Lời nói đầu
Sau 15 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và toàn diện với mức tăng trưởng kinh tế khá ổn định. Trong quá trình đổi mới đó, hoạt động ngoại thương có vai trò vô cùng quan trọng đối với từng thành phần của nền kinh tế. Hoạt động ngoại thương giúp mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá, thúc đẩy sản xuất trong nước, tạo nguồn thu ngoại tệ cho Ngân sách Nhà nước, giúp các doanh nghiệp đổi mới trang thiết bị công nghệ
83 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1428 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động tín dụng tài trợ Xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch 1 - Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
... Chính vì vai trò quan trọng của hoạt động ngoại thương nên việc thúc đẩy hoạt động này là rất cần thiết. Và chính sự ra đời của nghiệp vụ tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng là giải pháp để thúc đẩy sự phát triển hoạt động ngoại thương.
Hoạt động ngoại thương ngày càng phát triển làm cho nhu cầu thanh toán quốc tế, mua bán ngoại tệ và đặc biệt là nhu cầu tài trợ ngoại thương của các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu ngày càng nhiều. Trước sự đòi hỏi đó, ngành ngân hàng phải nhanh chóng đổi mới, không ngừng hoàn thiện về tổ chức và cơ chế nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại.
Là một đơn vị trực thuộc Trung tâm điều hành NHNo&PTNTVN, được thành lập theo quyết định số 15/TCCB ngày 25/11/1990 của Tổng giám đốc NHNo&PTNTVN, Sở giao dịch I - NHNo&PTNTVN bắt đầu đi vào hoạt động từ tháng 4/1991 và tiến hành hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu từ năm 1998. Tuy còn nhiều khó khăn, bỡ ngỡ trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu nhưng đến nay, hoạt động này tại Sở đã đạt được không ít thành tựu và góp phần không nhỏ vào việc phát triển hoạt động đối ngoại của NHNo&PTNTVN.
Trong quá trình thực tập và học hỏi tại SGDI-NHNo&PTNTVN, em nhận thấy hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGD I đang đóng một vai trò quan trọng trong việc đảm bảo nguồn vốn và cung cấp các dịch vụ cần thiết liên quan trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, đặc biệt là khi các khách hàng của Sở đang thiếu vốn và kinh nghiệm như hiện nay. Các khách hàng của Sở là những doanh nghiệp đang xuất khẩu sản phẩm mũi nhọn thuộc các ngành nông, lâm, thuỷ, hải sản và là các doanh nghiệp nhập khẩu máy móc thiết bị để hiện đại hoá dây chuyền sản xuất và mở rộng quy mô kinh doanh. Nhu cầu về tài trợ xuất nhập khẩu của những khách hàng trên không ngừng tăng và SGD I cũng cố gắng để đáp ứng đầy đủ và kịp thời những nhu cầu ấy. Tuy nhiên, để không ngừng phát triển nghiệp vụ này tại SGDI - NHNo&PTNTVN thì việc đi sâu tìm hiểu và hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, phân tích tình hình thực hiện hoạt động này tại SGDI, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp là vấn đề rất hấp dẫn và cần thiết.
Với suy nghĩ đó, em đã mạnh dạn chọn đề tài:
"Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch I - Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam".
Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Nghiên cứu giải pháp nhằm phát triển hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGD I - NHNo&PTNTVN. Để thực hiện được mục đích này khoá luận đã đi sâu nghiên cứu tổng luận về tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của NHTM, từ đó soi rọi vào thực tiễn hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGDI - NHNo&PTNTVN. Trên cơ sở những tồn tại, khoá luận đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGD I - NHNo&PTNTVN.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Khoá luận tập trung nghiên cứu, phân tích hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGDI - từ năm 1999 tới nay và đề xuất biện pháp mở rộng hoạt động này trong 5 - 10 năm tới.
Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở lý luận về tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, khoá luận soi rọi vào thực tiễn hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGDI - NHNo&PTNTVN bằng phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp.
Ngoài lời mở đầu và kết luận, bản khoá luận được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1 : Lý luận chung về tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của NHTM
Chương 2 : Thực trạng hoạt động tín dụng tài trợ Xuất Nhập Khẩu tại Sở Giao Dịch I - Ngân Hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
Chương 3 : Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động tín dụng tài trợ XNK tại SGD I - Ngân Hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam
Chương 1:
Lý luận chung về tín dụng tài trợ
xuất nhập khẩu của NHTM
1.1 Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu & vai trò của Hoạt động này.
1.1.1 Khái niệm tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu
Ngày nay, với xu hướng toàn cầu hoá, nền kinh tế của từng quốc gia luôn chịu ảnh hưởng và tác động của nền kinh tế thế giới. Trong bối cảnh đó, một quốc gia không thể tồn tại độc lập với quốc gia khác về mặt kinh tế, không thể không hội nhập với kinh tế thế giới nếu quốc gia đó không muốn bị cô lập. Thông qua hoạt động kinh tế quốc tế, tiềm năng và thế mạnh của nền kinh tế được phát huy đồng thời tận dụng được vốn và công nghệ tiên tiến của các nước phát triển.
Thị trường thương mại thế giới ngày càng mở rộng dẫn đến nhu cầu xuất nhập khẩu của các quốc gia cũng tăng lên nhằm khai thác tốt hơn lợi thế so sánh của đất nước mình. Tuy nhiên, do khả năng tài chính có hạn nên không phải lúc nào các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng có đủ vốn để thu mua, chế biến hàng xuất khẩu hay thanh toán tiền hàng nhập khẩu. Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp dù có đủ khả năng tài chính nhưng vẫn không thể xuất nhập khẩu hàng hoá do họ còn chưa có danh tiếng và uy tín trên thị thường quốc tế. Đây chính là nguyên nhân làm nảy sinh quan hệ tín dụng và bảo lãnh của các ngân hàng thương mại với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Nhờ các loại hình tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng mà nhu cầu về tài chính hoặc uy tín của thương nhân trong giao dịch thương mại quốc tế được đáp ứng, mà những nhu cầu này chính là một nét đặc trưng của giao dịch quốc tế hiện đại. Vì vậy, có thể nói sự ra đờì của tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu là một yêu cầu tất yếu khách quan, nó gắn liền với các quan hệ mua bán ngoại thương giữa các nước với nhau.
Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại các ngân hàng thương mại dựa vào 4 nguyên tắc cơ bản sau:
1. Việc cho vay phải trên cơ sở thẩm định rõ khách hàng.
Nguyên tắc này là nguyên tắc quan trọng trong công tác tín dụng của ngân hàng. Thực hiện tốt nguyên tắc này sẽ giúp ngân hàng giảm thiểu những rủi ro có thể gặp phải, nâng cao hiệu quả kinh doanh, nâng cao uy tín và vị thế của ngân hàng trên thị trường.
2. Tiền vay phải được hoàn trả đúng hạn cả vốn và lãi.
Trong hợp đồng tín dụng, ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau số tiền vay, lãi suất cho vay và thời hạn của hợp đồng. Để tạo điều kiện cho khách hàng hoàn trả nợ đúng hạn, ngân hàng nên định kỳ hạn nợ phù hợp với chu kỳ sản xuất, thời gian giao hàng, thời gian tiêu thụ hàng hoá...
3. Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích.
Đây là một nguyên tắc quan trọng bởi chỉ khi khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích và đúng với phương án sản suất kinh doanh như đã cam kết với ngân hàng thì khoản tín dụng ngân hàng cấp mới đảm bảo an toàn và hiệu quả. Để làm được điều này, cán bộ tín dụng của ngân hàng phải thường xuyên kiểm tra giám sát quá trình sử dụng tiền vay.
4. Vốn vay phải có tài sản tương đương làm đảm bảo.
Đây là một nguyên tắc cần thiết bởi tài sản làm đảm bảo sẽ là nguồn thu thứ hai cho ngân hàng khi khách hàng không thanh toán được nợ vay. Bằng cách phát mãi tài sản cầm cố, thế chấp, ngân hàng có thể thu hồi một phần vốn cho vay khi khách hàng không còn khả năng trả nợ ngân hàng.
Cùng với sự phát triển của ngoại thương và của hệ thống ngân hàng, các phương thức thanh toán quốc tế ngày càng đa dạng đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của các doanh nghiệp. Nhờ đó, nghiệp vụ tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng cũng phát triển dưới nhiều hình thức, góp phần phục vụ tích cực và có hiệu quả cho hoạt động xuất nhập khẩu.
Tóm lại : Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu là một mảng dịch vụ trong hệ thống tất cả các dịch vụ chuyên biệt của ngân hàng nhằm hỗ trợ các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu trong giao dịch thương mại quốc tế. Mảng dịch vụ này mang nét chung là ngân hàng cung ứng vốn bằng tiền hoặc bảo lãnh bằng uy tín cho các bên xuất khẩu, nhập khẩu, giúp họ gia tăng hiệu quả trong kinh doanh và thực hiện thương vụ thành công.
1.1.2 Vai trò của tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu
Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu là một mảng dịch vụ có ý nghĩa cực kỳ quan trọng không những đối với các doanh nghiệp mà còn đối với cả ngân hàng và đối với nền kinh tế. Nhờ hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng mà tất cả các bên tham gia vào thương mại quốc tế đều được hưởng lợi từ chính hoạt động này.
1.1.2.1 Đối với nền kinh tế
Thông qua các hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của các ngân hàng thương mại, hoạt động mua bán hàng hoá xuất nhập khẩu theo yêu cầu của thị trường được thực hiện thường xuyên, liên tục; các sản phẩm trong nước có thể thâm nhập thị trường quốc tế dễ dàng hơn. Hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu góp phần nâng cao tính năng động của nền kinh tế và giúp ổn định thị trường.
Bên cạnh đó, hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng còn giúp các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói riêng tồn tại và đứng vững trong cơ chế thị trường, mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cao uy tín và danh tiếng trên thị trường quốc tế. Và chính sự phát triển của các doanh nghiệp là động cơ thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Thông qua tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng mà các doanh nghiệp có vốn để thay đổi dây chuyền công nghệ, hiện đại hoá máy móc thiết bị nhằm tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, tạo ra sản phẩm phong phú đa dạng về mẫu mã chủng loại để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của ngươì dân. Các doanh nghiệp cũng có thể nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống sinh hoạt của nhân dân hoặc các mặt hàng phục vụ sản xuất mà trong nước chưa sản xuất được hay giá thành còn cao. Vì vậy, sự phát triển của các doanh nghiệp đã mang lại lợi ích cho người tiêu dùng.
Hoạt động tài trợ tín dụng của ngân hàng còn giúp tạo cho công ăn việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tạo nguồn thu ngoại tệ cho ngân sách nhà nước, góp phần phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước, giúp mở rộng mối quan hệ đối ngoại với các nước trên thế giới.
1.1.2.2 Đối với các ngân hàng thương mại
Tài trợ xuất nhập khẩu đóng vai trò quan trọng đối với các ngân hàng thương mại bởi vì đây là mảng dịch vụ tạo nguồn thu phí và lãi lớn nhất trong số các dịch vụ kinh doanh đối ngoại của ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại ở những nước đang phát triển như Việt Nam Có nhiều loại lãi suất trong quá trình tài trợ như lãi cho vay thanh toán, lãi chiết khấu chứng từ, lãi vay bắt buộc (bằng mức lãi quá hạn)...Tiền phí và lãi ngân hàng thu được cao bởi vì giá trị tài trợ xuất nhập khẩu thường ở mức vừa và lớn.
Thêm vào đó, đây còn là hình thức cho vay mang lại an toàn, đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích và thời gian thu hồi vốn nhanh. Do gắn liền với thời hạn thực hiện thương vụ nên kỳ hạn tài trợ thường ngắn (dưới 1 năm), vì vậy nó phù hợp với kỳ hạn huy động vốn của ngân hàng, giúp ngân hàng tránh các rủi ro về thanh khoản. Thông qua việc cấp tín dụng xuất nhập khẩu, các ngân hàng có thể kiểm soát các giao dịch của doanh nghiệp, tránh tình trạng doanh nghiệp được tài trợ vốn sử dụng vốn sai mục đích, giúp cho ngân hàng tránh rủi do tín dụng.
Lợi ích quan trọng khác mà hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu mang lại cho ngân hàng là không những giúp thắt chặt mối quan hệ bền vững giữa ngân hàng với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu mà cón giúp mở rộng hoạt động và nâng cao uy tín của ngân hàng trên thị trường quốc tế.
1.1.2.3 Đối với các doanh nghiệp
Thông qua tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng mà nhu cầu tài chính cho các thương vụ lớn của các thương nhân được đáp ứng. Trong kinh doanh quốc tế, có những thương vụ ngoại thương đòi hỏi một nguồn vốn rất lớn để thanh toán tiền hàng mà nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp nhiều khi không đáp ứng kịp thời cho nhu cầu thanh toán hàng nhập hoặc chuẩn bị hàng xuất. Chính nhờ hoạt động tài trợ của ngân hàng mà doanh nghiệp có thể thực hiện những hợp đồng lớn này.
Bên cạnh đó, hiệu quả của doanh nghiệp trong quá trình thực hiện hợp đồng tăng lên nhờ có nghiệp vụ tài trợ ngoại thương. Đối với doanh nghiệp xuất khẩu, vốn tài trợ giúp doanh nghiệp thu mua hàng đúng thời vụ; gia công chế biến và giao hàng đúng thời điểm. Đối với doanh nghiệp nhập khẩu, vốn tài trợ của ngân hàng giúp doanh nghiệp mua được lô hàng lớn, giá cả hạ hơn. Cả hai trường hợp này đều giúp tăng hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiểu thủ công nghiệp phát triển sản xuất, tăng nhanh sản lượng, đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, giúp cho các sản phẩm trong nước có thể thâm nhập thị trường nước ngoài dễ dàng hơn.
Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng còn giúp doanh nghiệp nâng cao uy tín trên thị trường quốc tế. Nhờ có bảo lãnh của ngân hàng, các doanh nghiệp có thể thực hiện các hợp đồng lớn trôi chảy, quan hệ làm ăn với các khách hàng lớn trên thế giới, từ đó không ngừng nâng cao uy tín doanh nghiệp trên thị trường quốc tế.
