Lời nói đầu
Hội nhập vào xu thế chung của thế giới, ngành du lịch ngày càng phát triển nhanh, chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và được coi là một ngành kinh tế mũi nhọn.
Trong hoạt động kinh doanh du lịch thì hoạt động lữ hành, đặc biệt hoạt động kinh doanh lữ hành quốc tế hết sức quan trọng. Trong những năm qua do những chính sách mở cửa nền kinh tế cùng với những chính sách, biện pháp của Đảng và Nhà nước nhằm thúc đẩy nền kinh tế đi lên đã tạo điều kiện phát triển du lịc
70 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1689 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động kinh doanh lữ hành quốc tế tại Công ty Du lịch Hà Nội - TOSERCO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h lữ hành quốc tế vào Việt Nam và lượng khách Việt Nam đi du lịch nước ngoài. Tuy nhiên, lượng khách quốc tế đến Việt Nam còn quá thấp so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Sự kém phát triển này là do sản phẩm du lịch của Việt Nam còn nghèo nàn, chưa hấp dẫn du khách, các Công ty lữ hành quốc tế còn yếu về kinh nghiệm quản lý, chưa xây dựng được sản phẩm đặc trưng, các chương trình du lịch chưa đa dạng phong phú; đồng thời chưa đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu thị trường, tổ chức quảng cáo khuếch trương sản phẩm còn hạn chế. Tình hình đó đã đặt ra cho các Công ty lữ hành quốc tế Việt Nam một loạt vấn đề cần giải quyết cho sự tồn tại và phát triển của chính bản thân mình. Giống như các Công ty lữ hành quốc tế khác, Công ty Dịch vụ du lịch Hà Nội-Toserco cũng gặp những thách thức lớn khi hoạt động trên thương trường.
Sau thời gian học tập và tìm hiểu tại Công ty Dịch vụ Du lịch Hà Nội-Toserco, xuất phát từ những suy nghĩ và bằng kiến thức thu được trong quá trình học tập và thực tế hoạt động kinh doanh lữ hành quốc tế của Công ty Dịch vụ Du lịch Hà Nội-Toserco, em đã chọn đề tài "Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động kinh doanh lữ hành quốc tế tại Công ty Du lịch Hà Nội-Toserco" làm chuyên đề tốt nghiệp, nhằm thử nghiệm phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần đẩy mạnh hoạt động kinh doanh lữ hành quốc tế của Công ty.
Kết cấu của chuyên đề ngoài lời nói đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, gồm ba chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về kinh doanh lữ hành quốc tế.
Chương I: Thực trạng hoạt động kinh doanh lữ hành quốc tế ở Công ty du lich Hà Nội-Toserco.
Chương III: Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động kinh doanh lữ hành quốc tế ở Công ty Du lịch Hà Nội-Toserco.
Chương I
những vấn đề lý luận cơ bản về kinh doanh lữ hành quốctế
I.Vài nét về lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động lữ hành quốc tế.
I.1 Tính tất yếu khách quan của sự ra đời các công ty lữ hành quốc tế .
Quan hệ cung cầu trong du lịch là mối quan hệ tương đối phức tạp, chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố bên trong cũng như bên ngoài. Cung du lịch mang tính chất cố định không thể di chuyển còn cầu du lịch lại phân tán ở khắp mọi nơi. Như vậy, trong du lịch chỉ có dòng chuyển động ngược chiều như trong phần lớn các hoạt động kinh doanh khác. Bên cạnh đó cầu du lịch mạng tính chất tổng hợp, trong khi mỗi đơn vị kinh doanh du lịch chỉ đáp ứng một (hoặc một vài) phần của du lịch. Khi đi du lịch khách có nhu cầu về mọi thứ , từ tham quan đến tài nguyên du lịch tới ăn, ngủ, visa, hộ chiếu...Trong khi đó đối lập với tính tổng hợp của nhu cầu thì tính độc lập trong cung du lịch như: khách sạn chỉ đáp ứngchủ yếu về nhu cầu ăn, ở. Các công ty vận chuyển đảm bảo việc chuyên chở khách du lịch... gây không ít khó khăn cho khách trong việc tự sắp xếp, bố trí các hoạt động để có một chuyến du lịch như ý muốn. Bản thân khách du lịch thường không có đủ thời gian, thông tin về địa điểm du lịch và khả năng để tự tổ chức các chuyến du lịch có chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu. Do kinh tế phát triển, thu nhập tăng lên, khách du lịch ngày càng yêu cầu phục vụ tốt hơn, chu đáo hơn. Họ chỉ muốn có một công việc chuẩn bị duy nhất- đó là tiền cho chuyến du lịch. Tất cả các công việc còn lại phải có sự sắp xếp, chuẩn bị của các cơ sở kinh doanh du lịch.
Để nối kết mối quan hệ cung- cầu du lịch đó cần có một tác nhân trung gian làm nhiệm vụ này. Tác nhân đó chính là các Công ty lữ hành du lịch. Công ty lữ hành được hiểu là một loại hình doanh nghiệp du lịch, được thành lập và hoạt động với mục đích gián tiếp hoặc trực tiếp làm môi giới trung gian giữa cung và cầu trên thị trường du lịch trong nước cũng như phạm vi quốc tế thông qua việc tổ chức xây dựng và bán, thực hiện các chương trình du lịch trọn gói,
các loại dịch vụ của chính Công ty hoặc của các đối tác bạn hàng. Từ đó, Công ty lữ hành ra đời.
I.2 Khái niệm về kinh doanh lữ hành và Công ty lữ hành du lịch
1.Khái niệm về kinh doanh lữ hành
Kinh doanh lữ hành du lịch mới xuất hiện vào giữa thế kỷ 19 (1841), do một người Anh tên là Thomas Cook sáng lập. Kể từ đó tới nay nghề này ngày càng phát triển và lan rộng khắp thế giới. Hiện nay có hàng chục hãng lữ hành hoạt động trên hầu hết các quốc gia. ở Việt Nam hiện có rất nhiều doanh nghiệp kinh doanh lữ hành, trong đó có hơn 80 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế...Theo định nghĩa của Tổng cục Du lịch Việt Nam (TCDL- quy chế quản lý lữ hành ngày 29/4/1995) thì: "Kinh doanh lữ hành (Tour Operators Business) là việc thực hiện các hoạt động nghiên cứu thị trường, thiết lập các chương trình du lịch trọn gói hay từng phần, quảng cáo và bán các chương trình này trực tiếp hay gián tiếp qua các trung gian hoặc văn phòng đại diện, tổ chức thực hiện chương trình và hướng dẫn du lịch. Các doanh nghiệp lữ hành đương nhiên được phép tổ chức mạng lưới đại lý lữ hành".
2. Khái niệm về Công ty lữ hành.
ở thời kỳ đầu các Công ty lữ hành chủ yếu tập trung vào các hoạt động trung gian làm đại lý bán hàng sản phẩm của các nhà cung cấp như: khách sạn, hàng không...Khi đó các Công ty lữ hành được định nghĩa như một pháp nhân, kinh doanh chủ yếu dưới hình thức là đại diện, đại lý của các nhà bán sản phẩm tới tận tay người tiêu dùng với mục đích thu tiền hoa hồng. Trong suốt quá trình phát triển cho tới nay, hình thức các đại lý vẫn được mở rông jvà phát triển.
Một cách định nghĩa phổ biến hơn là căn cứ vào hoạt động tổ chức các chương trình trọn gói của các Công ty lữ hành ở mức phát triển cao hơn so với việc làm trung gian thuần tuý. Các Công ty lữ hành đã tự tạo ra các sản phẩm của mình bằng cách tập hợp các sản phẩm riêng rẽ như dịch vụ khách sạn, vé máy bay, ôtô, tàu thuỷ và các chuyến tham quan thành một sản phẩm hoàn chỉnh và bán cho khách hàng du lịch vơí một mức giá gộp. ở đây Công ty lữ hành không chỉ dừng lại ở người bán mà trở thành người mua sản phẩm của các nhà cung cấp các dịch vụ du lịch.
Trên cơ sở nội dung và phạm vi hoạt động, thì Công ty lữ hành được chia thành 2 loại: Công ty lữ hành quốc tế và Công ty lữ hành nội địa. Trong khi Công ty lữ hành nội địa đưa khách nội địa đi du lịch các vùng trong nước thì
Công ty lữ hành quốc tế đưa khách ở trong nước ra nước ngoài và chủ yếu là đưa khách quốc tế vào trong nước. Trong quy chế kinh doanh lữ hành của Tổng cục du lịch Việt Nam và Pháp lệnh du lịch Việt Nam đã nêu rõ: "Doanh nghiệp lữ hành nội địa có trách nhiệm xây dựng, bán và tổ chức thực hiện các chương trình du lịch nội địa, nhận uỷ thác để thực hiện dịch vụ chương trình du lịch cho khách nước ngoài đã được các doanh nghiệp lữ hành quốc tế đưa vào Việt Nam". Còn "Doanh nghiệp lữ hành quốc tế có trách nhiệm xây dựng, bán các chương trình du lịch trọn gói hoặc từng phần theo yêu cầu của khách để trực tiếp thu hút khách đến Việt Nam và đưa công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú ở Việt Nam đi du lịch nước ngoài, thực hiện các chương trình du lịch đã bán hoặc ký hợp đồng uỷ thác từng phần, trọn gói cho lữ hành nội địa".
I.3 Cơ cấu tổ chức của các Công ty lữ hành.
Các Công ty lữ hành khác nhau có cơ cấu tổ chức khác nhau bởi cơ cấu tổ chức phụ thuộc vào nhiều yếu tố như phạm vi, lĩnh vực hoạt động hay cơ cấu tổ chức truyền thống của Công ty. Hiện nay các Công ty lữ hành ở Việt Nam có quy mô trung bình phù hợp với điều kiện Việt Nam được thể hiện bằng sơ đồ sau:
Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức của Công ty lữ hành.
