôn mới văn minh hiện đại".
Muốn xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội ở nông thôn rộng lớn của nước ta đòi hỏi phải nguồn vốn rất lớn mà chỉ Nhà nước thì không thể làm được. Thu nhập được tạo ra từ các làng nghề, từ ngành nghề nói chung sẽ là nguồn vốn quan trọng cho sự nghiệp này. Qua nghiên cứu tìm hiểu ở một số làng nghề chúng tôi thấy ở đây không chỉ đời sống của đồng bào được nâng cao, cơ sở vật chất tốt hơn mà điều kiện chính trị xã hội cũng rất ổn định, đây chính là cơ sở cho sự phát triển của địa phương của tỉnh và cả nước.
Ngoài những tác động tích cực đến nông nghiệp nông thôn chúng ta cũng không thể không xem xét các ảnh hưởng xấu về môi trường đề có những hướng giải quyết trong các chương trình phát triển, bảo đảm cho sự phát triển bền vững.
IV. Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển của làng nghề.
1. Điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý:
- Điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng trực tiếp đến việc sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm sản xuất do đó nó ảnh hưởng lớn đến việc phát triển các ngành nghề. Mỗi vùng với điều kiện khí hậu thời tiết đặc trưng tạo nên những nguồn nguyên liệu cho các làng nghề khác nhau, hầu hết các sản phẩm thủ công truyền thống đều nhằm phục vụ đời sống của người dân mà mỗi nơi người dân có những nhu cầu khác nhau cho phép phát triển những ngành nghề khác nhau VD: vùng ĐBSH có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa có 4 mùa xuân, hạ, thu, đông. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến ngành may mặc, ngành dệt len, chế biến lương thực và một số ngành khác ngoài ra nó còn ảnh hưởng tới việc vận chuyển bảo quản phơi sấy, đi lại, giao dịch buôn bán…. Đất đai cũng là nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển của làng nghề nhất là việc thành lập các cơ sỏ ngành nghề , các cụm công nghiệp tập trung ở nông thôn
- Vị trí địa lý là một yếu tố rất quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự hình thành và phát triển và đảm bảo sự , phát triển lâu dài đối với các ngành nghề đặc biệt là các ngành nghề truyền thống.
Thực tế cho thấy các làng nghề thường ở vị trí thuận trên về giao thông thuỷ bộ, gần nguồn nguyên liệu. ở những nơi lưu vực Sông Hồng, Sông Mã, Sông Cầu.... đã quần tụ nhiều làng nghề tạo thành các trung tâm sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. Hàng làm ra cần tiêu thụ ở nhiều tỉnh xa thậm chí ở hầu hết các địa phương trong cả nước mà xuất khẩu sang các nước khác yêu cầu vận tải lớn đó không thể thiếu đường bộ, đường sông, đường biển. Các cụ tổ nghề nhất định là ngay từ đầu đã quan tâm đến yếu tố "bến sông, bãi chợ" vốn có ấy để quyết định mở nghề lập nghiệp ở một nơi. Các cụ còn quan tâm đến nguồn nguyên liệu thích hợp cho yêu cầu sản xuất lâu dài, nhất là nguyên liệu tại chỗ. Bởi cho dù các cụ có lựa chọn làng nào có đức để truyền nghề thì thực sự dân làng nào cũng có thể đào tạo thành thợ được chứ vị trí địa lý giao thông vận tải và nguồn nguyên liệu tại chỗ có sẵn cho sản xuất và tiêu thụ hàng làm ra thì không thể tạo ra được, nhiều khi không thể muốn là được có thể khẳng định rằng nếu thiếu hai điều kiện (nguyên liệu, bến sông) chắc chắn không thể tồn tại những làng nghề lâu đời và nổi tiếng như hiện nay
Phần lớn làng nghề ở nước ta làm nghề theo cấp độ là nghề phụ. Một số ít làng nghề khác đã lấy nghề thủ công làm nghề nghiệp chính phát triển nghề thủ công nghiệp đến mực thoát ly hẳn ngay tại làng quê mình thường diễn ra ở những làng nghề ít ruộng đất canh tác. Điều này giải thích tại sao ĐBSH lại là nơi có số lượng làng nghề tập trung đông nhất so với cả nước.
Trình độ phát triển kinh tế
- Nhu cầu của người tiêu dùng trên thị trường đối với hàng thủ công truyền thống nhu cầu này rất lớn và hết sức đa dạng thời nào cũng có không bao giờ chấm dứt. Nhìn chung đó là nhu cầu ăn, mặc ở đi lại, vận tải, học hành đó còn là nhu cầu chiến đấu bảo vệ đất nước và dân tộc, nhu cầu thờ cúng tôn giáo tín ngưỡng. Trong suốt tiến trình phát triển của lịch sử ở giai đoạn nào nhu cầu về tiểu thủ công nghiệp tăng thì làng nghề cũng tăng cả về quy mô và số lượng và ngược lại thu nhập càng tăng thì cần tăng tổ chức tiêu thụ sản phẩm.
Trong những năm vừa qua ngành tiểu thủ công nghiệp có nhiều biến động thăng trầm thị trường cũng có nhiều thay đổi nhất là sau sự sụp đổ của hệ thống XHCN nhưng cho đến ngày nay cùng với sự cải tiến về mẫu mã chất lượng sản phẩm đặc biệt là chủ trương mở rộng quan hệ ngoại giao của Đảng và Nhà nước ta đã tạo đà cho ngành tiểu thủ công nghiệp có bước phát triển đáng kể. Tuy nhiên, một số mặt hàng tiêu dùng trong nước trước đây do ngành nghề thủ công sản xuất và cung cấp song nay do công nghiệp phát triển đã tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao hơn phù hợp với nhu cầu người dân khiến nhiều làng nghề thủ công nghiệp đã phải thu hẹp dần quy mô sản xuất hoặc chuyển sang làm nghề khác VD: làm nón, quạt và một số nghề đan lát....
Trình độ của nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề.
Cần phải khẳng định rằng vai trò của nghệ nhân đối với nghề và làng nghề thủ công truyền thống là rất lớn. Không có nghệ nhân thì không có làng nghề hay ít nhất cũng không thể có làng nghề lừng danh. Chính tài năng của các nghệ nhân với đôi "bàn tay vàng" của họ đã tạo nên những sản phẩm quý giá, tinh xảo và độc đáo những sản phẩm văn hoá sống mãi với thời gian, góp phần làm vẻ vang cho dân tộc và cho mỗi làng nghề. Chính nghệ nhân, thợ cả đã giữ cho làng nghề tồn tại đã đào tạo ra những nhóm thợ mà trước hết là con cháu của họ, những người trong gia đình, dòng tộc rồi đến con em trong làng thuộc các dòng họ khác. Kiên trì truyền dạy nghề hết ngày này qua ngàykhác theo lối "cầm tay chỉ việc", "vừa học vừa làm" các nghệ nhân đã tạo ra một đội ngũ thợ lành nghề ngay tại làng xóm mình. Cứ như thế thợ thủ công kế tiếp, đan xen nhau lớp này đến lớp khác đời sau nối tiếp đời trước. Do đặc trưng sản xuất thủ công cả gia đình từ ông bà, anh em con cháu đến cùng làm nghề mỗi người mỗi việc cho nên cùng một lúc ở làng nghề thường có vài ba thế hệ thợ thủ công cùng sản xuất.