1.2 Một số hình thức tín dụng tài trợ Xuất Nhập Khẩu
Hoạt động kinh doanh quốc tế ngày càng phát triển và nhu cầu tài trợ của ngân hàng đối với các hoạt động này ngày càng tăng. Thông thường, nghiệp vụ tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng thường gắn với nghiệp vụ thanh toán quốc tế.và tạo điều kiện để nghiệp vụ này phát triển. Trong lĩnh vực tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng, có hai loại hình tài trợ chủ yếu:
- Tài trợ bằng cách cho vay
- Tài trợ bằng cách bảo lãnh
1.2.1 Tài trợ bằng cách cho vay
1.2.1.1 Tài trợ nhập khẩu
Trong giao dịch kinh doanh, uy tín và khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu là vấn đề quan trọng nhất. Đó là bởi nhà xuất khẩu thiếu thông tin về tình hình tài chính, năng lực kinh doanh của bên nhập khẩu; môi trường kinh tế, môi trường pháp lý của nước nhập khẩu... nên nhà xuất khẩu khó có thể tin tưởng và bán hàng cho bên nhập khẩu, đặc biệt là bán hàng trả chậm. Vì vậy, nhà nhập khẩu phải tìm giải pháp để nâng cao uy tín và khả năng thanh toán của mình một cách chắc chắn trước đòi hỏi của nhà xuất khẩu. Dưới đây là một số hình thức tài trợ nhập khẩu chủ yếu:
1.2.1.1.1 Tài trợ phát hành tín dụng thư
Đối với nhà nhập khẩu, mở L/C được xem là hình thức tài trợ của ngân hàng. Khi ngân hàng đồng ý mở L/C cho nhà nhập khẩu có nghĩa là ngân hàng cam kết thanh toán cho người hưởng lợi L/C nếu bộ chứng từ hợp lý. Vì vậy nếu người nhập khẩu không có khả năng thanh toán hoặc không muốn thanh toán khi đến hạn L/C thì ngân hàng mở L/C chính là người gánh chịu rủi ro. Do đó, trước khi mở L/C, ngân hàng phải kiểm tra tình hình tài chính và khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu.
Sơ đồ 1.1 : Quy trình nghiệp vụ tín dụng chứng từ
Ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu
(Advising Bank)
Ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu
(Issuing Bank)
(6)
(3)
(6) (4) (8) (9) (2)
Người xuất khẩu
Người nhập khẩu
(1)
(1) Nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu ký hợp đồng.
(2) Nhà nhập khẩu đề nghị ngân hàng phục vụ mình mở thư tín dụng(L/C).
(3) Ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu mở L/C theo yêu cầu của nhà nhập khẩu và thông báo về việc mở L/C với ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu.
(4) Ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu thông báo toàn bộ L/C đã được xác định tính chân thực cho nhà xuất khẩu.
(5) Nhà xuất khẩu có được L/C như yêu cầu sẽ tiến hành giao hàng.
(6) Nhà xuất khẩu tập trung chứng từ chuyển cho ngân hàng phục vụ mình và ngân hàng này có trách nhiệm kiểm tra bộ chứng từ.
(7) Ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu gửi toàn bộ chứng từ kèm theo lệnh đòi tiền sang ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu
(8) Ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu kiểm tra toàn bộ chứng từ xem có phù hợp với L/C không. Nếu phù hợp thì sẽ trả tiền cho nhà xuất khẩu thông qua ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu.
(9) Ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu đòi tiền nhà nhập khẩu.
1.2.1.1.2 Cho vay ký quỹ L/C
Ký quỹ là quy định của ngân hàng phát sinh trong trường hợp khách hàng đề nghị ngân hàng phát hành L/C, xác nhận L/C hoặc bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn nước ngoài. Khách hàng sẽ phải nộp một khoản tiền nhất định vào tài khoản của họ tại ngân hàng và khoản tiền đó sẽ bị phong toả cho đến khi nghĩa vụ của ngân hàng chấm dứt. Khoản ký quỹ thường tỷ lệ với giá trị L/C phát hành hoặc giá trị mà khách hàng xin bảo lãnh. Để đề phòng rủi ro, với những khách hàng thiếu sự tin cậy hoặc với thương vụ tiềm ẩn rủi ro cao, ngân hàng thường yêu cầu ký quỹ đủ 100% giá trị L/C hoặc 100% giá trị khách hàng xin bảo lãnh. Trong thực tế, ngân hàng thường phân loại khách hàng của mình tuỳ theo tình hình tài chính, uy tín, khả năng thanh toán giữa ngân hàng và khách hàng mà ngân hàng tài trợ sẽ quyết định mức ký quỹ cao hay thấp. Trong một số trường hợp, ngân hàng có thể cho vay để ký quỹ mở L/C.
Cho vay ký quỹ là một nghiệp vụ cần thiết bởi vì nó vừa giúp giải quyết khó khăn về vốn lưu động cho khách hàng, tăng tính an toàn, mang lại hiệu quả cho ngân hàng vừa đảm bảo tuân thủ những quy định pháp lý của ngân hàng về ký quỹ bảo lãnh.
1.2.1.1.3 Tín dụng ứng trước đối với nhà nhập khẩu
Theo phương thức này, khách hàng cần lập phương án sản xuất kinh doanh khả thi cho lô hàng nhập về, đồng thời khách hàng phải lên kế hoạch tài chính nhằm xác định khả năng thanh toán khi đến thời điểm thanh toán dự kiến, xác định khoản thiếu hụt cần ngân hàng tài trợ. Sau khi xem xét kế hoạch và phương án trên, ngân hàng sẽ ra quyết định tài trợ và mức chấp nhận tài trợ. Tất cả các công đoạn này cần thực hiện trước khi bộ chứng từ giao hàng của người xuất khẩu về đến ngân hàng đứng ra tài trợ.
Khi hàng hoá và bộ chứng từ đến nơi, nhà nhập khẩu có thể nhận được sự tài trợ từ ngân hàng thông qua hình thức vay thanh toán tiền hàng. Sau đó, nhà nhập khẩu bán hàng đi và thanh toán cho ngân hàng.
1.2.1.1.4 Chấp nhận hối phiếu
Chấp nhận hối phiếu là việc nhà nhập khẩu hoặc ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu ký chấp nhận lên hối phiếu trong thời hạn quy định. Điều này đồng nghĩa với việc nhà nhập khẩu hoặc ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu cam kết thanh toán khi đến hạn.
Tín dụng chấp nhận hối phiếu là khoản tín dụng mà ngân hàng ký chấp nhận hối phiếu. Người vay khoản tín dụng này là người nhập khẩu và khoản tín dụng này chỉ là một hình thức, một sự đảm bảo bởi vì ngân hàng chưa phải cấp vốn thực sự cho nhà nhập khẩu. Chỉ đến khi đến hạn mà nhà nhập khẩu không thể thanh toán thì ngân hàng là người cho vay ( người chấp nhận hối phiếu ) sẽ phải đứng ra trả nợ thay. Đối với ngân hàng, kể từ khi ngân hàng ký chấp nhận hối phiếu cũng chính là thời điểm bắt đầu gánh chịu rủi ro khi nhà nhập khẩu không có khả năng thanh toán khi hối phiếu đến hạn. Bù lại , ngân hàng sẽ được nhận một khoản phí chấp nhận, khoản tiền bù đắp chi phí gánh chịu rủi ro. Khoản phí này thường nhỏ mà rủi ro do nghiệp vụ này mang lại rất lớn nên các ngân hàng thường ít thực hiện nghiệp vụ này.
Tín dụng chấp nhận hối phiếu này xảy ra trong trường hợp người xuất khẩu không tin tưởng vào khả năng thanh toán của người nhập khẩu nên nhà xuất khẩu đề nghị nhà nhập khẩu yêu cầu một ngân hàng đứng ra chấp nhận hối phiếu do người xuất khẩu ký phát. Nếu ngân hàng không tin tưởng vào nhà nhập khẩu thì ngân hàng có thể đồng ý chấp nhận hối phiếu nếu nhà nhập khẩu ký quỹ 100% giá trị hối phiếu. Trong trường hợp này thì ngân hàng là người tài trợ uy tín cho nhà nhập khẩu.
1.2.1.1.5 Tín dụng thuê mua (leasing)
Đây là hình thức cam kết giữa người cho thuê và người đi thuê để thuê một tài sản nhất định do người thuê chọn lựa, người thuê được quyền sử dụng tài sản này trong khoảng thời gian nhất định và phải trả tiền dần từng kỳ theo hợp đồng thuê mua. Khi kết thúc hợp đồng, người mua được quyền chọn mua tài sản cho thuê theo giá cả ấn định.
Người cho thuê là công ty thuê mua của ngân hàng và người đi thuê chính là các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu. Hình thức tín dụng này thường là trung dài hạn, nó tạo điều kiện cho doanh nghiệp đổi mới công nghệ, máy móc, thiết bị mà không phải trả tiền ngay một lúc.
Sơ đồ 1.2 : Quy trình nghiệp vụ tín dụng thuê mua
Nhà xuất khẩu
( nhà sản xuất )
Nhà nhập khẩu
( người đi thuê)
(2)
(4) (3) (1) (5)
Công ty cho thuê tài chính của ngân hàng
(1) Nhà nhập khẩu ký hợp đồng thuê mua
(2) Nhà nhập khẩu lựa chọn nhà xuất khẩu để mua hàng hoá
(3) Công ty thuê mua của ngân hàng ký hợp đồng mua tài sản với nhà xuất khẩu
(4) Nếu nhà xuất khẩu chấp nhận giá mua và công ty thuê mua đồng ý với các điều kiện thoả thuận thì nhà xuất khẩu bán 100% giá trị tài sản cho công ty thuê mua
(5) Trong thời gian thuê mua, nhà nhập khẩu (người đi thuê) phải đặt cọc một khoản tiền và phải trả tiền thuê cho công ty thuê mua.
1.2.1.2 Tài trợ xuất khẩu
1.2.1.2.1 Cho vay thực hiện hàng xuất khẩu theo L/C đã mở
Khi nhận được L/C do ngân hàng mở L/C phát hành theo yêu cầu của nhà nhập khẩu có nghĩa là nhà xuất khẩu được đảm bảo thanh toán sau khi giao hàng nếu bộ chứng từ phù hợp với L/C. Nhà xuất khẩu có thể dựa vào đó để yêu cầu ngân hàng phục vụ mình cấp một khoản tín dụng để thực hiện xuất hàng theo quy định của L/C.
1.2.1.2.2 Tín dụng chiết khấu hoặc tín dụng ứng trước đối với nhà xuất khẩu
Sau khi giao hàng, người xuất khẩu có nhu cầu bù đắp vốn để tiếp tục quá trình sản xuất kinh doanh trong khoảng thời gian xuất chuyển hàng hoá đến khi nhà nhập khẩu chấp nhận bộ chứng từ và đồng ý trả tiền. Để bù đắp nhu cầu về vốn này, nhà xuất khẩu sau khi giao hàng có thể thương lượng với ngân hàng để ngân hàng thực hiện chiết khấu bộ chứng từ hoặc ứng trước tiền khi bộ chứng từ được thanh toán.
Chiết khấu bộ chứng từ là hình thức ngân hàng tài trợ thông qua việc mua lại hoặc cho vay trên cơ sở giá trị bộ chứng từ hoàn hảo được xuất trình. Có 2 hình thức chiết khấu là chiết khấu miễn truy đòi và chiết khấu được phép truy đòi nhưng hình thức chiết khấu miễn truy đòi ít được sử dụng do nó tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với ngân hàng chiết khấu. Phạm vi chiết khấu bộ chứng từ thường chỉ được áp dụng trong phương thức thanh toán quốc tế tín dụng chứng từ bởi phương thức này có sự ràng buộc chặt chẽ trách nhiệm giao hàng của nhà xuất khẩu và trách nhiệm thanh toán của nhà nhập khẩu thông qua các ngân hàng phục vụ các bên.
Đối với tín dụng ứng trước, những giấy tờ có giá theo lệnh hoặc những giấy tờ chính như vận đơn, hoá đơn thương mại, hợp đồng bảo hiểm...đều là vật thế chấp cho ngân hàng. Do đó tất cả những giấy tờ có giá theo lệnh đều phải có mệnh đề chuyển nhượng khống hoặc chuyển nhượng cho ngân hàng cấp tín dụng ứng trước. Nếu những giấy tờ có giá trị trên không cho phép chuyển nhượng thì người vay vốn phải sử dụng hình thức cấp vốn khác.
Mức độ cấp vốn ứng trước phụ thuộc vào các yếu tố sau:
- Khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu
- Khả năng cạnh tranh của hàng hoá và giá trị hàng hoá dự kiến
- Chính sách kinh tế, chính trị của nước nhập khẩu đối với ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu
- Những rủi ro về tỷ giá hối đoái
Điểm khác biệt lớn giữa tài trợ chiết khấu và tài trợ ứng trước là ở mức giá trị tài trợ. Tương ứng với sự khác biệt này, quyền hạn của ngân hàng đối với việc thụ hưởng giá trị hối phiếu, các quyền hạn khác liên quan tới hối phiếu và quyền hạn trong việc xử lý bộ chứng từ.
- Trong tài trợ chiết khấu, ngân hàng có toàn quyền ra chỉ thị xử lý và yêu cầu ngân hàng xuất trình thực hiện
- Trong tài trợ ứng trước, ngân hàng chỉ đơn giản là ngân hàng chuyển giao chỉ thị của nhà xuất khẩu
Đối với nghiệp vụ chiết khấu bộ chứng từ cũng như tài trợ ứng trước, ngân hàng chỉ có quyền truy đòi nhà xuất khẩu khi bị bên mua từ chối thanh toán.
1.2.1.2.3 Chiết khấu hối phiếu
Đây là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn được thực hiện dưới hình thức khách hàng chuyển quyền sở hữu hối phiếu chưa đáo hạn cho ngân hàng để nhận một số tiền bằng mệnh giá của hối phiếu trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng phí chiết khấu.
