lời mở đầu
Ngày nay, đối với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới thì hoạt động xuất khẩu cũng trở thành hoạt động thương mại giữ vai trò hết sức quan trọng, cho dù nước đó có trình độ phát triển kinh tế và khoa học kỹ thuật đạt đến mức độ nào, dù tài nguyên có phong phú và giàu có đến đâu đi chăng nữa. Trước xu hướng khu vực hoá và quốc tế hoá nền kinh tế thế giới, đòi hỏi các quốc gia phải không ngừng thực hiện đa dạng hoá và đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại. Thực tế đã chứng minh, v
104 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1464 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ới nguồn lực có hạn, không một quốc gia nào có thể phát triển chỉ dựa trên mối quan hệ nội thương mà không tham gia vào quan hệ thương mại quốc tế. Đối với Việt Nam, hoạt động xuất khẩu thực sự có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Với một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam thì thương mại quốc tế tạo điều kiện cho Việt Nam tận dụng được lợi thế so sánh của mình, đặc biệt hoạt động xuất khẩu hàng hoá Việt Nam nói chung và hàng hoá nông sản nói riêng sang thị trường nước ngoài làm tăng nguồn thu ngoại tệ, thúc đẩy hoạt động sản xuất trong nước, tạo công ăn việc làm, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đồng thời góp phần nâng cao vị trí của Việt Nam trên thị trường quốc tế và tạo điều kiện để Việt Nam tham gia bình đẳng trong các giao lưu và quan hệ kinh tế quốc tế, tránh tình trạng bị cô lập.
Hơn nữa, Việt Nam là một nước có 80% dân số và trên 70% lao động xã hội đang hoạt động và sinh sống dựa vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp do đó ngành nông nghiệp sản xuất hàng nông sản không chỉ phục vụ nhu cầu thiết yếu của nhân dân trong nước, giải quyết được nhiều công ăn việc làm cho người lao động trong xã hội, mà còn góp phần thực hiện chiến lược "đẩy mạnh xuất khẩu, thay thế nhập khẩu có hiệu quả" của Đảng, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, cân bằng cán cân xuất nhập khẩu của đất nước.
Như chúng ta đã biết, Việt Nam đã trải qua một thời kỳ nền kinh tế đóng khá lâu. Trong suốt một thời gian dài, Việt Nam đã gần như chỉ quan hệ giới hạn trong phạm vi các nước XHCN. Phạm vi này ngày càng trở nên nhỏ bé kể từ khi khối XHCN Đông Âu bị sụp đổ.Mà một trong những nguyên nhân chính là do chính sách bao vây cấm vận của Mỹ gây ra... Mỹ, với tư cách là cường quốc kinh tế cũng như quân sự hàng đầu thế giới trong suốt thế kỷ XX, có vai trò ảnh hưởng to lớn đến thị trường quốc tế, Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và các tổ chức kinh tế thế giới như AFTA, APEC, WTO... Do đó mở rộng quan hệ kinh tế - thương mại với Mỹ, Việt Nam không những tiếp cận được với một nền kinh tế lớn nhất hành tinh có thị trường rộng lớn, đa dạng, có tiềm lực khoa học công nghệ tiên tiến. Mà còn giúp Việt Nam tiếp cận thị trường khu vực, thế giới và các tổ chức thương mại, ngân hàng, tài chính thế giới. Góp phần tiếp tục thúc đẩy đà tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Chính vì vậy, đề tài "Một số giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường Mỹ" được lựa chọn để làm luận văn tốt nghiệp.
Mục đích của đề tài này là nhằm tìm hiểu khả năng cạnh tranh hiện tại của các mặt hàng nông sản Việt Nam trên thị trường Mỹ. Qua đó thấy được những lợi thế, hạn chế và nguyên nhân từ đó đưa ra một số ý kiến, giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá nông sản Việt Nam trên thị trường Mỹ.
Trên cơ sở kết hợp các lý thuyết kinh tế được trang bị tại trường đại học với phân tích thực trạng của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường Mỹ để đề ra các giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá nông sản Việt Nam trên thị trường Mỹ.
Bố cục của luận văn được trình bày làm ba chương:
Chương I : Lý luận chung về cạnh tranh và sức cạnh tranh của hàng hoá.
Chương II : Thực trạng sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường Mỹ.
Chương III : Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường Mỹ.
CHƯƠNG I:
Lý luận chung về cạnh tranh và sự cần thiết
phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng
nông sản Việt Nam trên thị trường Mỹ
I.cạnh tranh:
Hiện nay, trong xu thế hội nhập - quá trình quốc tế hoá, khu vực hoá đang diễn ra nhanh chóng, các doanh nghiệp không còn muốn bó hẹp hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình trong phạm vi một quốc gia, mà họ luôn tìm cách hướng ra thị trường nước ngoài vì những lợi ích do hoạt động xuất khẩu mang lại. Có nhiều mục đích và động cơ thúc đẩy các doanh nghiệp tham gia mạnh mẽ vào hoạt động xuất khẩu như mở rộng khả năng tiêu thụ hàng hoá, đa dạng hoá hoạt động kinh doanh nhằm tối đa hoá lợi nhuận hoặc ổn định lợi nhuận. Vì vậy, sự thành công hay thất bại của các nhà kinh doanh quốc tế phụ thuộc cơ bản vào các nguồn lực ở nước ngoài, vào mức tiêu thụ hàng hoá, vào giá cả hàng hoá và quan trọng là khả năng cạnh tranh đối với các đối tác quốc tế trên thị trường.
1. Khái niệm.
Khái niêm cạnh tranh được nhiều tác giả trình bày dưới nhiều góc độ khác nhau trong các giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế xã hội. Cạnh tranh đặc biệt phát triển cùng với sự phát triển của nền sản xuất Tư bản chủ nghĩa. Theo C.Mác: "Cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch" (Chiến lược cạnh tranh của M.E.Porter, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật - 1995).
Ngày nay, hầu hết các nước trên thế giới đều thừa nhận cạnh tranh và coi cạnh tranh không những là môi trường và động lực của sự phát triển mà còn là một yếu tố quan trọng làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội, tạo động lực cho sự phát triển. Do đó quan điểm đầy đủ về cạnh tranh như sau: Cạnh tranh là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa các nhà sản xuất, kinh doanh với nhau dựa trên chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất nhằm đạt được những điều kiện sản xuất và tiêu thụ có lợi nhất, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển.
Như vậy có thể thấy rằng môi trường hoạt động của kinh tế thị trường chính là cạnh tranh tự do. Trên thị trường luôn diễn ra sự ganh đua, cọ sát lẫn nhau giữa các thành viên để giành phần có lợi cho mình, bởi vì, động lực hoạt động của các thành viên tham gia thị trường là lợi nhuận. Lợi nhuận sẽ đưa các nhà kinh doanh đến lĩnh vực sản xuất, kinh doanh mà xã hội cần nhiều hàng hoá hơn và từ bỏ những lĩnh vực sản xuất, kinh doanh mà xã hội cần ít hàng hoá.
2. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường:
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh thể hiện một số vai trò chủ yếu sau:
- Cạnh tranh cho phép sử dụng các nguồn tài nguyên một cách tối ưu và khuyến khích áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Mục tiêu trước nhất của doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận. Mà lợi nhuận chỉ có được khi bán được hàng hoá sản phẩm của doanh nghiệp. Điều này lại phụ thuộc vào người tiêu dùng. Người tiêu dùng luôn lựa chọn sản phẩm mà họ thích nhất, họ cho là có chất lượng tốt nhất, có kiểu dáng đẹp nhất, có giá trị phù hợp nhất... Do đó, buộc các nhà sản xuất phải luôn tìm cách nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, đáp ứng ngày một tốt hơn các yêu cầu của khách hàng, của thị trường. Đồng thời, các nhà sản xuất phải luôn tìm cách bán sản phẩm của mình với giá thấp nhất có thể. Bên cạnh đó, để nâng cao chất lượng cũng như hạ thấp giá thành sản phẩm, các nhà sản xuất cũng không ngừng phải đổi mới công nghệ, áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất để tạo ra sản phẩm có chất lượng tốt hơn, giá thành thấp hơn. Như vậy, cạnh tranh sẽ dẫn đến kết quả là làm cho giá cả có xu hướng ngày càng giảm, lượng hàng hoá trên thị trường ngày càng tăng, phù hợp với mong muốn của người tiêu dùng.
- Cạnh tranh làm cho nhu cầu của người tiêu dùng luôn được thoả mãn. Trong môi trường cạnh tranh, người tiêu dùng được coi là "thượng đế", các nhà sản xuất sẽ luôn tìm cách làm ra những sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn. Chính vì vậy mà bất cứ ý muốn nào của người tiêu dùng cũng đều được các nhà sản xuất quan tâm và thoả mãn miễn là người tiêu dùng sẵn sàng trả tiền để có được sản phẩm đáp ứng nhu cầu của mình.
