Một số giải pháp nhằm phát triển sản xuất chè ở Việt Nam từ nay đến năm 2010

Mở đầu Chè là cây công nghiệp dài ngày có vai trò quan trọng trong nền kinh tế xã hội nước ta. Uống chè từ lâu đã trở thành nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống hàng ngày, một tập quán mang nét văn hoá của người Việt Nam. Chè còn là sản phẩm xuất khẩu quan trọng trong ngành nông nghiệp nước ta. Hiện nay, trên thế giới có 39 nước trồng và chế biến chè thì Việt Nam đứng thứ 5 về diện tích và đứng thứ 8 về sản lượng. Mặt khác cây chè phát triển còn tạo công ăn việc làm cho một lượng lao động rất lớn

doc90 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1970 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm phát triển sản xuất chè ở Việt Nam từ nay đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ở các vùng nông thôn, đem lại thu nhập cho họ, góp phần xoá đói giảm nghèo, giúp nông thôn rút ngắn khoảng cách về kinh tế với thành thị, thiết lập công bằng xã hội. Đây là mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta đang cố gắng thực hiện trong quá trình phát triển kinh tế xã hội đất nước. Do lợi thế và vị trí quan trọng của cây chè trong nền kinh tế nói chung và trong sản xuất nông nghiệp nói riêng nên năm 1995 Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã xây dựng “Tổng quan phát triển chè ở Việt Nam đến năm 2000 và 2010”. Ngày 10/3/1999 Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định số 43/1999/QĐ-TTg về kế hoạch sản xuất chè năm 1999-2000 và định hướng phát triển chè Việt Nam đến năm 2005-2010. Trong quyết định này đã nêu rõ: Trên địa hình, thổ nhưỡng, khí hậu và quỹ đất đai hiện có ở các địa phương, quy hoạch vùng theo hướng khai thác lợi thế của từng vùng, có kế hoạch phục hồi thâm canh các vườn chè hiện có, đồng thời tập trung trồng mới bằng các giống có năng suất và chất lượng cao. Thực hiện những quyết định trên, trong những năm gần đây, sản xuất chè cả nước đã đạt được kết quả quan trọng, tổng diện tích và sản lượng chè đều vượt mục tiêu đề ra. Tuy nhiên ngành sản xuất chè ở nước ta đang đứng trước những thách thức tiềm ẩn hết sức gay go: năng suất chè của ta thấp hơn so với các nước trên thế giới, chất lượng chè chưa tốt, giá xuất khẩu liên tục giảm... Vì vậy cần có các biện pháp phù hợp để ngành chè khắc phục được những khó khăn và tiếp tục phát huy vai trò của mình. Xuất phát từ yêu cầu phát triển khách quan của ngành chè Việt Nam kết hợp với nghiên cứu thực tiễn trong quá trình thực tập tại Viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn em chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm phát triển sản xuất chè ở Việt Nam từ nay đến năm 2010” làm luận văn tốt nghiệp của mình. Nội dung của đề tài: Chương I: Một số đặc điểm về phát triển sản xuất chè ở Việt Nam Chương II: Thực trạng phát triển chè ở Việt Nam giai đoạn 1995-2002 Chương III: Một số giải pháp nhằm phát triển cây chè ở Việt Nam từ nay đến năm 2010 Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo hướng dẫn Tiến sỹ Ngô Thắng Lợi và các thầy cô trong khoa cùng toàn thể các cán bộ trong Viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp đã giúp đỡ em hoàn thành luận văn tốt nghiệp này. Do thời gian có hạn và kiến thức về lý luận cũng như thực tiễn còn hạn chế nên luận văn của em không tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Em mong được sự chỉ bảo giúp đỡ của các thầy cô và các cán bộ trong Viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp. Chương I Một số đặc điểm phát triển sản xuất chè ở Việt Nam I. Vị trí của cây chè trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam 1. Đặc điểm của cây chè Việt Nam Cây chè là cây công nghiệp dài ngày được trồng lâu đời trên đất nước ta và ngày càng có vị trí quan trọng trong nền kinh tế xã hội đất nước. Về mặt lịch sử: Cây chè là cây có nguồn gốc từ Trung Quốc truyền bá ra khắp thế giới. Cây chè có lịch sử từ rất lâu đời: từ khi phát hiện, sử dụng, truyền bá và phát triển đến nay đã có gần 4000 năm. Do đặc tính sinh trưởng của bản thân cây chè, sự giao lưu văn hoá giữa các dân tộc nên cây chè đã du nhập vào Việt Nam từ khoảng 3000 năm trước. Nhân dân vùng biên giới của Việt Nam đã học được cách trồng và chế biến của người Trung Quốc để phát triển các vườn chè trồng phân tán rải rác và hái lá để uống. Ngay từ trước thế kỷ thứ XVII, ở Việt Nam đã hình thành hai vùng sản xuất chè: chè vườn miền trung du và chè rừng miền núi. -Vùng chè miền trung du chủ yếu sản xuất chè tươi, chè nụ và chè băm, chế biến đơn giản. - Vùng chè miền núi sản xuất loại chè chi, chè mạn, lên men nửa chừng của đồng bào dân tộc Mông, Dao,... Kỹ thuật trồng chè thời kỳ này chủ yếu là quảng canh, có nơi coi đó là một cây rừng chế biến đơn giản, mang tính tự cung, tự cấp trong gia đình hoặc trong cộng đồng lãnh thổ phạm vi nhỏ. Đến thế kỷ thứ XIX, một số người Pháp bắt đầu kiểm soát việc sản xuất và buôn bán chè ở Hà Nội. Đến năm 1980 Paul Chaffajon xây dựng đồn điền đầu tiên của Việt Nam tại Tĩnh Cương (Phú Thọ) nay thuộc huyện Sông Thao tỉnh Phú Thọ với diện tích khoảng 60 ha. Đến năm 1918, thành lập Trung tâm nghiên cứu nông lâm nghiệp Phú Thọ tại Phú Hộ. Từ năm 1925, cây chè bắt đầu phát triển mạnh, cả nước hình thành ba vùng chè chính: -Vùng chè Tây Nguyên: Có diện tích tính đến năm 1939 là 2.759 ha, sản lượng bình quân mỗi năm đạt 900 tấn. Đã có những đồn điền quy mô 400-500 ha. Bắt đầu hình thành một số nhà máy (thiết bị của Anh) có sản phẩm chính là loại chè đen truyền thống (OTD) tiêu thụ ở thị trường Tây Âu và một ít chè xanh xuất khẩu sang Bắc Phi. - Vùng chè Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ: Chè được trồng rải rác trong các vườn gia đình, một số đồn điền nhỏ (vài chục ha), kỹ thuật trồng và chế biến còn rất đơn giản, sản phẩm gồm chè đen, chè xanh, chè tươi và chè nụ. - Vùng chè Trung Bộ: Tổng diện tích khoảng 1900 ha, trong đó có một đồn điền của người Pháp với diện tích khoảng 250 ha. Chế biến chè ở vùng này còn thô sơ, sản phẩm chính là chè xanh xuất khẩu sang Bắc Phi. Từ cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay: Việt Nam phải tiến hành 30 năm chiến tranh dành độc lập, các cơ sở nghiên cứu khoa học về chè có ở hai miền Nam, Bắc đều bị ngừng hoạt động, như Trung tâm nghiên cứu chè ở Phú Hộ ở miền Bắc đã ba lần bị quân viễn chinh Pháp chiếm đóng và ném bom phá sạch, đốt sạch. Mặc dù vẫn phải sản xuất lương thực thực phẩm cho quân dân là chính nhưng Nhà nước ta vẫn quan tâm phát triển cây chè và đến ngày nay cây chè lại càng được chú trọng phát triển. Về mặt tự nhiên: Cây chè là cây trồng nhiệt đới rất thích hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu nóng ẩm mưa nhiều, hệ số dao động nhiệt độ giữa ban ngày và ban đêm lớn (8-12 độ C) ở Việt Nam tạo cho cây chè tổng hợp được nhiều chất thơm tự nhiên và đặc trưng. Ngoài ra độ cao và địa hình cũng có ảnh hưởng đến chất lượng chè. Kinh nghiệm sản xuất chè lâu đời của thế giới cho thấy các loại danh trà chủ yếu là được trồng trên vùng núi cao. Chè Việt Nam có chất lượng cao là chè Shan Tuyết được trồng trên núi Tây Côn Lĩnh, chè Suối Giàng ở Văn Chấn Yên Bái, chè Tà Sùa ở Sơn La. Các vùng này có nhiệt độ thấp, độ ẩm cao, ánh sáng tán xạ cao, biên độ ngày đêm cao... Về mặt kinh tế: Chè là cây công nghiệp dài ngày, có lợi thế so sánh ở nước ta đặc biệt là ở các tỉnh Trung du miền núi phía Bắc. Đảng và Nhà nước ta coi cây chè là cây xoá đói giảm nghèo ở các tỉnh Trung du miền núi phía Bắc và là cây làm giàu, góp phần lớn vào việc phát triển kinh tế nông thôn ở miền Nam. Trồng chè còn thu hút được một lượng lao động đáng kể, góp phần giải quyết việc làm và là một trong những cây trồng có giá trị kinh tế cao ở Trung du Miền núi Bắc Bộ và Tây Nguyên, góp phần thúc đẩy trung du, miền núi có điều kiện hoà hợp với miền xuôi về kinh tế, văn hoá, xã hội. 2. Vai trò của ngành sản xuất chè Việt Nam Việt Nam là nước có tiềm năng về đất đai, khí hậu thuận lợi cho phát triển cây chè. Ngay từ những năm 60 của thế kỷ XX, theo phân công trong khối SEV (Hội đồng tương trợ kinh tế) Việt Nam là nước sản xuất chè cho các nước XHCN. Trong những năm qua, ngành chè đã góp phần sử dụng hiệu quả đất đai ở vùng trung du, miền núi, đặc biệt là Trung du Miền núi Bắc Bộ, đã tạo công ăn việc làm cho hàng vạn người lao động, góp phần xoá đói giảm nghèo, chuyển nền kinh tế tự cấp tự túc của đồng bào dân tộc miền núi bằng một nền kinh tế sản xuất hàng hoá, góp phần phân công lao động giữa miền ngược và miền xuôi. Chè cũng đem lại nguồn lợi tương đối lớn cho Ngân sách Nhà nước. Chè có vai trò to lớn trong nhiều lĩnh vực: 2.1. Sản xuất chè với phát triển nông nghiệp: Chè là cây trồng rất lâu đời ở Việt Nam, đến nay xác định được 33 tỉnh có khả năng thích hợp nhất để trồng chè, tập trung chủ yếu ở Trung du Miền núi Bắc Bộ và Tây Nguyên. Bên cạnh ưu thế về khí hậu, đất đai của tự nhiên nhiệt đới Việt Nam có lợi cho sinh trưởng cây chè (mùa hái chè dài, thời gian kiến thiết ngắn) và các nguồn gen phong phú (chè rừng miền núi), cây chè còn có nghĩa to lớn đối với người dân: - Những năm gần đây, việc triển khai giao đất và khoán chè cho người lao động theo Nghị định 01 của Chính phủ cùng với những giải pháp của ngành chè Việt Nam được giải quyết tốt việc làm cho người lao động. Cùng với cơ chế và phương thức mua chè thuận lợi cho người lao động đã tạo động lực khuyến khích ngươì lao động phấn khởi chủ động đầu tư thâm cạnh chè để đạt năng suất, chất lượng cao. ở trung du miền núi người dân có tập quán trồng lúa nương với thu nhập trung bình là 1-2 triệu đồng/ha trong khi đó 1 ha chè trên vùng đồi núi khô cằn thu được 10-12 triệu đồng. Điều này dẫn tới quan điểm chuyển sang trồng chè thay vì lúa nương trong nhân dân miền núi. - Chè là mặt hàng có thị trường và giá cả ổn định với mức dao động về giá ở thời điểm biến động cao nhất không quá 8% đối với loại chè trung bình so với các ngành kinh tế công nông nghiệp khác, chè cũng đã khẳng định được vị trí của mình. Trồng chè đúng kỹ thuật sẽ tạo ra một thảm thực vật có tác dụng phủ xanh đất trống đồi núi trọc. - Cây chè là cây không kén đất như cà phê, ca cao, hồ tiêu, năng suất lại tương đối ổn định, ít biến động hàng năm không lớn ngay cả những năm thiên tai, hạn hán. Nhìn chung đây là loại đất trồng đứng về mặt kinh doanh tương đối ổn định. - Cây chè có tác dụng chống xói mòn, bảo vệ môi sinh. Hiện nay bình quân độ che phủ trong cả nước chỉ còn 29,1%, trong đó nếu không kể hai vùng Đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long chỉ đạt 4,7% và 6,1% còn ở vùng núi như vùng Tây Bắc chỉ còn 20,7%, Đông Bắc 19,4%... Bởi vậy, ở những nơi này nếu được trồng chè chắc chắn sẽ nâng cao hệ số che phủ tốt hơn. -Trồng chè thu hút một lượng lao động đáng kể (mỗi ha trồng chè bình quân cần 2,2 lao động) ngoài ra chưa kể lao động cho chế biến và tiêu thụ. 2.2. Sản xuất chè với phát triển ngành công nghiệp chế biến Phát triển cây chè Việt Nam luôn gắn liền với sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến nước ta. Trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ, sản xuất chè công nghiệp bắt đầu bằng việc xây dựng nhà máy chè đầu tiên vào năm 1923. Chế biến chè thời kỳ này bộ phận cối vò chè, máy sấy và máy phát điện. Những năm 60, ở miền Bắc đã xây dựng hàng loạt nhà máy chè đen OTD lớn (12-43 tấn/ ngày) với thiết bị công nghệ chè đen và chè xanh của Trung Quốc và Liên Xô. Những năm 90 lại có chè túi nhúng