Thông qua hình thức chiết khấu hối phiếu ngân hàng tài trợ một khoản tín dụng cho nhà xuất khẩu để họ tiếp tục quá trình tái sản xuất. Đặc trưng của nghiệp vụ này là ngân hàng khấu trừ tiền lãi ngay khi chiết khấu và chỉ chuyển cho người xuất khẩu số tiền còn lại. Điều này có nghĩa là ngân hàng thu lãi của khoản tín dụng ngay khi cấp tín dụng. Khi kết thúc thời hạn chiết khấu, ngân hàng sẽ đòi tiền ở người có nhiệm vụ trả tiền hối phiếu. Ngân hàng sẽ gặp rủi ro khi người có trách nhiệm trả tiền hối phiếu từ chối trả tiền hối phiếu hoặc không có khả năng trả tiền khi hối phiếu đến hạn hoặc hối phiếu không hợp lệ. Vì vậy ngân hàng phải thận trọng khi quyết định chiết khấu một hối phiếu.
1.2.1.2.4 Tín dụng bao thanh toán (factoring)
Tín dụng bao thanh toán là hình thức tín dụng tài trợ ngắn hạn của ngân hàng dành cho các nhà xuất khẩu. Hình thức tài trợ này có nghĩa là nhà xuất khẩu giao hết tất cả các bản sao hoá đơn bán hàng cho tổ chức tài trợ (ngân hàng) để nhận một mức tài trợ nhất định và tổ chức tài trợ sẽ đảm nhận toàn bộ quá trình thu tiền và ghi chép, kế toán các khoản phải thu. Khi thực hiện nghiệp vụ này ngân hàng thu được một khoản phí khá cao.
Tuỳ theo tính chất hoàn hảo của chứng từ, tình hình tài chính và khả năng thanh toán của người mắc nợ mà ngân hàng quyết định tỷ lệ mua nợ cao hay thấp đối với nhà xuất khẩu. Có 2 loại tín dụng bao thanh toán là bao thanh toán có truy đòi và bao thanh toán miễn truy đòi.
- Bao thanh toán có truy đòi là loại bao thanh toán mà ngân hàng sẽ thanh toán tiền cho nhà xuất khẩu nhưng với thoả thuận là nhà xuất khẩu sẽ phải trả lại ngân hàng số tiền đó nếu như nhà nhập khẩu không thanh toán cho ngân hàng.
- Bao thanh toán không truy đòi là loại bao thanh toán mà ngân hàng sẽ chịu mọi rủi ro nếu như người nhập khẩu không trả tiền.
Tín dụng bao thanh toán mang lại nhiều lợi ích cho nhà xuất khẩu bởi vì nhà xuất khẩu sẽ có vốn để thực hiện hoạt động kinh doanh ngay sau khi vừa bán hàng dù người nhập khẩu có trả tiền ngay hay mua chịu. Bên cạnh đó, nhà xuất khẩu không phải bận tâm vào việc quản lý thanh toán phức tạp kéo dài mà giao nó cho ngân hàng, một tổ chức có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này..
1.2.2 Tín dụng bằng cách bảo lãnh
Bảo lãnh ngân hàng là một hình thức ngân hàng tài trợ uy tín cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và ngân hàng không phải bỏ ra một đồng vốn nào. trách nhiệm của ngân hàng khi đứng ra bảo lãnh là đảm bảo thi hành đúng cam kết với nước ngoài trong trường hợp người xin bảo lãnh không thực hiện đầy đủ một nghiệp vụ nào đó với bên nước ngoài.
Trong kinh doanh quốc tế hiện nay, nhu cầu về bảo lãnh của ngân hàng ngày một gia tăng. Nhà xuất khẩu cần có sự bảo lãnh của ngân hàng khi nhà nhập khẩu yêu cầu bởi nhà nhập khẩu không biết hay không tin tưởng vào khả năng thực hiện hợp đồng của nhà xuất khẩu. Ngược lại, nhà nhập khẩu cũng cần có sự bảo lãnh của ngân hàng khi nhà xuất khẩu yêu cầu bởi vì nhà xuất khẩu không nắm chắc khả năng tài chính, khả năng thanh toán hay mức độ tín nhiệm của nhà nhập khẩu.
Trên thực tế, có rất nhiều loại bảo lãnh ngân hàng tuỳ theo yêu cầu của các bên mua bán trong quá trình thực hiện hợp đồng. Một số loại bảo lãnh ngân hàng cho người xuất khẩu là bảo lãnh đấu thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh tiền cọc, bảo lãnh bảo hành, bảo lãnh bảo lưu... Một số hình thức bảo lãnh ngân hàng dành cho người nhập khẩu là : tài trợ xác nhận L/C...
Thực chất việc ký xác nhận vào L/C phát hành của ngân hàng ở nước xuất khẩu là nghiệp vụ bảo lãnh uy tín thanh toán cho ngân hàng phát hành, đây là một dạng tài trợ liên ngân hàng. Khi thực hiện nghiệp vụ tài trợ này, ngân hàng xác nhận đã đảm nhận trước nhà xuất khẩu tất cả rủi ro liên quan đến uy tín và khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu, của ngân hàng phát hành L/C và cả của quốc gia nhập khẩu.
Hình thức tín dụng bảo lãnh mang lại nhiều lợi ích cho các bên liên quan:
- Đối với nhà xuất khẩu: nếu nhà nhập khẩu là người được bảo lãnh thì nhà xuất khẩu hoàn toàn yên tâm là mình sẽ được thanh toán khi đến hạn nếu thực hiện đúng hợp đồng. Còn nếu nhà xuất khẩu là người được bảo lãnh thì người xuất khẩu có thể ký được hợp đồng và bán được hàng do ngân hàng đã bảo lãnh thực hiện hợp đồng cho anh ta.
- Đối với nhà nhập khẩu: nếu nhà nhập khẩu là người được bảo lãnh thì nhà nhập khẩu sẽ được hưởng một khoản vốn của bên xuất khẩu mà không phải trả lãi, chỉ trả một khoản phí cho người bảo lãnh. Nếu nhà xuất khẩu là người được bảo lãnh thì nhà nhập khẩu yên tâm là mình sẽ mua được hàng và không bị mất thời cơ trong kinh doanh vì không có hàng.
- Đối với ngân hàng (người bảo lãnh): thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh nghĩa là ngân hàng có được uy tín, được sự tín nhiệm của bên xuất khẩu hay nhập khẩu. Bên cạnh đó ngân hàng còn có thu nhập là khoản phí bảo lãnh.
1.3 Những rủi ro trong tín dụng tài trợ Xuất Nhập Khẩu
Trong lĩnh vực kinh doanh, đặc biệt là trong lĩnh vực tài trợ ngoại thương, hoạt động tín dụng của ngân hàng thường gặp nhiều rủi ro. Đó là bởi hoạt động tài trợ ngoại thương của ngân hàng có mối liên hệ chặt chẽ với hoạt động kinh doanh quốc tế, mà hoạt động kinh doanh quốc tế có nhiều rủi ro do nhiều đối tác ở các quốc gia khác nhau cùng tham gia. Vì vậy, các rủi ro trong tài trợ ngoại thương của ngân hàng cũng bắt nguồn từ rủi ro mà các công ty xuất nhập khẩu sẽ phải gánh chịu trong quá trình kinh doanh. Những rủi ro này có thể là do chủ quan hoặc khách quan nhưng đều có tác động không tốt đến hoạt động của ngân hàng. Chính vì vậy, việc hiểu biết về các loại rủi ro và nguyên nhân phát sinh chúng là rất cần thiết, nó giúp ngân hàng có biện pháp phòng tránh và giảm thiểu hậu quả mà rủi ro mang lại.
1.3.1 Rủi ro tín dụng
Đây là loại rủi ro phát sinh khi khách hàng được tài trợ không có khả năng thanh toán tiền đã vay hoặc thực hiện những nghĩa vụ đã cam kết của mình.
Để khắc phục và chống đỡ rủi ro này, ngân hàng phải thẩm định kỹ khách hàng và sẽ áp dụng nguyên tắc lãi suất cho vay hoặc mức phí tài trợ tương ứng với mức độ rủi ro của khách hàng.
1.3.2 Rủi ro lãi suất
Rủi ro về lãi suất phát sinh do những biến động giữa lãi suất phải trả cho nguồn vốn ngân hàng đi vay và lãi suất thu được từ nguồn vốn ngân hàng tài trợ ngoại thương. Rủi ro lãi suất còn phát sinh do sự bất tương xứng về ngày tái lập lãi suất giữa các loại nguồn vốn của ngân hàng và các khoản mục kinh doanh của nó. Rủi ro này làm ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của ngân hàng .
1.3.3 Rủi ro hối đoái
Rủi ro ngoại hối là những rủi ro bắt nguồn từ sự biến động bất lợi của tỷ giá và của các quy chế quản lý ngoại hối của nhà nước. Các yếu tố này tác động mạnh tới các tài sản bằng ngoại tệ và các dịch vụ kinh doanh._. đối ngoại của ngân hàng.
1.3.4 Rủi ro thanh khoản
Rủi ro này phát sinh từ sự bất tương xứng về kỳ hạn giữa nguồn vốn và việc sử dụng vốn của ngân hàng, trong đó có các khoản tài trợ ngoại thương, khiến cho ngân hàng thiếu khả năng thanh khoản để đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng. Rủi ro này làm ngân hàng mất uy tín và có thể dẫn đến phá sản ngân hàng.
1.3.5 Rủi ro tác nghiệp
Đây là loại rủi ro phát sinh từ các dịch vụ thu phí của ngân hàng , theo đó một sai sót hay một sự bất cẩn khiến cho ngân hàng phải gánh chịu những tổn thất tài chính to lớn. Những yếu tố gây rủi ro loại này có thể là sự gian lận của khách hàng, sự vị phạm đạo đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng, rủi ro pháp lý, rủi ro môi trường...
1.4 Quy trình thực hiện tín dụng tài trợ Xuất Nhập Khẩu của các Ngân Hàng Thương Mại
1.4.1 Thủ tục tài trợ
Khi có nhu cầu về tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng, khách hàng đến ngân hàng xin tài trợ và nộp các hồ sơ liên quan để ngân hàng có căn cứ xét duyệt. Các giấy tờ liên quan gồm có:
* Hồ sơ pháp lý gồm :
Giấy phép thành lập; giấy phép hành nghề của cơ quan chuyên môn; giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; giấy phép trú đóng; bảng điều lệ công ty; giấy bổ nhiệm giám đốc, kế toán trưởng.
Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải có: Giấy phép đầu tư, góp đủ vốn pháp định.
* Hồ sơ kinh tế gồm :
Bảng báo cáo kết quả kinh doanh, bảng cân đối kế toán, bảng báo cáo lưu chuyển tiền tệ, bảng báo cáo kiểm toán, bảng thuyết minh.
* Hồ sơ cho vay gồm :
Đơn xin vay hoặc đơn xin bảo lãnh; các hợp đồng thương mại, hợp đồng ngoại thương; hợp đồng uỷ thác (trong trường hợp doanh nghiệp không có chức năng kinh doanh xuất nhập khẩu); bảng liệt kê tài sản thế chấp, cầm cố (nếu có) kèm theo giấy chứng nhận quyền sở hữu; các giấy tờ liên quan khác.
1.4.2 Thẩm định hồ sơ
Thẩm định hồ sơ là việc cán bộ tín dụng thẩm tra lại các thông tin về khách hàng dựa trên cuộc phỏng vấn tiếp xúc trực tiếp với khách hàng và qua hồ sơ khách hàng cung cấp - một bước quan trọng trong quá trình tài trợ của ngân hàng. Làm tốt bước này sẽ giúp ngân hàng hạn chế rủi ro tín dụng và mang lại hiệu quả cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng và doanh nghiệp.
Cán bộ tín dụng phải thực hiện các bước sau trong quá trình thẩm định hồ sơ :
- Kiểm tra tính hợp pháp của hồ sơ pháp lý
- Đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp.
- Đánh giá tính khả thi và hiệu quả của dự án
- Thẩm định tài sản đảm bảo
1.4.3 Lập tờ trình
Sau khi thẩm định hồ sơ khách hàng, cán bộ tín dụng lập tờ trình lên trưởng phòng tín dụng. Tờ trình này phải nêu rõ tình hình tài chính của doanh nghiệp, nhu cầu vốn, số tiền xin tài trợ, tính khả thi, hiệu quả của phương án kinh doanh và kiến nghị của cán bộ tín dụng có nên cho vay hay không.
Trưởng phòng tín dụng căn cứ ý kiến của cán bộ tín dụng đồng thời xem xét lại hồ sơ và cho ý kiến để trình lên ban giám đốc xét duyệt. Nếu cần thiết có thể đưa ra hội đồng tín dụng xét duyệt.
Trong trường hợp vốn vay vượt mức phán quyết của chi nhánh thì trình ra hội đồng tín dụng trung ương để xin ý kiến.
1.4.4 Phát tiền vay
Nếu ngân hàng đồng ý tài trợ vốn thì hai bên ký hợp đồng tín dụng, lập giấy nhận nợ và phát tiền vay cho khách hàng.
Trường hợp ngân hàng đồng ý bảo lãnh thì ký chấp nhận đơn xin bảo lãnh và chuyển về phòng ban có liên quan.
1.4.5 Kiểm tra và xử lý nợ vay
Trong quá trình cấp tín dụng, cán bộ tín dụng phải thường xuyên kiểm tra và giám sát chặt chẽ quá trình vay vốn của khách hàng. Nếu phát hiện việc sử dụng sai mục đích hay những sai lệch trong quá trình sử dụng vốn thì cán bộ tín dụng có trách nhiệm báo ngay cho kế toán để ngưng ngay việc phát tiền vay và tiến hành thu nợ trước hạn bằng cách phong toả vật tư hàng hoá, phát mãi tài sản cầm cố thế chấp...và có thể khởi kiện doanh nghiệp trước pháp luật.