- Có thể nói cạnh tranh là động lực phát triển cơ bản nhằm kết hợp một cách hợp lý giữa lợi ích của các doanh nghiệp, lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích của xã hội. ở nước ta trong cơ chế tập trung bao cấp trước đây, cạnh tranh ở thị trường được hiểu theo nghĩa tiêu cực. Suốt một thời gian dài, chúng ta cạnh tranh thị trường là không tốt, là “cá lớn nuốt cá bé”. Thực ra, cạnh tranh trên thị trường là cơ chế hai đầu. Một mặt, cạnh tranh sẽ loại bỏ khỏi thị trường các doanh nghiệp yếu kém, có chi phí sản xuất cao, mặt khác khuyến khích các doanh nghiệp có chi phí thấp và tạo môi trường tốt cho các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả phát triển. Cạnh tranh không phải là sự huỷ diệt mà là sự thay thế, thay thế những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, sử dụng lãng phí các nguồn lực của xã hội bằng các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Điều này đã tạo ra áp lực buộc các doanh nghiệp phải giảm chi phí tối ưu hoá đầu vào trong sản xuất kinh doanh. Cạnh tranh như là một "vũ đài" mà ở đó chỉ tồn tại người chiến thắng. Do đó, cạnh tranh sẽ tạo ra sự tăng trưởng kinh tế, bởi lẽ, các doanh nghiệp nếu muốn tiếp tục tồn tại và phát triển thì phải không ngừng phấn đấu vươn lên.
Có thể nói rằng cạnh tranh là điều kiện quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất, tiến bộ kỹ thuật, là động lực cho nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, cạnh tranh không chỉ có toàn các ưu điểm, nó còn có những khuyết tật cố hữu mang đặc trưng của cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường bắt buộc các doanh nghiệp phải thực sự tham gia vào cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Trong quá trình cạnh tranh, hiển nhiên là các doanh nghiệp phải quan tâm trước tiên đến quyền lợi của bản thân mình, không chú ý đến việc giải quyết các vấn đề xã hội. Từ đó, dẫn đến những vấn đề xã hội như nạn thất nghiệp, tiền công rẻ mạt, môi trường sinh thái bị hủy hoại... Cạnh tranh, một mặt sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển, mặt khác nó cũng dẫn tới tình trạng phân hoá ghê gớm, kẻ thắng người bại, dễ dàng đưa tới tình trạng cạnh tranh không lành mạnh hay độc quyền trên thị trường. Do đó, cần phải có sự quản lý của Nhà nước, đảm bảo cho các doanh nghiệp có thể tự do cạnh tranh một cách lành mạnh, có hiệu quả.
3. Các loại hình cạnh tranh:
Dựa trên các tiêu thức phân loại khác nhau, người ta có thể chia cạnh tranh thành các loại hình khác nhau sau:
3.1. Dựa vào chủ thể thị trường.
Cạnh tranh được chia làm 3 loại:
Cạnh tranh giữa người bán và người mua
Cạnh tranh giữa người mua với nhau
Cạnh tranh giữa người bán với nhau
3.1.1. Cạnh tranh giữa người bán và người mua:
Là cuộc cạnh tranh diễn ra theo quy luật mua rẻ - bán đắt. Trên thị trường người bán luôn luôn mong muốn bán sản phẩm của mình với giá cao nhất nhưng người mua lại muốn mua hàng hoá với giá thấp nhất. Sự cạnh tranh được thực hiện trong quá trình “mặc cả” với giá chấp nhận là giá thống nhất giữa người bán và người mua.
3.1.2. Cạnh tranh giữa người mua với nhau:
Là sự cạnh tranh trên cơ sở quy luật cung cầu. Khi cung của một loại hàng hoá, dịch vụ nào đó mà nhỏ hơn mức cầu thì cuộc cạnh tranh trở nên gay gắt hơn và giá cả của các loại hàng hoá, dịch vụ sẽ tăng lên. Do hàng hoá trên thị trường khan hiếm nên người mua sẵn sàng chấp nhận giá cao để mua được những hàng hoá mà họ cần và những người bán tiếp tục nâng giá hàng lên. Kết quả cuối cùng là người bán thu được lợi nhuận cao còn người mua phải mất thêm một số tiền. Đây là cuộc cạnh tranh mà những người mua tự làm hại chính họ.
3.1.3. Cạnh tranh giữa những người bán với nhau:
Là cuộc cạnh tranh gay go và quyết liệt nhất. Các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau, thôn tính lẫn nhau để tranh giành khách hàng và thị trường. Đây là cuộc cạnh tranh có ý nghĩa quyết định sự sống còn của doanh nghiệp. Tất cả các doanh nghiệp đều mong muốn giành giật lợi thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần của đối thủ. Kết quả để đánh giá doanh nghiệp nào chiến thắng trong cuộc cạnh tranh là việc tăng doanh số tiêu thụ và tăng tỷ lệ thị phần. Cùng với nó là tăng lợi nhuận, tăng đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất. Để có thể đứng vững và phát triển, các doanh nghiệp phải sử dụng mọi biện pháp khác nhau tạo thế mạnh cho mình vượt lện trên đối thủ.
3.2. Dựa vào mức độ cạnh tranh trên thị trường (trạng thái thị trường).
Cạnh tranh được chia làm 3 loại:
Cạnh tranh hoàn hảo
Cạnh tranh không hoàn hảo
Cạnh tranh độc quyền
3.2.1. Cạnh tranh hoàn hảo:
Là trạng thái cạnh tranh khi có nhiều đối thủ đưa ra bán những hàng hoá tương tự nhau, trong đó không có một người bán hay một người mua nào có vai trò lớn trong toàn bộ thị trường. Khi đó trên thị trường có rất nhiều người mua và người bán với những hiểu biết đầy đủ về thị trường. Mỗi người mua hay người bán đều có mối liên hệ rất nhỏ với toàn thể thị trường, hành động của họ không có khả năng tác động đến giá cả cũng như cung cầu trên thị trường. Hay nói cách khác, cả người mua và người bán đều là những người chấp nhận giá, giá cả tự do thay đổi theo điều kiện thay đổi của cung và cầu, không bị hạn chế bởi các biện pháp hành chính Nhà nước. Vì vậy, trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, giá cả thị trường sẽ tiến dần đến mức chi phí sản xuất.
3.2.2. Cạnh tranh không hoàn hảo:
Là trạng thái cạnh tranh trên thị trường mà phần lớn sản phẩm không đồng nhất với nhau. Mỗi loại sản phẩm có thể có nhiều nhãn hiệu khác nhau. Mỗi nhãn hiệu đều mang hình ảnh hay uy tín khác nhau mặc dù sự khác biệt giữa các sản phẩm là không đáng kể. Trong môi trường cạnh tranh không hoàn hảo, mức độ cạnh tranh rất khốc liệt và các hình thức cạnh tranh cũng rất đa dạng. Người bán tranh giành khách hàng với nhau bằng uy tín, quảng cáo, khuyến mãi, dịch vụ sau bán hàng, phương thức bán hàng... và cuối cùng thường dẫn đến cuộc chiến về giá cả. Đây là hình thức cạnh tranh rất phổ biến trong giai đoạn hiện nay
3.2.3. Cạnh tranh độc quyền:
Là trạng thái cạnh tranh trên thị trường mà ở đó chỉ có một hay một số ít người bán một loại sản phẩm đồng nhất hoặc một hay một số ít người mua một loại sản phẩm. Họ có thể kiểm soát hầu như toàn bộ số lượng sản phẩm bán ra hay mua vào. Thị trường này có sự pha trộn giữa độc quyền và cạnh tranh nên được gọi là thị trường cạnh tranh độc quyền. Tại đây, chỉ xảy ra sự cạnh tranh giữa các nhà độc quyền. Điều kiện để ra nhập hoặc rút khỏi thị trường cạnh tranh độc quyền có nhiều trở ngại do vốn đầu tư lớn hoặc do độc quyền về bí quyết công nghệ. Thị trường này không có sự cạnh tranh về giá cả mà các nhà độc quyền có toàn quyền quyết định giá cả. Họ có thể định giá cao hơn hoặc thấp hơn tuỳ thuộc vào đặc điểm tiêu dùng của sản phẩm nhằm đạt được lợi nhuận cao nhất. Những doanh nghiệp nhỏ tham gia thị trường này phải chấp nhận bán hàng theo giá cả của nhà độc quyền.
Trong thực tế có thể có tình trạng độc quyền xảy ra nếu không có sản phẩm nào thay thế sản phẩm độc quyền hoặc các nhà độc quyền liên kết với nhau. Độc quyền gây trở ngại cho phát triển sản xuất và làm hại cho người tiêu dùng. Vì vậy một số nước có luật chống độc quyền nhằm chống lại sự liên minh độc quyền giữa các nhà kinh doanh.
Ngoài ra cạnh tranh còn được phân chia thành nhiều loại khác nhau với các tiêu thức khác nhau như cạnh tranh trong ngành; cạnh tranh trong nội bộ ngành; dựa vào sức cạnh tranh của doanh nghiệp mà chia thành mạnh, trung bình hay yếu trong mối quan hệ so sánh với các doanh nghiệp khác; dựa vào mức độ cạnh tranh trên thị trường mà chia thành cạnh tranh mức độ cao, trung bình, thấp...
4. Các công cụ cạnh tranh chủ yếu:
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp không thể lẩn tránh được sự cạnh tranh vì như vậy là cầm chắc sự phá sản. Thay vào đó doanh nghiệp cần sẵn sàng chấp nhận sự cạnh tranh, chủ động đón trước cạnh tranh và sử dụng các công cụ cạnh tranh một cách linh hoạt, hữu hiệu.
Các công cụ cạnh tranh là tập hợp các yếu tố, các chính sách, các kế hoạch, các chiến lược, các hành động mà doanh nghiệp sử dụng nhằm tạo ưu thế so với đối thủ cạnh tranh. Mỗi công cụ cạnh tranh không nên sử dụng độc lập mà nên có sự kết hợp hay hỗ trợ các công cụ khác. Có như vậy hiệu quả của công cụ mới phát huy tối đa sức mạnh của nó.