của ý, thiết bị chế biến chè CTC của ấn Độ, chè xanh dẹt bán tự động của Nhật Bản. Hiện nay ngành công nghiệp chế biến của ta đã phát triển theo hướng không ngừng đổi mới thiết bị và công nghệ chế biến chè, đặc biệt là chế biến chè đặc sản và nghiên cứu các sản phẩm mới theo dự báo của thị trường tiêu thụ chè tương lai. 2.3. Sản xuất chè với ngành xuất khẩu Cây chè Việt Nam đã có chỗ đứng trên thị trường của hơn 40 nước trên thế giới, gồm có Liên Xô cũ và Đông Âu, Trung Cận Đông, Bắc Phi và gần đây bước đầu đưa vào các thị trường khó tính như Tây Âu và Nhật Bản, do đó đã đem lại một nguồn kim ngạch nhập khẩu đáng kể cho đất nước. Mỗi năm bình quân chúng ta xuất khẩu được khoảng 50 nghìn tấn đem lại cho đất nước khoảng 50 triệu USD. 2.4. Sản xuất chè với việc giải quyết các vấn đề xã hội Chè chỉ thực sự phát huy hiệu quả khi gắn sự phát triển của nó với việc phát triển kinh tế xã hội các vùng sâu, vùng xa của đồng bào dân tộc khai hoang ở miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. ở đây cây chè gần gũi với từng gia đình, góp phần định cư, ổn định cuộc sống và xoá đói giảm nghèo cho đồng bào dân tộc ít người. Hơn nữa cây chè đã tạo công ăn việc làm cho hơn 20 vạn lao động góp phần ổn định đời sống cho 10 vạn hộ gia đình. Việc quy hoạch các vùng sản xuất chè tập trung bao gồm sản xuất nông - công nghiệp -dịch vụ, hình thành các cụm dân cư đã góp phần cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Cây chè là cây công nghiệp lâu năm, có chu kỳ kinh tế dài nhưng nhanh cho sản phẩm thu hoạch, là cây trồng xoá đói giảm nghèo và phát triển kinh tế ở vùng núi và trung du Việt Nam, góp phần thúc đẩy trung du miền núi có điều kiện tiến kịp với các vùng khác trong cả nước. Cây chè là cây trồng có thể áp dụng rộng rãi vào các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế trang trại. Trồng chè sẽ mở rộng diện tích canh tác ở vùng cao cho người dân ở đây. Ngoài ra, về mặt y học, từ xưa đến nay nước chè là thứ nước uống giải khát phổ biến của nhân dân ta có tác dụng chống lại được lạnh, khắc phục sự mệt mỏi của cơ bắp và hệ thần kinh trung ương, kích thích vỏ đại não, làm cho tinh thần minh mẫn, sảng khoái, hưng phấn trong thời gian lao động căng thăng về trí óc và chân tay. Ngoài ra còn có tác dụng bảo vệ sức khoẻ. Chất catesin của chè xanh có chức năng phòng ngừa bệnh ung thư bằng cách củng cố hệ thống miễn dịch, phòng ngừa bệnh cao huyết áp, chống lão hoá. Để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước giai đoạn 2000-2010, và do giá trị dinh dưỡng, kinh tế, xã hội, văn hoá và bảo vệ sức khoẻ con người nên cây chè đã được ghi vào Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước Việt Nam, trong chương trình phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và chương trình phát triển kinh tế - xã hội miền núi. II. các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển sản xuất chè ở Việt Nam 1. Điều kiện tự nhiên Nhân tố điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng rất lớn đến phát triển sản xuất chè. Các yếu tố như lượng mưa, khí hậu, nhiệt độ, đất đai,... là các yếu tố quan trọng có tác động đến chất lượng chè. ở Việt Nam cây chè đang có mặt trên 4 vùng sinh thái lớn : Trung du Miền núi Bắc Bộ, Duyên hải Miền Trung, Đồng bằng sông Hồng, Tây Nguyên. Trên cơ sở phân tích các chỉ tiêu về khí hậu, đất đai, địa hình, nguồn nước của từng vùng cho thấy khả năng thích nghi của từng vùng như sau : 1.1. Vùng Trung du Miền núi Bắc Bộ Đây là vùng có địa hình phức tạp, được chia cắt bởi những cánh đồng hoặc thung lũng xen giữa những đồi núi. Núi ở đây thường cao và dốc, vùng này có mùa đông lạnh và khô. Nhiệt độ trung bình từ 18-23 độ C. Đất đai vùng này chủ yếu là đỏ nâu trên đá vôi, đỏ vàng trên đá đất sét và biến chất. Đất đai phần lớn có bề dầy trên 100 cm, hàm lượng dinh dưỡng trung bình. Nhìn chung vùng này rất thích hợp với phát triển cây chè. Hạn chế chính ở vùng này chính là mùa đông có sương muối, mùa hè chịu ảnh hưởng của gió Lào. Có thể khắc phục hiện tượng này bằng cách tác động vào các biện pháp kỹ thuật như ủ gốc, trồng cây che bóng mát. 1.2. Vùng Duyên hải Miền Trung  Đây là dải đất chạy dài ven biển, mang đặc tính của loại hình khí hậu cận nhiệt đới gió mùa. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 23-25 độ C. Có mùa mưa kéo dài từ tháng 7 đến tháng 12 hàng năm, kèm theo bão lụt là chịu ảnh hưởng rõ rệt của gió Lào. Như vậy xét về yếu tố khí hậu thì chỉ có ba tỉnh là Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh là cây chè có thể sinh trưởng và phát triển bình thường. Đất đai các tỉnh này chủ yếu là đất được hình thành trên đá phiến sét, đây là loại đất có hàm lượng dinh dưỡng tương đối cao, cấu tượng tốt. So với yêu cầu sinh thái của cây chè thì vùng này cũng có những đặc điểm rất thích hợp. 1.3. Vùng Duyên hải Miền Trung Đây là vùng không có nhiệt độ thấp, bình quân từ 25-27 độ C, không có mùa đông lạnh. Lượng mưa ảnh hưởng phân bố theo đất đai và vĩ tuyến. Đất đai có thể trồng chè là nhóm vàng đỏ trên đất bazan, có nhiều tầng mỏng, độ dốc lớn. Đây là vùng có khí hậu không thuận lợi, đất đai nghèo dinh dưỡng và không có độ dốc phù hợp với phát triển sản xuất chè nên năng suất và chất lượng thấp. Chế độ mưa của vùng cũng chịu ảnh hưởng của gió mùa phía Bắc, phân bố không đều và trái với mùa sinh trưởng của chè. Ngược lại mưa thiếu vào mùa xuân, thời điểm lá chè và búp chè hình thành lá non. 1.4. Vùng Tây Nguyên Là vùng mang khí hậu nhiệt đới gió mùa. Độ cao từ 700 đến 1.500 m so với mặt nước biển. Nhiệt độ bình quân hàng năm là 23 độ C, lượng mưa trung bình hàng năm là 2000 mm. Đất đai có thể trồng chè chủ yếu là đất bazan, đặc biệt là đất nâu vàng trên đá bazan ở Bảo Lộc, Di Linh khá tốt, hàm lượng mưa phùn và độ ẩm cao. Đất ở vùng này có kết cấu và tầng dày tốt. 2. Khả năng nguồn vốn Để phát triển sản xuất chè, việc huy động vốn đầu tư là rất quan trọng. Hiện nay có rất nhiều nguồn vốn có thể huy động, nhưng nguồn vốn quan trọng nhất là Nhà nước đã giao quyền sử dụng đất lâu dài cho người trồng chè. ở các nông trường công nghiệp cũng được giao khoán vườn chè và giao đất để trồng chè mới. Huy động nguồn vốn tự có trong nhân dân: Đây là nguồn vốn rất quan trọng, nó có tác dụng thúc đẩy người nông dân tham gia vào qúa trình phát triển cây chè, mặt khác khi người dân tự bỏ vốn ra kinh doanh thì họ sẽ có trách nhiệm với nguồn vốn mà mình đã bỏ ra. Vốn vay ngân hàng Nhà nước: Đây là nguồn vốn không thể thiếu. Thông qua các dự án phát triển, trong những năm qua ngân hàng Nhà nước đã đầu tư cho nhiều cơ sở kể cả khu vực quốc doanh và tư nhân, góp phần ổn định, đảm bảo lượng chè tăng trưởng ổn định. Tuy nhiên so với một số cây chè khác như cà phê, cao su,... chè vẫn là cây được đầu tư thấp nhất. Vốn dự trữ ở các doanh nghiệp : Thông qua hoạt động điều tiết ở các doanh nghiệp đã mở ra khả năng khuyến khích các doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Vốn liên doanh, hợp tác với nước ngoài: Mấy năm gần đây, Nhà nước ta chủ trương khai thác mạnh nguồn này, thực tế đã có nhiều tổ chức, nhiều quốc gia muốn hợp tác với Việt Nam như: WB, ADB, ACB, các công ty của Đài Loan, Hông Kông,... 3. Nhân tố khoa học kỹ thuật Đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất, chất lượng của cây chè. Nếu áp dụng khoa học kỹ thuật tốt sẽ tạo điều kiện tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm chè. Khả năng ứng dụng khoa học công nghệ có liên quan tới trình độ tay nghề, những hiểu biết của người làm chè về những kỹ thuật trong trồng, chế biến chè. Các tiến bộ kỹ thuật đó là: Giống chè: Hiện nay ở phía Bắc có 17 giống chè, trong đó hai giống chè chủ yếu là chè Shan Tuyết và chè trung du, còn các giống khác được nhập từ ấn độ, Trung Quốc. Phía Nam, ngoài các giống ở phía Bắc nhập vào còn có các giống từ Nhật Bản. ở Phú Hộ hiện nay đang có một tập đoàn giống gồm 60 giống thu thập từ các nước: Việt Nam, ấn Độ, Srilanca, Trung Quốc,... đang được khảo nghiệm, chọn lọc, thuần hoá và lai tạo. Trong thời gian tới khả năng cung cấp giống chè tốt được đảm bảo. Nhân giống chè: ở Viện nghiên cứu chè bắt đầu nghiên cứu từ năm 1959, bằng các phương pháp nhân giống bằng hạt, bằng cành... Đến nay thuật giâm cành bắt đầu hoàn thiện và bắt đầu phổ biến đến từng hộ gia đình. Kỹ thuật canh tác: Đã có nhiều công trình nghiên cứu và tổng kết từ thực tiến về kỹ thuật trồng chè. Để đảm bảo chống xói mòn, trồng được nhiều cây chè đồng đều, cho năng suất cao, chất lượng tốt và vườn chè thuận lợi cho việc đi lại phải thực hiện một loạt các biện pháp như trồng theo kiểu nông lâm kết hợp, trồng theo kiểu bình độ... Về phân bón nhiều công trình nghiên cứu và thực nghiệm đã tiến hành, nhìn chung muốn đạt năng suất chè 5 tấn/ha chè búp tươi cần bón theo đúng quy cách, ngoài phân chuồng, phân xanh cũng được tăng cường. Kỹ thuật chế biến: Trên cơ sở kinh nghiệm đã tích luỹ được trong nhiều năm sản xuất, chế biến và tiêu thụ chè, ngành chè nước ta đã rút ra được những thế mạnh và tồn tại chủ yếu trong khâu chế biến chè. Mặt khác trong những năm gần đây, nhiều tổ chức, công ty liên doanh nước ngoài đã sẵn sàng ký kết hợp đồng với ta không chỉ ở vốn đầu tư cho các nhà máy mà còn cả quy trình công nghệ tiên tiến, bao gồm cả hướng dẫn kỹ thuật, bao tiêu sản phẩm ... Như vậy, khả năng ứng dụng khoa học kỹ thuật của nước ta trong chế biến biến sản phẩm chè không có gì trở ngại. 4. Hệ thống chính sách hỗ trợ của Nhà nước Để việc phát triển sản xuất chè đạt được mục tiêu mà ngành chè đã đặt ra thì cần phải có một hệ thống các chính sách hỗ trợ phát triển chè. Như vậy yếu tố chính sách là yếu tố không thể thiếu được trong phát triển sản xuất chè ở Việt Nam. Thực tế cho thấy rằng những nước phát triển chưa ban hành các chính sách tương xứng với vai trò và tiềm năng của cây chè. Nếu các chính sách này chỉ tập trung chú trọng đến mặt cầu tức là chú trọng đến việc trồng và chế biến chè mà không có các chính sách thúc đẩy thị trường tiêu thụ thì sau một thời gian sẽ không tìm được đầu ra cho sản phẩm và do đó ngành chè sẽ gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, khi tiến hành phát triển sản xuất chè Nhà nước cần ban hành một hệ thống chính sách hỗ trợ cần thiết cho việc phát triển chè. Sau đây là một số chính sách tiêu biểu: Chính sách ruộng đất: ở nông thôn sau Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, ruộng đất được giao quyền sử dụng lâu dài cho nhân dân (10-20) năm. Bởi vậy đây là yếu tố quan trọng làm cho người dân yên tâm sản xuất. ở các đơn vị quốc doanh, nhiều đơn vị đã chia đất, khoán vườn chè cho công nhân. ở nông trường 28/3 giao cho mỗi lao động 0,65-1,7 ha với nhiệm vụ bảo đảm sản lượng theo mức khoán, giao nộp cho nông trường theo giá thoả thuận. Phía nông trường ngoài việc cung ứng vật tư cho công nhân, còn cử các cán bộ hướng dẫn kỹ thuật sản xuất cho họ... Một số nông trường vẫn thừa đất cũng giao khoán cho dân làm, cũng theo chế độ như công nhân Nhà nước, không phải đóng chi phí bảo hiểm xã hội, nhưng phải nộp thêm 2% sản lượng để xây dựng cơ sở hạ tầng công cộng. Chính sách thuế: Thuế nông nghiệp hiện nay đang phổ biến thực hiện nộp theo sản lượng từng hạng quỹ đất như luật thuế sử dụng đất đai do Nhà nước ban hành. ở các cơ sở ngoài quốc doanh, ngoài thuế nông nghiệp người công nhân còn phải trích nộp các khoản chi phí như chi phí quản lý, chi phí khấu hao vườn chè, quỹ bảo hiểm xã hội,... Các hộ nông dân trồng