Cán bộ tín dụng kiểm tra việc sử dụng vốn vay phải xác định được cả hình thái hiện vật và giá trị thực tế tiền vay của đơn vị về các mặt như : hiệu quả kinh tế, mục đích và đối tượng sử dụng vốn, khả năng hoàn trả cả gốc lẫn lãi.
Cán bộ tín dụng có thể kiểm tra thông qua 2 loại thông tin chủ yếu sau:
- Thông tin từ khách hàng vay vốn. Thông tin này thu được thông qua kiểm tra các loại chứng từ gốc như : chứng từ ghi sổ, bản kê chi phí sử dụng tiền vay, các hợp đồng kinh tế, sổ sách kế toán thống kê, bảng cân đối tài sản, tồn kho thực tế vật tư hàng hoá, công nợ phải trả...
- Các loại thông tin khác do ngân hàng tự điều tra hoặc xác minh từ nhiều nguồn khác nhau: từ bạn hàng và khách hàng của người vay, từ cơ quan quản lý kinh tế của Nhà nước...
1.4.6 Tính lãi - thu lãi - thu nợ - gia hạn
Ngân hàng sẽ tính lãi theo lãi suất hai bên đã thoả thuận tại thời điểm ký kết hợp đồng. Sắp đến ngày đáo hạn thì ngân hàng phải thông báo cho khách hàng biết để chuẩn bị tiền trả nợ cho ngân hàng.
Trong trường hợp đến ngày đáo hạn mà khách hàng không trả được nợ thì ngân hàng buộc phải chuyển nợ quá hạn và khách hàng phải chịu lãi suất phạt do nợ quá hạn. Lãi suất phạt này thường bằng 150% lãi suất của hợp đồng tín dụng.
Trong trường hợp bất khả kháng nên khách hàng không thể thanh toán tiền vay đúng hạn thì khách hàng phải xin gia hạn nợ và thời gian gia hạn nợ không được vượt quá thời gian tài trợ vốn. Trong trường hợp này thì khách hàng không phải trả lãi suất theo lãi suất nợ quá hạn.
1.4.7 Thanh lý hợp đồng tín dụng
Sau khi khách hàng hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi tiền vay, cán bộ tín dụng đối chiếu xác nhận với kế toán và đóng hồ sơ tài trợ lại, chuyển vào hồ sơ lưu của khách hàng.
Quy trình thực hiện tài trợ đến đây là kết thúc.
1.5 Các hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại các NHTM Việt Nam hiện nay
Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với các doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt là khi các doanh nghiệp nước ta hiện nay đang thiếu vốn, uy tín lẫn kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh quốc tế. Nắm bắt được nhu cầu của các doanh nghiệp, các NHTM Việt Nam đã có một số hình thức tín dụng tài trợ ngoại thương để đáp ứng nhu cầu về vốn và uy tín cho doanh nghiệp. Các hình thức tài trợ này tuy chưa đa dạng bằng các hình thức tài trợ của các NHTM ở những nước phát triển nhưng cũng góp phần không nhỏ vào hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam và của nền kinh tế.
Sơ đồ 1.3: Các hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của các NHTM
Việt Nam hiện nay
Hình thức tài trợ XNK của NHTM Việt Nam
Tài trợ nhập khẩu
Tài trợ xuất khẩu
Nghiệp vụ bảo lãnh
Cho vay thanh toán bộ chứng từ hàng nhập
Mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu
Chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất
Cho vay thu mua, chế biến hàng xuất theo L/C, theo hợp đồng ngoại thương
đã ký
Mở L/C trả chậm
Phát hành thư bảo lãnh
Kết luận chương 1
Chương 1 đã đi sâu nghiên cứu lý luận tài trợ xuất nhập khẩu của các NHTM trên những khía cạnh:
. Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu và vai trò của hoạt động này
. Một số hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu.
. Những rủi ro trong hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu đối với NHTM
. Quy trình thực hiện tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của NHTM
Qua những nội dung trên, ta hiểu rõ hơn bản chất, quy trình của hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng và những rủi ro ngân hàng có thể gặp phải khi thực hiện hoạt động này.
Chương 2:
Thực trạng hoạt động tín dụng tài trợ Xuất Nhập Khẩu tại Sở Giao Dịch I - Ngân Hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn Việt Nam.
2.1 Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam & của sở giao dịch I
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, gọi tắt là ngân hàng Nông nghiệp , có tên giao dịch quốc tế là Vietnam Bank for Agriculture and Rural Development (VBARD), có trụ sở chính đặt tại số 2 Láng Hạ, Ba Đình, Hà Nội.
Tổ chức tiền thân của ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (NHNo&PTNTVN) là ngân hàng Phát triển nông nghiệp Việt Nam, được thành lập theo quyết định số 53/HĐBT ngày 26/3/1988 nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách của nền kinh tế, góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng, ổn định tiền tệ với thị trường hoạt động chủ yếu là khu vực nông thôn, lĩnh vực nông nghiệp và đối tượng là nông dân.
Từ khi thành lập tới nay, ngân hàng đã qua hai lần đổi tên. Lần thứ nhất, theo quyết định 400/CT ngày 14/11/1990 của Thủ tướng Chính phủ, ngân hàng được đổi tên thành Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam. Sau đó, nhằm chuyển đổi mô hình hoạt động của các ngân hàng thương mại theo dạng Tổng công ty, ngày 15/10/1996 theo quyết định số 280/QĐ - NH5 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ uỷ quyền ký quyết định thành lập tại văn bản số 3329/ĐMDN ngày 11/7/1996, ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam được đổi tên thành ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (NHNo &PTNTVN). NHNo&PTNTVN là một trong bốn ngân hàng thương mại quốc doanh lớn nhất Việt Nam hiện nay được thành lập theo mô hình Tổng công ty Nhà nước với thời gian hoạt động là 99 năm.
Qua 14 năm hoạt động, NHNo&PTNTVN đang trên đà phát triển ổn định và không ngừng lớn mạnh. Từ số vốn ban đầu do Nhà nước cấp là 2200 tỷ VND, đến cuối năm 2001, ngân hàng có tổng nguồn vốn đạt 73635 tỷ VND, tăng 33,7% so với năm 2000. Nguồn vốn hiện có của ngân hàng chủ yếu đầu tư cho các thành phần kinh tế, đến nay đã giải ngân tới hơn 8 triệu hộ trong đó cho vay hơn 2,6 triệu hộ nghèo và gần 20.000 doanh nghiệp. Tổng dư nợ của ngân hàng đạt 66.230 tỷ VND trong đó dư nợ cho vay hộ nghèo là 6200 tỷ VND. Ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn thấp : 0,7% (giảm 0,4 % so với năm 2000). Hiện nay NHNo&PTNTVN có hơn 24000 cán bộ công nhân viên với mạng lưới rộng khắp gồm gần 1600 chi nhánh trên toàn quốc.
Cùng với việc mở rộng hoạt động kinh doanh đối nội, NHNo&PTNT vẫn tiếp tục quan hệ quốc tế và kinh doanh đối ngoại. Ngân hàng hiện có quan hệ với 740 tổ chức tài chính tín dụng, ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam và ở 89 quốc gia trên thế giới. Đến cuối 2001, đã có 55 chi nhánh NHNo&PTNTVN trực tiếp tham gia thanh toán quốc tế. Trong năm 2001, doanh số thanh toán quốc tế là 1754 triệu USD, doanh số mua bán ngoại tệ đạt 4038 triệu USD. Bên cạnh đó, hoạt động đối ngoại và thanh toán biên giới đã được mở rộng tới nhiều chi nhánh trong toàn hệ thống, góp phần đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ, thu hút thêm nhiều khách hàng và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chu trình khép kín từ khâu cho vay để thu mua nguyên liệu, chế biến hàng hoá đến khâu xuất khẩu. Nghiệp vụ bảo lãnh và mở tín dụng thư trả chậm vẫn tiếp tục phát triển và được quản lý chặt chẽ, các khoản bảo lãnh đều được thanh toán đầy đủ, đúng hạn.
Chính vì những thành tựu trên mà tạp chí ASIA WEEK, một tạp chí kinh tế lớn nổi tiếng ở châu á số 15/09/2000 đã xếp NHNo&PTNTVN đứng thứ 335 trong số 500 ngân hàng lớn nhất châu á và đứng thứ 46 trong số 50 ngân hàng lớn nhất Đông Nam á.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, NHNo&PTNTVN đang trên đà phát triển và ngày càng vững mạnh. Trong thời gian tới, NHNo&PTNTVN phấn đấu trở thành NHTM tiên tiến trong khu vực và có uy tín cao trên trường quốc tế, mở rộng hoạt động kinh doanh vững chắc an toàn, có quy mô vốn tự có ngang tầm các ngân hàng trong khu vực để góp phần vào sự phát triển kinh tế của đất nước.
2.1.2 Giới thiệu về SGDI - NHNo&PTNT
Sở giao dịch I là một đơn vị trực thuộc Trung tâm điều hành NHNo&PTNT. Được thành lập theo quyết định số 15/TCCB ngày 25/11/1990 của Tổng giám đốc NHNo&PTNT, Sở bắt đầu đi vào hoạt động từ tháng 4/1991 theo luật các tổ chức tín dụng và theo điều lệ của NHNo&PTNTVN và tiến hành hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu từ năm 1998.
SGDI có trụ sở đặt tại số 4 Phạm Ngọc Thạch, Đống Đa, Hà Nội.
2.1.2.1 Cơ cấu tổ chức của SGDI
Cán bộ công nhân viên của sở gồm có 82 người trong đó có một giám đốc và ba phó giám đốc. Giám đốc sở là người trực tiếp điều hành và chịu trách nhiêm trực tiếp trước Tổng giám đốc NHNo &PTNTVN. Hiện nay Sở gồm có 6 phòng ban:
- Phòng hành chính
- Phòng tổ chức
- Phòng kế hoạch kinh doanh
- Phòng kế toán
- Phòng kiểm tra, kiểm toán nội bộ
- Phòng ngân quỹ.
Ngoài ra, SGDI còn có 2 chi nhánh ở Tây Sơn, Trung Yên và 2 phòng giao dịch.
Sơ đồ 2.1 : Cơ cấu tổ chức của SGDI (trang bên)
2.1.2.2 Hoạt động kinh doanh của SGDI
Nhiệm vụ chính của SGDI là thực hiện các lệnh thanh toán, điều chuyển vốn trong toàn hệ thống NHNo&PTNTVN và trực tiếp kinh doanh tiền tệ, tín dụng, cung cấp các dịch vụ ngân hàng trên địa bàn Hà Nội.
Nhằm thực hiện tốt hai nhiệm vụ trên, Sở có các hoạt động kinh doanh cụ thể như sau:
- Hoạt động huy động vốn:
Sở huy động vốn thông qua nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và có kỳ hạn bằng cả nội tệ và ngoại tệ của các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước. Bên cạnh đó Sở còn phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng và thực hiện các hình thức huy động khác theo quy định của NHNo&PTNT.
Khi cần thiết, SGDI còn có thể vay vốn của các tổ chức tài chính, tín dụng trong nước theo quy định của NHNo&PTNT
Ngoài ra, Sở còn tiếp nhận các nguồn vốn tài trợ, uỷ thác của Chính phủ và các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước.
- Hoạt động cho vay:
Sở thực hiện cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn bằng nội tệ và ngoại tệ đối với khách hàng của thành phần kinh tế khác nhau. Sở cho vay hộ gia đình nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, tiêu dùng... Sở tài trợ vốn cho các doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp tư nhân kinh doanh xuất nhập khẩu ...
Bên cạnh đó, Sở còn thẩm định, tái thẩm định các dự án tín dụng, trực tiếp cho vay các dự án theo phân cấp uỷ quyền của Tổng giám đốc NHNo&PTNTVN.
- Hoạt động khác
Ngoài 2 hoạt động chính là huy động vốn và cho vay vốn, Sở còn có các hoạt động khác như :
Kinh doanh ngoại hối: đây là hoạt động mua bán ngoại tệ mà chủ yếu nhằm mục đích cho vay và phục vụ thanh toán quốc tế, những dịch vụ khác về ngoại hối theo chính sách quản lý ngoại hối của chính phủ, NHN và NHNo&PTNTVN
Thanh toán quốc tế: đây là dịch vụ mang lại nguồn thu lớn cho Sở, nó góp phần giúp cho hoạt động tín dụng và hoạt động kinh doanh ngoại hối thêm phần sôi nổi.
Dich vụ khác như dịch vụ thẻ tín dụng, két sắt, dịch vụ chiết khấu các loại giấy tờ có giá, thẻ thanh toán uỷ thác cho vay người nghèo, uỷ thác cho thuê tài chính...
Đầu mối cân đối điều hoà nguồn vốn kinh doanh nội tệ đối với các chi nhánh trong hệ thống NHNo&PTNTVN.
Thực hiện các nhiệm vụ khác được Tổng giám đốc NHNo&PTNTVN giao cho.
2.2 Tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian qua và triển vọng trong tương lai
2.2.1 Tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian qua
Từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, nền kinh tế nước ta đang từng bước phát triển và hội nhập cùng nền kinh tế thế giới. Với sự phát triển không ngừng của kinh tế quốc tê, trong thời gian qua, hoạt động xuất nhập khẩu ở Việt Nam đã góp phần đáng kể vào công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước và góp phần hoàn thành những nhiệm vụ đề ra trong Kế hoạch 5 năm 1996 - 2000.
Kế hoạch 5 năm 1996 - 2000 cho lĩnh vực xuất nhập khẩu tuy gặp khó khăn trong quá trình thực hiện do tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính nhưng đã hoàn thành về cơ bản. Hoạt động xuất nhập khẩu tiếp tục phát triển khá với tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm từ 1996 - 2000 đạt trên 5,6 tỷ USD, tăng bình quân hàng năm trên 21% và cao gấp 3 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tổng kim ngạch nhập khẩu trong 5 năm khoảng 61 tỷ USD với tốc độ tăng bình quân hàng năm khoảng 13,3%.