Một số công cụ cạnh tranh chủ yếu:
4.1. Cạnh tranh bằng sản phẩm.
Nếu doanh nghiệp lựa chọn sản phẩm là công cụ cạnh tranh thì phải tập trung toàn bộ chiến lược về sản phẩm làm cho sản phẩm thích ứng nhanh chóng với thị trường. Nghiên cứu sản phẩm về thực chất là tìm hiểu thái độ chấp nhận của khách hàng đối với sản phẩm của doanh nghiệp. Mỗi sản phẩm được coi là lời giải đáp của doanh nghiệp cho một nhu cầu đã được tìm thấy trên thị trường và là một lời hứu hẹn đối với người mua, người mua thường quan niệm: sản phẩm hàng hoá là của cải vật chất hay dịch vụ mà họ mua để thoả mãn nhu cầu của mình.
Như vậy để đáp ứng nhu cầu thị trường ngày càng biến động nhanh chóng theo hướng đa dạng hơn, phong phú hơn, cao cấp hơn và độc đáo hơn, doanh nghiệp có thể chọn theo các hướng:
Đa dạng hoá sản phẩm:
Đa dạng hoá sản phẩm thực chất là mở rộng hợp lý danh mục sản phẩm tạo nên một cơ cấu có hiệu quả của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể thực hiện chiến lược đa dạng hoá sản phẩm theo hai hướng sau
Đa dạng hoá đồng tâm: Là hướng phát triển đa dạng hoá sản phẩm trên nền của sản phẩm chuyên môn hoá, xoay quanh sản phẩm chuyên môn hoá. Doanh nghiệp có thể dựa vào năng lực sản xuất hiện có như vốn, công nghệ, con người và nhu cầu thị trường để thực hiện chiến lược đa dạng hoá đồng tâm.
Đa dạng hoá kết khối: Là hình thức phát triển đa dạng các lĩnh vực kinh doanh có các đặc điểm kinh tế - kỹ thuật khác nhau trong một doanh nghiệp. Chiến lược này phù hợp với các công ty có quy mô lớn, các tập đoàn đa quốc gia.
Khác biệt hoá sản phẩm:
Khác biệt hoá sản phẩm là tạo ra các đặc điểm riêng độc đáo được thừa nhận trong toàn ngành có thể là các đặc tính riêng của sản phẩm, sự điển hình về thiết kế hay danh tiếng sản phẩm hay sự khác biệt về công nghệ sản xuất.
Cạnh tranh bằng sản phẩm có hai yếu tố cạnh tranh quan trọng là chất lượng và giá cả:
4.1.1. Cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm.
Chữ tín của sản phẩm quyết định chữ tín của doanh nghiệp và tạo lợi thế có tính quyết định trong cạnh tranh. Do đó để tồn tại và chiến thắng trong cạnh tranh các doanh nghiệp luôn phải quan tâm đến chất lượng sản phẩm.
Nói tới chất lượng là phải xem xét sản phẩm thoả mãn đến mức độ nào nhu cầu của khách hàng. Để lấy chất lượng làm công cụ cạnh tranh thì mức độ thoả mãn của người tiêu dùng sau khi tiêu dùng ngày càng tăng lên.
Theo quan điểm triết học của C.Mác: “Chất lượng sản phẩm là mức độ, là thước đo biểu thị giá trị sử dụng của nó”. Theo tổ chức tiêu chuẩn chất lượng quốc tế (ISO): “Chất lượng sản phẩm là tổng thể những chỉ tiêu, những đặc trưng kinh tế kỹ thuật của nó, thể hiện được sự thoả mãn nhu cầu trong những điều kiện tiêu dùng xác định phù hợp với công dụng của sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn”.
Trên thực tế, cạnh tranh bằng giá là "biện pháp nghèo nàn nhất" vì nó làm giảm lợi nhuận thu được. Trong khi đó, cùng một loại sản phẩm như nhau nhưng sản phẩm nào có chất lượng tốt hơn lại được người tiêu dùng sẵn sàng chấp nhận, đôi khi cả với giá cao hơn.
Hiện nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, đời sống được nâng cao, các tiến bộ khoa học kỹ thuật không ngừng được áp dụng vào đời sống thì chất lượng sản phẩm đã trở thành vấn đề sống còn của mỗi doanh nghiệp. Một khi chất lượng không đảm bảo, doanh nghiệp sẽ bị khách hàng từ bỏ, mất thị trường và nhanh chóng đi tới chỗ suy yếu và phá sản.
Nếu một doanh nghiệp tạo ra được các sản phẩm có chất lượng cao thì sẽ đem lại những thiết thực như sau:
Một là: Do chất lượng sản phẩm cao nên tốc độ tiêu thụ nhanh, tạo được ấn tượng tốt về nhãn hiệu sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp và tạo được sự tín nhiệm của khách hàng, kích thích người tiêu dùng.
Hai là: Sản phẩm có chất lượng cao sẽ tạo khả năng sinh lời do giảm được phế phẩm, tốc độ tiêu thụ nhanh, giảm thiểu thời gian kiểm tra.
Ba là: Chất lượng sản phẩm cao góp phần cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Bốn là: Do việc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm nên đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm, bảo đảm sự tồn tại lâu dài của doanh nghiệp, bảo đảm giành thắng lợi trong cạnh tranh và thu hút thêm ngày càng nhiều khách hàng, góp phần phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Trong điều kiện hiện nay khi mà thu nhập của mỗi người dân được tăng lên thì chất lượng sản phẩm trở thành một công cụ cạnh tranh quan trọng của các doanh nghiệp trên thị trường.
Chất lượng sản phẩm còn thể hiện ở đặc tính của sản phẩm về nhãn hiệu, mẫu mã, bao bì và tính hữu dụng. Trong sự cạnh tranh gay gắt thì các yếu tố này càng trở nên quan trọng và có thể coi là một bộ phận công cụ cạnh tranh không kém phần lợi hại. Đối với mỗi doanh nghiệp, việc lựa chọn nhãn hiệu, ký hiệu phù hợp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi nhãn hiệu, ký hiệu được coi là dấu vết của sản phẩm, gắn bó chặt chẽ với cuộc đời của doanh nghiệp. Nó thực sự mang lại cho doanh nghiệp một tư thế riêng và ngày càng đóng một vai rò quan trọng trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường.
Từ thực tế cho thấy tất cả các doanh nghiệp thành đạt trong sản xuất kinh doanh, khống chế trong cạnh tranh thì đều là các doanh nghiệp có thái độ tích cực như nhau đối với chất lượng sản phẩm. Nguyên tắc chung của họ là chất lượng sản phẩm tuyệt đối với độ tin cậy cao khi sử dụng và lòng trung thực trong quan hệ mua bán, đặc biệt là các doanh nghiệp luôn coi trọng việc nâng cao là một chiến lược cạnh tranh trên thị trường có phạm vi toàn cầu.
4.1.2. Cạnh tranh bằng giá cả sản phẩm.
Giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị sản phẩm mà người bán hay doanh nghiệp dự tính có thể nhận được từ người mua thông qua việc trao đổi sản phẩm trên thị trường. Hay nói cách khác, giá cả là số tiền người mua trả cho người bán về việc cung ứng một hàng hoá hoặc dịch vụ nào đó. Giá cả có vai trò rất quan trọng, đối với doanh nghiệp nó là khâu cuối cùng, với người tiêu dùng nó là một yếu tố quyết định đến việc mua hay không mua hàng. Giá cả là dấu hiệu tin cậy phản ánh tình hình biến động của thị trường. Thông qua giá cả, doanh nghiệp có thể nắm bắt được sự tồn tại, sức chịu đựng cũng như khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường .
Theo lý thuyết kinh tế thì giá cả được hình thành do sự gặp gỡ giữa cung và cầu. Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo thì mỗi người tham gia thị trường đều là những người chấp nhận giá. Tuy nhiên, thông thường để giành phần thắng trong trận chiến thì các đối thủ cạnh tranh thường cố gắng đưa ra các mức giá thấp hơn so với đối phương nhằm tiêu thụ được nhiều hàng hoá dịch vụ.
Trong cạnh tranh, giá cả được sử dụng làm một trong những công cụ cạnh tranh hữu hiệu thông qua chính sách định giá bán, và khi đưa một chính sách ra thị trường doanh nghiệp cần căn cứ vào các mặt sau:
Lượng cầu đối với sản phẩm: Doanh nghiệp cần tính toán nhiều phương án giá, ứng với mỗi loại giá là một lượng cầu, từ đó chọn ra các phương án có nhiều lợi nhuận nhất dựa trên tính quy luật: giá cao thì ít người mua và ngược lại. Tuy nhiên điều này chỉ đúng với loại hàng hoá có nhu cầu bền.
Chi phí sản xuất và giá thành đơn vị sản phẩm: Giá bán là tổng hợp giá thành và lợi nhuận mục tiêu. Tuy nhiên, không phải bao giờ giá bán cũng cao hơn giá thành, nhất là trong điều kiện cạnh tranh thị trường.
Phải nhận dạng đúng thị trường cạnh tranh và từ đó có cách định giá cho mỗi loại thị trường.
Cạnh tranh về giá cả thể hiện qua các chính sách định giá. Doanh nghiệp có thể có 3 chính sách định giá sau:
- Chính sách định giá thấp: Là chính sách định giá thấp hơn giá thị trường để thu hút người tiêu dùng về phía mình. Từ đó tăng được sản lượng tiêu thụ và do đó tăng lợi nhuận. Mặt khác, với giá như vậy, doanh nghiệp sẽ có khả năng chiếm lĩnh thị trường cũ và xâm nhập vào các thị trường mới.
- Chính sách định giá ngang giá thị trường: Là định ra mức giá bán sản phẩm xoay quanh mức giá thống trị trên thị trường, giúp doanh nghiệp giữ được khách hàng, đồng thời, nếu doanh nghiệp hạ giá thành sản phẩm hoặc đẩy mạnh công tác tiêu thụ thì vẫn thu được nhiều lợi nhuận hơn nhờ tiết kiệm được chi phí hoặc tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ.