chè, ngoài thuế nông nghiệp họ cũng phải đóng các khoản như quản lý phí, bảo vệ sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng công cộng... Ngoài ra còn có các loại thuế khác như thuế xuất khẩu, thuế doanh thu,... trong chế biến và tiêu thụ. Chính sách đầu tư: Nhà nước đã có chủ trương đúng đắn căn cứ vào quy hoạch phát triển sản xuất nông lâm ngư ngiệp mà có chính sách đầu tư cho hợp lý cho từng hộ gia đình, khuyến khích họ phát triển sản xuất. Tuy nhiên trên thực tế, các vùng trồng chè là những vùng sâu, vùng xa miền núi nên Nhà nước cần ưu tiên mới thu hút được lao động và tiền vốn trong dân để phát triển loại cây trồng này. 5. Hệ thống cơ sở hạ tầng Kết cấu hạ tầng cơ sở là toàn bộ các công trình và trang thiết bị của quá trình tái sản xuất xã hội, được tổ chức cân đối và liên kết với nhau trong không gian. Chúng phục vụ cho những nhu cầu cung cấp và dịch vụ của nhân dân, của bộ máy hành chính và các cơ sở sản xuất. Tính ổn định tương đối cao, sự liên kết với các hoạt động kinh tế trong vùng và tuổi thọ tương đối dài của các công trình và mạng lưới của cơ sở hạ tầng đã làm cho chúng trở thành yếu tố có ảnh hưởng lớn tới quá trình sản xuất. Đối với ngành chè, mạng lưới cơ sở hạ tầng là điều kiện sản xuất và tiêu dùng cho người dân trong vùng trồng chè. Hạ tầng cơ sở cần phải được phát triển đồng bộ, bao gồm: Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nguyên liệu: Hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, hệ thống điện... đang là yếu tố ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của nhiều ngành trong đó có ngành chè. Ngoài một số vùng có đường quốc lộ chạy qua, nằm trong lưới điện quốc gia còn phần lớn vùng nguyên liệu chè nằm ở vùng xa xôi, hẻo lánh. Cơ sở hạ tầng phục vụ chế biến: Các cơ sở chế biến, các máy móc thiết bị chế biến,... đây là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng chè. Tăng cường cải tạo hệ thống cơ sở hạ tầng chế biến đã có và phát triển mới, mở rộng mạng lưới chế biến trên toàn quốc để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của sản xuất chè, dần xoá bỏ sự chênh lệch về mức sống giữa miền núi trung du và đồng bằng. 6. Nhân tố lao động Nhân tố con người có vai trò quyết định trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội nói chung và cũng là nhân tố quan trọng trong phát triển sản xuất chè. Lao động trong sản xuất chè bao gồm lao động trong trồng chè, lao động chế biến và tiêu thụ. Để đạt được năng suất, chất lượng cao trong sản xuất chè thì ngoài công nghệ chế biến hiện đại, yếu tố quan trọng hơn cả là người lao động phải có trình độ tay nghề. Trong cả ba khâu: trồng, chế biến, tiêu thụ đều đỏi hỏi người lao động phải có kỹ năng lao động. Hiện nay ở nước ta trình độ của người lao động ngày càng được nâng cao, tuy nhiên số lượng lao động này lại phân bố không đều. Vì vậy ngành chè cần phải có biện pháp phân bố lại lao động sao cho hợp lý và đào tạo nâng cao trình độ tay nghề cho lao động ở các vùng trồng chè vùng sâu, vùng xa. Với dân số 80 triệu người, cơ cấu dân cư trẻ và có gần 80% dân số sống bằng nghề nông. Có thể nói nguồn nhân lực cho nông nghiệp là rất dồi dào. Với mức độ tăng dân số như hiện nay thì bình quân mỗi năm sẽ có gần 1 triệu nguời bước vào tuổi lao động, trong đó ở nông thôn và các tỉnh miền núi là 35 vạn nguời, số lao động dôi dư sẽ tạo ra nguồn lao động to lớn để tiến hành khai hoang mở đất, đi xây dựng kinh tế mới, tận dụng những vùng đất còn tiềm năng. Mặt khác, lao động nước ta nhìn chung là rẻ, lại cần cù lao động, thông minh sáng tạo, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học công nghệ, có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp. Bởi vậy, lực lượng này thực sự đáp ứng yêu cầu và là yếu tố thúc đẩy sự phát triển trong sản xuất và xuất khẩu chè. III. tình hình sản xuất chè thế giới và kinh nghiệm sản xuất chè của một số nước 1. Tình hình sản xuất chè trên thế giới 1.1. Năng suất, sản lượng, diện tích chè của một số nước trên thế giới Trên thế giới hiện nay có 39 nước trồng chè với diện tích 2,5 triệu ha và sản xuất lượng hàng năm biến động trên dưới 2 triệu tấn. Năng suất bình quân chưa vượt quá 4 tấn/ha. Nước có sản lượng cao nhất hiện nay là ấn Độ với sản lượng bình quân trong 3 năm 2000-2002 là 870 nghìn tấn chè khô. Đây cũng là nước có tốc độ tăng cao nhất thế giới là 150% trong vòng từ năm 1989-1995. Kế tiếp đó là Trung Quốc 630 nghìn tấn, Srilanca 320 nghìn tấn. Năm nước có diện tích trồng lớn nhất là Trung quốc, ấn độ, Srilanca, Thổ nhĩ kỳ và Indonesia đã chiếm 75% diện tích chè trên thế giới, nước nhỏ nhất trong làng chè là Camơrun chỉ trồng 1000 ha với mức tăng trưởng 3% năm. Do áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới cũng như giống mới và mật độ trồng dày nên đã có hàng chục nước đưa năng suất bình quân đạt đến 2 tấn/ha. Đứng đầu nhóm các nước có năng suất chè cao đó là Kênya với năng suất 2,1 tấn chè khô/ha, tiếp đó là ấn Độ 1,8 tấn/ha, Srilanca 1,4 tấn/ha. Diện tích chè trên thế giới biến động bởi vì chỉ có những nước có điều kiện thiên nhiên ưu đãi mới có thể trồng và phát triển được cây chè. Về phân bố diện tích thì 12 nước châu á chiếm khoảng 88%, châu Phi là 8% (12 nước) và Nam Mỹ chiếm 4% (4 nước). Như vậy chè chủ yếu được trồng ở châu á và đây là cái nôi phát triển của cây chè với mọi điều kiện đất đai, khí hậu phù hợp với sinh trưởng của cây chè. 1.2. Diễn biến cung-cầu Cung: Năm 2002 sản lượng chè thế giới ước đạt 2,132 triệu tấn, tăng 1,5% (tương đương 32 nghìn tấn) so với cùng kỳ năm 2001, trong đó nhóm nước sản xuất và xuất khẩu chè chủ yếu tăng khoảng 20 nghìn tấn và nhóm các nước khác tăng khoảng 12 nghìn tấn. Thị trường cung chè vẫn tiếp tục tập trung vào một số nước sản xuất lớn như ấn Độ, Srilanca, Kênya, Trung Quốc, Inđônêsia. Riêng 5 nước này đã chiếm trên 85% sản lượng chè thế giới. Cầu: Năm 2002, mức tiêu thụ chè trên thế giới đạt 2,072 triệu tấn, tăng 2,4% (tương đương 49 nghìn tấn) so với năm 2001, trong đó nhóm 5 nước tiêu thụ chủ yếu vẫn là ấn Độ, Anh, Pakistan, CIS và Hoa Kỳ (chiếm khoảng 58,5% tổng mức tiêu thụ trên thế giới) tăng 5 nghìn tấn và nhóm các nước khác giảm 1 nghìn tấn. Giá chè trên thế giới: Từ năm 1997 trở lại đây có xu hướng cung vượt quá cầu. Số lượng chè xuất khẩu cao hơn nhập khẩu. Các nước nhập khẩu lớn đều giảm số lượng chè đen nhập khẩu. Do cung có xu hướng vượt cầu nên giá bình quân tính theo đồng USD ở hầu hết các thị trường đấu giá đều giảm một cách đáng kể từ năm 1998. 2. Kinh nghiệm của một số nước sản xuất chè trên thế giới Trên thế giới chỉ có khoảng hơn 30 nước là có điều kiện tự nhiên thích hợp để trồng chè trong khi đó hầu hết các quốc gia trên thế giới đều dùng chè với mức độ khác nhau. Các nước trồng chè đã tận dụng ưu thế đó để phát triển sản xuất, có những nước xem chè là cây trồng chính của đất nước như Kênya, ấn Độ... Sau đây là kinh nghiệm sản xuất chè của một số nước trên thế giới. Trung Quốc: Là nước phát hiện và sử dụng chè sớm nhất trên thế giới. Chè trở thành thứ nước uống giải khát phổ thông trong mọi tầng lớp nhân dân và được coi là 1 trong 7 thành phẩm quan trọng của đời sống nhân dân Trung Hoa. Trung Quốc là nước có điều kiện tự nhiên rất phù hợp với sản xuất chè, tận dụng lợi thế này, Trung Quốc xây dựng các vùng chè nguyên liệu, đa dạng hoá các giống chè có năng suất và chất lượng cao. Xây dựng các nghiên cứu chè cả nước, xây dựng các trường đại học và cơ sở nghiên cứu ở các tỉnh. Xuất bản các tạp chí, sách tham khảo và phổ biến tài liệu khoa học kỹ thuật trồng và chế biến chè. Đặc biệt Trung Quốc rất chú trọng phát triển văn hoá trà: xây dựng các nhà bảo tàng văn hoá, biên soạn các tác phẩm về trà, tổ chức các lễ hội văn hoá trà, trà sử, trà pháp... Điều này đã thu hút nhiều du khách và nâng cao được vị thế của chè Trung Quốc trên thị trường thế giới. ấn Độ: Đây cũng là nước có truyền thống lâu đời về phát triển chè, có hai vùng sản xuất chè nguyên liệu lớn là vùng Assam và vùng chè Kêrala. Các vùng chè này rất quan tâm đến việc phát triển khoa học kỹ thuật tập trung tại các trạm nghiên cứu chè Tocklai, UPASI, xuất bản các tạp chí nghiên cứu về chè. Ngoài ra, ấn độ còn thành lập các trung tâm đấu giá chè lớn trên toàn quốc như: Calcuta, Guwahati, Siliguri,... Kênya: Kênya là nước sản xuất chè còn non trẻ mới trỗi dậy trong thế kỷ XX. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi từ 1903 đến 1990, đã phát triển nhanh chóng, đạt chất lượng tốt với giá bán cao. Sở dĩ có được thành công này ngoài yếu tố điều kiện tự nhiên thuận lợi, ngành chè Kênya đã áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật tiến tiến trên thế giới vào sản xuất chè đó là quy trình sản xuất chè đen CTC. Ngoài ra Chính phủ Kênya còn đưa ra các chính sách khuyến khích phát triển ở cả ba thành phần kinh tế, nhất là công tác nghiên c._.ứu và phổ biến khoa học kỹ thuật. Các viện nghiên cứu chè đã được thành lập, có các bộ môn nghiên cứu thực vật học, hoá học môi trường sinh thái, công nghệ chế biến... Nga: Nga là một nước sản xuất chè lớn và cũng là một trong những nước tiêu thụ chè lớn nhất thế giới hiện nay. Ngành chè ở Nga rất chú trọng phát triển khoa học kỹ thuật đặc biệt ở khâu trồng chè. Người ta trồng chè theo từng hàng, khoảng cách giữa các hàng là 1,5-1,75 cm, khoảng cách giữa các cây là 0,35 cm, lượng hạt giống dùng cho 1 ha là 150 kg. Khi phân chia lô chè người ta đặc biệt chú ý tới độ thẳng của từng hàng chè và san phẳng mặt đất giữa các hàng chè để khi cơ giới hoá thì quá trình như đốn chè, thu hoạch búp và các quá trình canh tác khác không bị sai lệch khi làm việc Nhật Bản: Nhật Bản vốn là nước sản xuất và xuất khẩu chè xanh lâu đời trên thế giới. Nhật Bản là nước trồng chè có nền kinh tế phát triển, do đó giá nhân công cao thêm vào đó là khả năng công nghệ cao nên họ chủ yếu tiến hành cơ giới hoá trên đồi chè. Nhà nước coi trọng đầu tư vào nông nghiệp ở khâu giống tốt và các biện pháp quản lý chăm bón vườn chè bằng hoá chất. Nhà nước ban hành chế độ khen thưởng và đăng ký giống chè nên đã thông qua được trên 60 giống chè mới. Vườn chè có năng suất 18 tấn búp/ha phải tuân theo quy trình bón nghiêm ngặt: N 540 kg, P2O5 180 kg, K2O 270 kg, bón nhiều lần. Sử dụng cơ khí nhỏ trong công tác chăm sóc. Hầu hết các nước sản xuất chè chính trên thế giới như ấn Độ đều là những nước đang phát triển. Việc phát triển ngoài mục đích đem về cho đất nước một nguồn ngoại tệ lớn mà nó còn giúp thực hiện các mục đích xã hội khác. Những nước này mở rộng sản xuất dựa vào lực lượng lao động nông thôn dồi dào, giá nhân công rẻ. Tuy vậy do coi trọng phát triển chè họ cũng đầu tư vào công nghệ chế biến cho năng suất cao, chất lượng tốt, từ đó nâng cao giá thành và uy tín sản phẩm xuất khẩu trên thị trường thế giới. Chương II Thực trạng sản xuất chè ở Việt Nam trong những năm qua I. Trồng chè 1. Địa bàn phân bố cây chè Hiện nay, cả nước có 33 tỉnh trồng chè với diện tích năm 2002 là 100.061 ha chia thành 4 vùng trồng chè lớn theo bảng sau đây: Bảng 1: Các vùng trồng chè ở Việt Nam (số liệu năm 2002) Vùng Số tỉnh trồng chè Diện tích (ha) % so với cả nước Cả nước 33 100.061 100 Vùng Trung du Miền núi Bắc Bộ 14 63.964 63,9 Vùng Đồng bằng sông Hồng 6 3.778 3,8 Vùng Duyên hải Miền Trung 9 8.997 9,0 Vùng Tây Nguyên 4 23.322 23,3 *Nguồn: Tổng hợp từ số liệu thống kê Từ bảng trên cho thấy, chè được trồng chủ yếu ở vùng Trung du Miền núi Bắc Bộ. đây là vùng chiếm ưu thế về diện tích, sản lượng và chất lượng so với các vùng chè khác trong cả nước. Tại đây đã hình thành nhiều sản phẩm chè đặc sản truyền thống nổi tiếng như chè Tà Sùa, chè Shan Tuyết, chè Suối Giàng, chè Tân Cương... Hiện đang trồng thử nghiệm nhiều giống chè nhập của Đài Loan, Nhật Bản, Trung Quốc, ấn Độ có chất lượng cao. Đây là vùng có nhiều lợi thế sản xuất chè so với các vùng khác về điều kiện khí hậu, địa hình, đất đai, kinh nghiệm trồng và chế biến chè. Đứng thứ hai về diện tích là vùng Tây Nguyên bao gồm các tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Lâm Đồng. Năm 1995 diện tích chè cả vùng là 15.217 ha nhưng đến năm 2002 tổng diện tích là 23.332 ha chiếm 23,3% so với cả nước sau một thời gian dài trồng thử nghiệm chè ở tỉnh Lâm Đồng mà trung tâm là hai huyện Bảo Lộc và Di Linh. Trong 33 tỉnh trồng chè, có 9 tỉnh được ngành chè xếp vào các tỉnh trọng điểm trồng chè về diện tích, sản lượng, chất lượng, khả năng áp dụng khoa học kỹ thuật cũng như công nghệ chế biến chè. Tổng diện tích chè của 9 tỉnh này đạt 80.754 ha, chiếm 80,7% diện tích chè toàn quốc. Dưới đây là diện tích trồng chè năm 2002 của 9 tỉnh trọng điểm: Tỉnh Lai Châu: 2.342 ha. Tỉnh Sơn La: 3.205 ha. Tỉnh Thái Nguyên: 13.358 ha. Tỉnh Hà Giang: 12.356 ha. Tỉnh Tuyên Quang : 4.177 ha. Tỉnh Lào Cai: 3.545 ha. Tỉnh Yên Bái: 11.4.7 ha. Tỉnh Phú Thọ: 8.437 ha. Tỉnh Lâm Đồng: 22.018 ha. Trong 9 tỉnh trên thì có 8 tỉnh thuộc vùng Trung du Miền núi Bắc Bộ và 1 tỉnh thuộc vùng Tây Nguyên. Trong đó 5/9 tỉnh có diện tích trên 10.000 ha, Lâm Đồng là tỉnh có diện tích chè lớn nhất nước (22.018 ha), chiếm 22% tổng diện tích chè năm 2002. 