Hội đồng quản trị
Giám đốc
Bộ phận du lịch
Bộ phận hỗ trợ phát triển
Bộ phận tổng hợp
Điều hành
Tổ chức điều hành
Thị trường
Hướng dẫn
Các chi nhánh
Đội
xe
Khách sạn
Kinh doanh khác
Tài chính kế toán
Bộ phận du lịch là "xương sống" trong toàn bộ hoạt động của Công ty lữ hành, bao gồm: phòng điều hành, phòng hướng dẫn, phòng thị trường. Mỗi phòng có chức năng chuyên ngành riêng tạo thành thể thống nhất trong quá trình từ tạo ra các sản phẩm của công ty, đưa ra bán trên thị trường đến việc thực hiện các chương trình.
-Phòng điều hành: Là bộ phận sản xuất của Công ty du lịch lữ hành tiến hành các hoạt động nhằm đảm bảo thựch hiện các chương trình du lịch của Công ty. Phòng điều hành có nhiệm vụ sau:
+Là đầu mối triển khai toàn bộ các công việc điều hành các chương trình du lịch cung cấp các dịch vụ du lịch trên cơ sở các kế hoạch do phòng thị trường gửi tới.
+Lập kế hoạch và triển khai các công việc liên quan thực hiện các chương trình du lịch trọn gói.
+Thiết lập và duy trì mối quan hệ với các cơ quan hữu quan, ký hợp đồng với các nhà cung cấp hàng hoá và dịch vụ du lịch, lựa chọn các nhà cung cấp có sản phẩm uy tín.
+Theo dõi các quá trình thực hiện các chương trình du lịch, phối hợp với các bộ phận kế toán thực hiện các hoạt động thanh toán, nhanh chóng xử lý các sự cố xảy ra trong quá trình thực hiện.
-Phòng thị trường
+Tổ chức tiến hành các hoạt động nghiên cứu thị trường, tuyên truyền quảng cáo thu hút khách.
+Phối hợp với phòng điều hành xây dựng các chương trình phù hợp với các yêu cầu của khách và chủ động đưa ra ý kiến.
+Ký kết hợp đồng với các hãng các Công ty du lịch nước ngoài và tổ chức du lịch trong nước để khai thác nguồn khách quốc tế và nội địa.
+Duy trì các mối quan hệ của Công ty với nguồn khách.
+Đề xuất và xây dựng các chi nhánh đại diện.
+Đảm bảo hoạt động thông tin giữa Công ty du lịch lữ hành và các nguồn khách, thông báo cho các bộ phận liên quan về kế hoạch đón tiếp đoàn khách và nội dung hoạt động đón tiếp.
-Phòng hướng dẫn: được tổ chức theo nhóm ngôn ngữ. Đội ngũ lao động là các hướng dẫn viên trực tiếp cùng khách hàng thực hiện các chương trình du lịch. Các công việc cụ thể bao gồm:
+Căn cứ vào kế hoạch khách, tổ chức điều động bố trí hướng dẫn viên cho các chương trình du lịch.
+Phối hợp chặt chẽ với các bộ phận khác trong công ty để tiến hành công việc một cách có hiệu quả nhất.
+Tiến hành các hoạt động quảng cáo tiếp thị thông qua hướng dẫn.
II.Hoạt động kinh doanh lữ hành quốc tế.
II.1 Hệ thống sản phẩm của Công ty lữ hành.
Sự đa dạng trong hoạt động lữ hành du lịch là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới sự phong phú , đa dạng của các sản phẩm cung ứng của Công ty lữ hành. Căn cứ vào tính chất và nội dung, có thể chia các sản phẩm của các Công ty lữ hành thành 3 nhóm cơ bản:
Các dịch vụ trung gian
Sản phẩm dịch vụ trung gian chủ yếu do các đại lý du lịch cung cấp. Trong hoạt động này, các đại lý du thực thực hiện các hoạt động bán sản phẩm của các nhà sản xuất tới khách du lịch. Các đại lý du lịch không tổ chức sản xuất các sản phẩm của bản thân đại lý, mà chỉ hoạt động như một đại lý bán
hoặc một điểm bán sản phẩm của các nhà sản xuất du lịch. Các dịch vụ trung gian chủ yếu bao gồm:
-Đăng ký chỗ và đặt vé máy bay.
-Đăng ký chỗ và đặt vé trên các loại phương tiện khác như tàu thuỷ, đường sắt và ôtô....
-Môi giới cho thuê xe ôtô.
-Môi giới và bán bảo hiểm.
-Đăng ký đặt chỗ và bán các chương trình du lịch.
-Đăng ký và đặt chỗ trong khách sạn.
-Các dịch vụ môi giới trung gian khác.
Các chương trình du lịch trọn gói.
Hoạt động du lịch trọn gói mang tính chất đặc trưng cho hoạt động lữ hành du lịch. Các Công ty lữ hành liên kết các sản phẩm của các nhà sản xuất riêng lẻ thành một sản phẩm hoàn chỉnh và bán cho khách du lịch với một mức giá gộp. Có nhiều tiêu thức để phân loại các chương trình du lịch như: chương trình nội địa và quốc tế, các chương trình du lịch dài ngày và ngắn ngày, các chương trình tham quan văn hoá và giải trí. Khi tổ chức các chương trình du lịch trọn gói, các Công ty lữ hành có trách nhiệm đối với khách du lịch cũng như các nhà sản xuất ở một mức độ cao hơn nhiều so với các hoạt động trung gian.
Các hoạt động kinh doanh du lịch lữ hành tổng hợp.
Trong quá trình phát triển, các Công ty lữ hành có thể mở rộng phạm vi hoạt động của mình trở thành những người sản xuất trực tiếp ra các sản phẩm du lịch. Vì lẽ đó các Công ty lữ hành lớn trên thế giới hoạt động trong hầu hết các lĩnh vực có liên quan đến du lịch.
-Kinh doanh khách sạn, nhà hàng.
-Kinh doanh các dịch vụ vui chơi, giải trí.
-Kinh doanh dịch vụ vận chuyển du lịch: hàng không, đường thuỷ.
-Các dịch vụ ngân hàng phục vụ khách du lịch (điển hình là American Express).
Các dịch vụ này thường là kết quả của sự hợp tác, liên kết trong du lịch. Trong tương lai, hoạt động lữ hành du lịch càng phát triển, hệ thống sản phẩm của các công ty lữ hành sẽ càng phong phú.
II.2 Hoạt động kinh doanh lữ hành của các Công ty lữ hành.
Các Công ty lữ hành xuất hiện nhằm khắc phục và giải quyết sự mất cân đối giữa cung và cầu du lịch, là chiếc cầu nối giữa du khách, đặc biệt là du khách quốc tế, và các điểm du lịch, các cơ sở dịch vụ trong ngành du lịch và các đơn vị dịch vụ khác.
Để thực hiện chức năng đó, các Công ty lữ hành nội địa và quốc tế tiến hành hoạt động trên 4 mảng chủ yếu sau:
1.Hoạt động nghiên cứu thị trưòng.
Thị trường luôn là mối quan tâm hàng đầu của tổ chức kinh doanh. Bởi lẽ, muốn tồn tại và phát triển thì tổ chức đó phải có một vị trí nhất định trên thị trường. Để xây dựng một chiến lược kinh doanh cho phù hợp trong một thời kỳ nhất định, tất yếu phải có sự nghiên cứu thị trường.
Trong mảng hoạt động kinh doanh lữ hành quốc tế công ty chia thị trường thành hai lĩnh vực là thị trường quốc tế chủ động và thị trường quốc tế bị động.
Trên cơ sở xác định thị trường mục tiêu và vị trí ưu tiên của từng thị trường, công ty phải nghiên cứu kĩ lưỡng từng thị trưòng. Có hai phương pháp mà Công ty sử dụng nghiên cứu là: phương pháp nghiên cứu tài liệu và phương pháp điều tra trực tiếp.
Đối với phương pháp nghiên cứu tài liệu điều quan trọng là phải tìm kiếm nguồn tài liệu đặc biệt là các thông tin về nhu cầu, sở thích tâm lý, trình độ văn hoá xã hội...
Còn phương pháp điều tra trực tiếp tức là phải đi khảo sát thị trường, ký kết hợp đồng, thăm dò thị trường hoặc tổ chức nói chuyện tiếp xúc với khách hàng.
Tóm lại, hoạt động nghiên cứu thị trưòng là bước đầu tiên và quan trọng nhất trong việc công ty đề ra những mục tiêu, phương hướng chiến lược của công ty.
2.Hoạt động xây dựng chương trình du lịch trọn gói.
Mỗi hoạt động sản xuất đều tạo ra sản phẩm đặc trưng. Trong hoạt động lữ hành quốc tế thì chương trình du lịch là sản phẩm đặc trưng. Sản phẩm của lữ hành quốc tế được cấu thành từ ba yếu tố: kỹ thuật, kinh tế, pháp luật.
Yếu tố có tính chất kỹ thuật (hành trình tour, phương tiện vận chuyển, địa điểm cơ sở lưu trú, độ dài lưu trú của khách tại một điểm, ngôn ngữ được sử dụng trong hành trình tour đó...). Các yếu tố có nội dung kinh tế (giá tour dựa trên cơ sở các chi phí bỏ ra để tạo thành tour đó cộng với tỷ lệ hoa hồng Công ty lữ hành phải trả khi bán buôn sản phẩm hay uỷ thác việc tiêu thụ sản phẩm của mình cho các hãng lữ hành khác cộng với tỷ lệ lợi nhuận). Các yếu tố mang tính pháp luật như hợp đồng của Công ty lữ hành với khách, các nhà cung cấp dịch vụ du lịch...
Do vậy, chương trình du lịch khi được xây dựng phải đảm bảo những yêu cầu chủ yếu như tính khả thi, phù hợp với nhu cầu thị trường, đáp ứng được mục tiêu của Công ty lữ hành, có sức lôi cuốn thúc đẩy khách du lịch ra quyết định mua chương trình.