Năm 2000, kim ngạch xuất khẩu nước ta đạt trên 180 USD/người/năm tuy còn ở mức thấp nhưng đã thuộc nhóm các nước có nền ngoại thương phát triển.
Bảng 2.1 : Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt nam giai đoạn 1996 - 2000
Chỉ tiêu
Kim ngạch xuất khẩu ( triệu USD)
Tổng kim ngạch XNK so GDP(%)
Kim ngạch xuất khẩu so GDP (%)
Kim ngạch xuất khẩu XK (USD/người/năm)
1996
7 255,9
80,0
31,5
96
1997
9 185,0
80,6
35,6
116
1998
9 360,3
77,7
35,1
116
1999
11 540,0
81,1
40,3
150
2000
14 308,0
95,7
46,4
180
Nguồn: Tổng cục thống kê
Bảng 2.2 : Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 1996 - 2000
Chỉ tiêu
Năm 1996
Năm 2000
Cơ cấu hàng xuất khẩu
- Nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản
- Nhóm hàng công nghiệp nhẹ & tiểu thủ công nghiệp
- Nhóm hàng công nghiệp nặng - khoáng sản
100%
42,3%
29%
28,7%
100%
30%
34,3%
35,7%
Cơ cấu hàng nhập khẩu
- Nhóm hàng tư liệu sản xuất
- Nhóm hàng tiêu dùng
100%
87%
13%
100%
94,8%
5,2%
Nguồn: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
Cơ cấu xuất nhập khẩu chuyển dịch theo hướng tích cực:
Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản tuy vẫn chiếm vị trí quan trọng nhưng có xu hướng giảm dần, từ 42,3% năm 1996 xuống còn 30% năm 2000. Tỷ trọng của nhóm hàng công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công nghiệp và thủ công nghiệp tăng tương ứng từ 29% năm 1996 lên 34,3% năm 2000. Tỷ trọng của nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản tăng từ 28,7% năm 1996 lên 35,7% năm 2000. Tuy nhiên, cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn bất hợp lý. Đó là do ở nước ta, xuất khẩu nguyên liệu thô vẫn là chủ yếu, chiếm tỷ trọng trên 70% kim ngạch xuất khẩu. Trong khi đó, ở Trung Quốc xuất khẩu nguyên liệu thô chỉ chiếm 16,3% năm 1994.
Tỷ trọng hàng tiêu dùng trong tổng kim ngạch nhập khẩu giảm đáng kể, từ 13% năm 1996 giảm xuống còn 5,2% năm 2000. Trong khi đó, tỷ trọng nhập khẩu tư liệu sản xuất tăng từ 87% năm 1996 lên tới 94,8% năm 2000.
Thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam cũng không ngừng được củng cố và mở rộng thêm. Thị trường châu á chiếm gần 58% tổng kim ngạch xuất khẩu và trên 80% tổng kim ngạch nhập khẩu cuả Việt Nam, trong đó riêng các nước ASEAN tương ứng chiếm trên 18% và 29%. Trên một số thị trường khác như EU, Mỹ, Trung Đông, hàng xuất khẩu của Việt Nam cũng có mặt và kim ngạch xuất khẩu đang tăng dần. Trong thời gian qua, Mỹ là một thị trường lớn của Việt Nam nhưng do Việt Nam chưa được hưởng Tối huệ quốc nên thuế đánh vào hàng xuất khẩu cao nên hàng hoá của nước ta rất khó cạnh tranh, Tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu của Việt nam vào thị trường Mỹ cũng vẫn không ngừng tăng lên.
Bảng 2.3 : Tổng kim ngạch XNK của Việt Nam sang Mỹ giai đoạn 1995- 2001
Năm
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Tổng kim ngạch
Triệu USD
% so với năm trước
Triệu USD
% so với năm trước
Triệu USD
% so với năm trước
1995
170
-
130
-
400
-
1996
201
20
246
89,2
450
12,5
1997
273
34
46
69,1
689
51
1998
469
71,8
326
-21,6
795
15,4
1999
504
7,5
335
2,8
839
5,5
2000
732
45,2
352
5,1
1084
48,1
2001
1000
36,6
370
5,1
1370
26,5
Nguồn: Thời báo kinh tế số ra ngày 30/11/2001
Từ bảng trên ta nhận thấy kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt nam với Hoa Kỳ không ngừng tăng lên trong các năm từ 1995 đến 2001. Năm 1995, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu là 400 triệu USD, sang năm 1996, tổng kim ngạch tăng lên 450 triệu USD, tăng 12,5% so với năm 1995, năm 1997 tăng 51% so với năm 1996, năm 1998 tổng kim ngạch tăng 15,4% so với năm 1997. Và tổng kim ngạch xuất nhập khẩu sang Mỹ năm 2001 tăng 26,5% so với năm 2000. Tính bình quân trong 7 năm từ 1995 đến 2001, hàng hoá của Việt Nam xuất vào thị trường Mỹ mỗi năm đạt 480 triệu USD và nhập khẩu từ Mỹ đạt 310 triệu USD. Nếu so sánh với tỷ lệ tăng nhập khẩu của Việt Nam từ Hoa Kỳ thì tốc độ hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ nhanh hơn.
Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Mỹ là: cà phê, chè, hạt tiêu, hải sản, hạt điều, rau quả chế biến...Rau quả chế biến của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chủ yếu là dứa hộp : trong năm 1998, xuất khẩu dứa hộp đạt 2 triệu USD, đứng thứ 8 trong số các nước xuất khẩu dứa hộp vào thị trường Mỹ.
Hiện nay, Việt Nam đang đứng thứ 76 về tổng kim ngạch buôn bán với Mỹ và đứng thứ 71/229 nước xuất khẩu hàng hoá vào thị trường Mỹ. Tuy nhiên, tỷ trọng hàng hoá Việt Nam xuất sang Hoa Kỳ mới chiếm tỷ trọng khoảng 0,05% tổng giá trị nhập khẩu của Hoa Kỳ.
Trong thời gian tới khi Hiệp định thương mại Việt Mỹ được thực thi thì Mỹ là một thị trường tiềm năng của Việt Nam và cơ hội xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam sang Mỹ tăng đáng kể. Nếu hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chiếm tỷ trọng 2% tổng giá trị nhập khẩu của Mỹ thì kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ đạt gần 1,8 tỷ USD.
2.2.2 Triển vọng xuất nhập khẩu của Việt Nam trong tương lai
Hiệp định thương mại Việt - Mỹ chính thức có hiệu lực ngày 10/12/2001. Việc HĐTM này được thực thi mang lại cho các doanh nghiệp Việt Nam cơ hội xuất nhập khẩu, nhất là xuất khẩu. Mỹ là nước có nền kinh tế mạnh nhất thế giới, quan hệ thương mại phát triển mạnh mẽ. Mỹ còn là thị trường tiêu thụ hàng hoá khổng lồ và tương đối dễ tính, không quá khắt khe khi thâm nhập như các thị trường Nhật Bản và các nước châu Âu. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng năm của Mỹ là 1500 tỷ USD trong đó kim nghạch nhập khẩu chiếm gần 920 tỷ USD, trong đó có một số mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh là: dày dép, cao su, đồ gỗ, dệt may, hải sản, rau quả, cà phê. Nếu hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chiếm tỷ trọng 2% giá trị nhập khẩu của Mỹ thì kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ đạt gần 1,8 tỷ USD.
Mức thuế của hàng hoá Việt Nam khi được hưởng Tối huệ quốc sẽ giảm bình quân từ 35%-40% xuống còn trên dưới 5%, trong đó có một số mặt hàng mà mức thuế giảm mạnh làm tăng lợi thế cạnh tranh của các mặt hàng đó. Những mặt hàng này của Việt Nam nhờ giảm thuế mà có thể xuất khẩu được:
Bảng 2. 4 : Mức thuế của hàng Việt Nam khi xuất khẩu vào Mỹ
Mức thuế (%)
TT
Loại hàng hoá
Không có tối huệ quốc
Có tối huệ quốc
Gạo đã chế biến
23,6
5,8
Hạt có dầu
35,4
8,2
Hàng may mặc
68,9
3,4
Sản phẩm da
33
5,6
Sản phẩm hoá chất,cao su,nhựa
30,3
4,3
Sản phẩm khoáng chất
41,6
4,3
Thiết bị điện tử
34
2,8
Hàng dệt
55,1
10,3
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam số ra ngày 30/11/2001
Khi thâm nhập vào thị trường Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội là thuế suất thấp và thị trường rộng lớn. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội thì tiềm ẩn không ít những thách thức. Vì vậy, để có thể tiếp cận và không ngừng mở rộng thị trường, để có thể xâm nhập vào thị trường Mỹ hoặc thị trường bất cứ quốc gia nào thì điều cần thiết là Chính phủ có các giải pháp, định hướng kịp thời, đúng đắn và bản thân các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu phải chủ động khai thác thị trường và vận dụng khôn khéo các quy định ưu đãi cho các nước đang phát triển...
2.3 Thực trạng hoạt động tín dụng tài trợ XNK tại SGDI - NHNo &PTNTVN
2.3.1 Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGDI
2.3.1.1 Những thuận lợi
NHNo &PTNTVN đã có chương trình hành động trong những năm tới để thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX của Ban cán sự Đảng Ngân hàng Nhà nước. Bên cạnh đó, thống đốc NHNo &PTNTVN cũng đã đề ra giải pháp để thực hiện đúng nội dung, lộ trình của Đề án cơ cấu lại NHNo&PTNTVN 2001- 2010 đã được Chính phủ phê duyệt. Thêm vào đó, hệ thống văn bản quy phạm về hoạt động ngân hàng, hoạt động tín dụng và những văn bản liên quan của NHNo &PTNTVN và của SGDI ngày càng đầy đủ, chặt chẽ hơn. Đây chính là hành lang pháp lý giúp hạn chế rủi ro trong kinh doanh, tạo tính chủ động cho Sở thực hiện cho vay khách hàng có tín nhiệm và chưa tín nhiệm và cũng là định hướng cho hoạt động tín dụng của SGDI.
Hoạt động trên dịa bàn thủ đô Hà Nội, Sở có khả năng lớn về huy động vốn và tiếp xúc với các doanh nghiệp lớn kinh doanh xuất nhập khẩu. Đó là bởi vì 75% các doanh nghiệp của Tổng công ty 90, Tổng công ty 91 đóng trụ sở tại Hà Nội, nhiều doanh nghiệp ở Hà Nội có vị trí đầu mối, chi phối một vùng. Sở còn có thể học hỏi thêm kinh nghiệm trong hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu từ các ngân hàng thương mại lớn cùng địa bàn.
Hoạt động trên dịa bàn thủ đô Hà Nội, Sở còn nhận được sự chỉ đạo trực tiếp và có tính tổng lực từ ngân hàng "mẹ" khi cần thiết.
SGDI còn có đội ngũ cán bộ điều hành và đội ngũ cán bộ chuyên môn có năng lực, nhiệt tình, tâm huyết và còn trẻ. Đội ngũ cán bộ này thường xuyên được đào tạo và trưởng thành dần trong kinh doanh sẽ là nền tảng cho sự phát triển hoạt động kinh doanh của Sở.
Trong năm 2001, Sở tăng thêm nhiều nhân sự cho tổ thanh toán quốc tế và phòng tín dụng, điều này giúp cho hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu của Sở trong thời gian tới phát triển mạnh mẽ hơn.
2.3.1.2 Những khó khăn
* Những khó khăn về môi trường pháp lý
Hầu hết các giao dịch thanh toán bằng phương pháp tín dụng chứng từ đều tuân theo UCP nhưng UCP chỉ là thông lệ quốc tế và nếu UCP trái với luật quốc gia thì phải tuân theo luật quốc gia. Hiện nay, do chưa có một văn bản pháp lý nào quy định cụ thể các tranh chấp liên quan đến thanh toán bằng L/C hoặc phương pháp thanh toán khác nên ngân hàng và các doanh nghiệp sẽ gặp rủi ro khi có tranh chấp xảy ra.
Luật doanh nghiệp ra đời tạo điều kiện cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển nhưng về góc độ nào đó thì doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận vốn vay ngân hàng. Đó là bởi ngân hàng thường không muốn đầu tư cho thành phần kinh tế ngoài quốc doanh khi không có tài sản thế chấp.
* Những khó khăn về môi trường kinh doanh
Hà Nội là nơi hội tụ của nhiều tổ chức tín dụng. Hiện nay trên địa bàn Hà Nội có 26 SGD và chi nhánh thành viên của các NHTMQD. Hà Nội còn có mạng lưới của NHTMCP với 5 SGD & 9 chi nhánh, ngân hàng nước ngoài với 3 chi nhánh & 2 chi nhánh phụ, ngân hàng liên doanh với SGD & 2 chi nhánh. Trong khi đó, SGDI chỉ mới tham gia hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu từ năm 1998 nên các cán bộ còn chưa có nhiều kinh nghiệm. Vì vậy, hoạt động này của Sở gặp nhiều bất lợi so với các ngân hàng thương mại khác như ngân hàng Ngoại thương, ngân hàng Đầu tư, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Hà Nội... là những ngân hàng chuyên doanh phục vụ xuất nhập khẩu lâu năm với bề dày kinh nghiệm và họ đã chiếm lĩnh hầu hết khách hàng kinh doanh xuất nhập khẩu.
Trên địa bàn Hà Nội hiện nay đang diễn ra cuộc cạnh tranh quyết liệt giữa các ngân hàng trong việc giành giật khách hàng là DNNN thành viên của các Tổng công ty 90, Tổng công ty 91, các công ty cổ phần, các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và những khách hàng có nguồn USD. Trong cuộc cạnh tranh này, lợi thế thuộc về ngân hàng nước ngoài, chi nhánh liên doanh và các NHTM trong nước có năng lực tài chính cao, bình quân lãi suất đầu vào thấp, có công nghệ thanh toán hiện đại.Thêm vào đó, trong lĩnh vực huy động tiền gửi và cho vay hiện nay đã có sự cạnh tranh ngày càng gay gắt bằng công cụ lãi suất giữa các ngân hàng, thậm chí giữa các chi nhánh theo xu hướng hạ thấp lãi suất, giải quyết nhanh gọn nhu cầu của khách hàng lớn.