2. Diện tích, năng suất, sản lượng chè cả nước. Chè là cây công nghiệp lâu năm phát triển không bột phát như những cây công nghiệp lâu năm khác như cây cà phê, cao su, hồ tiêu, cây chè phát triển ổn định và vững chắc. Điều này được thể hiện qua bảng sau: Bảng 2: Quá trình phát triển cây chè thời kỳ 1995-2002 Năm Diện tích Sản lượng Nghìn ha Chỉ số phát triển so với năm trước Nghìn tấn búp khô Chỉ số phát triển so với năm trước 1995 66,7 99,1 40,2 95,7 1996 74,8 112,1 46,8 116,4 1997 78,6 105,1 52,2 115,5 1998 77,4 98,5 56,6 108,4 1999 84,8 109,6 70,3 124,2 2000 89,9 106,0 78,9 112,2 2001 92,3 102,7 80,0 101,1 2002 100,1 108,5 85,6 107,5 *Nguồn: Tổng cục thống kê, Tổng công ty Chè Việt Nam Đặc biệt từ khi có quyết định số 43/1999/QĐ-TTg ngày 10/3/1999 của Thủ tướng Chính phủ về kế hoạch sản xuất chè năm 1999-2000 và định hướng phát triển chè đến năm 2005-2010 thì ngành chè Việt Nam đã có buớc phát triển quan trọng. Trong 3 năm 2000-2002, diện tích và sản lượng chè đều tăng nhanh. Năm 2002 diện tích chè cả nước đạt 100.061 ha, trong đó diện tích chè kinh doanh là 77.541 ha. Trong năm này cả nước trồng mới được hơn 10 nghìn ha chè, trong đó các tỉnh có diện tích trồng mới lớn là Lâm Đồng 1.500ha, Hà Giang 1.448 ha, Lào Cai 1.045 ha, Yên Bái 1.028 ha, Thái Nguyên 833 ha, Nghệ An 750 ha, Sơn La 600 ha, Phú Thọ 544 ha. Dưới đây là số liệu sản xuất chè trong 2 năm 2000 và 2002 Bảng 3: Diện tích, năng suất, sản lượng chè Việt Nam qua 2 năm 2000, 2002 Đơn vị:Diện tích: ha, năng suất: tấn/ha, sản lượng: nghìn tấn Vùng Năm 2000 Năm 2002 Diện tích Diện tích trồng mới Diện tích kinh doanh Năng suất Sản lượng Diện tích Diện tích trồng mới Diện tích kinh doanh Năng suất Sản lượng Cả nước 89.942 5.699 71.587 4,96 355.080 100.061 10.119 77.541 4,97 385.251 Tr. đó: 9 tỉnh trọng điểm 72.666 4.646 58.121 5,33 309.860 90.660 8.266 62.890 5,34 355.561 Trung du Miền núi Bắc Bộ 56.566 4.692 43.608 4,72 205.719 63.964 7.398 46.580 4,85 225.732 Đồng bằng sông Hồng 3.588 50 3.198 3,11 9.934 3.778 190 3.536 3,13 11.080 Duyên hải Miền Trung 8.067 897 5.466 3,75 20.517 8.997 930 5.768 3,77 21.771 Tây Nguyên 21.721 78 19.315 6,16 118.910 23.322 1.061 21.657 5,85 126.668 *Nguồn: Tổng hợp từ số liệu thống kê Qua bảng số liệu trên ta thấy : Vùng Trung du Miền núi Bắc Bộ : Đây là vùng có quy mô lớn nhất cả nước, năm 1995 diện tích của cả vùng là 42.270 ha chiếm 63,4% diện tích cả nước, trong đó chè kinh doanh là 32.614 ha chiếm 61,5% tổng diện tích chè kinh doanh của cả nước, năng suất bình quân đạt 3,4 tấn/ha. Tính đến năm 2000 cả vùng có diện tích trồng chè là 56.566 ha chiếm 62,89% diện tích cả nước (trong đó chè kinh doanh là 43.608 ha). Năng suất bình quân cả vùng năm 2000 đạt 4,72 tấn/ha, các tỉnh có năng suất bình quân cao như Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Thái Nguyên, Lai Châu, Sơn La, Hoà Bình đều đạt trên 5 tấn/ ha. Nói chung năng suất vùng này rất cao và đồng đều. Theo kết quả điều tra năm 1995, số diện tích đạt trên 5 tấn/ha chiếm 30,2% và dưới 2 tấn/ha chiếm khoảng 21,3% toàn vùng. Vùng Đồng bằng sông Hồng: Do điều kiện địa hình, đất đai, thiên nhiên đây không phải là vùng có thế mạnh về chè. Vì vậy chè được trồng trên một số địa hình bán sơn địa: Hà Tây, Hà Nội, Ninh Bình và một số nơi khác nhưng diện tích không đáng kể. Tính đến năm 1995, tổng diện tích chè toàn vùng là 1.862 ha (chiếm 2,4% tổng diện tích cả nước), tổng sản lượng chè búp tươi là 7.034 tấn (chiếm 3,9% cả nước). Đến năm 2000, tổng diện tích chè trong vùng đã tăng lên 3.588 ha chiếm 3.8% tổng diện tích cả nước, sản lượng chè búp tươi là 9.934 tấn, năng suất bình quân đạt 3,2 tấn/ha, trong đó chủ yếu là Hà Tây chiếm 70% diện tích trồng chè toàn vùng. Riêng Hải Dương có 8 ha chè thuộc nông trường Chí Linh, có năng suất đạt trên 4,5 tấn/ha . Còn ở Hà Tây chè được trồng nhiều nhất ở Ba Vì nhưng co tới 39,7% diện tích có năng suất dưới 2 tấn/ha. Vùng Duyên hải Miền Trung: Đây là một trong những vùng có lịch sử sản xuất chè sớm nhất ở nước ta. Đến đầu thế kỷ XX, nhiều vùng sản xuất chè được hình thành ở Quảng Nam, các trung tâm chính như: Đà Nẵng khoảng 500 ha, Duy Xuyên 400 ha, Tam Kỳ 100 ha. Dần dần mở rộng ra các vùng khác như Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Trị. Tính đến năm 1995, diện tích chè toàn vùng là 7.381 ha, đến năm 2000 diện tích đã tăng lên 8.067 ha chiếm 9% diện tích chè cả nước, năng suất trung bình đạt 3,75 tấn/ha. Toàn vùng có 4 nông trường quốc doanh: Bình Định có 2 nông trường là Hoài Ân và Vĩnh Thanh, Quảng Ngãi có nông trường Bình Khương và Quảng Nam có nông trường Quyết Thắng. Vùng Tây Nguyên: Năm 1995 diện tích chè cả vùng đạt 15.217 ha nhưng đến năm 2000 lên tới 21.721 ha chiếm 24,2% diện tích chè cả nước, năng suất bình quân 6,16 tấn/ha. Đến năm 2002 diện tích chè vùng đạt 23.322 ha, năng suất 5,85 tấn/ha, sản lượng cả năm đạt 126.168 tấn. Như vậy, so với những mục tiêu mà ngành chè đặt ra năm 1995 thì diện tích chè cả nước đạt 108,6% (số liệu dự kiến diện tích chè năm 2000 là 82,9 nghìn ha, số liệu thực tế đạt 90,0 ha). Về sản lượng năm 2000 thực tế đạt 355.080 tấn chè búp tươi, so với dự kiến của phương án quy hoạch chè năm 1995 là 103,5% (mục tiêu dự kiến là 342.960 tấn). Riêng vùng Trung du Miền núi Bắc Bộ so với mục tiêu đặt ra thì năm 2000 đạt 113% về diện tích và 95% về sản lượng. Về năng suất , năm 2000, bình quân chung cả nước đạt 49,6 tạ/ha bằng 95% năng suất dự kiến trong phương án quy hoạch năm 1995. Nhịp độ tăng năng suất chè bình quân giai đoạn 1997-2002 đạt 8,8%/năm. Nhìn chung chúng ta đã thực hiện được hầu hết các mục tiêu đề ra năm 1995 cho giai đoạn 1995-2000 và cho 2 năm 2002, 2002, mức độ sai khác chỉ khoảng 5%. Đến năm 2002, cả nước trồng mới trên 10.000 ha chè nên đã đưa tổng diện tích chè lên 100.061 ha bằng 103,8% diện tích dự kiến vào năm 2010 của quy hoạch chè năm 1995. Một số tỉnh có diện tích năm 2002 vượt con số dự kiến vào năm 2010 do Tổng công ty chè Việt Nam xây dựng vào năm 1999 như Hà Giang có 12 nghìn ha (so với dự kiến là 9 nghìn ha), Yên Bái có 11 nghìn ha (dự kiến 8,5 nghìn), Thái Nguyên có 13,3 nghìn ha (dự kiến là 12 nghìn ha). Năm 2002, tổng sản lượng chè búp tươi đạt trên 385 nghìn tấn tương đương 85,6 nghìn tấn búp khô trong đó xuất khẩu 53 nghìn tấn đạt 54 triệu USD, hầu hết được thục hiện bởi các thành viên của hiệp hội chè Việt Nam. Nhịp độ tăng năng suất giai đoạn 1998-2002 bình quân đạt 12,2%/năm. Công ty Chè Mộc Châu có năng suất bình quân cao nhất nước đạt 14,5 triệu tấn vào năm 2001. Năm 2002, năng suất bình quân đạt 16 tấn/ha, đặc biệt có vườn chè đạt năng suất 20-25 tấn/ha. Tổng sản lượng của các công ty thuộc Tổng công ty Chè đạt trên 45 nghìn tấn, tương đương 10 nghìn tấn búp khô. 3. Hiện trạng giống chè Việt Nam 3.1. Quá trình chuyển dịch cơ cấu giống chè Hiện nay tổng diện tích chè cả nước ta hiện có hơn 100 nghìn ha, cơ cấu giống chè bao gồm: giống chè Trung du chiếm 62,7%, giống chè Shan Tuyết chiếm 31,1%, giống chè cành nhập nội là 5,5%, còn lại là giống khác chiếm 0,7%. Cơ cấu chè đã có sự thay đổi nếu ta so sánh với năm 1992: giống Trung Du chiếm 70,9%, giống Shan Tuyết chiếm 27,3%, các giống khác là 1,8%. Nhìn chung giống chè Trung Du vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất, phân bố chủ yếu ở các tỉnh trung du và vùng núi thấp như Tuyên Quang, Phú Thọ, Thái Nguyên, Yên Bái, các tỉnh khu 4 cũ. Tiếp đến là giống chè Shan Tuyết phân bố ở các tỉnh vùng cao trên 500 m so với mực nước biển như Hà Giang, Lai Châu, Sơn La, Yên Bái, Lâm Đồng. Số còn lại là chè cành được trồng ở vùng thấp được tuyển chọn nhập nội như PH1, TRI777, Bát Tiên, Kim Huyên, Vân Sương, Yabukita, giống lai LD1, LD2. Tuy nhiên, quá trình chuyển dịch cơ cấu chè nước ta vẫn diễn ra chậm. Nguyên nhân là tâm lý người trồng chè vẫn giữ cách trồng chè bằng hạt, vì nếu chuyển sang cách trồng chè mới bằng cành thì chi phí đầu tư cao gấp 4 lần so với cách trồng cũ, trong khi trồng chè bằng cành đòi hỏi phải tuân theo một quy trình nghiêm ngặt. Mặt khác, các giống chè mới đang trong giai đoạn thử nghiệm nên chưa thể phổ biến đến các vùng trong cả nước. 3.2. Chất lượng các giống chè Việt Nam Thực tế trồng chè cho thấy hai giống chè Trung du và Shan Tuyết là hai nhóm giống chè chiếm tỷ trọng lớn nhất và đại diện cho hai mức địa hình, tuy nhiên năng suất và chất lượng của hai giống chè này không cao. Giống Trung du trồng bằng hạt lấy ngay từ nương chè để sản xuất đại trà, không được chọn lọc từ giống đầu dòng nên sinh trưởng không đều, năng suất thấp, nguyên liệu không đồng đều, chất lượng kém hương. Giống Shan Tuyết chưa được tuyển chọn theo quy trình chuẩn, chất lượng kém. Chất lượng chè ở Việt Nam đã làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm chè Việt Nam trên thị trường thế giới. Đây là vấn đề bức xúc được nhiều người trong và ngoài nước quan tâm. Chúng ta đã đi quá chậm trong việc nghiên cứu và triển khai. Năm 1994, thông qua liên doanh, liên kết đã có du nhập một số giống chè đặc sản của Đài Loan, Trung Quốc như Bát Tiên, Kim Huyên,Thuý Ngọc, Vân Sương... qua theo dõi đặc điểm hình thái của một số giống chè nhập nội cho thấy: các giống chè Trung Quốc, Đài Loan đều có tán bụi, kích thước lá trung bình. Nhìn chung sau một năm trồng thử nghiệm có tỷ lệ sống không quá 80%. Năng suất chè nhập nội chưa cao nhưng chất lượng tỏ ra nhiều triển vọng. Trong tập đoàn giống chè Việt Nam phải nghiên cứu đến các giống chè truyền thống như chè Tà Sùa, chè Suối Giàng, chè Tân Cương và các giống đặc sản như chè đắng, chè dây. tuy nhiên diện tích các loại chè này còn nhỏ lẻ, chưa quản lý được chất lượng, thương hiệu chưa được khẳng định, còn bị lợi dụng dẫn đến làm giảm uy tín những loại chè này trên thị trường. Năm 1999, chúng ta đã có tập đoàn quỹ gen của trên 100 giống