Kỹ thuật truyền thống và kinh nghiệm lâu đời.
Về kỹ thuật hầu hết các làng nghề đều sử dụng kỹ thuật truyền thống lâu đời của Việt nam trong sản xuất. Mỗi nghề đều có kỹ thuật sản xuất riêng, kỹ thuật ấy bao gồm nhiều công đoạn, từ khâu khai thác chế biến nguyên liệu đến khâu cuối cùng là hoàn thành sản phẩm để bán ra thị trường cho người tiêu dùng. Trong đó còn bao hàm cả thủ pháp nghệ thuật, tuy các làng nghề đều sử dụng kỹ thuật chung, nếu các làng nghề ấy đều làm một nghề nhưng từng công đoạn kỹ thuật thì mỗi nơi một khác. Làng nghề nào cũng biến cách ứng dụng kỹ thuật chung ấy theo cách tiêng của mình. Riêng thủ pháp nghệ thuật người ta còn tiến hành đa dạng hơn nữa, bởi mỗi nghệ nhân đều có thủ pháp nghệ thuật theo trình độ sáng tạo và kinh nghiệm của riêng mình. Điều đó giải thích tại sao làng nghề cụ thể này không thay thế được làng nghề kia, nghệ nhân này không thay thế được nghệ nhân khác mặc dù các làng ấy các nghệ nhân ấy đều làm một nghề và sản xuất ra những sản phẩm cùng loại sự phát triển của khoa học công nghệ ngày nay vô cùng nhanh chóng thay thế sức lao động của con người ở nhiều công việc nặng nhọc làm tăng hiệu quả của các làng nghề VD: máy móc trong nghề mộc, vi tính trong thiết kế mẫu và vẽ hoạ tiết nghề thêu...
Vốn cho sản xuất
Vốn là một yếu tố quan trọng của 1 nền sản xuất hàng hoá trong các làng nghề nhu cầu về vốn phát triển sản xuất kinh doanh cũng rất khác nhau giữa các đối tượng, các thành phần kinh tế thông thường các doanh nghiệp càng lớn thì nhu cầu về vốn càng nhiều, các hộ gia đình và cá thể người lao động thì nhu cầu về vốn không lớn lắm.
Mặc dù những năm gần đây chúng ta có một số loại vốn cho vay để phát triển sản xuất và giải quyết việc làm như vốn từ Quỹ quốc gia giải quyết việc làm, vốn cho địa phương thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, vốn xoá đói giảm nghèo. Nhưng số lượng và tỷ lệ các hộ được vay vốn trong các làng nghề còn ít ỏi trong khi nhu cầu vay vốn là rất lớn đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát triển chỗ làm việc mới như đầu tư theo chiều sâu của các doanh nghiệp trong các làng nghề.
Thực tiễn trong một số nghề cho thấy nếu đáp ứng được nhu cầu về vốn và có chính sách hỗ trợ hơn nữa đối với người sản xuất thì chắc chắn sẽ phát triển mạnh được sản xuất, giải quyết tốt được công ăn việc làm cho người lao động của các địa phương và cơ sở.
Điều kiện xã hội.
- Sự phân bố và tập trung số lượng làng nghề nhiều ở vùng ĐBSH cho thấy một độ dân số cao là một trong những điều kiện cho việc ra đời các ngành nghề bởi nhu cầu việc làm. Do dân số quá đông diện tích đất đai để sản xuất lại ít dẫn đến vấn đề giải quyết tình trạng thất nghiệp điều đó thúc đẩy việc hoàn thành và phát triển các làng nghề.
- Trình độ dân trí và tay nghề của người lao động: Một địa phương có trình độ phát triển cao sẽ có các nội lực mạnh như vốn: khoa học công nghệ, trình độ quản lý....đó là những yếu tố quyết định sự lớn mạnh của các làng nghề trong kinh tế thị trường ngày nay. Trình độ dân trí sẽ ảnh hưởng tới sự nhận thức, tiếp thu mỹ thuật của các ngành nghề, ảnh hưởng đến việc quản lý phục hưng, tái chế và phát triển các làng nghề, ngành nghề.
Chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Để đảm bảo phát triển nghề này sinh nhiều làng nghề mới đã đào tạo được nhiều thợ trẻ trong cả nước cũng như đảm bảo cho các làng nghề phát triển bền vững nhất thiết phải có hệ thống chính sách và pháp luật của Nhà nước. Sự quan tâm phát triển hàng tiêu dùng nội hoá và hàng xuất khẩu thời pháp thuộc từ những năm 30, đặc biệt là sau năm 1954 dưới chế độ ta đã tạo nên nhiều thuận thợi để các làng nghề phát triển sản xuất nhiều mặt hàng truyền thống. Nhưng chính ở đây bên cạnh những mặt tích cực còn bộc lộ những nhược điểm cơ bản kìm hãm sự phát triển. Đó là qua nhiều năm tiến hành phát triển ồ ạt hàng thủ công mỹ nghệ xuất sang Liên xô và các nước Đông Âu một cách dễ dàng đã nảy sinh tệ làm hàng kém chất lượng các nghệ nhận biến thành thợ gia công...khi tình hình quốc tế có nhiều biến động thị trường rộng lớn ấy không còn nữa có chế bao cấp bị xoá bỏ đó là lúc thợ thủ công cả nước bị lao đao.
Chỉ các làng nghề năng động trong sản xuất kinh doanh biết cách kế thừa mỹ thuật và kinh nghiệm cổ truyền cải tiến mẫu mã nâng cao chất lượng sản phẩm tìm kiếm thị trường quốc tế là trụ vững được và tiếp tục phát triển ngày càng mạnh.
Hàng loạt chính sách, chỉ thị, nghị quyết pháp lệnh và luận của Đảng và Nhà nước ta đựơc ban hành. Đặc biệt là nghị quyết của Bộ chính trị về khoa học kỹ thuật và văn hoá nghệ thuật và nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCH Trung ương văn hoá VII (1993) đã nêu lên phương hướng phát triển kinh tế văn hoá xã hội và khoa học kỹ thuật của đất nước chủ trường "Hiện đại hoá CN truyền thống và truyền thống hoá CN hiện đại của Đảng cũng như việc thể chế hoá hàng loạt pháp lệnh (như luật doanh nghiệp, luật đầu tư, luật khai thác và sử dụng tài nguyên....) đã tạo pháp lý cho các nghề và làng nghề phát triển.
Môi trường thể chế - chính sách và pháp luật Nhà nước có ý nghĩa quyết định và trực tiếp tác động đến sự phát triển bền vững đối vơí các làng nghề. Chúng ta đang xây dựng một Nhà nước pháp quyền Nhà nước đã rất quan tâm đến nghề và làng nghề truyền thống coi đó là bộ phận quan trọng cấu thành nền kinh tế, vanư hoá và xã hội phát triển theo hướng CNH, HĐH trên phạm vi cả nước.
Các nhân tố khác.
Ngoài các nhân tố trên còn có nhiều nhân tố khác cũng ảnh hưởng tới sự phát triển của các làng nghề như hương ước, quy chế của.....