Để đạt được những yêu cầu đó, các chương trình du lịch được xây dựng theo quy trình, gồm các bước sau:
* Nghiên cứu nhu cầu của thị trường (khách du lịch).
* Nghiên cứu khả năng đáp ứng: tài nguyên du lịch, các nhà cung cấp du lịch, mức độ cạnh tranh trên thị trường du lịch.
*Xác định khả năng và vị trí của Công ty lữ hành.
*Xây dựng mục đích, ý tưởng của chương trình du lịch.
*Giới hạn quỹ thời gian và mức giá tối đa.
*Xây dựng tuyến hành trình cơ bản bao gồm những điểm du lịch chủ yếu bắt buộc của chương trình.
*Xây dựng phương án vận chuyển.
*Xây dựng phương án lưu trú, ăn uống.
*Những điều chỉnh nhỏ, bổ sung cho hành trình. Chi tiết hoá chương trình với những hoạt động tham quan, nghỉ ngơi, giải trí...
*Xác định giá thành và giá bán của chương trình du lịch.
*Xây dựng những chương trình của du lịch.
Các phương pháp định giá cho một chương trình du lịch
Giá thành của chương trình bao gồm toàn bộ những chi phí thực sự mà Công ty lữ hành phải chi trả để tiến hành thực hiện các chương trình du lịch
- Phương pháp tính giá thành theo khoản mục chi phí bằng cách nhóm toàn bộ các chi phí phát sinh vaò hai khoản mục chi phí cố định và chi phí biến đổi để xác định giá thành.
+ Chi phí cố định là chi phí tính cho cả đoàn khách hay đó là mức chi phí cho các hàng hoá và dịch vụ mà mức giá của chúng không thay đổi một cách tương đối so với lượng khách trong đoàn. Trong một chương trình du lịch, chi phí cố định bao gồm: chi phí vận chuyển, chi phí hướng dẫn, chi phí thuê bao và chi phí cố định khác.
+ Chi phí biến đổi là chi phí tính cho từng đoàn khách du lịch hay đó là mức chi phí gắn liền trực tiếp tới sự tiêu dùng riêng biệt của từng du khách. Khi tính giá thành một chương trình du lịch, chi phí biến đổi thường bao gồm: chi phí về lưu trữ, chi phí ăn, chi phí bảo hiểm, chi phí tham quan, chi phí visa- hộ chiếu và chi phí biến đổi khác.
Giá thành cho một du khách được tính theo công thức:
Z
=
b
+
A
N
Giá thành cho cả đoàn khách:
Z = N´b + A
Trong đó:
N: Số thành viên trong đoàn.
A: Tổng chi phí cố định tính cho cả đoàn khách.
b: Tổng chi phí biến đổi tính cho một khách.
+ Phương pháp xác định giá thành theo lịch trình.
Về cơ bản phương pháp này không có gì khác biệt xo với phương pháp trên, tuy nhiên các chi phí ở đây được liệt kê cụ thể và chi tiết lần lượt theo từng ngày của lịch trình.
Sau khi đã xác định giá thành của một chương trình du lịch thì công việc tiếp theo là xác định giá bán cho chương trình du lịch đó.
Giá bán của chương trình du lịch phụ thuộc vào các yếu tố: mức giá phổ biến của chương trình du lịch cùng lọại trên thị trường, giá thành của chương trình.
Khi đã xác định được các yếu tố trên người ta thường dùng các phương pháp sau để tính giá bán, các khoản chi phí và lợi nhuận.
+ Xác định giá bán trên cơ sở xác định hệ số theo chi phí theo công thức:
G = Z + P + Cb + Ck + T
= Z + Z + ap + Z ´ ab + Z ´ ak + Z ´ aT
= Z (1 + aP + ab + ak + aT )
Trong đó:
P: Khoản lợi nhuận dành cho Công ty lữ hành
Cb: Chi phí bán, bao gồm hoa hồng cho đại lý, chi phí khuếch trương
Ck : Các chi phí khác như chi phí quản lý, chi phí dự phòng
T : Các khoản thuế
a: Hệ số tính theo %; ap; ab; ak; at là hệ số các khoản lợi nhuận, chi phí bán, chi phí khác, thuế tính theo giá thành.
aồ: Tổng các hệ số trên
+ Xác định các khoản chi phí, lợi nhuận thuế trên cơ sở giá bán theo công thức:
G
=
Z
1- bp-bb-bk-bt
=
Z
1-(bp+bb+bk+bt)
=
Z
1- bồ
Trong đó:
b: Hệ số tính theo %; bp, bb, bk, bt là hệ số các khoản lợi nhuận chi phí bán, chi phí khác và tính thuế trên giá bán
bồ; Tổng các hệ số trên
+ Phương pháp hỗn hợp:
3.Tổ chức bán và thực hiện các chương trình du lịch.
Khi đã xây dựng xong các chương trình du lịch thì Công ty tiến hành bán các chương trình du lịch. Để có thể bán được các chương trình du lịch thì Công ty phải tìm kiếm, khai thác các nguồn khách tiến hành hoạt động quảng cáo và thực hiện các hoạt động Marketing khác.
Nguồn khách là nhân tố sống còn, vì đây chính là đối tượng mua và tham gia vào các chương trình du lịch do Công ty chào bán. Nguồn khách là vấn đề hết sức quan trọng đối với một Công ty lữ hành. Nguồn khách chiếm tỷ trọng lớn tại thị trường du lịch Vệt Nam là nguồn khách từ các Công ty lữ hành gửi khách và nguồn khách tự đến với các Công ty lữ hành của Việt Nam.
Để thu hút khách Công ty phải tổ chức quảng cáo sản phẩm của mình băng nhiều phương tiện khác nhau như thông qua tập gấp, tập sách mỏng, hội chợ triển lãm, trên các phương tiện thông tin đại chúng hay bằng các tuyến du lịch làm quen. Công ty còn phải tiến hành các hoạt động Marketing khác như: nghiên cứu thị trường, nghiên cứu khả năng mở rộng thị trường và kí kết các hợp đồng trao đổi với khách, nghiên cứu đối thủ cạnh tranh, nghiên cứu đánh gia các sản phẩm.
Bán các chương trình du lịch đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Các Công ty lữ hành tiêu thụ sản phẩm của mình thông qua các kênh phân phối sản phẩm du lịch.Kênh phân phối sản phẩm du lịch là hệ thống các dịch vụ nhằm tạo ra các điểm bán hoặc tiếp cận sản phẩm thuận tiện cho khách du lịch ở ngoài địa điểm diễn ra quá trình sản xuất và tiêu dùng. Việc lựa chọn các kênh phân phối phù hợp có ý nghĩa rất lớn vì nó sẽ giúp Công ty chuyển các sản phẩm của mình cho người tiêu dùng một cách hiệu quả nhất. Trên thực tế do phụ thuộc vào nhiều yếu tố như sản phẩm, khả năng và điều kiện của Công ty, điều kiện của thị trường, thói quen tiêu dùng của khách...mà Công ty lựa chọn kênh phân phối dài hay nhắn, trực tiếp hay gián tiếp. Kênh tiêu thụ trực tiếp thể hiện mối quan hệ trực tiếp giữa Công ty lữ hành với khách hàng trong việc tiêu thụ sản phẩm. Trong kênh tiêu thụ gián tiếp Công ty lữ hành không trực tiếp tiêu thụ sản phẩm mà uỷ nhiệm cho các đại lý của mình hoặc các Công ty lữ hành gửi khách bán sản phẩm. Hệ thống các kênh phân phối đó được thể hiện bằng sơ đồ sau:
Sơ đồ 2: Hệ thống kênh phânh phối sản phẩm du lịch của Công ty lữ hành.
Công ty lữ hành
Khách du lịch
Đại lý du lịch bán lẻ
Đại lý du lịch bán buôn
Công ty gửi khách
Kênh tiêu thụ trực tiếp là loại kênh bán hàng của Công ty lữ hành quốc tế. Người tiêu thụ sản phẩm ở đây là khách du lịch quốc tế hay khách ở trong nước đi du lịch nước ngoài do công ty lữ hành quốc tế đảm bảo theo đúng chất lượng sản phẩm do mình bán ra và chịu mọi rủi ro, uy tín về sản phẩm của mình bán ra.
Đối với những doanh nghiệp của các ngành kinh tế khác thường thì sản xuất tạo ra sản phẩm và khi sản xuất xong thì gần như là "hết" trách nhiệm. Nhưng trong du lịch, khi sản xuất xong sản phẩm là chương trình du lịch, lại khác hẳn kể cả khi đã bán sản phẩm cho du khách, du khách trả tiền rồi nhưng quá trình tiêu thụ chưa kết thúc, Công ty lữ hành còn phải tổ chức thưc hiện chương trình du lịch đó.
Thực chất của việc thực hiện chương trình du lịch là thực hiện các mối quan hệ giữa Công ty lữ hành với các nhà cung cấp dịch vụ, giữa Công ty lữ hành với khách du lịch, giữa Công ty lữ hành tổ chức và Công ty lữ hành gửi khách du lịch, giữa khách du lịch và hướng dẫn viên, giữa hướng dẫn viên và nhà cung cấp. Việc tổ chức thực hiện chương trình du lịch trọn gói gồm các giai đoạn, từ giai đoạn thoả thuận với khách, chuẩn bị thực hiện, tổ chức thực hiện đến giai đoạn cuối là những hoạt động kết thúc chương trình
Quá trình thực hiện các giai đoạn của một qui trình thực hiện chương trình du lịch bao gồm hai mảng lớn: Mảng thứ nhất là toàn bộ những công việc của các phòng ban chức năng trong Công ty, trong đó bộ phận điều hành giữ vai trò chủ đạo. Đó là công việc: ghi tên khách, chuẩn bị hướng dẫn viên, giao dịch liên kết với các nhà cung cấp dịch vụ du lịch và thông tin tư vấn cho khách trong khi thực hiện chương trình, kiểm tra giám sát toàn bộ quá trình thực hiện, giải quyết các trường hợp trong và sau khi thực hiện chương trình, gửi thưchúc mừng. Mảng thứ hai gồm các công việc của hướng dẫn viên từ khi đón đến khi tiễn đoàn khách du lịch.