chè có nguồn trong và ngoài nước tập trung tại vườn tiêu bản giống của Viện nghiên cứu chè. Tuy nhiên việc khai thác tiềm năng này còn quá ít do nhiều nguyên nhân. Trước thực trạng giống chè Việt Nam và những đòi hỏi gay gắt của thị trường tiêu thụ, quyết định số 43/1999/QĐ-TTg của Chính phủ cho phép nhập khẩu 2 triệu hom chè giống và sau đó là dự án phát triển giống chè đầu dòng cao sản nhập từ Nhật Bản. Hiện nay dưới sự chỉ đạo của Tổng công ty Chè Việt Nam, 2 triệu hom chè trên đã được triển khai và trồng khảo nghiệm ở nhiều vùng trong cả nước. Tổng diện tích trồng được là 53,7 ha. Tổng công ty chè đã giao cho Viện nghiên cứu chè tiến hành những nghiên cứu theo dõi sự thích ứng của các giống. Phải nói ngành chè đã triển khai giống tích cực, nghiêm túc và khoa học, bước đầu đã có những kết quả khả quan. Còn dự án phát triển giống chè cao sản nhập từ Nhật Bản giao cho công ty chè Mộc Châu với toàn bộ số hom chè giống về giâm ươm. Tại công ty chè Mộc Châu ươm 120 bầu giống chè hom, chủ yếu là Iatakamidori đạt tỷ lệ sống 50%, đủ trồng 50 ha. Giống Iatakamidori là giống chiếm 80% tại Nhật Bản nhưng không phù hợp với điều kiện ở Việt Nam đến năm thứ ba thì lụi chết. Giống Yabukita phát triển được nhưng năng suất chưa cao, búp nhỏ, chóng xòe, vị ngọt nhạt. Tuy nhiên, giống chè này đòi hỏi chế độ chăm sóc rất khắt khe mà trong điều kiện trồng đại trà ở nước ta khó có thể làm được. Nhìn chung các giống chè ngon thường khó làm, hay bị sâu bệnh nhất là bệnh nhện đỏ. Tóm lại việc trồng thử nghiệm các giống chè nhập nội tại các công ty chè là một thuận lợi và hợp lí nhưng có một hạn chế là các công ty chè hầu như đã hết quỹ đất. Vì vậy, việc trồng mới đều phải hợp tác với các đơn vị ở địa phương nên việc quản lý các quy trình kỹ thuật gặp rất nhiều khó khăn. 3.3. Chất lượng các vườn chè Hiện nay cả nước có 100.061 ha chè, trong đó chè kinh doanh là 77.541 ha chiếm 77,5% tổng diện tích chè và chè kiến thiết cơ bản và phục hồi là 22.520 ha chiếm 22,5%. Đối với chè kinh doanh năng suất không đồng đều, biên độ năng suất rất lớn từ 1,6 tấn/ha đến 25 tấn/ha. Chè kiến thiết cơ bản có đến 60% diện tích do nhân dân tự trồng, đầu tư ban đầu không đủ, làm đất không kỹ, giống tạp, dùng hạt là chủ yếu, thiếu phân bón nên sinh trưởng kém, trong đó có diện tích đáng kể của chương trình 327. Diện tích chè phục hồi thường là đã đến kỳ kinh doanh nhưng do nguyên nhân giá thành cao, thiếu lao động, ít quan tâm chăm sóc nên mật độ thấp, tỷ lệ mất khoảng lớn, để hoang hoá. Nếu muốn có kết quả kinh doanh phải tập trung cải tạo một vài năm. Tuy nhiên, có một số diện tích quá già cỗi, tàn kiệt, mất khoảng lớn, sâu bệnh phá hoại nặng, bị trâu bò dẫm đạp, có đầu tư cũng không đạt hiệu quả nên cần thanh lý. Qua điều tra điểm có thể chia vườn chè ở 4 cấp chất lượng sau đây: - Vườn chè có chất lượng tốt chiếm 20%: Đây là những vườn chè đảm bảo mật độ chuẩn (18.000 cây/ha), cây sinh trưởng tốt, năng suất bình quân đạt trên 10 tấn búp tươi/ha. -Vườn chè có chất lượng trung bình chiếm 50%: vườn chè đảm bảo 90% mật độ chuẩn, được chú ý đầu tư, năng suất bình quân trên 5 tấn/ha. -Vườn chè chất lượng kém, cần được phục hồi chiếm 20-22%: Vườn chè mất khoảng lớn, chỉ đạt 70% mật độ chuẩn, không được đầu tư, năng suất 2-3 tạ/ha. -Vườn chè cần thanh lý chiếm 8-10%: đây là vườn chè già cỗi hoặc sâu bệnh, gia súc phá hoại, mất khoảng lớn không thể phục hồi được. Nhìn chung, các vườn chè do Tổng công ty Chè Việt Nam quản lý hầu hết chất lượng tốt. Các vườn chè kém chất lượng thường tập trung ở vùng sâu, vùng xa nơi trình độ dân trí thấp và cuộc sống còn khó khăn. 3.4. Những biện pháp kỹ thuật thâm canh chủ yếu Sử dụng phân bón: Hiện nay nhiều vườn chè xuống cấp do bón phân không đúng cách, thiếu phân lót bón thúc vô cơ, chỉ có đạm thuần tuý. Hiệu quả là độ màu mỡ của đất giảm nghiêm trọng, độ mùn kém, đất chai cứng, chua, mất cấu tượng, các chỉ số dinh dưỡng đều dưới mức cho phép. Kết quả phân tích 482 mẫu đất đại diện cho 1.500 ha ở các công ty chè Phú Sơn, Sông Cầu, Nghĩa Lộ, Thanh Niên cho thấy PH < 4 có 358 mẫu (chiếm 74%), hàm lượng mùn < 2% có 231 mẫu (chiếm 68,6%), đạm tổng số trung bình đến nghèo chiếm 88,2% (trong đó nghèo 30%), P2O5 tổng số nghèo là 417 mẫu (chiếm 86,5%), K2O tổng số nghèo 20%. Chăm sóc vụ đông xuân: Đông xuân không phải là mùa thu hoạch chè nhưng là thời gian phục hồi, tích luỹ năng lượng nuôi dưỡng cây. Các biện pháp chăm sóc có ảnh hưởng quyết định đến sinh trưởng và phát triển của cây chè, đồng thời ảnh hưởng tới năng suất và sản lượng cả năm. Các công việc của chăm sóc vụ đông xuân bao gồm: tưới nước, bón phân, đốn và phun thuốc cho chè. Biện pháp chăm sóc vụ đông xuân rất được chú trọng ở các công ty thuộc Tổng công ty Chè Việt Nam . Sử dụng thuốc bảo vệ thực vật: Qua điều tra, sâu bệnh hại chè chủ yếu là nhện đổ, rầy xanh, rầy nâu, sâu cuốn lá, rệp, bệnh thối đen, thối nâu. Các loại thuốc trong danh mục được sử dụng cho chè gồm: Seleczon, Bassa, Cormite, Padar, Fugura... Biện pháp phòng trừ dịch hại tổng hợp (IPM) còn ít được áp dụng. Đa phần khi phát hiện ra sâu bệnh là dùng thuốc. Thậm chí một số nơi còn dùng thuốc cấm sử dụng trên cây chè. Thời gian cách ly cho đến khi thu hoạch chè cũng không được đảm bảo (dưới 10 - 15 ngày). Kết quả việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật không đúng cách đã dẫn đến dư lượng thuốc trên chè, ảnh hưởng đến tâm lý sử dụng chè trong nước và khó khăn khi xuất khẩu. Đây là báo động đỏ cho vị thế và uy tín của chè Việt Nam trên thị trường thế giới. Tuy vậy việc quản lý sử dụng thuốc bảo vệ thực vật ở các công ty chè thực hiện khá tốt. Các số liệu phân tích mẫu từ năm 1998 đến năm 2002 cho thấy dư lượng các chất Methylparathion, Tricholorphin, Cypermethrin, Fenvalerate.. đều giảm dưới mức cho phép của FAO và EU. Riêng năm 2001, mẫu OP của Mộc Châu với dư lượng Fevalerate, mẫu FBOP của Long Phú với dư lượng Fenpropathrin còn cao gấp 2,5- 3 lần mức cho phép của EU. II. Chế biến chè Chế biến chè là một khâu rất quan trọng trong quá trình sản xuất chè. Nó vừa là một thị trường tiêu thụ chè búp tươi vừa làm tăng giá trị của sản phẩm, tạo nhiều mặt hàng, tạo điều kiện cho việc mở rộng thị trường tiêu thụ. Đến nay công nghiệp chế biến chè ở Việt Nam đã có những bước phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Nước ta đã có những cơ sở chế biến chè quy mô nhỏ, vừa và lớn với công nghệ OTD và CTC với chè đen; công nghệ chế biến chè xanh của Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản... đã tạo ra hàng chục mặt hàng với hàng trăm loại bao bì mẫu mã khác nhau. Các cơ sở chế biến đã được phủ kín ở các vùng chè lớn trong cả nước. Tỷ lệ chè qua công nghiệp chế biến chiếm khoảng 85%, còn lại là chế biến thủ công hoặc bán cơ giới. Theo số liệu điều tra, đến nay cả nước có 174 nhà máy chế biến chè, trong đó có 164 nhà máy chế biến từ chè búp tươi, tổng công suất 1.820 tấn búp tươi/ngày, năng lực chế biến 273-280 nghìn tấn búp tươi/năm (61-62 nghìn tấn sản phẩm/năm). Ngoài ra còn có hàng chục nghìn xưởng chế biến thủ công bán cơ giới và hàng vạn lò chế biến thủ công. 1. Quy mô các cơ sở chế biến Hiện nay nước ta có 174 cơ sở chế biến, qua khảo sát cho thấy cơ cấu quy mô sản xuất như sau: - Các cơ sở có quy mô lớn (công suất 30 tấn búp tươi/ngày) có 12 nhà máy với tổng công suất 481 tấn búp tươi/ngày, chiếm 28% tổng công suất. - Các cơ sở quy mô vừa: 10-28 tấn búp tươi/ngày có 46 nhà máy, tổng công suất 709 tấn búp tươi/ngày, chiếm 41% tổng công suất. - Các cơ sở quy mô nhỏ: 0,5-8 tấn búp tươi/ngày có 116 cơ sở, tổng công suất 633 tấn búp tươi/ngày, chiếm 31% tổng công suất. Như vậy, các cơ sở chế biến vùa và nhỏ chiếm tỷ trọng quá lớn cả về số lượng và tổng công suất chế biến. Ngoài các cơ sở chế biến chè thủ công tinh xảo để tạo sản phẩm đặc sản giá trị cao, còn có các cơ sở chế biến chè đen có quy mô nhỏ không đủ các điều kiện đảm bảo yêu cầu công nghệ. Do vậy sản phẩm biểu hiện chất lượng thấp như chua, thiu, khê, khét, lẫn nhiều tạp chất... vấn đề đặt ra là hạn chế các cơ sở chế biến quy mô nhỏ, chỉ nên xây dựng các cơ sở ở vùng sâu, vùng xa, vận chuyển nguyên liệu khó khăn. Mặt khác, tình trạng phân bố các cơ sở chế biến chưa thực sự hợp lý. Tình trạng cấp giấy phép xây dựng không theo đúng quy hoạch vùng nguyên liệu đã làm ảnh hưởng đến năng lực sản xuất các cơ sở đầu tư lớn, hiện đại, làm giảm hiệu quả kinh tế sản xuất. 2. Thực trạng các cơ sở chế biến chè ở một số tỉnh Thực trạng cơ sở chế biến chè ở nước ta được thể hiện qua bảng số liệu sau: Bảng 4 : Thực trạng các cơ sở chế biến chè ở một số tỉnh Đơn vị: Công suất chế biến: nghìn tấn búp tươi/ năm Sản lượng: nghìn tấn búp tươi Tỉnh Số cơ sở Công suất Sản lượng Yên Bái 24 30-40 45 Hà Giang 10 6,4 20 Phú Thọ 18 45-46 31 Thái Nguyên 14 24-25 68 Lào Cai 3 3,8-4 13 Sơn La 10 18 14 Hà Tây 8 10-11 7,6 Nghệ An 6 8-9 7,6 Lâm Đồng 35 70-80 122 *Nguồn: Viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp Qua bảng số liệu trên ta thấy: - Tỉnh Yên Bái: Có 24 cơ sở, công suất 250 tấn búp tươi/ngày (có thể chế biến hết 30-40 nghìn tấn búp tươi/năm). Với sản lượng búp tươi khoảng 45 nghìn tấn, như vậy là đã khai thác hết công suất. Thời gian tới cần bổ sung dây chuyền. -Tỉnh Hà Giang: Hiện có 10 cơ sở, công suất 47 tấn búp tươi/ngày (có thể chế biến 6.400 tấn búp tươi/năm). Với sản lượng 20 nghìn tấn búp tươi/năm thì năng lực chế biến chỉ đảm bảo 30-35%, vì vậy cần bổ sung dây chuyền chế biến. - Tỉnh Phú Thọ: Có 18 cơ sở chế biến lớn, vừa và nhỏ với tổng công suất 334 tấn búp tươi/ngày (45-46 nghìn tấn búp tươi/năm). Sản lượng năm 2002 của tỉnh là 31 nghìn tấn búp tươi, thực tế các cơ sở của tỉnh phải mua nguyên liệu ở các địa phương khác nên khi xây dựng vùng chè cao sản thì vẫn cần đầu tư thêm dây chuyền sản xuất. - Tỉnh Thái Nguyên: Có 14 cơ sở với tổng công suất 174 tấn búp tươi/ngày (24-25 nghìn tấn búp tươi/năm). Ngoài ra trên địa bàn tỉnh còn có hàng chục xưỏng chế biến thủ công bán cơ giới và hàng vạn lò chế biến thủ công của các hộ gia đình. Năm 2002 toàn tỉnh sản xuất ra 68 nghìn tấn búp tươi, năng lực chế biến công nghiệp đảm nhận 50% nguyên liệu. Vì vậy cần nghiên cứu xây dựng bổ sung các nhà máy ở các chuyên canh tập trung. - Tỉnh Lào Cai: Có 3 nhà máy, tổng công suất 28 tấn búp tươi/ngày (3,8-4 nghìn tấn búp tươi/năm). Sản lượng chè búp tươi của tỉnh là 13 nghìn tấn. Vì vậy cần bổ sung thêm nhà máy chế biến. - Tỉnh Sơn La: Có 10 nhà máy chế biến, tổng công suất 125 tấn búp tươi/ngày (18 nghìn tấn búp tươi/năm). Sản lượng năm 2002 đạt 14 nghìn tấn búp tươi. Như vậy trong thời gian tới chỉ cần xây dựng nhà máy chế biến cho diện tích chè cao sản và đặc sản. - Tỉnh Hà Tây: Có 8 cơ sở chế biến, tổng công suất 67 tấn búp tươi/ngày (10-11 nghìn tấn búp tươi/năm). Sản lượng năm 2002 đạt 7,6 nghìn tấn búp tươi, gây lãng phí công suất 30%. Tỉnh cần xem xét lại việc cấp giấy phép cho các cơ sở chế biến đang và sẽ xây dựng khi chưa có vùng nguyên liệu. - Tỉnh Nghệ An: Có 6 nhà máy, tổng công suất 60 nghìn tấn/ngày (8-9 nghìn tấn búp tươi/năm). Năm 2002, sản lượng chè búp tươi của tỉnh đạt 7,6 nghìn tấn. Trong năm này tỉnh đã đưa vào sử dụng 2 dây chuyền thiết bị mới của ấn Độ công suất 36 tấn/ngày, tuy nhiên vẫn cần bổ sung dây chuyền cho sản lượng chè trồng mới. - Tỉnh Lâm Đồng: có 35 cơ sở chế biến với tổng công suất 462 tấn/ngày (70-80 nghìn tấn/năm). Sản lượng chè năm 2002 đạt 122 nghìn tấn búp tươi. Như