Trong hàu hết các hàng thủ công lâu đời nổi tiếng ở nước ta đều có quy chế về nghề thủ công hoặc thành văn bản hoặc không thậm chí ở mỗi phường nghề tỏng cùng một nghề ở cùng một làng cũng có quy chế tiêng dưới dạng "lời thề", "lời nguyền".
Trước kia ở các làng, các xã điển hình là ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, hương ước và quy chế được là những văn bản pháp lý chúng được mặc nhiên thừa nhận và tồn tại song song với hệ thống pháp luật của Nhà nước phong kiên trung ương.
Trong bối cảnh lịch sử đó các phường nghề, hội nghề gia tộc làm nghề thủ công cũng soạn ra các văn bản về nghề nghiệp gọi là "lời thề", "lời nguyền"....Những quy chế này được truyền từ đời này sang đời khác bắt buộc các thành viên trong gia độc, trong phường hội nhất nhất tuân theo thực hiện 1 cách khá nghiêm ngặt.
Những quy định trong làng nghề phường nghề tộc nghề...là những biện pháp giữ bí mật và bí quyết nghề nghiệp của những người thợ ở các làng nghề thủ công cổ truyền. Điều đó các tác dụng tích cực đối với việc duy trì lâu dài hoạt động sản xuất của mỗi làng nghề. Nhưng chính sự tuyệt đối bí mật mang tính độc quyền đã làm kìm hãm sự phát triển nghề nghiệp trong phạm vi cả nước.
Chỉ sau này khi các trường dạy nghề mở ra các khoá học thực hành ngắn hạn, dài hạn đã tạo nên những thợ trẻ cho nhiều tỉnh, thành phố thì tình hình hạn chế nói trên có thay đổi tích cực hơn.
IV. Kinh nghiệm phát triển tiểu thủ công nghiệp ở một số nước trong khu vực và thực tiễn vận dụng vào Việt nam
Phát triển tiểu thủ công nghiệp ở Thuỵ điển
._.Tiểu thủ công nghiệp ở Thuỵ điển phát triển trong điều kiện công nghiệp đã lớn mạnh. Năm 1902, Liên đoàn tiểu thủ công nghiệp của Thuỵ điển ra đời dưới hình thức tư nhân, có nhiệm vụ đại diện cho các hiệp hội và địa phương trong quan hệ giao dịch với Nhà nước. Năn 1922, Liên đoàn lập học viện Cao đẳng đào tạo nghề nghiệp cho tiểu thủ công nghiệp nhằm chế tạo thiết bị mới, kỹ thuật mới, sản phẩm mới
Về vốn, năm 1934 đã cho thành lập công ty quỹ tín dụng để tài trợ vốn cho tiểu công nghiệp, cấp vốn lâu dài cho việc xây dựng và hiện đại hoá cơ sở. Một nửa vốn của công ty là của Nhà nước một nửa klà sự đóng góp của 16 ngân hàng
Năm 1942 Học viện được chuyển cho chính phủ quản lý. Năm được đổi tên là Học viện Quốc gia các ngành nghề tiểu công nghiệp Thuỵ điển, đặt dưới quyền quản lý của một Hội đồng quản trị. Liên đoàn có 45000 thành viên , hoạt động trong 40 hiệp hội trong thương nghiệp, 450 hội viên địa phương . Liên đoàn cung cấp dịch vụ cho từng cơ sở, từng thành viên, giúp đỡ về mặt luật pháp,về sản xuất, về quản lý, tổ chức nghiên cứu và đào tạo nghề nghiệp. Theo sự đề nghị của Liên đoàn tiểu thủ công nghiệp quỹ hàng năm cần khoảng 1 triệu USD. Nhà nước đài thọ 1/3 còn 2/3 do sự đóng góp và thu nhập từ dịch vụ của Học viện. Học viện còn có phòng thí nghiệm, có máy móc và dụng cụ nghiện cứu, chế tạo nguyên vật liệu, các xưởng thí nghiệm…
Quá trình phát triển tiểu thủ côg nghiệp của ấn Độ
Lúc đầu ấn độ chỉ quan tâm tới công nghiệp lớn mà ít quan tâm tới tiểu công nghiệp. Nhận thức được thiếu sót này Chính phủ đã tổ chức chương trình phát triển tiểu thủ công nghiệp do uỷ viên tiểu công nghiệp chính phủ liên bang phụ trách, trực thuộc là một mạng lưới các Viện dịch vụ gọi tắt là SISO, lúc đầu có 4 Viện sau thành lập 16 Viện trong 16 bang.
Đến năm 1960 chương trình đã xây dựng được 36.457 cơ sở tiểu công nghiệp, sử dụng 1.337.000 người ( chiếm 38% công nhân công nghiệp: 17% vốn cố định, 26% giá trị tăng thêm trong công nghiệp). Ngoài ra toàn liên bang còn 4,2 triệu người làm tiểu côg nghiệp không đăng ký . Cũng trong thời gian đó Chính phủ quyết định thành lập Viện phổ biến và đào tạo tiểu công nghiệp, lấy tên là SIET
Sự nỗ lực về nhiều mặt đã đưa nền tiểu công nghiệp lên vị trí chiến lược đối với nền kinh tế quốc dân và Chính phủ ấn độ đã xây dựng được một hệ thống tổ chức chuyên ngành có khả năng phát triển tiểu công nghiệp vững chắc lâu dài trên phạm vi cả nước
Kinh nghiệm của Đài loan
Đài loan đã có chủ trương ngay từ đầu là xây dựng các xí nghiệp công nghiệp nhẹ bố trí phân tán ở các huyện lỵ , thị trấn rải rác ở các vùng nông thôn gần địa bàn nguyên liệu. Sự hình thành và phát triển các xí nghiệp vữa và nhỏ phân tán ở nông thôn là một đặc trưng của công nghiệp hoá nói chung và công nghiệp hoá nông thôn nói riêng ở Đài loan. Côg nghiệp phân hoá ở nông thôn đã thu hút được lao động dư thừa làm cho nhiều hộ từ thuần nông trở thành vừa làm nông nghiệp vừa làm công nghiệp, dịch vụ. ở Đài loan công nghiệp nông thôn bao gồm các ngành nghề trung, tiểu thủ công nghiệp, các làng nghề cổ truyền, các xí nghiệp gia đình sản xuất chế biến lương thực thực phẩm theo công nghệ cổ truyền và các mặt hàngh thủ công mỹ nghệ phục vụ du lịch và xuất khẩu, các xí nghiệp vệ tinh liên doanh với các xí nghiệp lớn ở đô thị. Sự phát triển của công nghiệp nông thôn đã cho phép Đài loan nhanh chóng thực hiện được mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá nông thôn
Kinh nghiệm của INDONEXIA