* Những khó khăn từ phía các doanh nghiệp xuất nhập khẩu
Do thời gian mở cửa hội nhập chưa lâu nên các doanh nghiệp Việt Nam chưa có nhiều kiến thức và kinh nghiệm trong làm ăn, kinh doanh với nước ngoài. Trong khi đó, các đối tác nước ngoài lại là các chuyên gia có kinh nghiệm, đã kinh doanh lâu trên thương trường quốc tế làm cho các doanh nghiệm Việt Nam không tránh khỏi thiệt thòi khi làm ăn với họ. Thêm vào đó, sự hiểu biết về thông lệ, luật pháp quốc tế, luật pháp của nước đối tác của các doanh nghiệp Việt Nam rất hạn chế nên khi xảy ra rủi ro, tranh chấp thì doanh nghiệp Việt Nam thường là người chịu thiệt mà ngân hàng là người hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp nên ngân hàng cũng bị ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh.
Ngân hàng là người tư vấn cho các doanh nghiệp nhưng nhiều khi do trình độ có hạn nên các doanh nghiệp không thực hiện theo lời tư vấn của ngân hàng dẫn đến việc doanh nghiệp bị lừa hoặc chịu thiệt trong kinh doanh. Doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả cũng làm ảnh hưởng đến lợi nhuận và hoạt động của ngân hàng.
Bên cạnh những bất lợi do trình độ và kinh nghiệm có hạn của doanh nghiệp mang lại, doanh nghiệp và ngân hàng còn gặp khó khăn do thực lực tài chính của các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu Việt Nam còn quá yếu. Có rất nhiều doanh nghiệp kinh doanh chủ yếu bằng vốn vay ngân hàng nên nếu buôn bán với nước ngoài bị thua lỗ thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
* Những khó khăn từ phía SGDI
Như đã phân tích ở trên, hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của Sở chỉ mới bắt đầu từ năm 1998 nên các cán bộ làm công tác này còn chưa có nhiều kinh nghiệm, phải vừa làm vừa học hỏi. Năng lực cán bộ tín dụng không đồng đều. Cán bộ làm nghiệp vụ này phần lớn là mới, chưa qua lớp tập huấn chính thức nhưng do số lượng công việc ngày một nhiều nên phải bắt tay ngay vào công việc. Mặt khác, thời gian để truyền đạt kinh nghiệm và kiến thức của những cán bộ đi trước cho những cán bộ mới là ít nên đôi khi còn sai sót trong nghiệp vụ.
Sở giao dịch I chưa tự cân đối được nguồn ngoại tệ giữa xuất và nhập. Thêm vào đó, nguồn ngoại tệ Sở huy động được chủ yếu gửi Sở đầu mối để hưởng phí nên Sở phải phụ thuộc vào cơ chế và phí điều hoà làm cho sự chủ động trong sử dụng vốn chưa cao.
Khi thực hiện mở L/C nhập khẩu, việc quyết định mức ký quỹ là rất quan trọng nhưng hiện nay, theo quyết định 447/NHNo ngày 7/6/2001 quy định về quy trình và kỹ thuật nghiệp vụ thanh toán quốc tế trong hệ thống NHNo chưa quy định cụ thể mức ký quỹ tối đa và mức ký quỹ tối thiểu trong từng thời kỳ. Vì vậy, chưa có mức ký quỹ thống nhất cho từng đối tượng khách hàng. Khi mức ký quỹ không được đảm bảo chắc chắn thì nếu có rủi ro tỷ giá xảy ra, ngân hàng mở L/C (Sở I) sẽ chịu thiệt thòi. Nếu Sở đã thanh toán tiền hàng cho nhà xuất khẩu (vì L/C phù hợp bộ chứng từ) mà người nhập khẩu không thanh toán cho ngân hàng vì tỷ lệ ký quỹ nhỏ hơn tỷ lệ trượt giá của nội tệ thì Sở I là người chịu rủi ro.
Bên cạnh đó, trang thiết bị của SGDI còn chưa hiện đại bằng một số ngân hàng thương mại khác nên cũng làm giảm phần hấp dẫn khách hàng, đặc biệt là khách hàng nước ngoài.
2.3.2 Nguồn vốn huy động tại SGDI
Nguồn vốn luôn đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của một ngân hàng. Để có nguồn vốn phục vụ tín dụng xuất nhập khẩu mà đặc biệt là nguồn ngoại tệ, SGDI phải huy động vốn từ nhiều nguồn.
Tình hình huy động vốn của SGDI từ năm 1999 đến năm 2001._. giúp cho các cán bộ tín dụng thêm những kinh nghiệp cần thiết để phòng tránh rủi ro khi thực hiện nghiệp vụ này.
Khi các doanh nghiệp xuất khẩu muốn xin chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất, Sở có thể chiết khấu theo một trong hai cách dưới đây:
- Chiết khấu có truy đòi
Chiết khấu có truy đòi được thực hiện khi bộ chứng từ thoả mãn các điều kiện sau:
Đối với phương thức thanh toán L/C:
+ Ngân hàng mở L/C là ngân hàng có uy tín.
+ Khách hàng mở tài khoản và có quan hệ thường xuyên với NHNo.
+ Thị trường truyền thống được phép xuất khẩu tại Việt Nam
+ Khách hàng cam kết hoàn trả số tiền ngân hàng đã chiết khấu khi nhận được thông báo từ chối thanh toán bộ chứng từ của nước ngoài.
+ Số tiền chiết khấu tối đa là 95% giá trị L/C.
+ Thư yêu cầu thanh toán và đơn xin chiết khấu phải có chữ ký của chủ tài khoản và kế toán trưởng.
+ Đối với bộ chứng từ của L/C trả chậm có thời hạn 30 ngày trở lên, ngân hàng chỉ thực hiện chiết khấu khi đã nhận được chấp nhận thanh toán của ngân hàng phát hành/ ngân hàng chấp nhận.
Đối với phương thức thanh toán nhờ thu:
+ Khách hàng có quan hệ giao dịch thường xuyên tại ngân hàng, có quan hệ thanh toán tốt.
+ Thị trường truyền thống
+ Mặt hàng được phép xuất khẩu
+ Khách hàng cam kết hoàn trả số tiền ngân hàng đã chiết khấu khi nhận
được thông báo từ chối thanh toán bộ chứng từ của nước ngoài.
- Chiết khấu miễn truy đòi: Chỉ áp dụng với phương thức thanh toán L/C
Chiết khấu miễn truy đòi được thực hiện khi bộ chứng từ thoả mãn các điều kiện sau:
+ L/C là L/C đã được NHNo xác nhận.
+ Chứng từ hoàn toàn phù hợp các điều khoản và điều kiện của L/C.
+ Thư yêu cầu thanh toán đề nghị chiết khấu miễn truy đòi phải có chữ ký của chủ tài khoản và kế toán trưởng.
* Tài trợ khép kín cho doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu qua các công đoạn từ vay vốn chế biến, sản xuất đến công đoạn tài trợ để doanh nghiệp thực hiện tái sản xuất. Quá trình tài trợ khép kín này được thực hiện như sau:
- Khi doanh nghiệp sản xuất hàng theo hợp đồng ngoại thương đã ký, ngân hàng có thể cho doanh nghiệp vay bổ sung nhu cầu vốn lưu động để mua vật tư, nguyên liệu. Mức cho vay cụ thể do giám đốc Sở quyết định nhưng tối đa bằng chi phí sản xuất hàng hoá theo hợp đồng xuất khẩu đã ký trừ đi vốn tự có, vốn ứng trước của người mua và vốn huy động từ nguồn khác của doanh nghiệp. Sở cũng có thể thu mua ngoại tệ có được từ xuất khẩu của doanh nghiệp bằng cách đề nghị doanh nghiệp cam kết đảm bảo việc thanh toán tiền hàng xuất khẩu được chuyển vào tài khoản mở tại Sở để Sở mua lại số ngoại tệ đó.
- Sau khi doanh nghiệp gửi hàng, doanh nghiệp có trong tay bộ chứng từ thanh toán, nếu doanh nghiệp muốn vay vốn để tiếp tục sản xuất trước khi đến hạn thanh toán thì ngân hàng sẽ tài trợ bằng cách thực hiện chiết khấu chứng từ cho doanh nghiệp.
* Chiết khấu hối phiếu:
Trên cơ sở những hối phiếu đã được ngân hàng nước ngoài chấp nhận nhưng chưa đến hạn thanh toán, Sở có thể cấp tín dụng cho người xuất khẩu bằng cách chiết khấu hối phiếu đó.
* Tín dụng ứng trước kết hợp với kinh doanh ngoại tệ
Dựa trên hợp đồng ngoại thương đã ký kết hoặc L/C đã thông báo, Sở cho doanh nghiệp vay để thu mua chế biến hàng xuất khẩu theo hợp đồng. Đồng thời, Sở yêu cầu khách hàng ký hợp đồng bán lại cho Sở số ngoại tệ của khách hàng khi họ được thanh toán theo tỷ giá hai bên thoả thuận và Sở tiến hành thu nợ từ nguồn bán ngoại tệ đó.
* Bảo lãnh thực hiện hợp đồng
Sở nên đa dạng hoá các hình thức tài trợ xuất khẩu của mình bằng cách bảo lãnh thực hiện hợp đồng cho người xuất khẩu khi họ có yêu cầu. Việc bảo lãnh thực hiện hợp đồng giúp cho người nhập khẩu tin tưởng rằng người xuất khẩu sẽ thực hiện đúng hợp đồng và hình thức tài trợ này sẽ tạo điều kiện cho người xuất khẩu ký được hợp đồng bán hàng. Sở có cũng thể thực hiện hình thức bảo lãnh thực hiện hợp đồng kết hợp với hình thức cho vay thu mua hàng xuất theo L/C. 3.3.2.2 Tài trợ nhập khẩu:
Tương tự như hình thức tài trợ xuất khẩu, Sở nên đa dạng hoá các hình thức tài trợ để hấp dẫn khách hàng bằng cách đưa thêm một số hình thức tài trợ nhập khẩu như: tín dụng chấp nhận hối phiếu, tín dụng ứng trước đối với người nhập khẩu, bảo lãnh thanh toán cho người nhập khẩu...
Với những khách hàng truyền thống, có uy tín, có khả năng tài chính tốt, Sở nên tài trợ cho họ bằng cách bảo lãnh thanh toán. Việc bảo lãnh thanh toán cho nhà nhập khẩu sẽ giúp họ có thể mua được hàng và mang lại nguồn thu cùng với uy tín cho Sở.
3.3.3 Đa dạng hoá khách hàng và thực hiện chính sách khách hàng phù hợp
3.3.3.1 Đa dạng hoá khách hàng
Khách hàng vay vốn chủ yếu tại Sở hiện nay là : Tổng công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản Hà nội, Công ty vật tư nông sản, công ty kim khí hà Nội, Tổng công ty chăn nuôi, Tổng công ty lương thực miền Bắc... nên Sở dễ bị sức ép từ phía khách hàng về lãi suất, phí thanh toán. Mặt khác, việc tập trung dư nợ vào một số ít khách hàng sẽ không có lợi cho phòng ngừa rủi ro tín dụng.
Vì vậy, Sở I cần sử dụng nhiều biện pháp cần thiết để đa dạng hoá khách hàng, thu hút thêm nhiều khách hàng mới như : cử cán bộ tiếp cận trực tiếp với khách hàng, chủ động triển khai các hoạt động tín dụng theo các dự án lớn của doanh nghiệp. Sở cũng cần đẩy mạnh tiếp thị để thu hút thêm các khách hàng vay vốn, khách hàng dịch vụ theo hướng tập trung vào các Tổng công ty 90 - 91 và các thành viên của Tổng công ty này.
3.3.3.2 Thực hiện chính sách khách hàng phù hợp:
* Đối với khách hàng:
- Do trên địa bàn Hà Nội hiện nay đang diễn ra cuộc cạnh tranh gay gắt trong giành giật khách hàng bằng cách tăng lãi suất huy động, giảm lãi suất cho vay làm cho Sở gặp khó khăn. Để có thể cạnh tranh trong tình hình như vậy, Sở cần phải phân loại khách hàng thường xuyên thông qua phân tích tài chính doanh nghiệp, phân tích thực trạng tín dụng để có chính sách ưu đãi, chính sách giá cả linh động, phù hợp tình hình cạnh tranh tuỳ từng thời điểm và tuỳ từng khách hàng.
+ Với những khách hàng truyền thống, có uy tín, khách hàng lớn hoặc khách hàng mang lại nguồn thu ngoại tệ cho Sở, Sở cần cho vay với lãi suất ưu đãi và phải tăng lãi suất tiền gửi khi cần thiết để giữ bằng được những khách hàng đã có.
Với những khách hàng nhỏ hoặc khách hàng mới, khách hàng chưa có uy tín, nếu việc giảm lãi suất cho vay hoặc tăng lãi suất tiền gửi làm cho Sở không có lãi hoặc khó khăn khi thực hiện thì Sở có thể từ bỏ.
+ Đối với khách hàng gửi tiền: Sở cần phân loại các khách hàng lớn, có nguồn vốn rẻ để có ưu đãi về phí dịch vụ trong thanh toán, bố trí cán bộ phục vụ tận tình, chu đáo và nếu cần thiết có thể đến đơn vị của khách hàng để phục vụ.
Đối với khách hàng vay vốn: Sở cần phân loại khách hàng thường xuyên để có chính sách ưu đãi về lãi suất, điều kiện vay, phương thức cấp tín dụng, phong cách phục vụ..., đặc biệt là đối với khách hàng có nguồn ngoại tệ cho thanh toán.
Sở cũng cần chú trọng tập trung vào khách hàng lớn, khách hàng có nguồn vốn, khách hàng kinh doanh có hiệu quả để có chính sách ưu đãi phù hợp.