vậy vẫn cần bổ sung các nhà máy chế biến với công nghệ tiên tiến. Tóm lại, qua thực trạng ở các tỉnh trọng điểm về trồng chè ở nước ta hầu hết các cơ sở chế biến chè của nước ta là quy mô vừa và nhỏ, công suất chế biến hạn chế, cần phải xây dựng thêm nhà máy chế biến và dây chuyền sản xuất. Tuy nhiên cũng có một số nhà máy chỉ sử dụng hết một nửa công suất. Vì vậy cần phân bố lại vùng nguyên liệu và vùng chế biến sao cho phù hợp để tránh tình trạng thừa và thiếu công suất như hiện nay. 3. Thực trạng trình độ công nghệ và thiết bị chế biến chè ở nước ta Nhìn chung toàn ngành, trình độ công nghệ chế biến chè so với thế giới chỉ ở mức trung bình yếu. Thường các cơ sở chế biến quy mô lớn đạt mức tiên tiến, quy mô vừa đạt mức trung bình yếu, quy mô nhỏ đạt mức rất thấp. Hiện nay ở nước ta chế biến chè đen theo công nghệ chế biến OTD và CTC. Thiết bị để chế chè biến công nghệ OTD là thiết bị nhập của Liên Xô cũ vào những năm từ 1957 đến 1977 có 3 dây chuyền với quy mô 13, 24, 36 và 42 tấn chè tươi/ngày. Đến nay các thiết bị đều đã cũ, sửa chữa nhiều với các thiết bị được sản xuất trong nước nên đã bộc lộ nhược điểm ở một số khâu như: lên men, lò sấy, hệ thống hút bụi, nhà xưởng cũng đã xuống cấp... nên ảnh hưởng lớn tới chất lượng sản phẩm. Do vậy cần được cải tạo nâng cấp. Thiết bị để chế biến chè đen CTC có 6 dây chuyền nhập khẩu của ấn Độ vào những năm 1980, đến nay thiết bị này chỉ hoạt động có hiệu quả ở nông trường Tô Hiệu (Sơn La), Cẩm Khê (Vĩnh Phúc) trong việc sản xuất sản phẩm chế biến xuất khẩu cho ấn Độ và đài Loan. Còn ở các nơi khác thiết bị này hoạt động kém hiệu quả, nguyên nhân do nhập thiết bị không đồng bộ, tiêu hao nguyên liệu và năng lượng cao hơn OTD, chất lượng sản phẩm kém. Năm 1997 ngành chè nhập hai dây chuyền chế biến chè đen công nghệ song đôi của ấn Độ (70% OTD và 30% CTC) tổng công suất 24 tấn tươi/ngày được lắp đặt tại Long Phú (Hoà Bình), Hàm Yên ( Tuyên Quang) nhưng đến nay vẫn thiếu vốn xây lắp nên thiết bị chưa hoạt động. Chè xanh được chế biến theo công nghệ cổ truyền và một phần theo công nghệ của Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản. Các nhà máy sản xuất chè xanh được trang bị phần lớn thiết bị của Trung Quốc với quy mô 8 tấn/ngày trở xuống. Mấy năm gần đây với hình thức liên doanh, hợp tác với nước ngoài đã đầu tư được dây chuyền chế biến chè xanh tiên tiến của Nhật Bản tại các công ty chè Sông Cầu (Bắc Thái), của Đài Loan tại công ty chè Mộc Châu và công ty Nhân Chính, Ba Vì. Bên cạnh những cơ sở chế biến còn có khoảng 20 doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn đã đầu tư vào chế biến với các thiết bị có công suất nhỏ, công nghệ phù hợp như doanh nghiệp tư nhân Thái Hoà, công ty TNHH Tân Cương (Bắc Thái), Tùng Lâm (Hoà Bình) và một số cơ sở ở tỉnh Lâm Đồng. 4. Chủng loại sản phẩm chế biến và chất lượng sản phẩm Cơ cấu chủng loại sản phẩm: Do nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế ngày càng đa dạng, nhất là trong những năm gần đây, công nghệ chế biến chè có nhiều biến đổi. Hiện nay sản phẩm chế biến của ta gồm: chè đen (gồm chè đen OTD và CTC), chè vàng, chè xanh, chè ướp hương thảo mộc, chè dẹt (Nhật Bản), chè Ô Long, Phổ Nhĩ, Thiết Quan Âm (Trung Quốc). Ngoài ra để phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng trong và ngoài nước còn có các sản phẩm chè ướp hương như: chè Sen, chè Nhài, chè Hoè, chè Sói, chè Ngâu, chè chiết suất cô đặc Pagmaro (Nga), chè bột, chè viên ngậm ( Nhật Bản), chè tan nhanh, chè thấm (chè túi nhúng) xuất khẩu sang Anh, Nhật Bản, ấn Độ, Srilanca,... Tỷ trọng giữa các loại chè này như sau: chè đen chiếm 60%, chè xanh chiếm 35% và các loại chè khác là 5% tổng sản lượng chè chế biến. Về chất lượng sản phẩm chế biến: Chất lượng sản phẩm hiện nay của ta so với năm trước có khá hơn. Các doanh nghiệp đã ý thức được rằng chất lượng sản phẩm quyết định sự tồn tại của cơ sở sản xuất. Bởi vậy, trong những năm gần đây, người ta bắt đầu coi trọng chất lượng đưa vào chế biến. Tỷ lệ chè búp tươi loại A và B trung bình đạt 60-70% tổng số nguyên liệu, nhưng do nhiều yếu tố khác nhau nên sản phẩm sau khi chế biến của ta chưa có loại tốt, loại trung bình khá trở lên chiếm khoảng 65%. Vì vậy giá bán chè cả ta nhìn chung chỉ mới đạt 80% giá của thị trường thế giới. Đây là một thách thức lớn đối với ngành công nghiệp chế biến chè của ta. Về bao bì đóng gói: Hiện tại ta xuất khẩu chè thường là nguyên liệu thành phẩm nên sản phẩm được đóng gói trong các thùng gỗ dán có hai lớp giấy chống ẩm, trọng lượng mỗi thùng 31-45 kg, bao giấy không khâu trọng lượng 35-60 kg. Loại bao bì này chỉ bảo quản 12 tháng. Đây là khâu yếu nhất trong công nghiệp chế biến xuất khẩu của ta cần được khắc phục trong thời gian tới. Hình thức sản phẩm chủ yếu là chè rời, còn chè b._. 522 (người) - Bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý (3 người / nhà máy) tính cho cả nhà máy hiện tại và xây dựng mới: 3 x (174 +65) = 417 (người) - Tập huấn khuyến nông cho khoảng 230.000 người (2 người /ha) 4.2. Hình thức đào tạo Các kỹ sư được các tỉnh cử đi học ở các trường Đại học phải có hợp đồng khi tốt nghiệp trở về địa phương công tác. Mở các lớp bồi dưỡng các cán bộ quản lý ngắn hạn cho các lãnh đạo nhà máy, các lớp bồi dưỡng này do các trường cán bộ quản lý của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm. Mở các lớp tập huấn kỹ thuật cho người trồng chè và chế biến theo phương thức khuyến nông. Công nhân kỹ thuật do các trường công nhân kỹ thuật của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đào tạo. Mặt khác, để đảm bảo chiến lược phát triển ngành chè trong dài hạn, Tổng công ty Chè Việt Nam cần phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cử cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn đi học tập hoặc tu nghiệp ở các nước có ngành sản xuất và chế biến chè tiên tiến. Ngoài ra trong các vùng trồng chè thì vùng Trung du Miền núi Bắc Bộ là vùng đất trồng chè không gặp phải sự cạnh tranh của bất kỳ loại cây nào vì cây chè là cây được trồng chính ở đây. Vùng này cũng là một trong các vùng nghèo của đất nước nên việc có đất trồng chè sẽ tạo điều kiện đem lại thu nhập cho người dân ở đây. Dùng mọi biện pháp thu hút người lao động vào làm việc ở các vùng chè nhằm giải quyết việc làm cho người lao động ở trong vùng. 5. Giải pháp về thị trường 5.1. Thị trường trong nước Nhu cầu tiêu dùng chè trong nước ngày càng cao, theo đó chất lượng chè ngày càng đòi hỏi khắt khe hơn. Xu hướng hiện nay đang có nhu cầu dùng các loại sản phẩm chè có chất lượng cao nhất là các chè đặc sản như chè Shan Tuyết, chè hữu cơ, chè hương và đặc biệt là nhu cầu chè đen cao cấp túi lọc. Vì vậy ngành chè cần tập trung vào loại mặt hàng này, nâng cao chất lượng hơn nữa, cải tiến mẫu mã cho phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Bên cạnh đó, các mặt hàng chè đen truyền thống đã có tiếng với người tiêu dùng thì cần tiếp tục duy trì chất lượng cao, cải tiến mẫu mã đẹp và giá cả chấp nhận được. Những loại chè đặc sản sống ở vùng sâu, vùng xa, đi đôi với chế biến cần phải hình thành các tổ chức cung cấp sản phẩm cho các thị trường lớn ở đồng bằng. Thị trường nông thôn chiếm gần 80% dân số hầu như còn bỏ ngỏ vì thế cần có biện pháp khuyến khích tiêu dùng ở đây bằng các sản phẩm có chất lượng trung bình, giá cả hợp lý dặc biệt là các loại chè có ướp hương hoa phù hợp với tâm lý tiêu dùng của người nông thôn. Một đặc điểm quan trọng khác của thị trường trong nước là số phụ nữ uống chè còn rất ít kể tại các đô thị, do đó cần có những nghiên cứu về tâm lý tiêu dùng của bộ phận này để đẩy mạnh sản lượng trong nước. Chẳng hạn có thể tăng cường quảng cáo công dụng của chè: làm sảng khoái tiêu dùng, minh mẫn, trẻ lâu. Tiếp tục quảng cáo, tiếp thị và xúc tiến thương mại trong nước. Đây là khâu yếu trong hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam. Hiện nay, hiệp hội chè Việt Nam có trung tâm xúc tiến thương mại ngành chè những do kinh phí hạn hẹp nên hoạt động chưa mạnh. Cần tuyên truyền, quảng cáo sâu rộng những lợi ích của việc uống chè. Đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động văn hoá trà hấp dẫn mang tính văn hoá nghệ thuật như thiết lập các mạng lưới văn hoá trà, hội chợ trà (như đã làm năm 2002 tại Công viên Tuổi trẻ). Tiếp cận với thương mại điện tử như mở các Website trên Internet để giới thiệu, quảng cáo và trao đổi tìm bạn hàng. Ngoài ra, cần giao cho Hiệp hội Chè Việt Nam và Tổng công ty Chè Việt Nam phối hợp thành lập một cơ quan duy nhất kiểm tra chất lượng cho toàn bộ sản phẩm chè trong cả nước. Nhập thiết bị kiểm tra nhanh dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trên chè nguyên liệu và chè thành phẩm, giúp cho người tiêu dùng yên tâm khi mua các sản phẩm chè. Cương quyết không tiêu thụ các sản phẩm kém chất lượng hoặc bị khuyết tật vệ sinh thực phẩm để đảm bảo uy tín với người tiêu dùng. Bộ Tài Chính kết hợp với ngành chè nhằm thống nhất trên toàn quốc tiêu chuẩn chè búp tươi cùng với giá mua hợp lý. 5.2. Thị trường xuất khẩu Mục tiêu là tiếp tục giữ vững thị trường hiện có, mở ra các thị trường mới. Cần cố gắng xâm nhập vào các thị trường tiêu thụ lớn và có độ ổn định cao đặc biệt là thị trường các nước Hồi giáo có thói quen tiêu thụ các sản phẩm nước uống có ga. Bên cạnh việc đưa ra các sản phẩm chè có chất lượng cao, giá cả hợp lý cần phải tổ chức quảng cáo và xây dựng đội ngũ tiếp thị, chuyên viên thành thạo thị trường, mở các văn phòng đại diện và giới thiệu ở các nước và các vùng. Kinh nghiệm của các nước có giá bán cao cho họ thấy họ có thể dành 10-15% chi phí trong giá thành cho mục đích tiếp thị sản phẩm. Củng cố và mở rộng thị trường nhập khẩu chè trực tiếp của Việt Nam như thị trường Trung Cận Đông. Hàng năm lượng chè của ta xuất khẩu sang thị trường này khoảng 10-20 nghìn tấn. Tuy nhiên hiện nay do tình hình chính sự đang diễn ra ở Irắc nên thị trường xuất khẩu của Việt Nam bị thu hẹp một cách đáng kể bởi vì Irắc là thị trường tiêu thụ chè lớn nhất của nước ta trong năm 2001. Vì vậy, ngành chè cần tích cực mở rộng tìm kiếm thị trường mới thay thế thị trường Irắc. Khôi phục lại thị trường Đông Âu và Nga, tiếp tục mở rộng thị trường chè ở Châu Âu, Châu á, Châu Mỹ, tìm kiếm thêm thị trường ở Châu Phi Tăng cưòng các hình thức liên doanh, liên kết và bao tiêu sản phẩm. Theo số liệu điều tra của Tổ chức Mậu dịch chè thế giới, hiện nay có 8 công ty xuyên quốc gia đang chi phối phần lớn thị trường chè ở nhiều nước sản xuất, nhập khẩu và xuất khẩu chè. Các công ty này có cổ phần tại các công ty sản xuất chè ở nhiều nước sản xuất và xuất khẩu, làm trọn các khâu nhập khẩu, đấu trộn, đóng gói bao bì và tổ chức các kênh hoặc mạng lưới tiêu thụ bán lẻ tại các siêu thị và cửa hàng. Họ có thể cạnh tranh với bất cứ đối thủ nào mơi thâm nhập vào thị trường mà họ đang hiện diện. Hiện nay Nga và Việt Nam đang là các đối tượng và mục tiêu để họ tiến hành thâu tóm các thị trường này. Vì thế trên thực tế, các doanh nghiệp cần có đối sách thích hợp hoặc là liên doanh hợp tác với các công ty đó để học tập kinh nghiệm và có cơ hội tiếp cận thị trường nhanh hơn, xây dựng thị trường ổn định lâu dài và tranh thủ được khả năng tài chính để đổi mới công nghệ ngành chè, hoặc nhanh chóng phát triển những bạn hàng cũ, liên doanh với những nhà phân phối tiêu thụ hàng ở đó như vậy thị trường sẽ sớm ổn định và có thể đầu tư trực tiếp xây dựng các cơ sở đấu trộn bao gói ngay tại các nước đó. Việc này đòi hỏi đội ngũ cán bộ phải giỏi, có bản lĩnh nghị lực, am hiểu thị trường sở tại để có thể cạnh tranh với các công ty xuyên quốc gia. Củng cố và phát huy vai trò của Hiệp hội khoa học và sản xuất chè Việt Nam trong việc hỗ trợ nghiệp vụ xuất khẩu, ổn định giá cả để tránh mua tranh, bán tranh. Thành lập các trung tâm kiểm tra chất lượng có đủ năng lực kiểm tra sản phẩm chè trước khi đưa ra thị trường xuất khẩu. Trung tâm cần phối hợp với các cơ quan chuyên môn như công ty giám định hàng hoá xuất khẩu (Bộ Thương mại) để ngăn chặn tình trạng chè không đủ tiêu chuẩn lọt ra ngoài thị trường. 