- Chính phủ Idonexia đã đề ra chương trình phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn trong các kế hoạch năm năm. Từ xây dựng các xưởng và trung tâm để bán sản phẩm tiểu thủ công nghiệp đến thực hiện các dự án hướng dẫn phát triển công nghiệp nhỏ nhằm giáo dục đào tạo mở rộng các hoạt động sản xuất tiểu thủ công nghiệp của các doanh nghiệp nhỏ rồi tổ chức ra một cơ quan để quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ sản xuất kinh doanh và làm các dịch vụ cung cấp thiết bị vật tư, tiêu thụ sản phẩm. Chính phủ tổ chức ra trung tâm hỗ trợ công nghiệp nhỏ đặt mối quan hệ với công nghiệp lớn và chương trình nghiên cứu tiềm năng sản xuất và thị trường làm cơ sở cho việc phát triển công nghiệp nhỏ. Chính phủ đã đề ra chính sách thuế ưu tiên công nghiệp nhỏ chế biến nông sản xuất khẩu. Cùng với đề ra các chính sách Chính phủ đã tổ chức ra “ Hội đồng tiểu tủ công nghiệp Quốc gia Indonexia’ nhằm thúc đẩy ngành tiểu thủ công nghiệp phát triển nhanh tổ chức thi thiết kế mẫu mã, tổ chức hội chợ, triển lãm các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp và” Trung tâm phát triển tiểu thủ côg nghiệp” để quản lý, hỗ trợ tiểu thủ công nghiệp, kế hoạch phát triển tiểu thủ công nghiệp được lồng vào các chương trình đào tạo việc làm ở nông thôn. Ngoài ra chính phủ còn phát động chương trình giúp đỡ người nghèo do nhà nước đầu tư vốn để hỗ trợ các làng nghề truyền thống khôi phục và phát triển tạo thêm công ăn việc làm cho các hộ nông dân
4. Những kinh nghiệm có thể vận dụng vào Việt Nam
Qua kinh nghiệm tổ chức và phát triển tiểu thủ công nghiệp các nước nói trên ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau :
- Về cơ cấu ngành nghề sản xuất kinh doanh của công nghiệp nông thôn ở các nước rất đa dạng từ sản xuất dịch vụ, nghề cổ truyền và nghề mới với công nghệ thủ công nửa cơ khi và cỏ khí hoá. Công nghiệp nông thôn bao gồm nhiều ngành nghề khác nhau
- Về hình thức và quy mô cơ sở, xí nghiệp công nghiệp nông thôn ở mỗi nước cũng rất khác nhau. Tổ chức cơ sở công nghiệp nông thôn có các xí nghiệp gia đình của từng hộ riêng rẽ hoặc một số hộ đứng ra tập hợp các hộ nông dân trong xóm làm gia công theo hợp đồng xí nghiệp, hợp tác xã.Các ngành nghề cổ truyền chủ yếu dựa vào lao động thủ công, công nghệ thô sơ. Nhưng cũng có những ngành nghề thủ công mỹ nghệ cần tay nghề điêu luyện và sáng tạo của những nghệ nhân cao tay nghề cao. Để tăng năng suất các cơ sở ngành nghề đãtừng bước áp dụng máy móc vào thay thế sức lao động của con người
- Các nước đã đánh giá đúng vị trí chiến lược của tiểu thủ công nghiệp trong phát triển kinh tế và giải quyết việc làm cho lao động xã hội, từ đó xây dựng được chương trình phát triển toàn diện và tổ chức hệ thống quản lý toàn ngành có hiệu lực
- Các nước này đã rất coi trọng đầu tư chất xám cho (đào tạo cố vấn, cán bộ quản lý, xây dựng các dịch vụ cố vấn, phát triển các Viện nghiên cứu ngành nghề ): đầu tư vốn thích đáng cho phát triển ngành nghề ở nông thôn
- Một điều cần chú ý là nhà nước có vai trò cực kỳ quan trọng đối với phát triển công nghiệp tiểu thủ công nghiệp nông thôn bằng việc đề ra một hệ thống đồng bộ các chính sách có tác dụng khuyến khích từ nghiên cứu, dịch vụ, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm nhằm đảm bảo cho tiểu thủ công nghiệp phát triển
Phát huy tốt hiệu lực các văn bản pháp luật để bảo hộ và bảo vệ sản xuất tiểu công nghiệp
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong quá trình phát triển công nghiệp tiểu thủ công nghiệp nông thôn của các nước cũng bộc lộ những tồn tại đòi hỏi chúng ta cần nghiên cứu như:
Nảy sinh sự tranh chấp đất đai giữa công nghiệp tiểu thủ công nghiệp. Ngoài đất đai ra còn có sự tranh chấp về lao động, vốn giữa ngành này với ngành khác đặc biệt là lao động có tay nghề cao
Công nghiệp nông thôn nhiều nước gây ra ô nhiễm môi trường sinh thái. Công nghiệp tiểu thủ công nghiệp phát triển đã phá vỡ hệ sinh thái nông thôn bằng việc khai thác tài nguyên cũng như chất thải bừa bãi làm huỷ hoại môi trường thiên nhiên…
Chương II: Thực trạng về các làng nghề ở nông thôn tỉnh Thái Bình.
I. Những đặc điểm riêng của Thái Bình có ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển của các làng nghề.
Điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý
- Thái Bình là một tỉnh thuộc vùng ĐBSH nằm bên bờ biển Đông cách thủ đô Hà Nội 100Km giáp các tỉnh Nam Định, Hưng Yên và Hải Phòng. Với diện tích đất tự nhiên là 1537,8km2 chiếm 0,46% diện tích tự nhiên cả nước khí hậu nhiệt đới gió mùa.
Từ xa xưa Thái Bình đã là một vùng đất có dân cư đông đúc với các làng xã đặc trưng cho nông thôn Việt nam.
- Thái Bình có đường quốc lộ 10 đi qua nối Nam Định với Hải Phòng, Đường 39 từ Thái Bình đi Hưng Yên, Quảng Ninh, Hà Nội và các tỉnh phía Bắc. Ngoài ra còn có hệ thống đường giao thông nội tỉnh rất phát triển. Đường sông có Sông Hồng, sông Trà Lý, Sông Hoá, Sông Luộc, 5 cửa sông lớn với trên 50km bờ biển. Thái Bình là tỉnh có địa hình bằng phẳng nhất so với cả nước có hệ thống giao thông khá hoàn thiện làm cơ sở cho phát triển kinh tế - xã hội nói chung và làng nghề nói riêng.
- Do nhiều thuận lời về điều kiện tự nhiên nên nguồn nguyên liệu cho các nghề mây tre đan chế biến lương thực thực phẩm dồi dào đây là một nghề trước đây khá phổ biến ở Thái Bình.
Trình độ phát triển kinh tế:
Thái Bình là một tỉnh nông nghiệp mặc dù có trình độ thâm canh lúa nước khá cao song vẫn là một nền kinh tế trì trệ lạc hậu, trong cơ cấu GDP nông nghiệp vẫn giữ vai trò chủ yếu.
Bảng 4: Tỷ trọng các ngành trong GDP toàn tỉnh (%)
Cơ cấu GDP (gía hiện hành)
1990
1995
1999
Nông nghiệp
76,44
61,7
54,42
Công nghiệp
8,87
13
12,07
Dịch vụ
14,69
25,31
31,52
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Thái bình
Công nghiệp chiếm tỷ trọng quá nhỏ bé đây là một khó khăn đối với việc phát triển ngành nghề ở nông thôn. ở các nước công nghiệp phát triển thì các cơ sở ngành nghề nông thôn tồn tại với tư cách như là những vệ tinh cho công nghiệp đô thị.