4.Hoạt động trung gian và các hoạt động tổng hợp khác.
Hoạt động trung gian là hoạt động bán sản phẩm của các nhà cung cấp dịch vụ du lịch tới khách du lịch. Đây là hoạt động đầu tiên, đã có từ lâu. Cùng với sự xuất hiện của đơn vị lữ hành đầu tiên và là truyền thống của các Công ty lữ hành, bởi vậy nó là nền tảng của các Công ty lữ hành. Trong hoạt động này, Công ty lữ hành đóng vai trò là người môi giới do đó được hưởng một phần tỷ lệ hoa hồng nhất định. Các dịch vụ trung gian chủ yếu bao gồm: đăng ký đặt chỗ
trong khách sạn cho khách, đặt bàn tại nhà hàng, đặt chỗ và bán vé cho các phương tiện giao thông, làm trung gian cho việc thanh toán giữa khách và cơ sở cung cấp dịch vụ du lịch, một số các hoạt động trung gian khác như là trung gian cho các hãng bảo hiểm hoặc làm trung gian cho việc bán hàng các chương trình du lịch của các Công ty lữ hành du lịch khác.
Ngoài các hoạt động chính nêu trên, ngày nay quy mô của các Công ty lữ hành đã được mở rộng và các hoạt động cũng được phát triển phong phú như bán hàng lưu niệm, dịch vụ thông tin liên lạc, làm thủ tục xuất nhập cảnh, đổi tiền, cho thuê xe...
Chương II
Thực trạng hoạt động kinh doanh lữ hành quốc tế ở công ty du lịch Hà nội-toserco.
I. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Hà Nội- Toserco.
I.1. Tóm tắt lịch sử hình thành và phát triển của Hà Nội-Toserco.
Sự phát triển của Công ty được chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Từ khi thành lập đến cuối năm 1989.
Công ty du lịch dịch vụ Hà Nội-tên giao dịch Hà Nội-Toserco được thành lập ngày 14-4-1988 theo quyết định số 625/QĐ-UB của UBND thành phố Hà Nội trên cơ sở sáp nhập Công ty du lịch Hà Nội với khách sạn Thăng Long thuộc UNIMEX Hà Nội (nay là khách sạn Hà Nội) vào làm một. Bắt tay vào hoạt động với số vốn ít ỏi (khoảng 20 triệu VND) cùng với việc sáp nhập một số khách sạn như Đồng Lợi, Long Biên, Phùng Hưng, Giảng Võ, Chi Lăng cùng hai xí nghiệp cắt tóc I và II, văn phòng của Công ty đặt tại số 8 Tô Hiến Thành.
Tuy có một hệ thống khách sạn như vậy nhưng Công ty thực sự lo ngại khi bắt tay vào hoạt động vì hầu hết các khách sạn đều chịu ảnh hưởng sâu sắc của chế độ cũ và hoạt động kém hiệu quả, chất lượng phục vụ thấp, không có khả năng đón tiếp khách quốc tế.
Khi bước sang cơ chế thị trường, để đảm bảo cho sự tồn tại và phảt tiển thì Công ty đã thay đổi cơ chế hoạt động và kinh doanh.
Giai đoạn 2: 1990-1994- giai đoạn cầu lớn hơn cung.
Giai đoạn này hoạt động chủ yếu của Công ty vẫn là hoạt động kinh doanh khách sạn. Mảng lữ hành còn rất yếu, đến năm 1993 Công ty đã thành lập phòng Du lịch nhưng chỉ hoạt động với tính chất thăm dò thị trường. Năm 1994 Phòng Du lịch tách khỏi Công ty thành một bộ phận độc lập gọi là trung tâm điều hành khách du lịch (Captour) nhưng đến đây hoạt động bị chững lại do thiếu kinh nghiệm điều hành.
Hệ thống khách sạn trực thuộc Hà Nội-Toserco bắt đầu đi vào hoạt động với một hình thức mới. Các khách sạn đã lần lượt thay đổi theo yêu cầu của thị trường. Ngoài ra cùng với khả năng huy động vốn bên ngoài Công ty đã tiến hành xây dựng khách sạn BSC vơí số vốn 3 tỷ VND, một phần để kinh doanh mọt phần cho khách nước ngoài thuê làm văn phòng đại diện. Sau một thời gian thực hiện công tác đổi mới, nâng cao chất lượng phục vụ thì số lượng khách đến với khách sạn trực thuộc Công ty tăng rất nhiều.
Biểu 1: Tình hình khách của các khách sạn trực thuộc Hà Nội-Toserco.
Tên khách sạn
1992
1993
1994
Tổng số khách
Tổng số ngày khách
Tổng số khách
Tổng số ngày khách
Tổng số khách
Tổng số ngày khách
Đồng Lợi
2.345
9.415
2.950
11.800
3.183
10.987
Phùng Hưng
3.049
12.195
3.560
14.240
4.065
14.905
Giảng võ
22.275
107.500
31.171
109.100
29.700
118.800
Chi lăng
1.481
4.442
1.921
4.496
1.974
3.897
Hồng Hà
4.325
7.183
5.122
8.059
4.948
8.592
Tổng số
33.483
140.734
44.729
147.695
43.825
157.178
Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh các năm 1992,1993,1994.
Tuy hoạt động kinh doanh của các khách sạn chưa đồng đều, hiệu quả doanh thu cũng khác nhau nhưng quá trình hoạt động của các khách sạn này có những bước đổi mới rõ rệt và ngày càng phát triển vững mạnh hơn để hoà nhập với cơ cấu khách du lịch trên thị trường.
Giai đoạn 3: Từ 1995 đến nay-giai đoạn cung lớn hơn cầu.
Tháng 10-1995 các khách sạn được tách về cho Sở du lịch Hà Nội quản lý (trừ khách sạn BSC tại 77B Kim Mã-Ba Đình).
Giai đoạn này hoạt động kinh doanh nói chung gặp nhiều khó khăn do cung lớn hơn cầu. Công ty đã mạnh dạn tạo nguồn vốn đầu tư kinh doanh, tạo nguồn vốn bằng cách lấy tiền thuê nhà trả trước của khách để cải tạo nâng cấp khách sạn, biệt thự cho thuê. Trong 5 năm hoạt động (1990-1995) doanh thu của toàn Công ty đã tăng lên 3,68 lần, nộp ngân sách Nhà nước tăng 16,27 lần, tổng lãi thực hiện tăng30,98 lần, vốn kinh doanh tăng 5,98 lần và thu nhập bình quân cán bộ công nhân viên tăng 6,1 lần. Hoạt động liên doanh đã đem lại cho công ty nguồn vốn quan trọng là 123.670.000 USD bằng 21 lần số vốn góp của công ty (5.787.000 USD).
Trong giai đoạn này, mảng kinh doanh lữ hành sau một năm đình trệ đã được khôi phục lại bằng việc mời ông Lê Đại Tâm ở Vũng Tàu ra làm giám đốc trung tâm. Từ đó đến nay hoạt động kinh kinh doanh lữ hành phát triển rất tốt và hiện nay nó là nguồn thu chính của công ty với việc tổ chức đưa khách du lịch Việt Nam đi du lịch trong nước và quốc tế kết hợp với việc làm visa cho khách du lịch.
I.2. Chức năng nhiệm vụ của công ty Hà Nội - Toserco.
* Chức năng:
- Ký kết hợp đồng với công ty du lịch nhà nước hoặc tư nhân của nước ngoài để tổ chức các hoạt động, các chương trình du lịch cho khách quốc tế đến Việt Nam và khách du lịch Việt Nam đi du lịch nước ngoài. Đồng thời liên doanh liên kết với các tổ chức vận chuyển khách du lịch.
- Thu xếp các thủ tục, ký kết hợp đồng cho các tổ chức hoặc cá nhân đi nước ngoài thuê các căn hộ với mục đích: Cư trú, làm văn phòng.
- Quản lý các bộ phận kinh doanh chức năng: Khách sạn BSC, nhà nổi Hồ Tây, các liên doanh, bộ phận lữ hành, bộ phận cắt tóc.
- Cung cấp các dịch vụ như: Đặt vé máy bay, đặt phòng khách sạn, phiên dịch, hướng dẫn viên du lịch chuyên nghiệp, làm ViSa....
* Nhiệm vụ.
- Tổ chức kinh doanh có hiệu quả trên các mảng kinh doanh như khách sạn, nhà hàng, lữ hành, du lịch thuê nhà và các dịch vụ khác.
- Tuân thủ luật pháp Việt Nam và các văn bản quyết định của các cơ quan cấp trên. Chịu sự quản lý của nhà nước và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với ngân sách.
- Tổ chức quản lý các cơ sở vật chất mà nhà nước giao cho.
- Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ CBCNV.
- Nghiên cứu ứng dụng tiến bộ KHKT vào sản xuất kinh doanh để không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế và chất lượng phục vụ.
I.3. Cơ cấu tổ chức của công ty Hà Nội - Toserco.
Sơ đồ: Bộ máy tổ chức của Hà Nội - Toserco.
Tổng giám đốc
P.TGĐ II
P.TGĐ III
P. TGĐ I
Phòng xây dựng cơ bản
Các liên doanh
Trung tâm dịch vụ nhà
Khách sạn BSC
Xí nghiệp cắt tóc
Du thuyền Hồ Tây
Phòng giải phóng mặt bằng
Phòng kế hoạch nghiệp vụ
Trung tâm du lịch
Phòng kế toán t._.ài vụ
Phòng tổ chức hành chính
Phòng y tế
Trung tâm bảo vệ
Hiện nay, công ty chỉ tồn tại hai phó Tổng giám đốc:
- Phó Tổng giám đốc I trực tiếp quản lý lãnh đạo phòng xây dựng cơ bản, trung tâm dịch vụ nhà, khách sạn BSC:
+ Phòng xây dựng cơ bản: Có nhiệm vụ mua bán, cung cấp các nguyên liệu hàng hoá cho toàn bộ công ty và các liên doanh của Công ty.