- SGD I cần tổ chức hội nghị khách hàng hàng năm nhằm tuyên truyền, củng cố mối quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng và biết được những nhu cầu của khách hàng để đáp ứng kịp thời.
* Đối với cán bộ ngân hàng
Sở cần xem xét để có chính sách khen thưởng xứng đáng đối với những cán bộ đã tiếp thị, lôi kéo, có sáng kiến mới để lưu giữ, thu hút khách hàng mà đặc biệt là khách hàng lớn cho Sở.
3.3.4 Phòng ngừa rủi ro tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu
Trong hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu thì rủi ro tín dụng là yếu tố tiềm ẩn mà các ngân hàng khó có thể triệt tiêu. Các ngân hàng chỉ có thể giảm thiểu rủi ro này đến mức thấp nhất thông qua việc tuân thủ nghiêm túc các khâu trong quy trình nghiệp vụ tín dụng, thực hiện phân tán và san sẻ rủi ro. Trong quy trình nghiệp vụ tín dụng, ngân hàng nên chú trọng vào 2 khâu: khâu thẩm định tín dụng và khâu kiểm tra, kiểm soát sau khi cấp tín dụng.
3.3.3.1 Nâng cao chất lượng công tác thẩm định tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu
Thẩm định tín dụng là một trong những khâu then chốt trong quy trình tín dụng góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở. Để thẩm định một dự án đầy đủ, chính xác thì cán bộ tín dụng của Sở phải phân tích đầy đủ các khía cạnh sau: tư cách khách hàng, năng lực khách hàng, nguồn hoàn trả nợ vay, đảm bảo tín dụng, môi trường hoạt động kinh doanh của khách hàng, sự kiểm soát của ngân hàng .
- Tư cách khách hàng: cán bộ tín dụng phải xác định rõ mục đích thực sự của khách hàng khi yêu cầu ngân hàng tài trợ và thái độ nghiêm túc của khách hàng khi hoàn trả nợ vay. Cán bộ tín dụng còn phải xem xét hồ sơ về quá trình thanh toán của khách hàng với ngân hàng và vơí ngân hàng khách để đánh giá uy tín của khách hàng.
- Năng lực khách hàng: cán bộ tín dụng cần đảm bảo rằng khách hàng có đủ thẩm quyền yêu cầu ngân hàng tài trợ và có đủ năng lực pháp lý khi ký hợp đồng tín dụng với ngân hàng.
- Nguồn hoàn trả nợ vay: dựa trên số liệu của báo cáo tài chính, báo cáo của cơ quan kiểm toán, báo cáo chi phí hoạt động kinh doanh, hệ số an toàn kinh doanh, năng lực quản trị của doanh nghiệp, khả năng thanh khoản, nguồn vật tư nguyên liệu tồn kho...để đánh giá nguồn hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
- Đảm bảo tín dụng: cán bộ tín dụng cần quan tâm đặc biệt đến đặc điểm về chất lượng, giá trị và khả năng phát mãi tài sản đảm bảo. Đây là những đặc điểm quan trọng, nó ảnh hưởng đến nguồn thu nợ của ngân hàng khi khách hàng không có khả năng trả nợ.
- Môi trường kinh doanh của khách hàng: đây là một yếu tố quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của khách hàng và khả năng thu hồi vốn của ngân hàng. Môi trường kinh doanh của khách hàng bao gồm: vị thế và thị phần của khách hàng trên thị trường, tình hình cạnh tranh, triển vọng phát triển của ngành, môi trường pháp lý chính trị, tình hình kinh tế của quốc gia và quốc tế...
- Sự kiểm soát của ngân hàng: bao gồm luật, quy chế ngân hàng về hoạt động tín dụng và chất lượng tín dụng; sự phù hợp giữa nhu cầu tín dụng và chính sách tài trợ của ngân hàng.
Thẩm định được đầy đủ sáu khía cạnh trên sẽ giúp cán bộ tín dụng của Sở hiểu rõ về dự án và đây là cơ sở để khoản tín dụng đạt chất lượng tốt.
3.3.3.2 Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát sau khi cấp tín dụng
Công tác kiểm tra, kiểm soát sau khi cấp tín dụng cũng là một khâu then chốt trong quy trình tín dụng của ngân hàng; đảm bảo việc sử dụng vốn vay của khách hàng đúng mục đích , phát hiện kịp thời các sai phạm để có biện pháp xử lý, tránh mất vốn của ngân hàng.
Sở có thể kiểm tra việc sử dụng vốn của khách hàng thông qua chứng từ, sổ sách, hoá đơn hoặc bản kê chi phí sử dụng tiền vay, thông qua tồn kho vật tư hàng hoá thực tế... Cán bộ tín dụng của Sở nên thường xuyên kiểm tra việc sử dụng vốn vay của khách hàng mà không báo trước để có thể phát hiện các sai phạm khi khách hàng chưa kịp chuẩn bị.
Với những khoản tín dụng có tài sản thế chấp, cán bộ tín dụng của Sở cần bám sát việc sử dụng, bảo vệ tài sản, sự biến động về giá trị của tài sản trên thị trường và các quy định mới về tài sản thế chấp ... để có biện pháp xử lý kịp thời, đảm bảo nguồn thu nợ vay cho Sở.
3.3.3.3 Phân tán rủi ro
Hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGD I hiện nay chỉ tập trung vào một số khách hàng lớn như : tổng công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản Hà Nội, tổng công ty kim khí Hà Nội... nên khi những công ty này gặp khó khăn hoặc rủi ro thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của Sở . Vì vậy, phân tán rủi ro là một biện pháp mà Sở I cần thực hiện ngay.
- Sở không nên dồn vốn vào một vài khách hàng lớn mà cần tiếp cận thêm nhiều khách hàng lớn, có uy tín để có thể phân bổ nguồn vốn vào nhiều đối tượng khách hàng khác nhau. Sở cũng nên cho vay đối nhiều loại hàng hoá khác nhau với các thời hạn khác nhau.
- Ngoài ra, đối với dự án lớn, có hiệu quả cao, thay vì từ chối vì không đủ vốn thì Sở nên chủ động tìm kiếm các ngân hàng lớn có kinh nghiệm để có thể đồng tài trợ cho dự án đó. Với những dự án mà Sở có khả năng tài trợ nhưng mức độ rủi ro hơi cao, Sở cũng cần liên kết với ngân hàng khác để san sẻ thiệt hại khi rủi ro xảy ra.
3.3.5 Tăng cường tiếp cận nguồn thông tin tài trợ ngoại thương
Nguồn thông tin phục vụ cho hoạt động tín dụng của ngân hàng và độ tin cậy của nguồn thông tín ấy là một yếu tố quyết định hoạt động tín dụng của ngân hàng. Ngân hàng nào có nguồn thông tin nhanh hơn, nhiều hơn và chính xác hơn, ngân hàng đó có thể giảm thiểu rủi ro và đứng vững trong cạnh tranh. Chính vì nguồn thông tin quan trọng như vậy nên Sở I cần chủ động hơn nữa trong việc tiếp cận nguồn thông tin sẵn có sau:
- Nguồn thông tin nhằm giảm thiểu rủi ro quốc gia
Nguồn thông tin này gồm có các báo cáo, ấn phẩm về tình hình chính trị, kinh tế của các nước trên thế giới do các tổ chức xúc tiến mậu dịch quốc tế, tổ chức hỗ trợ phát triển ngoại thương , tổ chức tài chính quốc tế và cơ quan quốc tế có uy tín phát hành. Các tổ chức này gồm có IMF, WB, các tổ chức của Liên hiệp quốc và tổ chức chuyên nghiệp như Moody's, Standard & Poor's...
- Nguồn thông tin nhằm giảm thiểu rủi ro tỷ giá
Nguồn thông tin này gồm các ấn phẩm, các báo cáo đánh giá và dự đoán tình hình, diễn biến tỷ giá, chính sách ngoại hối của các quốc gia trên thế giới do những tổ chức chuyên nghiệp phát hành. Những ấn phẩm này gồm có: Financial Times, Euromoney, Wall Street Journal...
- Nguồn thông tin nhằm giảm thiểu rủi ro khách hàng
Nguồn thông tin này gồm hồ sơ tín dụng của khách hàng, báo cáo quan hệ tín dụng và uy tín khách hàng do các ngân hàng đối tác hay ngân hàng đại lý cung cấp, báo cáo của ngành, cơ quan liên quan...
3.3.6 Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng cáo về hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở.
Ngày nay, khi cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng trở nên gay gắt thì việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng cáo về hoạt động ngân hàng là tất yếu và Sở I cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Hiện nay, hoạt động tuyên truyền, quảng cáo tại Sở I tuy đã được quan tâm hơn trước nhưng kết quả chưa cao do công tác này chưa được thực hiện đều khắp cơ sở. Trong định hướng thực hiện kế hoạch năm 2002, Sở I có đề ra giải pháp thực hiện marketing nhưng các giải pháp cho hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu còn chưa thật cụ thể.
Để không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh, tăng uy tín, tăng khả năng sinh lời trong hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu nói riêng thì SGD I cần đẩy mạnh hoạt động marketing thông qua chính sách giao tiếp, khuéch trương. Để tác động có hiệu quả hơn đối với công chúng và đảm bảo giao tiếp có hiệu quả, Sở cần phải lựa chọn chính sách giao tiếp khuyếch trương phù hợp.
Do hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở mới đi vào hoạt động nên nhiều khách hàng chưa biết hoặc chưa tin tưởng vào hoạt động này tại ngân hàng khi so sánh với các ngân hàng có kinh nghiệp lâu năm như VIETCOMBANK, ngân hàng nước ngoài...Vì vậy Sở cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền tiếp thị để thu hút thêm nhiều khách hàng bằng cách:
- Tăng cường quảng cáo trên báo chuyên ngành và đặc biệt là báo được nhiều tầng lớp dân chúng đọc như báo Hà Nội Mới, báo Lao động...Bên cạnh đó, Sở cũng nên quảng cáo về hoạt động của ngân hàng mình thông qua các phóng sự trên vô tuyến truyền hình, thông qua các bài báo. Cách làm này sẽ giúp cho nhiều người biết về những dịch vụ mới tại Sở và lợi ích của họ khi trở thành khách hàng của Sở.
- Cử cán bộ có tài ăn nói, năng động, nhiệt tình, có trình độ nghiệp vụ đến các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp lớn và làm ăn có hiệu quả để giới thiệu về Sở và NHNo, thuyết phục họ trở thành khách hàng của Sở.
- Lựa chọn cán bộ có khả năng giao tiếp tốt, nhanh nhẹn, nhiệt tình thực hiện nghiệp vụ mà phải tiếp xúc với khách hàng. Chính phong cách giao tiếp của các nhân viên ngân hàng sẽ mang lại uy tín cho Sở và giúp Sở thu hút thêm nhiều khách hàng mới mà không cần quảng cáo.
- SGD I cần tổ chức hội nghị khách hàng hàng năm nhằm tuyên truyền, củng cố mối quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng và biết được những nhu cầu của khách hàng để đáp ứng kịp thời.
- Sở cũng cần sửa sang địa điểm giao dịch cho khang trang hơn để tạo ấn tượng tốt cho khách hàng về Sở ngay từ cái nhìn đầu tiên.
3.3.7 Nâng cao chất lượng cán bộ
Trình độ cán bộ và phong cách giao tiếp của họ đối với khách hàng rất quan trọng. Tuy nhiên, tại Sở hiện nay, một trong những khó khăn là năng lực cán bộ tín dụng chưa đồng đều và một số cán bộ là mới và chưa có kinh nghiệm.Thêm vào đó, vụ từ chối thanh toán L/C số: LN/SGDI-00/071 đã gây ảnh hưởng đến uy tín của Sở. Vì vậy, trong thời gian tới, để lấy lại uy tín với ngân hàng cấp trên và khách hàng trong lĩnh vực quan hệ quốc tế, Sở cần chú trọng nhiều đến công tác sắp xếp, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ tín dụng và thanh toán quốc tế, củng cố thêm nhân sự cho tổ thanh toán quốc tế, có chính sách đãi ngộ với cán bộ có năng lực và có thành tích trong việc thu hút khách hàng cho Sở theo hướng:
- Sở phải hướng dẫn cụ thể việc cử những cán bộ có kinh nghiệm kèm cặp cán bộ trẻ mới vào nghề, mở thêm những lớp nâng cao kiến thức về kinh tế thị trường, tài trợ dự án, phân tích tài chính doanh nghiệp, marketing, thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại hối cho cán bộ.
- Sở cũng cần đào tạo ngoại ngữ, tin học theo mức độ phổ cập và chuyên sâu tuỳ theo yêu cầu của từng cán bộ. Ngoại ngữ đóng vai trò quan trọng trong công tác của các cán bộ tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu bởi phần lớn hồ sơ, chứng từ là bằng tiếng Anh. Vì vậy, Sở I cần chú trọng đào tạo ngoại ngữ chuyên ngành cho các cán bộ làm công tác tài trợ xuất nhập khẩu và thanh toán quốc tế.
- Sở nên tổ chức nhiều đợt tập huấn nghiệp vụ để tất cả các cán bộ có nhu cầu vừa có điều kiện học thêm vừa có thể đi làm. Bên cạnh đó, Sở nên nâng cao trình độ cán bộ hiện có bằng cách gửi đi học khoá đào tạo trong nước và nước ngoài ngắn ngày, liên hệ với các ngân hàng nước ngoài tại Hà Nội để cử cán bộ làm nghiệp vụ thanh toán quốc tế và nghiệp vụ tín dụng tại Sở I đến học tập kinh nghiệm.
- Sở cũng cần xem xét để hợp đồng, tuyển thêm cán bộ đã qua đào tạo tín dụng, ngoại thương và có nhiều kinh nghiệm về nghiệp vụ thanh toán quốc tế, tài trợ xuất nhập khẩu.
- Sở cần nhanh chóng đề ra chính sách đãi ngộ hoặc khen thưởng với những cán bộ có năng lực, nhiệt tình, có thành tích trong hoạt động kinh doanh của Sở. Sở cũng cần đề ra biện pháp xử phạt với những cán bộ có trách nhiệm.