Thu nhập bình quân của toàn tỉnh còn quá thấp công nghiệp phát triển chậm, các dự án đầu tư nước ngoài hầu như không đáng kể, nguồn thu chủ yếu của tỉnh hiện nay vẫn dựa vào nông nghiệp
Bảng 5: Thu nhập bình quân lao động/tháng
ĐV:1000 đ
19994
19995
19996
Thu nhậpbình quân chung
162
187
217
Thu nhập bình quân thành thị
205
237
280
Thu nhập bình quân nông thôn
156
180
208
Trong cơ cấu tổng thu nhập của hộ gia đình toàn tỉnh nói chung thu nhập từ nông lâm thuỷ sản chiếm tới 77,5% công nghiệp 3,5% dịch vụ 19%. Tỷ lệ người nghèo ở Thái Bình năm 1996 là 8,2%.Trong nguồn thu từ nông nghiệp thu từ trồng lúa luôn chiếm vị trí hàng đầu
Điều kiện văn hoá xã hội.
Thái Bình là một tỉnh đông dân theo thống kê 1999 Thái Bình có khoảng 1.787,903 người mật độ 1.163 người/km2 trong đó lao động nông nghiệp chiếm 83%, dân số sống ở nông thôn chiếm 94%. Diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người thấp chỉ khoảng 0,06ha/người. Tình trạng thất nghiệp khá trầm trọng nhất là vào thời gian nông nhàn, từng đoàn người kéo ra các thành phố lớn để tìm việc kéo theo sự di cư tự do đó là hàng loạt những vấn đề mà các thành phố lớn phải giải quyết.
Bảng 6: Tỷ lệ thất nghiệp
1994
1995
1996
Tỷ lệ thất nghiệp chung (%)
3,1
2,78
2,29
Nông thôn (%)
2,74
2,42
1,91
Thành thị (%)
9,49
8,64
8,69
Tỷ lệ sử dụng quỹ thời gian vào sản xuất trong năm ở nông thôn chỉ khoảng 70% như vậy vẫn còn 30% thời gian lao động bị bỏ lãng phí.
Theo số liệu điều tra suy rộng 1998 và 1999 trình độ học vấn của những người lao động trong độ tuổi ở Thái Bình là:
Mù chữ: 0,27%
Cấp I: 23,89%
Cấp II: 55,32%
Cấp III: 20,52%
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ
Không bằng cấp chiếm: 79,83%
Sơ cấp chiếm: 3,30%
Công nhân kỹ thuật: 9,01%
Trung cấp: 4,73%
Cao Đẳng và Đại học: 3,02%
Trên đại học: 0,11%
Với những số liệu trên cho thấy lực lượng lao động Thái Bình tuy đông đảo về số lượng song chất lượng còn hạn chế. Mặc dù trong những năm gần đây công tác đầu tư cho giáo dục đã đặc biệt được quan tâm nhưng tỷ lệ người học hết trung học phổ thông vẫn còn ít, đội ngũ công nhân kỹ thuật thiếu trầm trọng đây sẽ là một khó khăn cơ bản trên con đường CNH HĐH.
Trong quá trình phát triển tất yếu phải đi lên một xã hội công nghiệp để đi từ nông nghiệp lên công nghiệp đối với nước ta có những bước dịch chuyển dần lao động từ nông nghiệp - công nghiệp mà một trong những bước trung gian quan trọng đó là phát triển công nghiệp nông thôn.
II. Thực trạng về phát triển các làng nghề:
Lược sử quá trình hình thành và phát triển.
Cho tới ngày nay các làng nghề ở Thái Bình đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển một số làng nghề đã có hàng trăm năm tồn tại như chạm bạc Đông Xâm (trên 300 năm) dệt Nam Cao, mây tre đan Thượng Hiền....
Làng nghề trạm bạc Đồng Xâm hiện thờ vị tổ nghề Nguyễn Kim Lâu, ông vốn làm nghề vàng bạc ở Cao Bằng, khoảng năm 1689 ông tới xứ Đông Xâm và lập ra 12 phường để truyền nghề. Buổi đầu là nghề hàn đồng, gõ thùng châụ, chữa khoá...về sau mới làm kim hoàn chuyên sâu về chạm bạc. Đây là một làng nghề tiêu biểu cho nhóm nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống không chỉ của Thái Bình mà là cả nước. Bởi những giá trị độc đáo của sản phẩm,của những quy định chặt chẽ về truyền nghề, giữ bí mật nghề. Đến nay mỹ thuật của nghề chạm bạc không còn là độc quyền của thợ Đồng Xuân nữa nhưng một số thủ pháp nghệ thuật tinh xảo vẫn được giữ bí truyền.
Trải qua hàng tăm năm tồn tại các làng nghề Thái bình đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển, suy thoái có giai đoạn nghènh nghề thịnh vượng nhưng cũng có giai đoạn người thợ phải bỏ nghề thậm chí bỏ làng ra đi tìm con đường sống
Giai đoạn 1986 - 1987 các làng nghề cả nước nói chung và ở Thái Bình nói riêng đã đạt đến đỉnh cao của sự phát triển, kim ngạch xuất khẩu đạt hàng triệu đô la, thị trường lúc này chủ yếu là các nước Đông Âu, Liên Bang Nga nơi có nhu cầu rất lớn về hàng thủ công mỹ nghệ. Các làng nghề được mở rộng trong toàn tỉnh, nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh ra đời, lao động chuyên và không chuyên nghề tăng lên nhanh chóng.
Giai đoạn 1990-1992 thị trường Đông Âu và Nga giảm mạnh sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nước ta đứng trước thách thức lớn. Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu giảm nghiêm trọng tình trạng hàng sản xuất ra không tiêu thụ được xảy ra phổ biến nhiều làng nghề bị xa sút có nơi rơi vào bế tắc.
Từ 1993 lại đây đã bắt đầu hồi phục và khởi sắc do chuyển hướng được thị trường sang Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan...
Số làng nghề tăng lên từ 40 làng (1994) lên 59 làng năm 1995 và 82 làng năm 1996.
Đặc biệt sự phát triển của ngành nghề nông thôn được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 7
Trước 1989
1989 - 1992
1993 - 1996
- Số hộ chuyên nghề
15.000
25.000
66.767
- Cơ sở chuyên nghề
150
237
404
Nguồn:Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Thái bình
Số lao động làm nghề tăng lên nhanh chóng từ 4,7 vạn năm 1991 tăng 11,3 vạn năm 1996. Các nghề truyền thống lan rộng trong toàn tỉnh như nghề thêu trước đây chỉ có ở Vũ Thư nay đã có ở trên 50 xã trong tất cả các huyện thị nghề ươm tơ ở Vũ Thư, Hưng Hà nay phát triển sang Thái Thuỵ, Thị xã. số xã trắng nghề giảm số hộ kiêm nghề có xu hướng tăng nhanh. Huyện Hưng Hà số hộ kiêm nghề chiếm 40%, các huyện Đông Hưng, Vũ Thư, Kiến Xương chiếm 30 - 35%.