+ Trung tâm dịch vụ nhà có trách nhiệm quản lý và cho thuê hai khu nhà 33B và 34B tại Kim Mã (Hà Nội) và một số ngôi biệt thự khác.
+ Khách sạn BSC: Kinh doanh khách sạn, nhà hàng, phục vụ khách trong nước và quốc tế. Đồng thời kinh doanh các dịch vụ bổ sung như: đồ lưu niệm, thuê ôtô, xe máy, xe đạp, dịch vụ y tế, cắt tóc.
- Phó tổng giám đốc II: trực tiếp quản lý, lãnh đạo bộ phận giải phóng mặt bằng, chịu trách nhiệm đối với công trình của Công ty và liên doanh (do năm 1998 vì điều kiện của Công ty và do nguyên nhân về nhà đất chưa thật cần thiết nên bộ
phận này tạm ngừng hoạt động và phó Tổng giám đốc thứ hai cũng tạm thời không xuất hiện trong cơ cấu tổ chức của Công ty)
-Phó Tổng giám đốc thứ III trực tiếp quản lý và lãnh đạo trung tâm điều hành du lịch. Trung tâm có nhiệm vụ tổ chức các chương trình du lịch trọn gói, làm thủ tục xuất nhập cảnh...
- Các bộ phận kinh doanh trực tiếp trực thuộc Tổng công ty
+ Xí nghiệp cắt tóc.
+ Du thuyền Hồ Tây.
+ Bộ phận liên doanh liên kết: quản lý các dự án liên doanh liên kết, các đối tác trong và ngoài nước.
- Các bộ phận quản lý hành chính trực thuộc Tổng giám đốc:
+ Phòng kế hoạch nghiệp vụ: xây dựng, theo dõi và tổng kết việc thực hiện kế hoạch mà Công ty đặt ra. Tiến hành tổ chức xây dựng kế hoạch hoạt động trong toàn bộ Công ty.
+ Phòng kế toán tài vụ: tổ chức việc hạch toán kế toán trong toàn bộ các bộ phận của Công ty, tính và nộp thuế chính xác, đầy đủ, thống kê khai báo tài chính.
+ Phòng hành chính tổ chức: giải quyết và xem xét các công văn đến và đi của Công ty đông thời xem xét bổ nhiệm, tuyển dụng, di chuyển và thôi việc của cácn bộ trong Công ty.
+ Phòng y tế: chịu trách nhiệm về y tế hàng ngày tại trụ sở và bộ phận của Công ty.
+ Trung tâm bảo vệ: đảm bảo an toàn cho khu vực trực thuộc Công ty như trụ sở chính, khách sạn BSC...
I.1 Điều kiện kinh doanh của Công ty Hà Nội-Toserco.
Cơ sở vật chất.
Trong hơn mười năm hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch, cơ sở vật chất của Công ty tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng. Từ khi thành lập cho đến năm 1990 do ảnh hưởng của cơ chế cũ nên Công ty chưa có điều kiện phát triển, trang thiết bị cũng chưa đồng bộ. Nhằm mở rộng quy mô kinh doanh, năm 1991
Công ty đã mở văn phòng điều hành du lịch tại số 8 Tô Hiến Thành-Hà Nội. Đồng thời Công ty cũng đã tập trung đầu tư những trang thiết bị tốt nhất nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc tổ chức và điều hành các chương trình du lịch; trong đó có 3 xe Couster để đưa đón khách du lịch, hệ thống máy tính nối mạng Internet, máy in, máy điện thoại, máy fax...Trung tâm có hai văn phòng
và rất nhiều các điểm đều nằm ở trung tâm Hà Nội và các điểm ở trên toàn quốc cho việc mở rộng và phát triển mô hình du lịch mới như City tour, Open tour đồng thời mở rộng mối quan hệ trong việc ký kết hợp đồng và đặt chương trình cho khách du lịch.
Nguồn lực con người.
Với cơ sở vật chất kỹ thuật ngày càng hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, Hà Nội- Toserco đã xây dựng hệ thống tổ chức sao cho phù hợp, đáp ứng yêu cầu hoạt động của Công ty:
- Về nhân sự: Hiện nay tổng số cán bộ công nhân viên của Công ty là 261 người, trong đó biên chế 78 người và hợp đồng 183 người. Toàn bộ lao động còn rất trẻ, năng động, đều đã tốt nghiệp đại học các chuyên ngành du lịch, thương mại, ngoại ngữ...
- Tất cả cán bộ nhân viên trung tâm đều có thể giao tiếp bằng tiếng Anh, một số khác có thể giao tiếp bằng các thứ tiếng như Pháp, Trung Quốc, Nhật...Toàn bộ nhân viên đều sử dụng thành thạo vi tính ở trình độ soạn thảo trở lên.
Ngoài ra, Công ty còn có đội ngũ hướng dẫn viên đông đảo phần lớn là làm theo hợp đồng và các cộng tác viên. Họ có trình độ nghiệp vụ cao, thành thạo ít nhất một ngoại ngữ và đều có thể hướng dẫn khách du lịch.
Vốn kinh doanh.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, nguồn vốn của Công ty không ngừng được bổ sung và tích luỹ. Công ty đã mở rộng liên doanh liên kết với nước ngoài nên đã đem lại nguồn vốn quan trọng.
Bảng 1: Tình hình vốn của Hà Nội- Toserco.
Đơn vị: triệu đồng.
Tên liên doanh
Vốn đầu tư
Vốn điều lệ
Vốn góp Hà Nội- Toserco
Chú thích
Giai đoạn I và II
Giai đoạn III
Tổng số
Cơ cấu góp vốn
Tiền mặt
Tài sản
Giá trị quyền sử dụng đất
Công ty Ma- Sfield
300.000
744.720
300.000
150.000
150.000
Đã đưa vào khai thác 1993
Khách sạn Hà Nội
6.040.000
15.000.000
6.040.000
1.740.000
1.740.000
Khách sạn HoRison
15567000
359670000
10500000
2100000
2100000
Xây dựng cơ bản
Khách sạn SAS
31500000
31500000
12000000
1800000
1800000
Xây dựng cơ bản
Khách sạn Opera
51300000
51300000
51300000
4600000
4600000
XD CB bàn giao khách sạn Đồng Lợi
Tổng cộng
124707000
134111720
44140000
10374000
150000
8500000
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Công ty năm 1999.
I.5 Kết quả kinh doanh của Công ty Hà Nội-Toserco.
Qua bảng 2 ta thấy doanh thu năm 1997-1998 giảm do lượng khách quốc tế vào Việt Nam giảm. Tuy đây chỉ là nguyên nh ân khách quan (do cuộc khủng hoảng tài chính khu vực dẫn đến ảnh hưởng toàn cầu) nhưng nó đã có tác động không tốt tới Công ty. Tuy nhiên đến năm 1999 Công ty đã có nỗ lực đáng kể và đã gặt hái được nhiều thành công. Tổng doanh thu đã tăng lên so với năm trước một phần là do Công ty đã vận dụng đúng chính sách để đạt được mục tiêu đã đề ra.
Bảng 2: Chỉ tiêu doanh thu đạt được trong ba năm 1997,1998,1999
của Hà Nội-Toserco.
Chỉ tiêu
1997
1998
1999
Tổng doanh thu (tỷ đồng)
22.479,82
21.509,08
23.621,05
Tổng số lượt khách (1 K)
8.853
8.021
8.976
Khách quốc tế (1 K)
3.983
3.895
4.724
Khách nội địa (1 K)
4.230
4.126
4.876
Tổng số ngày khách (ngk)
24.691
24.217
25.475
Số ngày khách quốc tế
17.448
17.016
17.698
Số ngày khách nội địa
6.243
6.201
7.528
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của toàn Công ty.
Bảng 3: Kết quả hoạt động liên doanh
1997
1998
1999
-Doanh thu
Chỉ số
Hà Nội Hotel
Mansfield
-Nộp ngân sách
Chỉ số
Hà Nội Hotel
Mansfield
-Vốn đầu tư
Chỉ số
Hà Nội Hotel
Mansfield
-Lợi nhuận
Chỉ số
Hà Nội Hotel
Mansfield
77.508
587
71.938
5.570
12.065
1.131
11.673
392
176.327
225
171.717
4.610
20.615
492
20772
-157
92.055
698
84.220
7.835
13.981
1311
13316
665
176.505
226
171.717
4.788
18.278
436
18.268
10
100.326
785
97.320
9.413
15.179
1.625
15.427
879
179.768
228
171.893
5.475
20.796
494
19.362
16
Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
trong ba năm 1997,1998,1999.
II.Thực trạng hoạt động kinh doanh lữ hành quốc tế của Công ty du lịch Hà Nội-Toserco.
II.1 Vài nét về trung tâm du lịch số 8 Tô Hiến Thành.
Cơ sở được đặt tại số 8 Tô Hiến Thành- Hà Nội là một bộ phận hoạt động tương đối hiệu quả của Công ty. Trung tâm được hình thành vào tháng 10-1995 (được gọi là trung tâm điều hành hướng dẫn du lịch) và chịu sự quản lý trực tiếp của Tổng giám đốc Công ty với hoạt động chủ yếu là kinh doanh du lịch lữ hành quốc tế và nội địa. Từ khi thành lập đến nay Công ty đã tổ chức thành công nhiều chuyến du lịch tham quan cho khách, đặc biệt là mảng du lịch quốc tế- đưa khách Việt Nam đi du lịch nước ngoài ( như Thái Lan, Trung Quốc, Hồng Kông, Singapo, Hàn Quốc...).Trung tâm luôn phối hợp chặt chẽ với các hãng lữ hành trong và ngoài nước, các nhà cung cấp, các thành viên trong Công ty, đặc biệt là các chi nhánh của Công ty tại Thành phố Hồ Chí Minh để xây dựng chương trình tour, nhận khách và trả khách tại chi nhánh với mục đíchhoạt động ngày càng có hiệu quả. Ngoài ra trung tâm còn thu hút và khai thác thiết lập, duy trì các mối quan hệ có từ trước cũng như hiện tại để mở rộng thị trường cho mình.