- Sở cần tổ chức khoán một số khoản chi phí, khoán tiền lương theo công việc với từng đơn vị và từng cán bộ công nhân viên, thực hiện việc trả lương theo số lượng, chất lượng, hiệu quả công việc. Đây chính là động lực để gắn kết cán bộ, nhân viên của SGD I và kết quả kinh doanh của Sở trong môi trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt như hiện nay.
3.4 Một số kiến nghị nhằm phát triển hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu
Thực tiễn hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu cho thấy có nhiều hình thức tài trợ mà ngoài các tổ chức tài trợ do chính phủ thành lập, các NHTM có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện các hình thức tài trợ ngoại thương khác như chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất, chiết khấu hối phiếu, bao thanh toán...Vì vậy, các ngân hàng cấp trên, NHNN và Chính phủ cần tạo điều kiện để các NHTM thực hiện tốt nghiệp vụ tài trợ xuất nhập khẩu của mình.
3.4.1 Kiến nghị đối với NHNo&PTNTVN
Trong thời gian qua, hoạt động quan hệ đối ngoại nói chung và hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu nói riêng của NHNo&PTNTVN đã có nhiều đổi mới. Tuy nhiên, có một số vấn đề cần NHNo&PTNTVN giải quyết nhằm phát triển mạnh mẽ hơn hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu:
- Đề nghị NHNo&PTNTVN triển khai việc hướng dẫn cụ thể các văn bản, chính sách, chế độ của Chính phủ, của các ngành có liên quan đến xuất nhập khẩu, quản lý ngoại hối và tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu và các quy định của chính NHNo&PTNTVN tới Sở và các chi nhánh một cách kịp thời.
- NHNo&PTNTVN cần sửa đổi, bổ sung một số điểm trong Quy trình nghiệp vụ cụ thể mới về thanh toán quốc tế (trong đó có tài trợ xuất nhập khẩu) của NHNo&PTNTVN là văn bản 447 có hiệu lực thi hành từ 1/7/2001. Cụ thể là:
Văn bản 447 quy định: thư yêu cầu mở L/C phải có chữ ký của chủ tài khoản và kế toán trưởng, nhưng với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thì chỉ có 1 chữ ký của chủ tài khoản. Vì vậy trên đơn xin mở L/C chỉ nên quy định phải có chữ ký của chủ tài khoản và kế toán (nếu có)
Số tiền chiết khấu bộ chứng từ nên để cho Sở tự quyết định và chịu trách nhiệm, có thể số tiền chiết khấu là 98% sau khi đã trừ đi các khoản phí và một tỷ lệ rủi ro nhất định. Như vậy mới có thể khuyến khích khách hàng xuất chiết khấu bộ chứng từ tại NHNo&PTNTVN.
- Về vấn đề ngoại tệ:
Văn bản 901 của Tổng giám đốc NHNo&PTNT quy định về cho vay ưu đãi hàng xuất khẩu, thu gom hàng ngoại tệ nhưng không quy định rõ thời gian cho vay được hưởng với lãi suất ưu đãi (0,45%/ tháng) trên số tiền USD mà đơn vị bán lại cho NHNo,, do đó chưa khuyến khích các đơn vị có điều kiện khai thác ngoại tệ. Đề nghị Tổng giám đốc NHNo&PTNT quy định thời gian cụ thể được hưởng lãi suất ưu đãi 0,45%/tháng và quy định khuyến khích lãi suất theo từng mức khác nhau dựa trên số lượng ngoại tệ bán lại cho Trung tâm hối đoái qua Sở giao dịch theo văn bản 901 đối với các đơn vị thừa vốn để khuyến khích nguồn ngoại tệ .
Do khách hàng của Sở I có nhu cầu ngoại tệ lớn, chủ yếu là USD nên đề nghị SGD NHNo&PTNT hỗ trợ nguồn ngoại tệ để Sở I có thể chủ động trong thanh toán.
Việc mua bán ngoại tệ từ các ngân hàng bạn trên cùng địa bàn còn vướng mắc trong hạch toán do lệnh chuyển tiền từ ngân hàng bạn vào tài khoản của NHNo&PTNTVN tại Vietcombank hay các ngân hàng nước ngoài còn chậm, việc hoạch toán phải 2-3 ngày mới có sổ phụ. Việc thanh toán hiện nay thường qua bù trừ tại NHNN thường mất ít nhất là 2 ngày. Vì vậy, đề nghị Trung tâm hối đoái cho phép Sở I được mở tài khoản ngoại tệ tại Vietcombank để thuận tiện trong triển khai hoạt động mua bán ngoại tệ và tiết kiệm thời gian giao dịch .
- Đề nghị Tổng giám đốc chỉ đạo công tác đào tạo quan tâm hơn nữa tới hoạt động đào tạo nghiệp vụ thanh toán quốc tế và tài trợ xuất nhập khẩu bởi đây là nghiệp vụ đặc biệt cần thiết cho hoạt động kinh doanh ngân hàng trong điều kiện kinh tế thị trường với quan hệ đa phương, nhất là khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực.
- Đề nghị NHNo&PTNT cho phép Sở I thành lập 5 phòng:
. Phòng chăm sóc khách hàng
. Phòng thanh toán quốc tế
. Phòng kế hoạch
. Phòng vi tính
Việc thành lập các phòng trên sẽ tạo điều kiện cho Sở triển khai chuyên môn, nghiệp vụ tốt hơn. Trong đó, việc thành lập phòng " Chăm sóc khách hàng " sẽ có tác động mạnh đến tâm lý khách hàng, giúp Sở thu hút thêm nhiều khách hàng mới và tạo điều kiện để Sở thực hiện tốt hơn chính sách khách hàng và đẩy mạnh hoạt động giao tiếp, khuyếch trương.
- Làm việc ngoài giờ là thực tế đòi hỏi của công việc, đặc biệt là vào thời điểm cuối năm hoặc khi ngân hàng muốn thu hút thêm khách hàng. Do vậy, đề nghị NHNo&PTNTVN có cơ chế tài chính xử lý vấn đề này để tháo gỡ cho Sở I nói riêng và cho các thành viên của NHNo&PTNTVN nói chung.
3.4.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước.
NHNN cần có thông tư, quyết định hướng dẫn cụ thể hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu của các NHTM trong những thời kỳ cụ thể hoặc khi có những sự kiện kinh tế lớn diễn ra trong nước và trên thế giới.
NHNN cần hoàn thiện quy chế cầm cố, thế chấp và đảm bảo tiền vay. Việc quy định các DNNN không cần đảm bảo tiền vay gây không ít khó khăn cho hoạt động tín dụng của các ngân hàng.
Thị trường liên ngân hàng là thị trường nhằm giải quyết mối quan hệ trao đổi, cung cầu vốn giữa các NHTM. Việc thị trường liên ngân hàng phát triển giúp cung cấp nguồn vốn kịp thời và đầy đủ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng, giúp cho các ngân hàng chớp được thời cơ kinh doanh của mình và đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Vì vậy việc NHNN có biện pháp kích thích sự phát triển của thị trường liên ngân hàng là vô cùng cần thiết.
3.4.3 Kiến nghị đối với Chính phủ
3.4.3 Hoàn thiện môi trường pháp lý
Hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu nói riêng chỉ an toàn và hiệu quả khi nó có một môi trường pháp lý ổn định, đồng bộ và nhất quán. Đó là bởi vì hoạt động ngân hàng có liên quan đến tất cả các ngành, các thành phần kinh tế nên luật pháp và quy định của các ngành, các thành phần này ảnh hưởng lớn đến hoạt động ngân hàng. Thêm vào đó, hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tiềm ẩn rất nhiều rủi ro do hoạt động này chịu rủi ro của cả 2 hoạt động: hoạt động tín dụng và hoạt động thanh toán quốc tế. Vì vậy, để đảm bảo tính an toàn và hiệu quả cho hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu nói riêng, Chính phủ nên thực hiện các biện pháp sau nhằm hoàn thiện môi trường pháp lý, tạo điều kiện cho sự phát triển hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng và hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp :
Có chủ trương, chính sách, cơ chế quản lý nhằm đảm bảo môi trường pháp lý để các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu yên tâm hoạt động và tạo môi trường kinh doanh bình đẳng cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu mà không phân biệt thành phần kinh tế.
Sớm ban hành chiến lược xuất khẩu quốc gia, trong đó chiến lược thương mại hướng về xuất khẩu là căn cứ để các doanh nghiệp và các NHTM có chiến lược kinh doanh của mình.
Khẩn trương xây dựng Đề án thành lập ngân hàng xuất nhập khẩu. Chính phủ cũng cần thành lập các trung tâm hỗ trợ xúc tiến thương mại cho doanh nghiệp để cung cấp cho các doanh nghiệp thông tin về thị trường, về uy tín của các đối tác thương mại, về pháp luật và thủ tục hành chính của nước bạn hàng...
Xây dựng hệ thống bảo hiểm xuất nhập khẩu và bảo hiểm tín dụng xuất nhập khẩu.
3.4.3 Chính sách hỗ trợ tài chính
Chính phủ nên có chính sách hỗ trợ tài chính như :
Có chính sách tín dụng ưu đãi đối với doanh nghiệp sản xuất mặt hàng mới để phục vụ xuất khẩu để ngân hàng làm căn cứ xây dựng chính sách tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của mình.
Giảm thuế xuất khẩu và nhập khẩu nhằm giúp doanh nghiệp nâng cao lợi nhuận để tái đầu tư phục vụ xuất khẩu.
Hỗ trợ việc hình thành quỹ bảo hiểm tín dụng xuất nhập khẩu.
Xác định những ngành hàng có thế mạnh để hỗ trợ thêm đồng thời chuyển đổi cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng tăng tỷ trọng sản phẩm hàng hoá đã qua chế biến.
Có chính sách lãi suất hỗ trợ vay vốn ngân hàng hợp lý để vừa điều tiết nền kinh tế, tạo điều kiện để các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu vừa tạo điều kiện cho các NHTM xử lý linh hoạt lãi suất để tài trợ xuất nhập khẩu. Thực hiện tốt chính sách này sẽ tránh tình trạng lãi suất ưu đãi đầu ra nhỏ hơn lãi suất đầu vào của các NHTM, gây bất lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu và hoạt động ngân hàng.
Kết luận chương 3
Trên cơ sở định hướng phát triển hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam và định hướng hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNTVN, của SGD I trong thời gian tới, trên cơ sở những kết quả và tồn tại của hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGD I - NHNo&PTNTVN, chương 3 đã đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm phát triển hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGD I.
Các giải pháp nhằm phát triển hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGD I là:
. Giải pháp thu hút nguồn vốn
. Hoàn thiện và đa dạng hoá các hình thức tín dụng tài trợ XNK tại SGD I
. Đa dạng hoá khách hàng và thực hiện chính sách khách hàng phù hợp
. Phòng ngừa rủi ro tín dụng tài trợ XNK
. Tăng cường tiếp cận nguồn thông tin tài trợ ngoại thương
. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng cáo hoạt động tài trợ ngoại thương tại Sở.
. Nâng cao chất lượng cán bộ
Bên cạnh việc đưa ra các giải pháp nhằm phát triển hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại SGD I, chương 3 còn đưa ra một số kiến nghị đối với NHNo&PTNTVN, NHNN và Chính phủ.
Kết luận
Trong những năm qua, ngành Ngân hàng Việt Nam đang từng bước khẳng định vai trò quan trọng của mình trong chiến lược phát triển kinh tế do Đảng và Nhà nước đề ra. Cùng với các hoạt động kinh doanh khác, hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của NHNo&PTNTVN nói chung và của SGD I nói riêng đã đạt được không ít thành tựu. Từ những bước đầu khó khăn khi mới thực hiện nghiệp vụ tài trợ ngoại thương do thiếu kinh nghiệm, thiếu vốn, chưa có uy tín..., đến nay sau gần 5 năm hoạt động, hoạt động này tại SGD I không những phát triển mạnh mà còn và tạo điều kiện cho các hoạt động kinh doanh khác của Sở cùng phát triển.Tuy hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu tại SGD I đã đạt được những kết quả đáng khích lệ: doanh số tài trợ ngày càng tăng, tỷ lệ nợ quá hạn thấp..., hoạt động này tại SGD I cũng gặp phải những khó khăn cần được sự quan tâm giúp đỡ của NHNo&PTNTVN và NHNN.
Trong thời gian thực tập tại SGDI , được sự giúp đỡ nhiệt tình của ban lãnh đạo cùng toàn thể các cô chú, các anh chị phòng Kế hoạch và kinh doanh SGD I, với sự cố gắng của bản thân kết hợp những lý luận đã học với tình hình thực tế của Sở giao dịch I, em đã mạnh dạn nêu ra một số ý kiến có tính chất tham khảo để SGDI NHNo & PTNTVN nghiên cứu, xem xét góp phần phát triển hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở. Cùng với quá trình hoạt động và phát triển của nền kinh tế và của SGD I, nhiều nhu cầu và khó khăn mới sẽ nảy sinh đòi hỏi những biện pháp giải quyết phù hợp. Hy vọng rằng trong thời gian tới SGDI NHNo & PTNTVN sẽ không ngừng phát triển nghiệp vụ tài trợ xuất nhập khẩu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tốt và là tiền đề để hoàn thành chiến lược phát triển kinh tế do Đảng và Nhà nước đề ra.
Em xin cảm ơn sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình của cô giáo Nguyễn Thị Chiến cũng như sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ phòng Kế hoạch và kinh doanh và tổ Thanh toán quốc tế tại SGD I - NHNo & PTNTVN trong thời gian em hoàn thành khoá luận.
Do trình độ và thời gian có hạn nên luận văn này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo, của các cô chú, các anh chị phòng Kế hoạch và kinh doanh Sở giao dịch I và toàn thể các bạn để hoàn thiện đề tài em đã nghiên cứu.
Em xin chân thành cảm ơn !.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0056.doc