- Các hình thức tổ chức sản xuất trong làng nghề hiện nay:
Sau khi các xí nghiệp quốc doanh, các HTX làm ăn thô lỗ bị giải thể cùng với cơ chế quản lý kinh tế mới phần lớn các hộ gia đình trở thành hình thức sản xuất chủ yếu trong các làng nghề. Một số tư nhân cá thể có trình độ quản lý có vốn...đã đứng lên thành lập các Công ty tư nhân, tiến hành sản xuất hoặc dịch vụ cung ứng vật tư bao tiêu sản phẩm cho các hộ gia đình làm nghề thủ công.
Các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn hình thành ngày một nhiều trong các làng nghề. Đây là một hướng đi đúng nhưng mang tính tự phát rõ rệt. Theo chúng tôi những Công ty TNHH hoặc những hộ lớn đã và đang tồn tại qua thử thách của thương trường là những nhân tố mới rất đáng khích lệ. Nhà nước nên giúp đỡ, hỗ trợ cho họ và từ hoạt động của họ rút kinh nghiệm để nhân rộng thêm. Để thuận tiện cho việc hỗ trợ vốn, kỹ thuật, thông tin...cũng cần có chính sách khuyến khích thành lập các HTX kiểu mới ở các làng nghề.
Thực trạng của các làng nghề.
Số lượng
Hiện nay, Thái Bình có 82 làng nghề theo tiêu chuẩn quy định. Trong đó huyện Kiến Xương có15, Đông Hưng 8, Vũ Thư 11, Quỳnh Phụ 10, Thái Thuỵ 7, Hưng Hà 16, Tiền Hải 14, Thị Xã 1.
Nếu chia theo nhóm nghề ta có như sau:
Nghề dệt may ươm tơ 11 làng.
Cơ khí 5
Chế biến lương thực phẩm 10
Dệt chiếu cói 10
Chạm bạc 5
Mây tre đan 13
Nghề sản suất đồ gỗ 2
Ngề khác 26
Một số nghề trong thời gian gần đây phát triển mạnh như: thêu, dệt, ươm tơ.
Bảng8: Số hộ, cơ sở chuyên ngành nghề chia theo nhóm ngành toàn tỉnh.
Tổng số
Chế biến N-L-TB
CN, TTCN, XD
Dịch vụ
Tổng
%
Tổng
%
Tổng
%
1. Số hộ chuyên ngành nghề (hộ)
66767
39644
59,38
20313
30,42
6810
10,2
2. Cơ sở chuyên
404
35
8,66
166
41,09
203
50,25
Nguồn:Sở NN& PTNT tỉnh Thái Bình
Theo các số liệu thống kê ở Thái Bình hộ chuyên ngành nghề chiếm khoảng 10% hộ kiêm trong những năm qua có bước phát triển khá đạt 28%, vẫn còn tới 62% số hộ thuần nông. Phần lớn số hộ nghèo đều nằm trong số hộ thuần nông này.
Lao động:
Bảng9: số hộ chuyên và lao động trong các làng nghề ở Thái Bình
Số làng
Hộ dân cư (bộ)
Lao động (lđ)
Tổng
Hộ có nghề
%
Tổng
Lđ nghề
%
1. Thị xã
1
382
280
73
650
470
72
2. Hưng Hà
16
37278
8820
25
54075
23942
44
3. Thái Thuỵ
7
11578
4279
37
17242
9192
53
4. Vũ Thư
11
13936
9259
66
23342
15717
67
5. Đông Hưng
8
15047
6991
46
27552
13890
51
6.Tiền Hải
15
7578
5586
74
19583
10295
53
7. Kiến Xương
14
22718
14240
63
40684
23322
57
8. Quỳnh Phụ
11
5087
3437
68
20861
13753
66
Tổng
82
113667
52892
46
203989
110581
54
Như vậy trung bình 1 làng nghề có 1386 hộ trong đó 645 hộ có nghề chiếm 46%, số lao động trung bình một làng là 2487 người trong đó lao động làm nghề là 1348 người.
Nhìn chung sự phát triển của các làng nghề mới chỉ ở mức nhằm tạo công ăn việc làm cho chính gia đình, làng mình, chỉ có làng dệt Thái Phương (Hưng Hà) là có thuê thêm lao động ngoài (hàng năm thuê thêm khoảng 1500 - 2000 lao động).
Một số làng nghề có khả năng tạo công ăn việc làm lớn như làng chiếu cói (Tân lễ - hưng Hà) có 96% lao động của làng làm nghề Dệt đũi (Nam Cao - Kiến Xương) 88% lao động làng làm nghề, thêu (Minh Lãng - Vũ Thư) có 82% lao động của làng.
Trình độ lao động trong các làng nghề.
Có thể nói các làng nghề đã có những đóp góp tích cực trong việc nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần của người dân mà trực tiếp là những lao động nghề. Đối với lực lượng lao động trực tiếp làm nghề có khoảng 65% tốt nghiệp phổ thông cơ sở 30% tốt nghiệp THPT như vậy rõ ràng số người tốt nghiệp THPT ở làng nghề đã cao hơn nhiều so với mặt bằng chung của tỉnh. Về trình độ chuyên môn kỹ thuật do hầu hết các nghề là đơn giản nên lao động chủ yếu không được đào tạo hoặc chỉ được học tập qua những lớp bồi dưỡng ngắn hạn. Các làng nghề truyền thống chủ yếu đào tạo bằng hình thức truyền nghề.
Tuy nhiên do các làng nghề phát triển ngày càng mạnh một số lao động đã tách ra tham gia vào đội ngũ các cán bộ quản lý. Hầu hết những người này qua các lớp bồi dưỡng một số có trình độ đại học. Mặc dù vậy trình độ lao động nhìn chung vẫn còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển. Một số làng nghề hoạt động theo hình thức gia công là chủ yếu đã dẫn đến việc làm hạn chế khả năng sáng tạo của người thợ. Việc hỗ trợ các cơ sở ngành nghề nông thôn trong việc quản lý lao động cũng như những thông tin về thị trường là vô cùng quan trọng nó quyết định sự phát triển ổn định lâu dài của các làng nghề.
Ngoài 82 làng nghề trên được thống kê theo tiêu chuẩn còn nhiều làng xã mà người nông dân sản xuất phân tán quy mô nhỏ lẻ chưa thoả mãn yêu cầu tiêu chuẩn làng nghề. Tuy nhiên nó cũng đã góp phần quan trọng trong việc hạn chế thất nghiệp ở những vùng này. Tính đến năm 2000 hầu hết các xã trong tỉnh đều có ngành nghề TTCN và dịch vụ chủ trương của tỉnh uỷ, UBND tỉnh trong thời gian tới là tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của những làng nghề đã có, tích cực học hỏi du nhập nghề mới từ nơi khác với mục tiêu mỗi năm thành lập mới từ 10 - 15 làng nghề. Đây là một chủ trương lớn phù hợp với lợi ích và nguyện vọng của người nông dân. theo số liệu ước tính tổng số lao động tham gia sản xuất CN - TTCN toàn tỉnh hiện nay khoảng 16 vạn người chiếm 20% lao động. Trong đó ở 82 làng nghề là 11,3 vạn lao động. Khả năng tận dụng lao động trong các làng nghề là tương đối lớn bởi nó không chỉ sử dụng lao động trong độ tuổi mà còn tận dụng được cả những người ngoài độ tuổi tham gia
Bảng10: Lao động và sử dụng lao động.