II.2 Cơ cấu tổ chức của trung tâm.
Trung tâm do ông Mai Tiến Dũng làm giám đốc gồm 46 ngưòi được phân bổ như sau:
Giám đốc trung tâm và hai trưởng phòng.
Bộ phận Open Tour: 13 người.
Bộ phận City Tour: 2 người.
In bound- Out bound: 7 người.
Dịch vụ nhà: 2 người.
Visa và các dịch vụ khác: 2 người.
Bộ phận hành chính tổ chức: 2 người.
Đội xe: 7 người.
Chi nhánh tại Phành phố Hồ Chí Minh: 2 người.
Mô hình của trung tâm
Giám đốc
Phó giám đốc
Bộ phận
cho thuê nhà
Chi nhánh tại TP Hồ Chí Minh
Bộ phận
Kế
toán
Bộ phận thị trường và điều hành
Bộ phận điều hành xe
Hiện trung tâm chưa có phòng thị trường, điều hành, hướng dẫn. Các chức năng này giao cho mỗi nhân viên tại mỗi bộ phận thực hiện.
*Chức năng và nhiệm vụ của trung tâm.
-Ký kết hợp đồng giữa các cá nhân và tổ chức nước ngoài có các nhu cầu làm nơi cư trú, văn phòng.
- Tổ chức quản lý và kinh doanh có hiệu quả đoàn xe. Nhiệm vụ này do các lái xe và một điều hành xe đảm nhận.
- Trực tiếp ký kết với các nhà tổ chức kinh doanh du lịch ở nước ngoài để thu hút khách quốc tế vaò Việt Nam (inbound) và đưa người Việt Nam, người nước ngoài ở Việt Nam (outbound) tổ chức các chương trình du lịch thu hút khách nội địa.
- Trung tâm tuân thủ các quy định của pháp luật và chính sách về việc cho cá nhân và tổ chức nước ngoài thuê nhà, kinh doanh lữ hành, quản lý phương tiện vận chuyển và các quy định có liên quan.
- Thực hiện chế độ báo cáo định kỳ về kết quả kinh doanh với các cơ quan cấp trên, với trung tâm.
- Thực hiện các khoản nộp thuế và các khoản nộp khác có liên quan như: khách sạn, nhà hàng, vận chuyển, các cong ty du lịch lữ hành nội địa trong việc cung cấp khách và thực hiện các chương trình du lịch.
II.3 Kết quả hoạt động kinh doanh lữ hành quốc tế của trung tâm.
Hoạt động kinh doanh lữ hành quốc tế bị động.
Hoạt động chủ yếu của mảng kinh doanh này là tổ chức và bán các chương trình du lịch nước ngoài cho công đan Việt Nam. Thị trường du lịch quốc tế ở Việt Nam phát triển cách đây chưa lâu. Vào những năm 1990, 1991 ở Việt Nam rộ lên phong trào đi Liên Xô và các nước Đông Âu. Động cơ chủ yếu tạo thành du lịch bấy giờ là lý do thương mại, đi du lịch kết hợp với mua bán hàng hoá. Các nước Liên Xô và Đông Âu là thị trường phù hợp với động cơ này. Tại đây có rất nhiều người Việt Nam đến lao động, học tập và đi du lịch.
Ngay từ tháng 8-1990 Hà Nội- Toserco đã có du lịch quốc tế bị động nhưng chỉ là các đại lý bán chương trình theo giá trọn gói do Tổng công ty du lịch Việt Nam làm ra, chuyến thăm quan các nước Châu Âu (Pháp, Bỉ, Hà Lan, Đức) và Châu úc (Australia).
Từ khi Việt Nam gia nhập ASEAN các vấn đề đi lại, thủ tục xuất nhập cảnh rất dễ dàng. Do đó Công ty đã tổ chức cho khách đi các chuyến phong phú hơn.
Hà Nội- Toserco đã xây dựng một số chương trình du lịch cho hoạt động kinh doanh quốc tế bị động như:
- Hồng Kông-Quảng Châu-Thẩm Quyến- Nam Ninh-Bắc Kinh-Hán Châu-Tô Châu-Thượng Hải-Nam Ninh-Bắc Kinh (14 ngày).
- Bangkok-Pattaya (7ngày).
- Thailan- Malaysia-Singapo (10 ngày).
- Châu Âu (Pháp, Bỉ, Hà Lan, Đức) (11 ngày).
Châu úc (Australia) (16 ngày).
Qua bảng 4 ta thấy tổng doanh thu của năm sau cao hơn năm trước. Cụ thể là số lượt khách của năm 1999 tăng 240 lượt khách so với năm 1997, doanh thu tăng 207.706.000 VND. Điều này chứng tỏ sự phát triển không ngừng của hoạt động kinh doanh lữ hành quốc tế bị động nói riêng và hoạt động kinh doanh lữ hành quốc tế nói chung. Lượng khách bị động mà trung tâm phục vụ so với tổng số khách còn rất ít nhưng với việc mở rộng thị trường sang các nước
và việc mở rộng phong phú thêm các chương trình chắc chắn lượng lượng khách sẽ còn tăng cao trong những năm tới.
Bảng 4: Số liệu tình hình hoạt động kinh doanh lữ hành quốc tế bị động.
Năm
Chỉ tiêu
Đơn vị
1997
1998
1999
Doanh thu
1000VND
658.091
774.225
866.597
Chi phí
!000VND
595.066
700.078
784.422
Lợi nhuận
1000VND
63.025
74.147
84.422
Số khách
Lượt khách
425
550
665
Lợi nhuận so với doanh thu
%
9,5
9,5
9,7
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh du lịch quốc tế của Trung tâm
các năm 1997,1998,1999.
Hoạt động kinh doanh lữ hành quốc tế chủ động.
Hoạt động chính của Hà Nội-Toserco về mảng kinh doanh du lịch quốc tế chủ động là tổ chức bán và thực hiện các chương trình du lịch trong nước cho khách du lịch quốc tế, trung tâm tiến hành hoạt động này từ năm 1992 và lúc đầu tập trung vào thị trường khách chính là Trung Quốc.
Tính tới cuối tháng 12-1992 Trung tâm đã tổ chức được 67 đoàn khách (1795 lượt khách) Trung Quốc vào Việt Nam, đạt doanh thu gần 2 tỷ đồng. Thị trường Trung Quốc là một thị trường rộng lớn. Nguồn cung cấp khách chủ yếu của Trung tâm là Công ty du lịch Quảng Tây và Quế Lâm.
Quá trình bình thường hoá quan hệ Việt- Trung và việc đơn giản hoá các thủ tục xuất nhập cảnh qua biên giới là nguyên nhân tăng đột biến số lượng khách Trung Quốc năm 1992. Tuy nhiên số lượt khách du lịch thuần tuý không nhiều mà động cơ chính của khách du lịch Trung Quốc là thăm dò thị trường hoặc du lịch công vụ kết hợp với tham quan tìm hiểu.
Sang năm 1993 lượng khách Trung Quốc giảm đi đáng kể. Trung tâm đã tiếp cận thị trường mới Châu Âu, song kết quả chưa như mong đợi, lượng khách chưa nhiều. Năm 1994 Trung tâm tách phòng Du lịch do đó hoạt động kinh doanh lữ hành nói chung bị đình trệ và chỉ hoạt động cầm chừng. Đầu năm 1995 Công ty khôi phục lại phòng Du lịch và lại tiếp tục hoạt động kinh doanh Quốc tế chủ động. Cũng trong năm này Trung tâm đã có quan hệ trao đổi khách với một số hãng Du lịch mà trước kia Trung tâm đã có quan hệ, đồng thời cũng kí hợp đồng với một số Công ty ở các thị trường mới. Trong năm 1996 Trung tâm đón được trên 1500 khách và đạt doanh thu hơn 1,7 tỷ đồng. Năm 1997 đã ghi nhận một bước tiến mới trong hoạt động kinh doanh Quốc tế chủ động của Trung tâm. Khách inbound năm 1997 là 18.850 lượt khách so với khách vào năm 1996. Đây là một bước tiến đáng kể chứng tỏ Hà Nội-Toserco đã thu hút được sự chú ý của khách quốc tế. Đến năm 1998 có 30.113 lượt khách tăng 11.263 lượt khách so với năm trước, doanh thu đạt 13 tỷ đồng. Đến năm 1999 có 43.026 lượt khách.
Bảng 5: Số liệu tình hình kinh doanh du lịch quốc tế chủ động.
Năm
Chỉ tiêu
Đơn vị
1997
1998
1999
Doanh thu
Chi phí
Lợi nhuận
Số khách
Lợi nhuận so với doanh thu
1000VND
1000VND
1000VND
lượt khách
%
1148739
878269
270470
18850
23,5
1351457
1033257
348200
30113
25,7
1667800
1229372
437428
39076
28,1
Qua bảng trên ta thấy chỉ tiêu năm 1999 cao hơn năm 1998 và có mức lãi cao. Có được kết quả này trung tâm đã mở rộng thị trường sang các nước Châu Âu, Châu úc. Lượng khách chủ yếu ở các tour phía Bắc. Việt kiều năm 1998 không có lượt khách nào nhưng đến năm 1999 đã có nhưng rất hạn chế. Đây sẽ là mối quan tâm của trung tâm du lịch. Năm 1998 đánh dấu một sự thành công với sản phẩm "City- Tour" và có 515 lượt khách đến với sản phẩm này. Và năm 1999 loại hình này phát triển mạnh.
*Đặc điểm tiêu dùng của khách.