- Chính sách định giá cao: Là chính sách định giá sản phẩm cao hơn giá thống trị trên thị trường, cao hơn giá trị của sản phẩm. Chính sách này chỉ áp dụng với doanh nghiệp có sản phẩm độc quyền hoặc các doanh nghiệp có chất lượng vượt trội so với sản phẩm cùng loại trên thị trường. Với mức giá cao hơn giá thị trường doanh nghiệp sẽ thu được khoản lợi nhuận siêu ngạch.
- Chính sách giá phân biệt: Chính sách này được biểu hiện là cùng với một sản phẩm song lại bán ra với những mức giá khác nhau như:
+, Phân biệt theo lượng mua: Người mua nhiều phải được ưu đãi hơn so với người mua ít.
+, Phân biệt theo chất lượng sản phẩm: Giá bán sẽ phụ thuộc vào chất lượng sản phẩm là loại nào (loại 1, loại 2,...). Nếu sản phẩm loại 1 tốt hơn loại 2 thì giá bán loại 1 sẽ cao hơn.
+, Phân biệt theo phương thức thanh toán: Với những khách hàng trả tiền ngay được ưu đãi hơn so với nhưng khách hàng trả chậm.
+, Phân biệt theo thời gian: Giá tại thời điểm này khác so với giá tại thời điểm khác.
+, Phân biệt theo mùa: Giá bán áp dụng cho mùa nay không giống so với giá áp dụng cho các mùa khác.
- Chính sách bán phá giá: Giá bán ra thấp hơn hẳn so với giá thị trường, thậm chí có thể thấp hơn giá thành sản phẩm nhằm đánh bại đối thủ, loại đối thủ ra khỏi thị trường. Chính sách này đòi hỏi doanh nghiệp phải có thế mạnh về uy tín, tài chính... Chỉ nên áp dụng chính sách này trong một thời gian nhất định và có kết quả là có thể loại bỏ được một số đối thủ nhỏ nhưng khó đánh bại được đối thủ lớn. Tuy nhiên để cạnh tranh trên thị trường Hoa Kỳ thì chúng ta không thể sử dụng chính sách này bởi Chính phủ Hoa Kỳ đã đưa ra luật chống bán phá giá.
Cạnh tranh về giá cả thường được sử dụng khi doanh nghiệp tung một sản phẩm mới ra thị trường hay khi muốn xâm nhập vào thị trường mới, hoặc khi muốn thủ tiêu một đối thủ cạnh tranh khác. Cạnh tranh bằng giá cả sẽ đem lại ưu thế cho các doanh nghiệp có vốn và sản lượng lớn hơn nhiều so với các đối thủ khác.
Như vậy, qua các giai đoạn phát triển khác nhau của nền sản xuất hàng hoá thì tầm quan trọng của các công cụ cạnh tranh cũng thay đổi. Khi nhu cầu của người tiêu dùng chưa được thoả mãn và thu nhập thấp thì giá cả sản phẩm được coi là công cụ cạnh tranh quan trọng, nhưng sau đó khi đã được thoả mãn về giá cả thì lại xuất hiện ngững nhu cầu về chất lượng, phương thức cung ứng... Cạnh tranh bằng giá cả là một biện pháp quan trọng, nhưng không phải là quan trọng nhất.
4.2. Cạnh tranh bằng các biện pháp tiếp thị (marketing):
Tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, đây cũng là giai đoạn thực hiện bù đắp chi phí và thu lợi nhuận.
Để tiêu thụ sản phẩm, công việc đầu tiên của doanh nghiệp là lựa chọn kênh phân phối sản phẩm một cách hợp lý, có hiệu quả nhằm mục đích đáp ứng một cách tốt nhất các yêu cầu của khách hàng, nhanh chóng giải phóng nguồn hàng, để bù đắp chi phí sản xuất, thu hồi vốn. Xây dựng một hệ thống mạng lưới tiêu thụ sản phẩm tốt có nghĩa là xây dựng một nền móng vững chắc để phát triển thị trường, bảo vệ thị phần của doanh nghiệp.
Như vậy, tổ chức tiêu thụ sản phẩm ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Tổ chức tiêu thụ tốt có tác dụng giúp doanh nghiệp: tăng sản lượng tiêu thụ, từ đó tăng doanh thu và lợi nhuận, thu hồi vốn nhanh; tạo uy tín của sản phẩm trên thị trường làm cho nhiều khách hàng biết đến và hiểu rõ tính năng, công dụng của nó; giúp doanh nghiệp tìm được nhiều bạn hàng mới, khai thác được nhiều thị trường; kích thích sản xuất, kinh doanh phát triển.
Bên cạnh việc tổ chức mạng lưới bán hàng, doanh nghiệp cũng cần đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ bán hàng như quảng cáo, khuyến mãi, các dịch vụ sau bán hàng. đây là một hình thức cạnh tranh phi giá, gây sự chú ý và thu hút khách hàng.
II. Sức cạnh tranh của hàng hoá:
1. Khái niệm.
Sức cạnh tranh của hàng hoá được hiểu là tất cả đặc điểm, yếu tố, tiềm năng mà sản phẩm đó có thể duy trì và phát triển vị trí của mình trên thương trường cạnh tranh một cách lâu dài và có ý nghĩa.
Sức cạnh tranh của hàng hoá đó là khả năng chiếm lĩnh thị trường của một mặt hàng, là khả năng mà doanh nghiệp có thể đạt được những điều kiện thuận lợi trong tiêu thụ hàng hoá của mình.
Sức cạnh tranh của hàng hoá còn được thể hiện ở vị trí của mặt hàng đó trên thị trường, hay nói cách khác đó là sức mua đối với hàng hoá đó trên thị trường, là mức độ chấp nhận của người tiêu dùng.
Để đánh giá được một sản phẩm có sức cạnh tranh mạnh hay yếu thì cần phải dựa vào các nhân tố sau:
+ Giá thành sản phẩm và lợi thế về chi phí (khả năng giảm chi phí xuống tới mức tối đa).
+ Chất lượng sản phẩm và khả năng đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp.
+ Các dịch vụ đi kèm sản phẩm.
2. Các chỉ tiêu đánh giá sức cạnh tranh của hàng hoá.
2.1. Sản lượng, doanh thu:
Có rất nhiều phương pháp khác nhau để đánh giá sức cạnh tranh của hàng hoá, trong đó sản lượng và doanh thu của sản phẩm là một chỉ tiêu quan trọng nhằm đánh giá sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường. Nếu sản lượng tiêu thụ hàng hoá tăng cao qua các năm tức là hàng hoá duy trì và giữ vững được thị phần. Cũng như doanh thu hàng năm cao với tốc độ tăng qua các năm tốt chứng tỏ giá cả hàng hoá được duy trì ổn định, hàng hoá đó đứng vững trong cạnh tranh, có sức cạnh tranh cao và được thị trường chấp nhận. Còn nếu khối lượng tiêu thụ lớn mà doanh thu không cao chứng tỏ giá cả hàng hoá có sự giảm sút và sức cạnh tranh của hàng hoá phần nào bị giảm đi.
2.2. Thị phần:
Thị phần cũng là một trong những chỉ tiêu hay được dùng nhất để đánh giá cức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường. Thị phần của doanh nghiệp trong một thời kỳ (thường được tính trong một năm) là tỷ lệ phần trăm thị trường mà doanh nghiệp đã chiếm được trong thời kỳ đó, và nó được tính theo công thức sau:
Doanh thu của doanh nghiệp
Thị phần của doanh nghiệp = ------------------------------------------- * 100%
trong một thời kỳ Tổng doanh thu trên thị trường
(cùng trong thời kỳ đó)
Hay:
Lượng bán của doanh nghiệp
Thị phần của doanh nghiệp = ---------------------------------------- * 100%
(trong một thời kỳ) Lượng tiêu thụ trên thị trường
(cùng trong thời kỳ đó)
Trên thị trường, nói chung thường thường có rất nhiều các doanh nghiệp cùng sản xuất và kinh doanh một mặt hàng. Những hãng._. lớn thường có thị phần lớn và ngược lại.
Độ lớn của chỉ tiêu này nói lên vai trò, vị trí của doanh nghiệp trên thị trường. Cũng như cho ta biết khả năng chấp nhận của thị trường đối với mặt hàng doanh nghiệp đang sản xuất kinh doanh như thế nào. Thông qua sự biến động của các chỉ tiêu này ta có thể đánh giá mức độ hoạt động có hiệu quả hay không của doanh nghiệp, sản phẩm của doanh nghiệp có được mở rộng ra trên thị trường hay không. Thị phần của doanh nghiệp lớn hơn chứng tỏ sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp được khách hàng ưa chuộng và đánh giá cao hơn, điều đó có nghĩa là nó có khả năng đáp ứng những nhu cầu của khách hàng cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh. Những doanh nghiệp có thị phần lớn ở mặt hàng nào đó thường là những doanh nghiệp có công nghệ tiên tiến để sản xuất mặt hàng đó nhằm đảm bảo sản phẩm có chất lượng tốt, giá cả lại phù hợp, đáp ứng được những đòi hỏi của khách hàng. Thị phần của doanh nghiệp so với toàn bộ thị trường mà lớn chứng tỏ sản phẩm của doanh nghiệp có sức cạnh tranh lớn, có khả năng đánh bại đối thủ cạnh tranh và phục vụ tốt các nhu cầu khách hàng. Bên cạnh đó tốc độ tăng qua các năm cũng cho thấy khả năng cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá ngày càng tăng.