Đơn vị
Cơ sở chuyên
Hộ chuyên
Hộ kiêm
Chế biến N-L-TS
CN và XD
Dịch vụ
Chung
Chế biến N-L-TS
CN và XD
Dịch vụ
Chung
Chung
Trong đó cho ngành nghề
1. LĐ thường xuyên
Người
28,17
129,85
38,52
61,01
2,87
6,09
2,05
3,57
2,6
1,37
2. LĐ thuê ngoài
Người
-
-
-
-
0,74
4,28
0,28
1,67
0,1
0,09
3. Chất lượng LĐ
Trình độ văn hoá
+ Chưa tốt nghiệp cấp I
%
0,49
-
-
0,09
-
-
-
-
1,34
1,02
+ Tốt nghiệp cấpI
%
8,68
0,18
-
1,79
7,58
5
3,54
5,33
12,1
11,51
+ Tốt nghiệp C II
%
60,06
58,38
40,58
57,94
74,24
68,21
55,75
67,05
70,16
71,61
+ Tốt nghiệp C III
%
30,77
41,44
45,58
40,24
18,18
26,79
40,71
27,62
15,4
15,86
- TĐ chuyên môn
+ KHông có chuyên môn
%
17,26
28,11
17,21
24
69,7
52,14
81,42
62,86
75,67
61,64
+ Công nhân kỹ thuật
%
69,13
64,37
59,42
64,31
22,73
46,07
8,85
31,19
20,7
35,55
*Thợ giỏi
%
4,54
22,1
6,35
15,8
6,06
7,14
-
5,33
2,28
4,35
*Nghệ nhân
%
-
0,12
-
0,07
-
-
-
-
-
-
+ Tốt nghiệp trung cấp
%
2,37
5,45
13,27
6,37
3,03
0,71
3,54
1,9
1,08
1,53
+ Tốt nghiệp CĐ, ĐH, trên ĐH
%
11,24
2,07
10,1
5,32
4,55
1,07
6,19
3,05
2,55
1,28
Nguồn "ngành nghề nông thôn Việt nam" Bộ NN và PT NT
Qua biểu trên ta có thể nhận thấy rõ vai trò quan trọng của việc phát triển ngành nghề nông thôn nhằm giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Bình quân một cơ sở chuyên ngành nghề tạo việc làm cho 61,01 lao động, một hộ chuyên nghề cũng tạo ra từ 3-4 chỗ làm việc thường xuyên. Về chất lượng lao động cũng thấy hơn hẳn mặt bằng chung của tỉnh số người tốt nghiệp cấp I, II đều tăng đặc biệt tỷ lệ lao động có trình độ văn hoá hết cấp III cao từ 30 - 40% ở các cơ sở lao động chủ yếu có trình độ chuyên môn là công nhân kỹ thuật còn trong các hộ chuyên, hộ kiêm lao động không có chuyên môn chiếm tỷ lệ chủ yếu 60 - 70%.
- Thực trạng về vốn
Qua điều tra về nhu cầu về vốn các làng nghề ở 150 cơ sở chuyên và 500 hộ chuyên và kiêm nghề ta có kết quả như sau:
Bảng11 : Thực trạng về vốn trong các làng nghề:
Đơn vị
Cơ sở chuyên
Hộ chuyên
Hộ kiêm
1. Vốn SX hiện có bình quân.
1000đ
275543
4350
1500
2. Tỷ lệ phải đi vay vốn
%
69,66
49,09
54,13
3. Tỷ lệ vốn vay theo nguồn
- Vay từ NH
76,9
20,5
16,7
- Vay từ chương trình Nhà nước
%
3,2
-
-
- Vay từ nguồn tài trợ nước ngoài
%
0,01
-
-
- Vay của tư nhân
%
15,3
65,3
70,2
- Vay của tư nhân
%
4,59
14,2
13,1
Nguồn :Kết quả điều tra nghành nghề nông thôn Bộ NN&PTNT.1997
So với các làng nghề trong cả nước ở Thái Bình mức vốn đầu tư bình quân không lớn lắm. Ngoài một số nghề có vốn đầu tư lớn như nghề gốm sứ, chạm bạc, cơ khí còn lại chủ yếu là các nghề có mức đầu tư không lớn như: Nghề mây tre đan, dệt chiếu, đan nón, thêu ren...
Tỷ lệ hộ/cơ sở phải đi vay vốn chiếm từ 50 - 70% trong đó đối với cơ sở chuyên nghề tỷ lệ vay từ ngân hàng chiếm tỷ lệ cao 76,9% so với 20,5% hộ chuyên và 16,7% hộ kiêm. Như vậy tỷ lệ vay vốn từ ngân hàng còn rất thấp đối với hộ gia đình có hoạt động ngành nghề nguồ vốn từ các chương trình Nhà nước không đáng kể, mặc dù phát triển làng nghề là 1 trong 5 chương trình kinh tế lớn của tỉnh Thái Bình song xem ra còn thiếu những biện pháp cụ thể nhằm hỗ trợ vốn cho người sản xuất. Tỷ lệ vốn vay của tư nhân chiếm tỷ lệ cao 65,3% đối với hộ chuyên và 70,2% đối với hộ kiêm. Những con số trên cho thấy sự chưa hiệu quả của thị trường tài chính Nhà nước đối với hộ nông dân. Phần lớn vốn vay từ Nhà nước tài chính phi chính thức với lãi xuất cao hoặc dựa vào quan hệ của huyện tộc làng xã. Vốn đầu tư ban đầu cho các ngành nghề ở Thái Bình thường không cao đây là một thuận lợi trong việc mở mang phát triển nghề. Tuy nhiên để sản phẩm của các làng nghề có chất lượng, có khả năng cạnh tranh trên thị trường thì chúng ta còn phải đầu tư nhiều hơn.
Bảng12: Vốn đầu tư ban đầu cho một chỗ làm việc
Nghề SX
Vốn đầu tư toàn bộ (tr đ)
Trong đó thiết bị
Nguyên liệu
Số lao động
VĐT ban đầu/LĐ
1.Thêu ren
0,5
0,2
0,3
1
0,5
2Dệt chiếu
1,2
0,8
0,4
1
1,2
3. Dệt đũi
4,5
1,5
3
3
1,5
4. Mây tre đan
0,2
0,12
0,08
1
0,2
5.Làm bún
1,5
1
0,5
2
0,75
6. Mộc
5,8
4
1,8
3
1,9
Nguồn: Nguyễn văn Đại, Trần văn Luận . Tạo việc làm thông qua khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống.1997
Trong số vốn đầu tư cho trang thiết bị sản xuất không tính đầu tư cho nhà xưởng ở các hộ vì hầu hết ở các làng nghề người ta lấy nhà ở làm nơi sản xuất trừ một số nghề như gốm sứ (Điệp nông - Hưng Hà) cơ khí (Việt Hùng - Vũ Thư)...
- Công nghệ trong các làng nghề:
Chủ yếu vẫn là sản xuất thủ công một số do đặc tính của sản phẩm một số do thiếu vốn đầu tư. Tuy nhiên ngày càng có nhiều máy móc được đưa vào sử dụng để thay thế sức lao động của con người đặc biệt là những hâu nặng nhọc độc hại.