Sự phát triển của nền kinh tế trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã thúc đẩy ngành du lịch phát triển.Nhưng sự phát triển của các kiểu tiêu dùng và những thay đổi trong cơ cấu chi tiêu của khách du lịch vừa là khó khăn, thách thức nhưng đồng thời cũng là những cơ hội đòi hỏi các nhà kinh doanh du lịch phải nỗ lực. Trong thực tế những thành công trong lĩnh vực kinh doanh nói chung và kinh doanh du lịch nói riêng luôn thuộc về những nhà doanh nghiệp nào nhận biết và đáp ứng kịp thời những thách đố đó.
Những số liệu trong bảng 6 cho thấy số lượt khách đi Trung Quốc tăng khá nhanh. Điều này cũng dễ hiểu vì Trung Quốc vốn là nước láng giềng gần gũi của Việt Nam nên việc đi lại cũng thuận tiện và chi phí không cao. Công ty xác định đây sẽ là thị trường trọng điểm của Công ty trong những năm tới.
Thái Lan cũng là một quốc gia có tiềm năng du lịch và rất quen thuộc với du khách Việt Nam. Hiện nay Chính phủ Việt Nam và Thái Lan đã loại bỏ Visa hộ chiếu mà thay vào đó là thẻ du lịch nên đã tạo điều kiện cho công dân của cả hai nước trong việc đi lại.
Thị trường Châu á đặc biệt là khối ASEAN cũng đang là địa điểm hấp dẫn đối với du khách.
Bảng 6: Số lượt khách quốc tế chủ động của Hà Nội-Toserco
các năm 1997,1998,1999.
Đơn vị: lượt khách.
Tên nước
1997
1998
1999
Trung Quốc
Thái Lan
Singapo
Malaisia
Hồng Kông
Mỹ
Pháp
Các nước khác
502
400
107
70
151
264
125
364
519
434
152
62
170
372
119
371
627
465
196
65
187
415
160
380
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh du lịch lữ hành của Trung tâm.
Bảng 7: Chỉ tiêu của khách du lịch quốc tế chủ động các năm 1997,1998,1999.
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
1997
1998
1999
Tốc độ phát triển
1998/1997
1999/1998
1. Chỉ tiêu...
USD
68
76
84
111,8%
110,5%
2.Ngày lưu trú...
Ngày
4,5
6
7
133,3%
116,7%
3.Sốlượng khách
Lượt
1680
2022
2461
120,4%
121,7%
4.Tổng số chỉ tiêu
USD
514
992
1447
179,3%
156,9%
Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh lữ hành của Trung tâm.
Qua bảng 7 ta thấy khách đến với Công ty tương đối ổn định. Số ngày lưu trú đã tăng từ 4,5 đến 7 ngày, tuy con số này vẫn còn nhỏ so với mục tiêu đề ra nhưng cũng là bước phát triển tốt. Do đó Trung tâm phải thu hút khách bằng những chương trình mới đa dạng về hình thức và nội dung phải phong phú.
II.4 Hệ thống sản phẩm lữ hành quốc tế của Công ty Hà Nội-Toserco.
Trung tâm đã tổ chức được hệ thống các chương trình du lịch trọn gói khác nhau, mỗi loại chương trình đều có lịch trình chi tiết theo từng ngày, có mức giá cụ thể, mọt số chương trình còn in số km vận chuyển.
Chương trình du lịch dành cho người nước ngoài vào Việt Nam.
- Chương trình du lịch City tour vòng quanh thành phố Hà Nội tới các điểm văn hoá lịch sử: Hồ Gươm- Hồ Tây- Văn Miếu- Lăng Bác...
- Chương trình du lịch Open tour xuyên đất nước đáp ứng cho mọi loại khách du lịch.
- Chương trình du lịch Thành phố Hồ Chí Minh-Tây Ninh-Củ Chi-Vũng Tàu-Thành phố Hồ Chí Minh (5 ngày 4 đêm) với giá trọn gói 285 USD/1khách. Phần lớn đối tượng của chương trình này là các cựu chiến binh Mỹ đã từng tham gia chiến tranh Việt Nam trở lại thăm chiến trường xưa.
- Chương trình du lịch: Hà Nội- Huế- Đà Nẵng- Nha Trang-Đà Lạt-Thành Phố Hồ Chí Minh- Hà Nội (10 ngày 9đêm) với giá trọn gói 950 USD/1khách. Chương trình này dành cho du khách du lịch tham quan chiêm ngưỡng những cảnh đẹp của các thành phố lớn ở Việt Nam.
- Chương trình Hà Nội-Cát Bà-Hạ Long-Hà Nội (4 ngày 3 đêm), giá trọn gói 210 USD/1khách. Khách sẽ được ngắm di sản thiên nhiên thế giới là Hạ Long, chiêm ngưỡng vẻ đẹp kỳ thú của cảnh quan này.
- Chương trình du lịch Hà Nội- Hoa Lư (2 ngày 1 đêm).
- Chương trình du lịch Hà Nội-Điện Biên Phủ-Lai Châu- Hà Nội (4 ngày 13 đêm) với giá trọn gói 200 USD/1khách dành cho cựu chiến binh Pháp về thăm lại chiến trường xưa,những vị khách muốn tìm hiểu cuộc chiến đấu vĩ đại, nơi ghi dấu ấn những thắng lợi vẻ vang trong cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước của dân tộc Việt Nam.
Chương trình đưa khách Việt Nam đi du lịch nước ngoài.
Trung tâm đã tổ chức được nhiều chương trình đưa khách Việt Nam đi du lịch các nước trên thế giới. Trong đó, tổ chức các chương trình du lịch Thái Lan và Trung Quốc là thế mạnh của Trung tâm. Một số chương trình du lịch tiêu biểu của Trung tâm như:
- Chương trình du lịch Hà Nội-Bangkok-Pattaya-Bangkok-Hà Nội (5 ngày 4 đêm), giá trọn gói 389 USD/khách.
- Chương trình du lịch Hà Nội-Bangkok-Pattaya-Bangkok-Hà Nội (7 ngày 6 đêm), giá trọn gói 439USD/khách.
- Chương trình du lịch Hà Nội-Singapo-Hà Nội (5 ngày 4 đêm) giá trọn gói 619USD/khách.
- Chương trình du lịch Hà Nội- Hồng Kông- Quảng Châu-Thẩm Quyến-Nam Ninh- Bắc Kinh-Hàn Châu-Tô Châu- Thượng Hải-Nam Ninh-Bắc Kinh-Hà Nội (14 ngày).
- Chương trình du lịch Hà Nội-Nam Ninh-Quế Lâm-Hà Nội (6 ngày 5 đêm), giá trọn gói 260USD/khách.
- Chương trình du lịch Hà Nội-Nam Ninh-Bắc Kinh-Hà Nội (9 ngày 8 đêm), giá trọn gói 490USD/ khách.
- Chương trình Thái Lan-Malaysia-Singapo (10 ngày).
- Châu Âu (Đức, Pháp, Bỉ, Hà Lan) 11 ngày nhưng vẫn còn hạn chế.
* Hệ thống sản phẩm lữ hành đã có các tour du lịch đặc thù như:
Công ty đang tập trung tất cả tiềm năng để khai thác lữ hành quốc tế, nâng cao chất lượng các chương trình du lịch thông dụng như du lịch tham quan thương mại và hội thảo... đồng thời phối hợp với các địa phương để khai thác các tuyến điểm du lịch mới với các loại hình đặc sắc như câu cá, leo núi...
Đặc biệt Công ty đã xây dựng một chương trình liên kết kinh doanh du lịch giữa ba Công ty là Công ty du lịch dịch vụ Hà Nội, Công ty khách sạn và dịch vụ Thừa Thiên Huế và Công ty xuất nhập khẩu và Du lịch Nhà Bè Thành phố Hồ Chí Minh để thực hiện chương trình du lịch xuyên Việt lấy tên là "Open tour" .Với các dịch vụ thuận lợi, có chất lượng cao, chương trình này vừa đem lại hiệu quả cho kinh doanh vừa nhằm gom khách du lịch nước ngoài như "Tây balô" thay vì tình trạng họ đi lang thang không có tổ chức hoặc các tư nhân tổ chức chất lượng thấp. Theo phân công, Hà Nội-Toserco đảm nhận tổ chức xe vận chuyển cho khách tuyến Hà Nội-Ninh Bình-Huế, quảng cáo và thu gom khách lẻ tại thị trường Hà Nội và bán các chương trình du lịch miền Bắc cho khách. Ngoài tác dụng thu hút khách "balô" và khách du lịch lẻ về một mối, chương trình Open tour còn tạo mối liên kết chặt chẽ giữa Công ty với các công ty tư nhân khác trong việc tổ chức các chuyến du lịch tham quan phía Bác. Điều này sẽ giúp cho việc nâng cao chất lượng phục vụ khách, thu hút khách lưu trú lâu hơn và sử dụng triệt để quỹ thời gian ở tại Hà Nội. Trong năm 1997, chương trình Open tour đã tổ chức trọn gói cho 13.681 khách, trong đó có 9.950 khách đi suốt từ Thành phố Hồ Chí Minh-Huế-Hà Nội và ngược lại, còn lại 3.731 khách đi theo chặng của chương trình. Năm 1998 số lượmg khách theo chương trình xuyên Việt Open tour là 23.750 khách, số khách tham gia các chương trình du lịch Open tour phía Bắc cũng lên tới hơn 8000 khách chủ yêú tham gia các chương trình Hạ Long, Cát Bà, Hoa Lư, Sa Pa. Tuy nhiên những khó khăn đôí với chương trình không phải là nhỏ đặc biệt là trong môi trường cạnh tranh như hiện nay khi một số tư nhân bán phá giá, không chú ý đến chất lượng phục vụ ảnh hưởng đến uy tín của du lịch Việt Nam.
II.5 Một số vấn đề về thị trường và công tác nghiên cứu thị trường của Công ty du lịch Hà Nội-Toserco.
Các mối quan hệ của Công ty với các nhà cung cấp.
Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp chỉ thiết lập các quan hệ với các đối tác khi mối quan hệ đó có lợi cho bản thân hoạt động kinh doanh của mình. Hiện nay Công ty đang rất cần thiết lập quan hệ với các háng lữ hành gửi khách cũng như nhận khách trên khắp cả nước. Với các nhà cung cấp sản phẩm, hiện nay mối quan hệ của Công ty với các hãng lữ hành chưa thật sâu sắc, khách hàng đến với Công ty hầu hết là khách lẻ còn lại rất ít do Công ty gửi khách đến. Cho đến nay Công ty chưa thiết lập được các mối quan hệ chặt chẽ với các
chi nhánh du lịch trên khắp các địa phương trực thuộc Công ty. Do vậy đã gây ra không ít khó khăn nhất là trong công tác nghiên cứu thị trường.
Ngoài những hạn chế nêu trên Công ty còn có những mối quan hệ rất tốt có lợi cho cả hai bên đối tác như:
- Về khách sạn: giữ mối quan hệ chặt chẽ với các khách sạn trực thuộc Công ty. Là một doanh nghiệp Nhà nước có quy mô tương đối lớn , hệ thống cơ sở vật chất tương đối đầy đủ nên đã đáp ứng được phần nào nhu cầu của khách, hơn thế nữa còn được hưởng hoa hồng cao khi đưa khách đến khách sạn. Ngoài các khách sạn của Công ty mà hầu hết nằm tại Hà Nội như khách sạn liên doanh Horison, khách sạn Đồng Lợi... trung tâm còn có mối quan hệ với các khách sạn tại địa phương có tuyến điểm du lịch như khách sạn Victoria (Sapa), khách sạn Hương Gianh (Huế), khách sạn Đà Lạt...Vì vậy đối với bất kì đoàn khách lớn hay nhỏ thì Công ty luôn có đầy đủ khách sạn để đáp ứng nhu cầu của khách.
- Do đặc điểm của trung tâm có ba xe Coaster chuyên dùng để phục vụ kinh doanh nên trung tâm có điều kiện thuận lợi trong việc tổ chức , xây dựng và thực hiện các chương trình du lịch. Tuy nhiên với số lượng xe còn ít như hiện nay nên không phải lúc nào cũng đủ để đáp ứng yêu cầu phục vụ khách. Do đó Trung tâm đã ký hợp đồng vận chuyển khách du lịch với các Công ty như: Công ty Mansfield, Công ty vận chuyển khách du lịch...Chắc chắn trong những năm tới Công ty sẽ cần phải trang bị thêm một số phương tiện vận chuyển nữa để có thể chủ động trong việc phục vụ khách du lịch.
- Với hãng hàng không: Công ty đang giữ mối quan hệ tốt với Việt Nam Airline để tổ chức các tour đi du lịch nước ngoài. Bên cạnh đó Công ty cũng có quan hệ với các hãng hàng không khác nhưng rất ít, hầu như không có hiệu quả vì chiến lược của Công ty là tập trung vào thị trương Trung Quốc và Thái Lan.
Các mối quan hệ của Công ty với các công ty gửi khách.
Trong những năm trước đây Công ty có rất ít thậm chí không có quan hệ với các Công ty, các hãng lữ hành trên thế giới vì chưa khai thác được khách nên không thương xuyên quan hệ. Hiện nay khi mối quan hệ giao lưu trong nước với các nước trên thế giới phát triển hơn nữa do nhu cầu đi lại, du lịch của khách hàng nên Công ty đã kịp thời nắm bắt và đã có được không ít các mối quan hệ với các hãng lữ hành ngoài nước tạo lập các mối quan hệ để nhận và gửi khách. Do vậy Công ty đã ký hợp đông với một số háng du lịch như:
Tập đoàn Calasia Corporation của Pháp.
Tập đoàn Fast của Pháp.
Educulture tour của Hàn Quốc.
Withus Travel của Hàn Quốc.
Woore Agency Corporation của Hàn Quốc.
Southem Travel của Mỹ.
Active Travel của Mỹ.
Walock Travel của Mỹ.
Worldex Travel của Thái Lan.
Bananda Travel của Thái Lan.
Michelle Travel Co,...Ltd của Thái Lan.
KS and S Travel Co,...Ltd của Thái Lan.
Ngoài ra còn có một số hãng du lịch của Lào, Singapo và Trung Quốc. Các hợp đồng trên đều là hợp đồng trao đổi khách (Inbound+ Outbound). Ngoài ra Công ty còn ký các bản ghi nhớ với một số Công ty của Pháp, Đức...Để mở rộng thị trường Công ty còn tham gia các hội chợ quốc tế lớn:
Tháng 4-1996 tham gia hội chợ PATA Travel Mart tại Thái Lan.
Tháng 11-1997 tham gia hội chợ JATA tại Nhật.
Năm 1998 tham gia một số hội chợ và hội thảo tiếp thị du lịch tại Châu Âu.
Tháng 12-1999 tham gia hội chợ tại ý.
Công ty đã tham gia PATA vào tháng 7-1994.
Bảng 8: Số lượt khách quốc tế của từng hãng gửi khách gửi cho Trung tâm các năm 1997,1998,1999.
Đơn vị: lượt khách.
Tên hãng
Tên nước
1997
1998
1999
Withus Travel
Educulture tour
Worldex Tracel
Bananza Travel
Walock Travel
Southrn Travel
Tập đoàn Fast
Active Travel
Korea
Korea
Thailand
Thailand
America
America
Pari
Australia
80
48
95
57
64
82
28
37
50
40
102
65
67
80
40
39
48
42
127
78
89
85
42
45
Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh lữ hành quốc tế.
Thị trường mục tiêu Công ty đang hướng tới.
Trong hoạt động nghiên cứu thị trường , Hà Nội-Toserco đã xác định nội dung chủ yếu là tìm hiểu khả năng thâm nhập thị trường và mở rộng thị trường hoạt động của mình đối với hoạt động kinh doanh lữ hành quốc tế. Trung tâm đã chọn nhóm thị trường Châu á- Thái Bình Dương là thị trường mục tiêu chủ yếu là mảng thị trường: Qtung Quốc, Thái Lan và Hàn Quốc, đây là đối tương jđến với trung tâm đông nhất. Ngoài ra, trong một vài năm trở lại đây Việt Nam gia nhập ASEAN thì việc đi lại giữa các nước ASEAN dễ dàng hơn đặc biệt khi đi qua cửa khẩu Trung Quốc khách chỉ việc làm thẻ du lịch thay cho Visa hay hộ chiếu. Do đó Công ty xác định thị trường mục tiêu nữa là các nước Đông Nam á.
Sở dĩ, Hà Nội-Toserco chọn vùng Châu á-Thái Bình Dương làm thị trường mục tiêu vì những lý do sau:
- Các nước Châu á có điều kiện tự nhiên, phong tục tập quán, văn hoá lịch sử gần giống Việt Nam, do đó việc thực hiện phục vụ nhóm khách này tương đối dẽ dàng và phù hợp với trung tâm.
- Do nằm trong cùng khu vực nên thuận tiện cho việc đi lại của khách, tạo điều kiện thuận lợi cho du khách và giảm được chi phí cho chuyến đi đồng thời giá thành của trung tâm cũng hạ ,tạo được sự thu hút đối với mọi loại khách.
- Khu vực Châu á- Thái Bình Dương còn là khu vực kinh tế phát triển năng động, rất nhiều nhà đầu tư tìm đối tác ở những nước xung quanh do đó thúc đẩy họ đến với Việt Nam- đây là một thị trường hấp dẫn cho các nhà đầu tư.
II.6 Thực trạng hoạt động Marketing hỗn hợp mà Công ty đang áp dụng cho thị trường mục tiêu.
1.Hoạt động xây dựng chương trình du lịch cho khách quốc tế.
Hiện nay sản phẩm tour du lịch của Công ty lữ hành quốc tế ở Việt Nam khi chào bán hầu hết vẫn theo các tour truyền thống đến những điểm du lịch chủ yếu. Việc xây dựng các chương trình du lịch phụ thuộc vào yếu tố môi trường, cơ sở hạ tầng, đường sá giao thông, luật lệ quy định, cơ sở vật chất của doanh nghiệp. Tuy nhiên hiện nay các chương trình du lịch của các Công ty lữ hành đã phong phú, đa dạng và đặc sắc hơn như chương trình du lịch tham quan, vui chơi giải trí, du lịch về thăm cội nguồn, du lịch thăm chiến trường xưa. Để xây dựng một chương trình du lịch thì công tác tổ chức nghiên cứu thị trường có vai trò quan trọng nhất và qua đó Công ty lữ hành nắm bắt được nhu cầu du lịch, thời gian đi, khả năng thanh toán, mục đích chuyến đi, khả năng đáp ứng của nhà cung cấp. Do đó Công ty lữ hành xây dựng những chương trình du lịch phù hợp với nhu cầu của khách và sẽ bán được nhiều sản phẩm hơn. hiện nay Công ty mới tổ chức phòng nghiên cứu thị trường do đó giảm bớt đi tình trạng khi có khách thì mới làm chương trình và bán sản phẩm. Công ty có thể đưa ra các chương trình đã lập sẵn để khách có thể lựa chọn cho phù hợp. Nếu Công ty không thành lập phòng nghiên cứu thị trường, chỉ hoạt động theo kiểu ngồi chờ sẽ gây bất tiện cho khách khi muốn có câu trả lời chính xác về mức giá, lịch
trình chi tiết chuyến đi... Kiểu làm việc này sẽ không có tính thuyết phục khách hàng.
Tính hấp dẫn, hợp lý và đa dạng của chương trình sẽ góp phần làm tăng sức thu hút khách, cho nên trong quá trình xây dựng chương trình du lịch, Trung tâm đã đề ra các nguyên tắc sau:
+ Các chương trình du lịch phải có tốc độ thực hiện hợp lý. Các hoạt động không nên quá nhiều, gây mệt mỏi cho du khách. Cần có thời gian nghỉ ngơi thích hợp.
+ Đa d._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- H0021.doc