Chỉ tiêu này khi sử dụng có một nhược điểm là khi tính toán chỉ tiêu khó đảm bảo tính chính xác, nhất là khi thị trường quá rộng lớn, không thể tính toán được doanh thu thực tế của các doanh nghiệp khác, nếu có thì cũng mất rất nhiều thời gian và chi phí. Do đó để đánh giá chính xác hơn, doanh nghiệp có thể tính theo chỉ tiêu thị phần so với các đối thủ cạnh tranh mạnh nhất.
2.3. Thi phần so với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất:
Doanh thu của doanh nghiệp
Thị phần so với đối thủ = ---------------------------------------------- * 100%
cạnh tranh mạnh nhất Doanh thu của đối thủ cạnh tranh
mạnh nhất
Nếu sử dụng phương pháp này, người ta có thể lựa chọn từ 2 đến 5 đối thủ mạnh nhất, tuỳ theo lĩnh vực cạnh tranh khác nhau mà có những lựa chọn khác nhau.
Phương pháp này có ưu điểm là: Chỉ tiêu này đơn giản và dễ tính hơn nhiều so với chỉ tiêu thị phần, do đối thủ cạnh tranh thì thường có nhiều thông tin hơn và những thị phần mà đối thủ mạnh nhất chiếm giữ thường là khu vực thị trường có lợi nhuận cao hơn và rất có thể doanh nghiệp cần phải chiếm lĩnh thị trường này.
Phương pháp này cũng có nhược điểm là chưa thật chính xác do khó lựa chọn được những đối thủ cạnh tranh mạnh nhất, đặc biệt là khi kinh doanh trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Để đảm bảo cần chia ra nhiều lĩnh vực nhỏ để lựa chọn.
2.4. Nhãn hiệu thương mại.
Ngày nay, uy tín của thương hiệu sản xuất càng trở nên quan trọng. Cùng một mức chất lượng, giá cả và mẫu mã như nhau, nhưng sản phẩm có thương hiệu uy tín được nhiều người biết đến có thể bán với giá cao hơn hàng chục lần. Không những thế nhãn hiệu thương mại của công ty càng có uy tín thì sẽ tạo cho người tiêu dùng lòng tin, độ tin cậy đối với hàng hoá. Khi tiêu dùng sản phẩm của công ty, người tiêu dùng sẽ không còn phải băn khoăn nhiều cũng như phải mất nhiều thời gian hơn để tìm hiểu về sản phẩm mình muốn mua. Như vậy, nhãn hiệu thương mại có thể coi như là một tài sản vô hình mà công ty đã tạo dựng được trong một thời gian nhất định.
2.5. Hình ảnh của hàng hoá và quốc gia.
Yếu tố hình ảnh quốc gia tạo nên sự tin tưởng của người tiêu dùng đối với hàng hoá mà họ mua. Quốc gia nào tạo cho mình được một hình ảnh tốt đẹp, tạo được vị trí cao trên trường quốc tế (trong khu vực và trên thế giới) thì quốc gia đó sẽ có lợi thế hơn rất nhiều, hàng hoá của quốc gia đó bán ra không những dễ được thị trường chấp nhận hơn mà còn bán được với mức giá cao hơn. Đối với Việt Nam, đây là một hạn chế rất lớn, do Việt Nam chưa tạo dựng được cho mình một "hình ảnh" cao trong khu vực và cả trên thế giới, do đó mà một số mặt hàng của Việt Nam muốn đem bán tại một thị trường nước ngoài nào đó thì phải qua các bước trung gian, tức là phải nhờ đến "hình ảnh quốc gia" của một nước thứ ba (mà nước này có vị thế cao hơn Việt Nam trên trường quốc tế). Điều này làm cho lợi nhuận bán hàng bị chia sẻ rất nhiều, đưa đến thua thiệt cho phía Việt Nam.
3. Một số nhân tố ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hoá:
Trên thị trường, sức cạnh tranh của hàng hoá bị ảnh hưởng bởi rất nhiều nhân tố, trong đó bao gồm cả các nhân tố bên trong và các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp:
3.1. Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp.
Theo mô hình 5 khả năng của M.E.Porter có 5 nhân tố tác động chính đến sức cạnh tranh của hàng hoá trong cùng một ngành, bao gồm:
3.1.1. Sức ép của các đối thủ cạnh tranh hiện tại trong ngành.
Cuộc cạnh tranh giữa các đối thủ hiện có trong ngành là một trong những yếu tố phản ánh bản chất của môi trường này. Cuộc cạnh tranh giữa các đối thủ hiện tại diễn ra do một hoặc nhiều đối thủ cảm thấy bị chèn ép hoặc cảm thấy có cơ hội để cải thiện vị trí. Trong cuộc cạnh tranh đó các đối thủ sử dụng các chiến thuật như cạnh tranh về giá, các cuộc chiến về quảng cáo, giới thiệu sản phẩm và tăng cường phục vụ khách hàng hoặc bảo hành...
3.1.2. Sự đe doạ của các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn ra nhập thị trường
Những người mới bước vào kinh doanh ở một lĩnh vực, một ngành hoặc một thị trường sẽ mang theo năng lực sản xuất mới với mong muốn chiếm lĩnh một phần thị trường; sự xuất hiện của họ làm cho giá bán bị kéo xuống và kết quả là làm giảm mức lợi nhuận. Từ đó mà nó cũng ảnh hưởng trực tiếp đến vị thế cạnh tranh của các doanh nghiệp hiện đang kinh doanh trên thị trường. Hơn nữa những người mới sẽ có những cách tiếp cận mới có hiệu quả hơn đối với khách hàng. Tuy nhiên để bước vào kinh doanh ở thị trường mới, các công ty phải đủ khả năng vượt qua những cản trở nhất định. Theo quan điểm của M. Porter, các rào chắn ngăn cản sự xâm nhập của một công ty bao gồm :
Hiệu quả kinh tế do quy mô
Sự khác biệt hay ấn tượng về sản phẩm
Yêu cầu về vốn
Chi phí chuyển đổi
Kênh phân phối
Chính sách của Chính phủ
Sự phản ứng của các nhà cạnh tranh ...
3.1.3. Sự xuất hiện các sản phẩm thay thế.
Xét theo nghĩa rộng thì các hãng trong một ngành phải cạnh tranh với các ngành sản xuất các sản phẩm thay thế, nó bao gồm cả ở hiện tại và tương lai. Các sản phẩm thay thế hạn chế mức lợi nhuận tiềm năng của một ngành bằng cách đặt ngưỡng tối đa cho mức giá mà các hãng trong ngành có thể kinh doanh có lãi. Khi hai sản phẩm có công dụng gần tương tự nhau thì đương nhiên người tiêu dùng sẽ lựa chọn sản phẩm nào có mức giá thấp hơn, tức là khi giá của sản phẩm tăng quá cao khách hàng sẽ chuyển sang sử dụng sản phẩm thay thế. Khả năng lựa chọn về giá cả của các sản phẩm thay thế càng hấp dẫn thì ngưỡng chặn trên đối với lợi nhuận của ngành càng vững chắc hơn. Sự sẵn có của sản phẩm thay thế trên thị trường là một mối đe doạ trực tiếp đến khả năng phát triển, khả năng cạnh tranh và mức độ lợi nhuận của doanh nghiệp.
3.1.4. Sức ép của khách hàng:
Sức mạnh của khách hàng thể hiện ở chỗ họ có thể buộc các nhà sản xuất phải giảm giá bán sản phẩm thông qua việc tiêu dùng ít sản phẩm hơn hoặc đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao hơn. Người mua tranh đua với ngành bằng cách bắt ép giá giảm xuống, mặc cả để có chất lượng tốt hơn, được dịch vụ nhiều hơn và còn làm cho các đối thủ cạnh trạnh chống lại nhau - tất cả đều làm tổn hao mức lợi nhuận của ngành. Quyền lực của mỗi một nhóm khách hàng quan trọng của ngành phụ thuộc vào một loạt các đặc điểm về tình hình thị trường của nhóm và vào tầm quan trọng của các hàng hoá mua của ngành xét trong mỗi tương quan của toàn bộ hoạt động kinh doanh chung của nhóm.
3.1.5. Sức ép của người cung ứng:
Những người cung ứng có sức mạnh thoả thuận rất lớn. Họ có thể khẳng định quyền lực của mình bằng cách đe doạ tăng hoặc giảm giá, chất lượng hàng hoá hay dịch vụ đã mua. Những người cung cấp có thế lực bằng cách đó chèn ép lợi nhuận của một ngành khi ngành đó không có khả năng bù đắp lại chi phí tăng lên trong mức giá của ngành. Các nhà cung cấp có thể gây ra những khó khăn làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong những trường hợp sau:
- Nguồn cung cấp của doanh nghiệp chỉ cần có một hoặc vài công ty độc quyền cung cấp.
- Nếu nhà cung ứng có khả năng về các nguồn lực để khép kín sản xuất, có mạng lưới phân phối hoặc mạng lưới bán lẻ thì họ sẽ có thế lực đáng kể đối với doanh nghiệp là khách hàng.
3.2. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp.
3.2.1. Nguồn nhân lực:
Đây là yếu tố quyết định của sản xuất kinh doanh bao gồm:
Ban giám đốc doanh nghiệp.
Cán bộ quản trị ở cấp doanh nghiệp.
Cán bộ quản trị ở cấp trung gian, đốc công và công nhân.