Bảng13: Công nghệ một số ngành nghề ở Thái Bình
(%)
Ngành nghề
Thủ công
Cơ khí
Tiên tiến
Trung bình
Lạc hậu
1. Rèn
80
10
10
2. Dệt
60
40
3. Ươm tơ
70
30
4. Thêu
90
10
5. Chế biến thực phẩm
55
45
Sở dĩ các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp làm thủ công chủ yếu vì: các hình thức tổ chức sản xuất ở dạng cá thể là chủ yếu quy mô nhỏ, vốn ít không năng động trong đầu tư cải tiến công nghệ chỉ có một số nghề như dệt may, chế biến gỗ, lương thực thực phẩm là có tỷ lệ cơ khí hoá cao hơn.
- Thị trường
+ Thị trường cung ứng nguyên vật liệu
Nguồn nguyên liệu cung ứng chủ yếu cho hộ, cơ sở ngành nghề nông thôn là tại địa phương, đặc biệt là các hộ làm ngành nghề có giá trị nguyên liệu mua vào tại địa phương chiếm tới 80,84%. Phạm vi cung ứng nguyên vật liệu cho các cơ sở ngành nghề rộng hơn nhiều so với các hộ ngành nghề (43,2% giá trị nguyên vật liệu mua từ các địa phương khác trong nước và 2,38% từ nhập khẩu).
Bảng14: Tình hình cung ứng nguyên vật liệu (%)
Chỉ tiêu đánh giá
Cơ sở chuyên
Hộ làm ngành nghề
1. Cơ cấu giá trị NVL mua vào (%)
- Tại địa phương
54,42
80,87
- Tại địa phương khác trong nước
43,2
19,12
- Từ nước ngoài
2,38
0,07
2. Cơ cấu cơ sở có đi mua NVL: mức độ đáp ứng
- Về số lượng + Đảm bảo
92,64
96,67
+ Không đảm bảo
7,63
3,33
- Về tính lập thời + Đảm bảo
92,31
95,58
+ Không đảm bảo
7,69
4,62
- Về chất lượng + Đảm bảo
92,64
97,06
+ Không đảm bảo
7,36
2,94
3. Tỷ lệ cơ sở gặp khó khăn về NVL
- Do vận chuyển
25,0
13,24
- Giá cao
51,55
14,53
- Thuế cao
4,63
13,73
- Cơ chế quản lý
8,80
2,77
- Khác
28,70
6,82
Nguồn: cục chế biến nông lâm , Bộ NN&PTNT
Qua bảng trên ta có thể thấy tình hình cung ứng nguyên vật liệu là tương đối thuận lợi mặc dù vẫn còn một số khó khăn. Nhìn chung cho tới nay hầu hết các đơn vị sản xuất đều ít hoặc không có quan hệ chặt chẽ với người cung ứng nguyên liệu chính vì thế thị trường này thường kém ổn định. Nhiều nghề thường xuyên phải mua bù nguyên liệu từ ngoài vào như Dệt bao đay (Đông Quang - Đông Hưng), dệt chiếu (Quỳnh Phụ), chạm bạc (Kiến Xương). Để tình hình nguyên liệu được cung ứng bảo đảm hơn cần phải thiết lập quan hệ giữa người cung cấp nguyên liệu với người sản xuất và người tiêu thụ sản phẩm
Cùng với chiến lược phát triển các làng nghề chúng ta cũng cần phải xem xét quy hoạch những vùng nguyên liệu có như vậy thì mới có thể sản xuất ổn định lâu dài. Việc khai thác tối đa khả năng cung cấp nguyên vật liệu tại chỗ sẽ làm giảm chi phí vận chuyển cho các đơn vị sản xuất. Giá cao là nguyên nhân khá rõ chiếm 51,85% gây nên khó khăn đối với hộ và 14,53% đối với cơ sở nghề.
Thị trường tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề Thái Bình.
Thị trường là một nhân tốt có vai trò quyết định sự phát triển của bất kỳ một hoạt động sản xuất, một ngành nghề nào thị trường có rộng lớn thì sản phẩm mới tiêu thụ được nhiều đem lại doanh thu lớn và ngành nghề đó mới phát triển được. Tuy nhiên thị trường luôn biến động không ngừng và khác nhau đối với từng nghề một. Thị trường của một loại sản phẩm phụ thuộc vào nhiều nhân tố trong đó quan trọng là giá cả, chất lượng mẫu mã sản phẩm.
Đối với ngành chế biến lương thực thực phẩm như sản xuất bún, bánh thị trường tiêu thụ tại chỗ là chủ yếu. Người sản xuất thường phải tự đem đi rao bán các sản phẩm của mình thị trường có hạn. Để mở rộng nhất thiết phải đa dạng hoá các loại sản phẩm. Các làng nghề như (Nguyên Xá - Đông Hưng), Tân Hoà (Hưng Hà) có thể tìm hiểu để sản xuất thêm các sản phẩm như bánh đa, miến, bánh chả có như thế mới có thể đưa sản phẩm của mình ra các tỉnh khác được. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế như hiện nay đời sống nhân dân, nhất là ở các đô thị về tăng nhanh chúng ta cần tập trung nguồn lực để sản xuất phục vụ những thị trường này.Thị trường cho các sản phẩm dệt đũi chủ yếu là xuất khẩu theo con đường tiểu ngạch sang Lào, Thái Lan 95% khoảng 5% được tiêu dùng trong nươc.
Đối với làng thêu Minh Lãng (Vũ Thư) sản phẩm chủ yếu và có thị trường rộng lớn đó là các sản phẩm thêu hội hoạ. Những bức tranh về phong cảnh, con vật được người thợ thêu một cách khéo léo được ưa chuộng ở trong nước cũng như ngoài nước. Ngày nay, hầu hết các hộ không đứng bán hàng trực tiếp mà thường thông qua các cơ sở chuyên nghề ở nông thôn, các cơ sở này tìm kiếm thị trường thiết kế mẫu mã sau đó giao cho các cán bộ hộ gia đình tồn tại với tư cách là người gia công. Để thêu được những bức thêu thật đẹp đòi hỏi người thợ phải có tay nghề cao đặc biệt là phải có con mắt nghệ thuật để biết cách phối hợp màu sắc sao cho hài hoà nhất.
Đối với làng chạm bạc Đồng Xâm sản phẩm có thể chia thành 3 loại gồm đồ thờ cúng, đồ trang trức và đồ mỹ nghệ.
Đồ thờ cúng gồm các loại đinh, vạc, lư hương, đĩa quả, chân đèn, ngai, tượng các con vật linh thiêng....Hình mẫu cơ bản vẫn là các đồ thờ bằng đồng bằng gỗ trong các đền, miếu đình chùa. Nhưng do giá bạc khá đắt, các đồ thờ này được chế tác thu nhỏ lại và "biến tấu" đi chút ít. Loại hàng này không nhiều mà đa số là sản xuất đơn chiếc. Khách hàng, đặc biệt là khác nước ngoài hết sức thích thú loại đồ thờ này và coi chúng như l._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0137.doc