6. Giải pháp về chính sách Nhiều tỉnh quan tâm đến phát triển chè, coi chè là một trong những mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, đã ban hành các chính sách khuến khích sản xuất chè, nhưng việc triển khai còn nhiều hạn chế. Song từ khi có quyết định 43/1999/TTg, các chính sách của nhà nước và các tỉnh về khuyến khích sản xuất chè được thực hiện một cách tích cực hơn. Lãnh đạo các cấp chính quyền và lãnh đạo các doanh nghiệp đã tổ chức rất nhiều đoàn tham quan, trao đổi, hoặc hỏi kinh nghiệm lẫn nhau... Tuy nhiên, để ngành chè tiếp tục phát triển ổn định, đạt năng suất, chất lượng cao thì Chính phủ cũng như lãnh đạo các tỉnh cần tiếp tục đưa ra các chính sách để khuyến khích phát triển sản xuất chè. Cụ thể: 6.1. Chính sách thuế Thuế nông nghiệp đang được thực hiện nộp 12% theo từng hạng mục đất để phát triển ngành chè, đề nghị Nhà nước miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp cho diện tích đất trồng mới ở thời kỳ kiến thiết cơ bản (4-5 năm) và giảm tỷ lệ phải nộp (trong thời kỳ kinh doanh) xuống còn 6-8% vì chè chỉ phát triển ở những vùng xa xôi, hẻo lánh, lại trồng trên địa hình dốc, hiểm trở. Đất khôi phục chè được miễn thuế 3-6 năm. Với các dự án liên doanh với ngoài thuế đất chỉ nên thu 50 USD/ha trong một năm với đất trồng chè và 100 USD/ha trong một năm với đất xây dựng nhà máy chế biến tại chỗ. Với các dự án trồng và chế biến chè xuất khẩu, thuế lợi tức nên áp dụng 100% kể từ khi kinh doanh (sau khi trồng mới 4 năm) và giảm 50% trong 4 năm tiếp theo khi cây trồng chưa có năng suất cao và ổn định. 6.2. Chính sách vốn Vốn đầu tư trong nước: Nhà nước cần có chính sách ưu đãi về lãi suất và tiền vay cho người trồng chè, trong đó danh mục là: cho người sản xuất chè, công nghiệp chế biến, trồng mới và cho vùng chè đặc sản, đặc biệt. Vốn đầu tư trồng mới theo các dự án được duyệt vay trong thời hạn 15 năm, 7 năm đầu ân hạn, lãi suất bằng lãi suất vốn vay ưu đãi đầu tư theo kế hoạch. Người làm chè phải hoàn trả vốn và lãi trong 8 năm kể từ năm thứ 8 đến hết năm thứ 15. Các ngân hàng Nông nghiệp, ngân hàng người nghèo cho các hộ gia đình làm chè được vay vốn để đầu tư thâm canh vườn chè mức 4,5 triệu đồng/ha với lãi suất đặc biệt đối với người nghèo thông qua các hoá đơn chứng từ mua vật tư, phân bón... Hộ gia đình thế chấp bằng chính vườn chè của mình (có sự xác nhận của chính quyền địa phương); ngân hàng thu hồi vốn sau 18 tháng bằng tiền bán chè búp tươi qua các cơ sở chế biến hoặc chủ thầu nguyên liệu (chủ thầu do các hộ gia đình cử ra và có sự xác nhận của chính quyền địa phương). Các ngân hàng Đầu tư và Phát triển, ngân hàng Nông nghiệp, ngân hàng cho người nghèo, cho các hộ gia đình và các doanh nghiệp làm chè được vay vốn để phục hồi vườn chè với mức 12-15 triệu đồng/ha (để phục hồi trong 3 năm) với lãi suất ưu đãi người nghèo, thế chấp vốn vay bằng vườn chè (đối với hộ gia đình), các doanh nghiệp cho vay thông qua dự án. Thời hạn hoàn trả: 3 năm đầu ân hạn và trả trong 6 năm tiếp theo. Các ngân hàng cho các doanh nghiệp vay vốn đầu tư xây dựng và cải tạo nhà máy chế biến chè theo dự án được duyệt trong 10 năm, 3 năm đầu ân hạn, lãi suất bằng lãi suất vốn ưu đãi dầu tư theo kế hoạch nhà nước, doanh nghiệp hoàn trả vốn và lãi suất trong 7 năm kể từ năm thứ 4 đến năm thứ 10. Việc vay vốn để thâm canh, cải tạo vườn chè và trồng mới chè ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa được áp dụng theo chính sách ở vùng đó. Đầu tư nước ngoài: Nhà nước cần có những sửa đổi và bổ sung trong hệ thống luật đầu tư ngoài nước, cụ thể: coi trồng chè cũng như trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, do đó các công ty liên doanh với nước ngoài, một mặt nên được hưởng như chính sách thuế nêu trên, mặt khác cho phép thời hạn liên doanh tối đa 50 năm. Được phép chủ động nhập vật tư, nguyên liệu giống mới vào công ty. Ngoài ra, đề nghị không khống chè tỷ lệ góp vốn pháp định tối thiểu của phía Nhà nước trong công ty liên doanh. Với vùng chè ở trung du và miền núi, đề nghị Nhà nước có giải pháp kết hợp giữa phát triển chè với các chương trình định canh, định cư, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, di dân và kinh tế mới... 6.3. Chính sách xuất nhập khẩu Mặc dù có thể xuất hiện những công ty tư nhân kinh doanh (sản xuất -chế biến - tiêu thụ) như luật định, đề nghị Nhà nước cần ban hành những chính sách cụ thể về mức độ, địa bàn... hoạt động của các loại công ty. Mặt khác Nhà nước cũng cần có những chính sách ưu tiên xuất nhập khẩu cho những vùng có tiềm năng sản xuất chè cao mà mức sống nhân dân trong vùng còn thấp. 6.4. Chính sách xây dựng cơ sở hạ tầng Đề nghị Nhà nước quan tâm ưu tiên đầu tư chính sách hạ tầng cho các vùng chè tập trung, phần lớn các vùng chè này đều thuộc Trung du Miền núi Bắc Bộ, đặc biệt trước hết là hệ thống điện, giao thông đi lại, đồng thời là hệ thống thông tin liên lạc, văn hoá xã hội như trường học, bệnh viên, trạm xá, chợ búa... Đề nghị các cơ quan hữu quan cần quan tâm ngay từ nay đến năm 2005. Cần hình thành một số cơ sở tổ chức và cơ sở thiết yếu sau: - Tổ chức một trung tâm đấu trộn chè nhằm nâng cao sự đồng đều các mặt hàng chè Việt Nam, tiến tới tổ chức bán đấu giá chè tại đây. - Xây dựng nhà máy sản xuất các loại bao bì đóng gói chè thành phẩm tại thủ đô Hà nội và thành phố Hồ Chí Minh. - Xây dựng viện nghiên cứu chè Việt Nam và cần hình thành một trung tâm thực nghiệm khép kín (sản xuất-chế biến) và là nơi cung cấp giống chè tốt cho toàn quốc. - Xây dựng một trung tâm cơ khí để chế tạo phụ tùng thay thế và thiết bị cho chế biến 6.5. Chính sách về chuyển giao kỹ thuật và khuyến nông Người trồng chè được hướng dẫn chuyển giao kỹ thuật trồng, chăm sóc, thu hút và chế biến chè. Nhà nước (tỉnh) trả lương cho cán bộ khuyến nông trực tiếp chỉ đạo sản xuất chè (biên chế tại doanh nghiệp) từ khi trồng mới đến khi chè vào kinh doanh định mức khoán 50 ha chè cho cán bộ khuyến nông. Mức lương theo ngạch bậc công chức theo Nhà nước quy định, nếu công tác ở vùng cao thì được hưởng chính sách đối với cán bộ công tác ở vùng cao. Cán bộ khuyến nông ngoài biên chế của doanh nghiệp, nếu địa bàn có nhu cầu sẽ được bố trí và hưởng lương theo chính sách đối với cán bộ khuyến nông của tỉnh. Tỉnh chịu trách nhiệm mở lớp đào tạo tập huấn cán bộ kỹ thuật và quản lý sản xuất chè ở các địa bàn quy hoạch. 6.6. Chính sách thu mua, chế biến và tiêu thụ sản phẩm Thu mua toàn bộ sản phẩm do người trồng chè sản xuất ra theo giá thoả thuận. Các doanh nghiệp Nhà nước được thực hiện chính sách bảo hiểm giá chè cho người trồng chè. Mức bảo hiểm bằng mức giá thành hợp lý theo thời điểm. Các doanh nghiệp chế biến được vay vốn để xây dựng mới cơ sở chế biến chè với lãi suất đặc biệt ưu đãi. Thời gian hoàn trả vốn vay theo khả năng hoàn vốn của dự án được duyệt. Khuyến khích các hộ vùng sâu, vùng xa phát triển hình thức chế biến thủ công bán cơ giới và cơ giới nhỏ với công nghệ tiên tiến, hiện đại theo chính sách này. Các cơ sở chế biến được hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước về phát triển và kinh doanh ở miền núi. Đồng thời với các chính sách nêu trên, các chính sách khác như: tín dụng ngân hàng, bảo hiểm sản xuất, đào tạo cán bộ, nghiên cứu khoa học... cũng cần được xem xét cho phù hợp. 7. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản lý ngành chè Cơ cấu tổ chức là một nhân tố quan trọng góp phần khẳng định hiệu quả sản xuất kinh doanh của một đơn vị kinh tế. Bởi vậy xét cho cùng thì việc tổ chức quản lý các yếu tố sản xuất chính là việc tổ chức và quản lý con người. Do đó hoàn thiện và đổi mới cơ cấu tổ chức quản lý luôn là vấn đề cấp thiết hàng đầu đặt ra với ngành chè Việt Nam. Công tác tổ chức sẽ đưa tới hiệu quả kinh doanh cao, tạo uy tín trên thị trường, là cơ sở mở rộng và phát triển ngành chè. Ngành chè Việt Nam đã trải qua nhiều lần thay đổi hệ thống tổ chức quản lý cho phù hợp với từng giai doạn phát triển : kể từ năm 1974-1980 thành lập Liên hiệp quản lý các xí nghiệp, đến năm 1983 thành lập Liên hiệp và xí nghiệp công nông nghiệp. Đến năm 1987 có chủ trương liên kết toàn bộ quá trình trồng, chế biến, xuất khẩu và lưu thông sản phẩm. Từ năm 1987 đến nay, sau khi có Nghị quyết 217 của HĐBT và nghị quyết 10 của Bộ Chính trị đã mở ra hướng mới cho ngành nông nghiệp nói chung và ngành chè nói riêng. Tuy nhiên để việc trồng, chế biến, tiêu thụ đạt được hiệu quả kinh tế xã hội ngành chè cần tiếp tục tăng cường hiệu lực quản lý trên phạm vi toàn ngành, hệ thống tổ chức ngành chè cần được sắp xếp lại, chuyển hướng điều hành cho khối chức năng và trực tuyến thông tin. Trước kia 47 đầu mối thuộc 23 nông trường, 18 nhà máy chế biến và 2 xí nghiệp liên hợp công nông nghiệp, nay điều chỉnh thành 29 đơn vị sản xuất và dịch vụ gồm: 23 xí nghiệp nông công nghiệp với quy mô một nông trường và một nhà máy chế biến, và 6 đơn vị dịch vụ gồm công ty xuất nhập khẩu và đầu tư phát triển, công ty dịch vụ sản xuất, nhà máy cơ khí chè, Trung tâm kiểm tra chất lượng sản phẩm, công ty xây lắp và viện nghiên cứu chè. Dưới đây là một số mô hình quản lý cấp cơ sở mà ngành chè đã từng áp dụng: Mô hình loại nhỏ: Trong một tiểu vùng đồng thời có một nông trường và một nhà máy được sát nhập lại thành một xí nghiệp công nông nghiệp, xung quanh có các cơ sở sản xuất làm vệ tinh sản xuất nguyên liệu bán cho xí nghiệp. Mô hình loại lớn: Trong một vùng có nhiều nhà máy, nhiều nông trường như Trần Phú (Yên Bái), Phú Thọ, Vĩnh Phúc,... nên thành lập các xí nghiệp liên hiệp công nông nghiệp chè. Các xí nghiệp này hạch toán độc lập. Mô hình độc lập: Là loại hình giữ theo cách quản lý cũ, nông trường và nhà máy cùng trong một vùng lãnh thổ nhưng độc lập với nhau, mỗi đơn vị hạch toán độc lập với nhau và có tư cách pháp nhân đầy đủ. Thực tế cho thấy cả ba loại hình trên thì loại hình mô hình nhỏ là thích hợp hơn cả. Bởi vì loại chè ở nước ta nằm chủ yếu ở vùng trung du miền núi, địa hình phức tạp nên với quy mô đó dễ dàng quản lý đạt hiệu quả cao. Kết luận và kiến nghị Chè là cây công nghiệp lâu năm đã khẳng định được hiệu quả sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, đặc biệt là vùng Trung du Miền núi Bắc Bộ- nơi có khoảng 300/1.300 xã trồng chè nằm trong vùng đặc biệt khó khăn. Sản xuất chè lên tục tăng trưởng, đặc biệt là trong 3 năm gần đây có bước tăng trưởng mạnh. Nhưng ngành chè nước ta đang đứng trước thách thức tiềm ẩn, đó là sự cạnh tranh quyết liệt của các nước trồng chè và cung ứng chè, cạnh tranh với các sản phẩm nước giải khát và cạnh tranh với chính sản phẩm chè nước ngoài ngay trên thị trường trong nước. Sản phẩm chè gần đây có sự phong phú về chủng loại, mẫu mã do được đầu tư công nghệ chế biến nhưng vẫn còn ở mức lạc hậu so với công nghệ chung của thế giới. Phương án quy hoạch chè đã xác định diện tích chè đến năm 2010 là 116 nghìn ha, sản lượng quy khô đạt 170 nghìn tấn, trong đó xuất khẩu đạt 220 triệu USD. Để đạt được các mục tiêu trên thì phải thực hiện đồng bộ các giải pháp, đặc biệt là các giải pháp về kỹ thuật thâm canh và công nghệ chế biến thì chất lượng chè của chúng ta sẽ đủ sức mạnh cạnh tranh trên thị trường thế giới. Quá trình hội nhập AFTA của Việt Nam đã đến và quá trình hội nhập WTO đang đến gần, đó là thách thức cũng như cơ hội lớn để ngành chè nước ta vươn lên phát triển ổn định và lâu dài. Hiện nay trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá do Đảng và Nhà nước ta khởi xướng, với chương trình phát triển kinh tế xã hội miền núi, đề nghị Đảng và Nhà nước trong những năm tới cần quan tâm hơn nữa cho phát triển ngành chè, đặc biệt trong các lĩnh vực: - Đầu tư cho nghiên cứu khoa học, chọn tạo giống chè có năng suất cao, chất lượng tốt phù hợp với điều kiện sinh thái từng vùng. - Đầu tư cho công nghệ chế biến, đặc biệt là các cơ sở chế biến nhỏ cho phù hợp với quy mô nông hộ-nông trại của nước ta. Nếu có thể, Nhà nước ban hành một tiêu chuẩn nhà máy chế biến chè, qua đó chỉ cho phép nhập công nghệ và thiết bị chế biến tiên tiến, hiện đại. - Xây dựng các cơ sở hạ tầng cho miền núi trồng chè như đường giao thông, cầu cống, đường điện cao thế, trường học, bệnh viện... để mở mang đời sống văn hoá, kinh tế cho đồng bào miền núi và cũng là để hấp dẫn đồng bào miền núi và thu hút đồng bào miền xuôi lên miền núi làm kinh tế. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Tổng quan phát triển chè Việt Nam 2001-2010, Bùi Quang Toản, Nguyễn Cảnh Khâm, Vụ QHKH-Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 2. Cây chè Việt Nam (1997), Đỗ Ngọc Quỹ, Nguyễn Kim Phong, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. 3. Quyết định số 43/1999/QĐ-TTg ngày 10/3/1999 về kế hoạch sản xuất chè năm 1999-2000 và định hướng phát triển chè đến năm 2005-2010. 4. Tổng quan phát triển chè Việt Nam đến năm 2010, Viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 5. Chiến lược phát triển nông nghiệp Việt Nam đến năm 2010, Viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 6. Dự án phát triển chè và cây ăn quả, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2001). 7. Hiện đại hoá thiết bị và công nghệ chế biến chè, Hiệp hội chè Việt Nam -tháng 4/2002. 8. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các số 1-5/2000, 3-5/2001 và 6-8/2002. 9. Tạp chí Người làm chè các số 7-12/2001 và 1-10/2002. 10. Niên giám thống kê năm 2000, 2001. 11. Luận văn các khoá 38, 39, 40 Mục lục Phụ biểu 1: Diện tích, năng suất, sản lượng chè các tỉnh năm 2002 Tỉnh Tổng diện tích (ha) Diện tích trồng mới (ha) Diện tích kinh doanh (ha) Năng suất (tạ/ha) Sản lượng (tấn) Cả nước 100.061 10.119 77.541 49,7 385.251 I. Vùng Trung du miền núi Bắc Bộ 63.964 7.398 46.580 48,5 225.732 Trong đó: 1. Lai Châu 2.342 434 729 58,2 4.240 2. Sơn La 3.205 600 2.115 67,1 14.196 3. Thái Nguyên 13.358 833 11.550 59,2 68.397 4. Hà Giang 12.356 1.448 6.752 30,2 20.394 5. Lào Cai 3.545 1.045 2.010 63,8 12.824 6. Yên Bái 11.407 1.028 8.853 50,8 450.000 7. Tuyên Quang 4.177 747 3.269 51,2 16.728 8. Phú Thọ 8.437 544 7.153 43,7 31.233 II. Vùng Đồng bằng Sông Hồng 3.778 190 3.536 31,3 11.080 Trong đó: 1. Hà Tây 2.200 100 2.050 37,1 7.610 2. Thành phố Hà Nội 640 80 560 24,3 1.359 3. Ninh Bình 500 500 20,0 1.000 III. Duyên Hải miền Trung 8.997 930 5.768 37,7 21.771 Trong đó: 1. Thanh Hoá 300 100 200 20,7 414 2. Nghệ An 5.750 750 3.328 46,5 15.482 3. Hà Tĩnh 717 38 614 39,1 2.398 4. Quảng Nam 1.330 2 876 24,5 2.150 IV. Vùng Tây Nguyên 23.322 1.601 21.657 58,5 126.668 Trong đó: 1. Gia Lai 999 43 924 43,0 3.973 2. Lâm Đồng 22.018 1.500 20.459 59,9 122.549 Phụ biểu 2: Xuất khẩu chè Việt Nam giai đoạn 2000-2002 Đơn vị: Lượng: tấn; Giá trị: 1000 USD Số TT Nước 2000 2001 2002 Lượng Giá trị Lượng Giá trị Lượng Giá trị Tổng kim ngạch 55.660 69.605 68.217 78.406 52.953 53.928 1 Irắc 18.592 30.599 22.569 29.198 3.120 4.250 2 Đài Loan 9.352 11.737 10.021 12.000 13.709 17.183 3 Nga 1.785 2.036 2.321 2.950 4.777 4.401 4 Đức 1.183 1.224 1.283 1.337 2.055 2.209 5 Ba Lan 2.468 1.981 1.978 3.012 2.551 2.139 6 Nhật Bản 1.859 2.946 1.430 1.643 1.223 1.655 7 Singapor 2.055 1.853 1.724 2.014 1.340 1.479 8 Indonesia 1.014 821 1.115 827 1.327 911 9 Trung Quốc 294 316 450 602 500 838 10 Anh 577 473 623 611 827 806 11 Mỹ 452 374 989 806 1.033 790 12 Hồng Kông 589 785 312 576 406 701 13 Hà Lan 883 742 645 712 487 568 14 Canada 1.495 929 13.245 11.210 781 498 15 Thổ Nhĩ Kỳ 157 184 315 356 428 464 16 Pháp 17 36 425 281 17 Các tiểu vương quốc ả-Rập 237 224 126 189 186 248 18 Malaysia 306 136 421 375 458 241 19 Ucraina 129 167 198 238 20 Đan Mạch 51 75 125 145 130 175 21 úc 40 50 44 54 22 Hàn Quốc 30 18 20 35 25 42 23 Italia 15 12 17 25 15 16 24 áo 12 5 10 14 13 16 25 Cộng hoà Séc 9 12 16 17 22 14 26 Thái Lan 63 41 28 14 27 11 27 Ailen 67 80 18 22 28 Bỉ 28 9 29 Bồ Đào Nha 18 24 30 Lào 26 16 31 Niu Dilân 10 9 32 Các nước khác 11.915 11.750 12.491 13.230 14.103 13.981 Phụ biểu 3: Hiện trạng các nhà máy và xưởng chế biến chè công nghiệp chủ yếu Số TT Địa bàn và nhà máy chè Công suất thiết kế (tấn tươi/ngày) Nước chế tạo thiết bị chính Nhu cầu nguyên liệu (tấn tươi/ngày) Năng lực chế biến (tấnsp/năm) Loại sản phẩm xuất khẩu/nội tiêu Tổng công ty chè Việt Nam quản lý Địa phương quản lý Lào Cai 28 4.250 850 1 Nhà máy Sơn La 16 Liên Xô 2.500 500 Xuất khẩu Địa phương 2 Xưởng Phong Hải 6 T.Quốc 1.000 200 Nội tiêu Địa phương 3 Xưởng Thanh Bình 6 T.Quốc 750 150 Nội tiêu Địa phương Yên Bái 143,5 19.000 3.800 4 Nhà máy Trần Phú 42 Liên Xô 6.000 1.200 Xuất khẩu Tổng Công ty 5 Nhà máy Nghĩa Lộ 27 Liên Xô 2.750 550 Xuất khẩu Tổng Công ty 6 Nhà máy Liên Sơn 13,5 Liên Xô 1.500 300 Xuất khẩu Tổng Công ty 7 Nhà máy Yên Bái 27 Liên Xô 2.750 550 Xuất khẩu Địa phương 8 Nhà máy Văn Hưng 16 Liên Xô 2.500 500 Xuất khẩu Địa phương 9 Nhà máy Yên Ninh 6 TQ, VN 1.000 200 Nội tiêu Tổng Công ty 10 Nhà máy Âu Lâu 12 ấn Độ 2.500 500 Xuất khẩu Hà Giang 42 3.500 7.700 11 Xưởng Hà Giang 6 500 100 Nội tiêu Địa phương 12 Xưởng Nậm Tỵ 6 500 100 Nội tiêu Địa phương 13 Xưởng Cao Bồ 6 500 100 Nội tiêu Địa phương 14 Xưởng Phương Tín 6 500 100 Nội tiêu Địa phương 15 Xưởng Thanh Thuỷ 6 500 100 Nội tiêu Địa phương 16 Xưởng Hùng An 6 T.Quốc 500 100 Nội tiêu Địa phương 17 Xưởng Việt Lâm 6 T.Quốc 500 100 Nội tiêu Địa phương Phụ biểu3 (tiếp theo) Số TT Địa bàn và nhà máy chè Công suất thiết kế (tấn tươi/ngày) Nước chế tạo thiết bị chính Nhu cầu nguyên liệu (tấn tươi/ngày) Năng lực chế biến (tấnsp/năm) Loại sản phẩm xuất khẩu/ nội tiêu Tổng công ty chè Việt Nam quản lý Địa phương quản lý Tuyên Quang 91 11.250 2.250 18 Nhà máy Tuyên Quang 48 Liên Xô 7.000 1.400 Xuất khẩu Địa phương 19 Nhà máy Tháng Mười 16 Liên Xô 1.500 300 Xuất khẩu Địa phương 20 Nhà máy Tân Trào 17 Liên Xô 2.750 550 Xuất khẩu Địa phương Phú Thọ 210,5 29.500 5.900 21 Nhà máy Phú Thọ 60 LX, ấn Độ 9.000 1.800 Xuất khẩu Tổng công ty 22 Nhà máy Hạ Hoà 36 ấn Độ 7.500 1.500 Xuất khẩu Tổng công ty 23 Nhà máy Đoan Hùng 27 Liên Xô 2.500 500 Xuất khẩu Tổng công ty 24 Nhà máy Phú Sơn 32 Liên Xô 4.000 800 Xuất khẩu Tổng công ty 25 Nhà máy Thanh Niên 24 Liên Xô 2.500 500 Xuất khẩu Tổng công ty 26 Nhà máy Tân Phú 13,5 Liên Xô 1.500 300 Xuất khẩu Tổng công ty 27 Nhà máy Cẩm Khê 12 ấn Độ 2.000 400 Xuất khẩu Địa phương 28 Xưởng Hương Sơn 6 Việt Nam 500 100 Xuất khẩu Địa phương Thái Nguyên 81,5 12.250 2.450 29 Nhà máy Quân Chu 13,5 Liên Xô 1.500 300 Xuất khẩu Tổng công ty 30 Nhà máy Sông Cầu 16 Nhật 2.000 400 Xuất khẩu Tổng công ty 31 Xưởng Đại Từ 12 TQ, VN 1.500 300 Xuất khẩu Tổng công ty 32 Nhà máy Phú Lương 12 ấn Độ 2.500 500 Xuất khẩu Tổng công ty 33 Nhà máy Định Hoá 12 ấn Độ 1.250 500 Xuất khẩu Tổng công ty 34 Xưởng Quán Vuông 10 TQ, VN 1.000 250 Xuất khẩu Tổng công ty 35 Xưởng Bắc Sơn 6 Đài Loan 1.500 200 Xuất khẩu Tổng công ty Phụ biểu 3 (tiếp theo) Số TT Địa bàn và nhà máy chè Công suất thiết kế (tấn tươi/ngày) Nước chế tạo thiết bị chính Nhu cầu nguyên liệu (tấn tươi/ngày) Năng lực chế biến (tấnsp/năm) Loại sản phẩm xuất khẩu/nội tiêu Tổng công ty chè Việt Nam quản lý Địa phương quản lý Lạng Sơn 12 1.500 300 36 Xưởng Thái Bình 12 Liên Xô 1.500 300 Xuất khẩu Quảng Ninh 6 1.000 200 37 Xưởng Hạ Long 6 Trung Quốc 1.000 200 Nội tiêu Sơn La 78 7.500 1.500 38 Nhà máy Mộc Châu 42 Liên Xô 3.500 700 Xuất khẩu Tổng công ty 39 Nhà máy Tô Hiệu 12 ấn Độ 1.500 300 Xuất khẩu Địa phương 40 Xưởng Chiềng Ve 6 Trung Quốc 500 100 Nội tiêu Địa phương 41 Xưởng Phù Yên 6 Trung Quốc 500 100 Nội tiêu Địa phương 42 Nhà máy Yên Châu 12 ấn Độ 1.500 300 Xuất khẩu Địa phương Lai Châu 12 2.500 500 43 Nhà máy Tam Đường 12 ấn Độ 2.500 500 Xuất khẩu Địa phương Hoà Bình 32 4.000 800 44 Xưởng Cửu Long 10 Trung Quốc 1.500 300 Xuất khẩu Tổng công ty 45 Nhà máy Lương Mỹ 10 Việt Nam 1.000 200 Xuất khẩu 46 Xưởng Cửu Long 6 Việt Nam 750 150 Nội tiêu 47 Xưởng Sông Bôi 6 Việt Nam 750 150 Nội tiêu 48 Nhà máy Lạc Sơn Không sản xuất Phụ biểu3 (tiếp theo) Số TT Địa bàn và nhà máy chè Công suất thiết kế (tấn tươi/ngày) Nước chế tạo thiết bị chính Nhu cầu nguyên liệu (tấn tươi/ngày) Năng lực chế biến (tấnsp/năm) Loại sản phẩm xuất khẩu/nội tiêu Tổng công ty chè Việt Nam quản lý Địa phương quản lý Hà Tây 24 5.000 1.000 49 Xưởng Việt-Mông 12 LX,TQ 2.500 500 Xuất khẩu Tổng công ty 50 Nhà máy Phú Mãn 12 ấn Độ 2.500 500 Xuất khẩu Tổng công ty Thanh Hoá 51 Nhà máy chè Bãi Chành Không sản xuất 52 Nhà máy Yên Mỹ Không sản xuất Nghệ An 74 8.000 1.600 53 Xưởng 3/2 6 500 100 Xuất khẩu Địa phương 54 Xưởng Phủ Quỳ 6 500 100 Xuất khẩu Địa phương 55 Nhà máy Hạnh Lâm 12 ấn Độ 1.500 300 Xuất khẩu Địa phương 56 Xưởng Thanh Mai 6 1000 200 Xuất khẩu Địa phương 57 Nhà máy Bãi Phủ 12 ấn Độ 1.500 300 Xuất khẩu Địa phương 58 Nhà máy Anh Sơn 32 Liên Xô 3.000 600 Xuất khẩu Địa phương Hà Tĩnh 18 1.500 300 59 Xưởng 20/4 6 500 100 Xuất khẩu Tổng công ty 60 Xưởng Tây Sơn 6 500 100 Xuất khẩu Tổng công ty 61 Xưởng 12/9 6 500 100 Xuất khẩu Tổng công ty Phụ biểu 3 (tiếp theo) Số TT Địa bàn và nhà máy chè Công suất thiết kế (tấn tươi/ngày) Nước chế tạo thiết bị chính Nhu cầu nguyên liệu (tấn tươi/ngày) Năng lực chế biến (tấn sp/năm) Loại sản phẩm xuất khẩu/nội tiêu Tổng công ty chè Việt Nam quản lý Địa phương quản lý Tây Nguyên 204,5 26.750 5.350 62 Nhà máy Bảo Lộc 12 Anh 1.500 300 Xuất khẩu Địa phương 63 Nhà máy Bầu Cạn 13,5 Anh 2.000 400 Xuất khẩu Địa phương 64 Nhà máy Cầu Đất 12 Anh 2.000 400 Xuất khẩu Địa phương 65 Nhà máy 19/5 45 Liên Xô 1.500 300 Xuất khẩu Địa phương 66 Nhà máy 11/5 20 Liên Xô 3.500 700 Xuất khẩu Địa phương 67 Nhà máy Biên Hoà 16 Liên Xô 2.500 500 Xuất khẩu Địa phương 68 Nhà máy 28/3 12 LX, Anh 2.000 400 Xuất khẩu Địa phương 69 Nhà máy Lán Tranh 10 1.250 250 Nội tiêu Địa phương 70 Nhà máy Hà Giang 12 2.000 400 Nội tiêu Địa phương 71 Nhà máy 2/9 20 ấn độ 3.500 700 Xuất khẩu Địa phương 72 Nhà máy Minh Giồng 32 ấn Độ, Thái 5.000 1000 Xuất khẩu Địa phương Các thành phố 82 10.500 2.100 73 Nhà máy Kim Anh-Hà Nội 60 Liên Xô, ý 7.500 1.500 XK và NT Tổng công ty 74 Nhà máy Hải Phòng-Hải Phòng 10 Việt Nam 1.500 300 XK và NT Tổng công ty 75 Nhà máy Sài Gòn-TP Hồ Chí Minh 12 Anh, LX 1.500 300 XK và NT Tổng công ty Tổng cộng cả nước 1.129 146.000 29.300 - Xuất khẩu 843,5 108.750 21.750 - Tổng công ty Chè VN quản lý 571,5 76.750 15.350 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docG0012.doc
Tài liệu liên quan