Ban giám đốc doanh nghiệp: Là những cán bộ quản trị cấp cao nhất trong doanh nghiệp, những người vạch ra chiến lược trực tiếp điều hành, tổ chức thực hiện công việc kinh doanh của doanh nghiệp. Những công ty cổ phần, những tổng công ty lớn ngoài Ban giám đốc còn có hội đồng quản trị là đại diện cho các chủ sở hữu của doanh nghiệp.
Các thành viên Ban giám đốc ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu các thành viên có trình độ, kinh nghiệm, khả năng đánh giá, năng động, có mối quan hệ tốt với bên ngoài thì họ đem lại cho doanh nghiệp không những lợi ích trước mắt, như tăng doanh thu, lợi nhuận,mà còn cả uy tín - lợi ích lâu dài của doanh nghiệp đó mới là yếu tố quan trọng tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Đội ngũ cán bộ quản trị cấp trung gian, đốc công và công nhân: Nguồn cán bộ của một doanh nghiệp phải đồng bộ. Sự đồng bộ này không chỉ xuất phát từ thực tiễn là đội ngũ lao động của doanh nghiệp mà còn xuất phát từ yêu cầu kết hợp nguồn nhân lực với các nguồn nhân lực tổ chức và vật chất.
Trình độ tay nghề của công nhân và lòng hăng say làm việc của họ là một yếu tố tác động mạnh mẽ đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi vì khi tay nghề cao, lại cộng thêm lòng hăng say nhiệt tình lao động thì tăng năng suất lao động là tất yếu. Đây là tiền đề để doanh nghiệp có thể tham gia và đứng vững trong cạnh tranh.
3.2.2. Nguồn lực vật chất và tài chính.
Bao gồm:
Máy móc thiết bị và công nghệ: Có ảnh hưởng một cách sâu sắc tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nó là một yếu tố vật chất quan trọng bậc nhất thể hiện năng lực sản xuất của một doanh nghiệp và tác động trực tiếp tới chất lượng sản phẩm. Ngoài ra, công nghệ sản xuất, máy móc thiết bị cũng ảnh hưởng đến giá thành và giá bán sản phẩm. Một doanh nghiệp có trang bị máy móc hiện đại thì sản phẩm của họ nhất định có chất lượng cao. Ngược lại không có một doanh nghiệp nào có thể nói là có khả năng cạnh tranh cao khi mà trong tay họ là cả hệ thống máy móc cũ kỹ với công nghệ sản xuất lạc hậu.
Tiềm lực tài chính của doanh nghiệp: Bất cứ một hoạt động đầu tư, mua sắm hay phân phối nào cũng đều phải xem xét, tính toán trên tiềm lực tài chính của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có tiềm năng lớn về tài chính sẽ có nhiều thuận lợi trong việc đổi mới công nghệ, đầu tư mua sắm trang thiết bị, đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành để nâng cao sức cạnh tranh, cung cấp tín dụng thương mại, khuyến khích việc tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu, lợi nhuận và củng cố vị trí của mình trên thương trường.
Nói tóm lại, khi xem xét khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp và thậm chí kể cả khả năng cạnh tranh của đối thủ, doanh nghiệp đều phải xem xét đầy đủ các yếu tố tác động, từ đó tìm ra các biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
III: sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường Mỹ:
1. Sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá nói chung.
Hoạt động xuất khẩu có vai trò vô cùng to lớn đối với nền kinh tế quốc dân cũng như sự phát triển nói chung của một quốc gia. Mà để duy trì và phát triển tốt hoạt động xuất khẩu thì vấn đề sức cạnh tranh của sản phẩm được quan tâm hàng đầu. Nếu sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu cao, hoạt động xuất khẩu tiến triển tốt, khi đó sẽ tạo điều kiện cho ta có ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị, phục vụ sản xuất trong nước, thúc đẩy công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Thông qua hoạt động xuất khẩu, các quốc gia sẽ nhận biết được lợi thế so sánh của mình so với các nước khác, và họ sẽ tập trung vào những lĩnh vực thuộc lợi thế của họ để tối đa hoá lợi ích thu được. Vì vậy, khi tham gia xuất khẩu hàng hoá, các quốc gia sẽ phát huy tối đa lợi thế của mình để phát triển sản xuất. Việc mở rộng thị trường ra nước ngoài còn giúp đa dạng hoá ngành nghề ở các nước xuất khẩu, từ đó mà nhiều công việc được tạo ra, thu nhập của người dân tăng và đời sống nhân dân được cải thiện. Điều này càng khẳng định tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu, mà muốn hoạt động xuất khẩu phát triển, tức là ta có thể bán được nhiều hàng cho nước ngoài, điều đó đồng nghĩa với việc ta sẽ phải phục vụ khách hàng tốt hơn đối thủ cạnh tranh, có nghĩa là sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu của ta phải cao hơn, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, các hàng rào mậu dịch được rỡ bỏ dần, thay vào đó là chế độ tự do mậu dịch. Khi đó, quốc gia nào, doanh nghiệp nào có hàng hoá có chất lượng cao hơn, giá cả rẻ hơn sẽ được khách hàng chấp nhận, những hàng hoá chất lượng thấp trong khi giá cả cao sẽ bị thải loại dần. Như vậy, công cụ để tồn tại và phát triển trong điều kiện hiện nay của các doanh nghiệp chính là sức cạnh tranh của hàng hoá, là khả năng doanh nghiệp có thể đáp ứng được khách hàng tốt hơn đối thủ cạnh tranh như thế nào.
Bên cạnh đó, quy luật cạnh tranh của nền kinh tế thị trường buộc các doanh nghiệp phải luôn đổi mới, vươn lên để có thể trụ vững trong cạnh tranh. Theo quy luật, khi tham gia thị trường, cả người bán và người mua đều muốn tối đa hoá lợi ích của mình. Người mua thì luôn muốn nhận được hàng hoá có chất lượng tốt với giá cả thấp nhất trong khi người bán lại luôn muốn định giá ở mức cao nhất có thể nhằm tối đa hoá lợi nhuận. Do đó trên thị trường, người thắng cuộc sẽ là người cung cấp những hàng hoá mà người mua thích nhất, có nghĩa là nhà sản xuất phải cho ra nnhững sản phẩm được coi là có chất lượng cao nhất xong giá thành phải thấp hơn so với các đối thủ cạnh tranh, điều đó đồng nghĩa với việc gia tăng sức cạnh tranh của hàng hoá.
2. Sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường Mỹ.
2.1. Vai trò của xuất khẩu nông sản đối Việt Nam.
Trước đây, trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung, nền kinh tế mang tính chất tự cung tự cấp, sản xuất bị kìm hãm, nông nghiệp được quan tâm phát triển song còn yếu kém, khả năng tiềm tàng chưa được khai thác, nhiều lợi thế chưa được phát huy, trình độ khoa học kỹ thuật, công nghệ lạc hậu.
Qua 10 năm đổi mới, từ khi thực hiện chính sách “mở” cả trong lẫn ngoài, nước ta đã đạt nhịp độ tăng trưởng ổn định và bền vững. Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, Việt Nam đang phải đứng trước một thực trạng là so với các nước khác trên thế giới và trong khu vực, nền kinh tế nước ta còn kém phát triển. Vì vậy, không thể có sự nhảy vọt về chất nếu không nhanh chóng thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu, mà một trong những nhân tố góp phần thực hiện thành công chiến lược này là đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu nông sản, điều này cũng đồng nghĩa với việc phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản của Việt Nam. Đối với Việt Nam, xuất khẩu nông sản vẫn là xương sống của sự nghiệp phát triển kinh tế nông nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
Là một nước có 80% dân số và trên 70% lao động xã hội đang hoạt động và sinh sống dựa vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, Việt Nam đã biết cách tận dụng và phát huy được nhiều lợi thế và tiềm năng về đất đai, lao động và điều kiện sinh thái, cho phép phát triển sản xuất nhiều loại nông sản xuất khẩu có giá trị kinh tế lớn như: Lúa gạo đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng; Cà phê vùng Tây Nguyên; Cao su vùng duyên hải miền Trung, và một số vùng cây ăn quả đặc sản khác... Điều đó đã góp phần đưa đất nước lên một bước phát triển mới. Có thể nói lựa chọn xuất khẩu hàng nông sản để thực hiện chất lượng xuất khẩu ở Việt Nam là một hướng đi đúng đắn và có hiệu quả, phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước ta. Do vậy, việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản nước ta là rất cần thiết.
Thực tế cho thấy trong giai đoạn đầu của phát triển kinh tế, xuất khẩu nông sản đã có vai trò rất quan trọng, cụ thể:
- Xuất khẩu nông sản tạo nguồn vốn tích luỹ ban đầu cho quốc gia: Cho đến nay, kim ngạch xuất khẩu nông sản nước ta chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và là một trong những nguồn thu ngoại tệ chủ yếu ở nước ta. Là một nước nghèo, thiếu ngoại tệ và một khi đồng tiền chưa có khả năng chuyển đổi như đồng Việt Nam, thì xuất khẩu nông sản càng có ý nghĩa quan trọng “hàng đầu” tạo ra nguồn thu ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị công nghệ và vật tư cần thiết cho sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước.
- Tăng thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân: Xuất khẩu nông sản tăng đã góp phần thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển. Đồng thời, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng CNH - HĐH, tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ từ nền kinh tế thuần nông, tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá với tỷ suất hàng hoá ngày càng cao. Bên cạnh đó, xuất khẩu nông sản còn tạo điều kiện để nền kinh tế phát triển theo chiều rộng. Như khi các thị trường nông sản xuất khẩu phát triển thì đó là phương cách giải quyết công ăn việc làm cho người lao động và tăng đội ngũ công nhân làng nghề, dẫn đến tăng quy mô sản xuất của nền kinh tế. Như vậy, có thể nói sự gia tăng của xuất khẩu nông sản đã tạo nên mức tăng trưởng GDP cao, góp phần cải thiện được cán cân thanh toán thương mại đồng thời thu nhập và đời sống của người dân được nâng cao rõ rệt.
- Thúc đẩy các mối liên kết kinh tế: Do nông sản chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam hiện nay nên nó đã thúc đẩy sự phát triển công nghiệp chế biến tạo ra các sản phẩm sơ chế như gạo, cà phê, cao su... Sự phát triển của công nghiệp chế biến tạo cơ hội cho việc gia tăng xuất khẩu nông sản, nó lại có tác động ngược lại với các ngành cung ứng nguyên liệu, tạo ra “mối liên hệ ngược”, mà tác động của nó đặc biệt có hiệu quả nhờ vào quy mô sản xuất lớn làm giảm chi phí sản xuất và tăng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Sự phát triển của các ngành có liên quan còn được thể hiện qua “mối liên hệ gián tiếp” thông qua nhu cầu hàng tiêu dùng của phần lớn lực lượng lao động có mức thu nhập ngày càng tăng. Ngoài ra, thực hiện chất lượng xuất khẩu nông sản còn là cơ sở gắn thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Nền kinh tế quốc gia với tư cách một đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ tham gia vào từng bước hoà nhập với nền kinh tế thế giới, thúc đẩy liên kết và mở rộng giao lưu kinh tế - thương mại giữa các nước trong khu vực và trên thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cùng nhau phát triển.
Như vậy, thực tế cho thấy xuất khẩu hàng nông sản đã phần nào đáp ứng được mục tiêu phát huy lợi thế so sánh của nông nghiệp nước ta trên thị trường quốc tế. Xuất khẩu nông sản chẳng những góp phần đáng kể vào việc tích luỹ vốn cho công nghiệp hoá mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá cho nhân dân, tăng thu nhập cho bà con, từ đó tăng sức mua của dân cư trong thị trường nông thôn rộng lớn, giảm bớt nhập siêu, giảm bớt căng thẳng trong cán cân thanh toán cũng như cầu ngoại tệ...
2.2. Việt nam là một nước có tiềm năng lớn về sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản.
Việt nam có tiềm năng khá lớn trong việc sản xuất hàng nông sản, nếu như được đầu tư một cách đồng bộ, lâu dài, khắc phục những yếu kém trong khâu thu mua, chế biến thì Việt Nam có thể trở thành một trung tâm sản xuất hàng nông sản lớn. Tiềm năng sản xuất hàng nông sản của Việt Nam thể hiện ở một số điểm sau:
Về đất đai: Việt nam có diện tích 330.363 km2, tiềm năng đất nông nghiệp của nước ta là 10 - 11, 157 triệu ha, với 8 triệu ha cây trồng hàng năm (bao gồm đất trồng lúa khoảng 5,4 triệu ha và 2,3 triệu ha trồng cây lâu năm). Hiện nay nước ta mới chỉ sử dụng được khoảng 65% quỹ đất nông nghiệp, trong đó 6,5 triệu ha cho cây trồng hàng năm, 0,86 triệu ha cho cây lâu năm, 0,33 triệu ha là đồng cỏ tự nhiên và 17 triệu ha mặt nước. Ngoài ra chúng ta còn có một diện tích lớn đất bị xói mòn, thoái hoá. Cụ thể là vùng Bắc Bộ 5% tổng diện tích, khu 4 cũ 35% và đồng bằng Nam Bộ 34% tổng diện tích. Nếu chúng ta đầu tư cải tạo diện tích này sẽ rất thuận tiện cho việc phát triển cây công nghiệp dài ngày như cao su, cà phê, hạt tiêu...
Đất Việt Nam có tầng dầy tơi xốp với chất dinh dưỡng cao kết hợp với sự đa dạng và phong phú về chủng loại (có 64 loại thuộc 14 nhóm), đây là một điều kiện rất tốt cho nhiều loại cây trồng phát triển.
Về khí hậu: Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa do ảnh hưởng sâu sắc của chế độ gió mùa Châu á. Khí hậu Việt Nam rất đa dạng, phân biệt rõ rệt từ miền Bắc vào miền Nam, miền Bắc có mùa Đông lạnh. Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long có khí hậu kiểu Nam á. Đây là điều kiện khí hậu thụân lợi để đa dạng hoá các loại cây trồng. Ngoài ra tiềm năng nhiệt độ, độ ẩm và gió dồi dào phân bổ khá đồng đều trên phạm vi cả nước. Tiềm năng nhiệt của nước ta được xếp vào dạng giàu có với số giờ nắng cao, cường độ bức xạ lớn, độ ẩm trung bình trong năm tương đối lớn, khoảng hơn 80%, lượng mưa khoảng 1.800 - 2.000 mm/năm là điều kiện lý tưởng cho nhiều loại cây trồng sinh trưởng và phát triển.
Vị trí địa lý và các cảng khẩu: Từ trước đến nay, một khối lượng lớn hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam được vận chuyển bằng đường biển. So với các phương thức vận tải quốc tế bằng đường sắt, đường hàng không và đường ống thì phương thức vận tải này có nhiều thuận lợi hơn, thông dụng hơn và có mức cước phí rẻ hơn, phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
Trong thực tiễn chuyên chở bằng đường biển, các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều thuận lợi nổi bật. Nước ta có đường biển dài, hệ thống cảng biển nói chung đều nằm sát đường hàng hải quốc tế trải dọc từ Bắc, Trung, Nam, có thể hành trình theo tất cả các chuyến đi Đông Bắc á, Đông Nam á, Thái Bình Dương, Châu Phi, Châu Mỹ. Một số cảng có khả năng bốc xếp hàng xuống tàu lớn, có hệ thống kho bảo quản tốt. Và gần đường hàng hải quốc tế.
Về nguồn nhân lực: Nước ta có dân số gần 80 triệu người, cơ cấu dân số trẻ với trên 80% sống bằng nghề nông. Đây là một lực lượng lao động hùng hậu cung cấp cho khu vực nông nghiệp. Mặc dù chất lượng lao động của Việt Nam còn thấp hơn so với nhiều quốc gia khác trên thế giới nhưng con người Việt Nam với bản chất chịu thương chịu khó, cần cù, sáng tạo, ham học hỏi là tiềm năng lớn góp phần vào chất lượng lao động ngành nông nghiệp Việt Nam.
Tình hình kinh tế Việt Nam với các chính sách nông nghiệp: Với mục đích hoà nhập vào đời sống kinh tế thế giới và tiến tới việc mở rộng thị trường xuất khẩu cho hàng hoá xuất khẩu, Việt Nam đã tích cực tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực. Hơn nữa với quan điểm của Đảng và Nhà nước ta, xem nông nghiệp là mặt trận hàng đầu nên việc sản xuất, chế biến, xuất khẩu hàng nông sản rất được quan tâm. Việc ưu đãi đầu tư trong và ngoài nước vào lực lượng sản xuất nông sản đã và đang tạo được động lực mới cho sự phát triển của ngành này. Việc đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất cũng tạo được những bước đột phá.
Tóm lại, với những lợi thế về điều kiện tự nhiên và lao động kết hợp với đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, hoạt động sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam trong những năm tới chắc chắn sẽ đạt được những bước lớn góp phần quan trọng của sự phát triển đất nước.
2.3. Mỹ là một thị trường rất hấp dẫn.
Mỹ là một thị trường lớn tương đối dễ tính, xã hội Mỹ là xã hội tiêu dùng (người dân Mỹ dùng 21%thu nhập của mình cho nhập khẩu hàng tiêu dùng), hơn nữa hàng năm, Mỹ nhập khẩu một lượng hàng trị giá 1.100 tỷ đô la, trong đó hàng nông sản là khoảng 88 tỷ đô la, chiếm 8% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá của Mỹ. Chính vì vậy, Mỹ được coi là thị trường lớn nhất thế giới mà nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam mong muốn hàng hoá của mình thâm nhập được vào. Với mức tăng trưởng kinh tế 7-9% trong những năm gần đây, chỉ cần giành 1%thị phần Mỹ thì kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ cũng đạt trên 10 tỷ đô la. Với chiến lược hướng tới xuất khẩu để phục vụ mục tiêu CNH - HĐH đất nước thì thị trường Mỹ là một thị trường không thể bỏ qua.
Mặt khác, Mỹ là thị trường có nhu cầu rất lớn về các sản phẩm nông sản như: Cà phê, chè, hạt tiêu, hạt điều, gạo... Đây đều là những mặt hàng Việt Nam có lợi thế, và tiềm năng này của thị trường Mỹ sẽ còn có thể giúp ngành nông sản của Việt Nam tăng cao hơn nữa khả năng xuất khẩu của mình trong những năm tới, đặc biệt là khi hiệp định thương mại giữa hai nước đã được ký kết.
Từ các lý do trên, có thể thấy rõ rằng việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường Mỹ là rất cần thiết và cũng rất có triển vọng nếu như các doanh nghiệp cũng như Chính phủ Việt Nam có được các chiến lược, các giải pháp tốt để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá của mình trên thị trường này. Điều này đồng nghĩa với việc họ phải thâm nhập được vào thị trường Mỹ, phải thu hút được người tiêu dùng mua sản phẩm của mình, cũng như phải vượt qua được các đối thủ cạnh tranh cả ở hiện tại và trong lương lai trên thị trường Mỹ.
Kết luận chương I
Hoạt động xuất khẩu nông sản Việt Nam có vai trò hết sức quan trọng như giải quyết công ăn việc làm, cải thiện mức sống người lao động, tạo nguồn vốn cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cải thiện cán cân thanh toán, phát huy lợi thế của một quốc gia... Hơn nữa, hiện nay hoạt động xuất khẩu trên thế giới đang diễn ra vô cùng sôi động, do đó vấn đề cạnh tranh để giành giật thị trường xuất khẩu là rất gay gắt. Đặc biệt Mỹ là một thị trường rất hấp dẫn đối với hầu hết các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Chính vì thế hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ đang và sẽ gặp rất nhiều khó khăn do phải cạnh tranh với các đối thủ cùng xuất khẩu hàng nông sản sang thị trường này, đặc biệt là các đối thủ lớn và truyền thống như Thái Lan, Braxin, Indonesia , Pakistan, Colombia... Do đó để thành công trong cạnh tranh thì các doanh nghiệp Việt Nam phải không ngừng nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm hàng hoá của mình.
Để đưa ra được các giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh cho hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường Mỹ, trước tiên ta phải hiểu được những kiến thức cơ bản về cạnh tranh và sức cạnh tranh của hàng hoá, trong chương I “Lý luận chung về cạnh tranh và sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường Mỹ ” , đã nói lên được diều đó.
CHươNG II:
thực trạng sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường Mỹ
i: khái quát về thị trường mỹ:
Mỹ là một cường quốc kinh tế, khoa học, công nghệ và quân sự hàng đầu thế giới, đồng thời cũng là một trong ba trung tâm kinh tế tài chính lớn nhất thế giới. Với diện tích 9,3 triệu km2, dân số khoảng 285 triệu người, chiếm 5% dân số thế giới. Mỹ là một thị trường riêng lẻ lớn nhất và là nước tham gia giữ vai trò chi phối hầu hết các tổ chức kinh tế quan trọng trên thế giới như Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)..., là đầu tầu của khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ... Cùng với thu nhập quốc dân cao nên Mỹ là thị trường có sức mua lớn và nhu cầu cũng rất đa dạng. Đây là một thị trường đầy tiềm năng, hấp dẫn và khá lý tưởng đối với tất cả các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Vì vậy để xuất khẩu được nhiều hàng hoá sang thị trường này, đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam không những phải thu hút được người tiêu dùng Mỹ mà còn phải cạnh tranh với rất nhiều các đối thủ cạnh tranh lớn trên thế giới cùng xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ.
Đối với Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng, muốn giành được thành công trên một thị trường như vậy, thì trước hết cần phải tìm hiểu môi trường kinh doanh của Mỹ để có cách tiếp cận thích hợp, đồng thời đưa ra các chiến lược và giải pháp phù hợp nhất với tiềm năng vốn có của mình. Dưới đây là một số đặc điểm của thị trường Mỹ.
1. Đặc điểm về kinh tế.
Nền kinh tế Hoa Kỳ là một nền kinh tế thị trường, hoạt động theo cơ chế thị trường cạnh tranh có lịch sử phát triển hàng trăm năm nay. Hiện nay nó được coi là nền kinh tế lớn nhất thế giới với giá trị tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm 1999 đạt 9.256 tỷ USD năm 2000 đạt 9.500 tỷ USD. Thông thường GDP của Mỹ chiếm trên 20% GDP toàn cầu, thương mại chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch Thương mại quốc tế. GDP bình quân đầu người năm 1999 là hơn 34.000 USD cho thấy sức mua của gần 285 triệu dân Mỹ là rất lớn. Với một thị trường hấp dẫn như vậy cho nên tất cả các nước trên thế giới đều mong muốn tiêu thụ được hàng hoá sản phẩm của mình trên thị trường này, điều đó làm tăng nguy cơ giảm sức cạnh tranh của hàng hoá do khó giữ được thị phần, cũng như để chiếm thêm thị phần lại càng khó hơn.
Mỹ là nước đi đầu trong quá trình quốc tế hoá kinh tế toàn cầu và thúc đẩy tự do hoá thương mại phát triển bởi vì việc mở rộng sản xuất hàng hoá và dịch vụ để xuất khẩu ra thị trường toàn cầu là một trong những yếu tố cơ bản cho sự tăng trưởng kinh tế Mỹ. Mức độ phụ thuộc của nền kinh tế Mỹ vào mậu dịch quốc tế ngày càng tăng. Kim ngạch xuất nhâp khẩu đã nâng từ 14% GDP năm 1986 lên 25% năm vào năm 1998. Tuy vậy, Mỹ cũng là nước hay dùng tự do hoá thương mại để yêu cầu các quốc gia khác mở cửa thị trường của họ cho các công ty của mình nhưng lại tìm mọi cách để bảo vệ nền sản xuất trong nước.
Đồng USD có vai trò thống trị trên thế giới với hơn 24 nước gắn trực tiếp các đồng tiền của họ vào đồng USD, 55 nước neo giá vào đồng USD, các nước còn lại ở nhiều mức độ khác nhau vẫn sử dụng các hệ thống dựa vào chỉ tiêu biến động của đồng USD để tính toán giá trị đồng tiền của mình. Thị trường chứng khoán của Mỹ hàng năm chi phối khoảng 8.000 tỷ USD, trong đó các thị trường chứng khoán Nhật Bản chỉ vào khoảng 3.800 tỷ USD. Mọi sự biến động của đồ._.và Philippine tiếp tục tăng song tốc độ sẽ giảm xuống do chịu sức ép cạnh tranh của các loại cây trồng khác và giới hạn về đất. Sản lượng của Inđônêsia đạt 1,9 triệu tấn và Việt Nam đạt 200 nghìn tấn voà năm 2005. Diện tích cao su của Malaysia sẽ là 900 nghìn tấn vào năm 2005, chỉ bằng 2/3 so với những năm của thập kỷ 80. Điều này sẽ dẫn đến giá cao su trong những năm tới sẽ tăng lên do nhu cầu tiêu thụ cao su trên thế giới tăng.
Thái Lan và Inđônêsia sẽ tiếp tục thống trị thị trường xuất khẩu cao su, trong khi xuất khẩu của Malayxia sẽ có xu hướng giảm. Đến năm 2005, ba nước này sẽ xuất khẩu 4,6 triệu tấn cao su, chiếm 86% thị trường xuất khẩu thế giới. Châu Phi, Mỹ Latinh và Đông á sẽ tiếp tục tăng xuất khẩu cao su, trong đó Việt Nam sẽ đạt tốc độ tăng nhanh nhất. Dự báo do sản lượng tăng mạnh nên đến năm 2005, Việt Nam sẽ xuất khẩu 150 nghìn tấn. Xuất khẩu của Srilanca sẽ giảm.
d. Đối với mặt hàng chè:
Sản lượng chè thế giới tăng hơn dự kiến trong năm 2000 về mùa vụ ở nhiều nước sản xuất tốt (trừ Kênia), đặc biệt Srilanka đã đạt được mức sản lượng cao kỷ lục cũng giống như ấn Độ. Trong khi đó, mùa vụ đã được cải thiện ở Việt Nam và Achentina. Theo “Dự báo của EIU về thị trường chè thế giới” (Bộ Thương mại), dự đoán sản lượng chè thế giới vẫn trên đà tăng lên và nhiều nước - không chỉ ấn Độ, Srilanka và một số nước cung cấp chè lớn ở Đông Phi mà còn ở những nước nhập khẩu lớn như Pakistan, Iran, Nêpan và Etiopia - sản lượng sẽ tăng trưởng mạnh trong tương lai. Vì vậy, đạt sản lượng kỷ lục sẽ là điều chắc chắn nếu thời tiết ổn định.
Từ bảng dưới đây (Bảng 13) cho thấy, cung của mặt hàng chè trên thế giới có xu hướng vượt cầu, năm 2001 cung vượt cầu là 60 nghìn USD và dự báo đến 2002 cung sẽ vượt cầu là 69 nghìn USD, năm 2003 cung cũng sẽ vượt cầu là 57 nghìn USD. Do cung vượt cầu vào những năm tới vì vậy giá chè không thể ở mức cao như mức cao nhất kể từ 13 năm qua vào đầu năm 1998.
Bảng 14: Dự báo về cung và cầu Chè trên thế giới.
Đơn vị: Nghìn tấn
Năm
1999
2000
2001
2002
2003
Cầu
2.005
2.023
2.072
2.116
2.158
So sánh (%)
-1,6
0,9
2,4
2,1
2,0
Cung
1.992
2.100
2.132
2.185
2.215
ấn Độ
806
870
870
890
890
Srilanca
315
320
320
320
320
Kênia
245
260
280
300
Trung Quốc
200
200
200
200
200
Inđônêxia
165
170
170
170
170
Các nước khác
288
300
312
325
335
So sánh (%)
-7,3
5,4
1,5
2,5
1,4
Cán cân cung cầu
-1,3
77
60
69
57
Nguồn: Trung tâm thông tin thương mại, Bộ Thương mại
Theo FAO, sản lượng chè thế giới sẽ tăng từ 1,97 triệu tấn năm 1994 lên 2,7 triệu tấn vào năm 2005, với tỷ lệ 2,8%/năm. ấn Độ, nước sản xuất chè lớn nhất có tốc độ tăng giai đoạn 1994 - 2005. Srilanka sẽ đạt 285 nghìn tấn. Sản lượng chè cũng tăng ở hầu hết các nước sản xuất chè chính.
Dự đoán xuất khẩu chè tăng 2,5%/năm giai đoạn 1994 - 2005, đạt 1,292 triệu tấn vào năm 2005, trong đó Trung Quốc, ấn Độ, Inđônêxia, Srilanca và Kênia chiếm 78% lượng xuất. Xuất khẩu chè của các nước Bănglađet, Malawi, Tanzania, Thổ Nhĩ Kỳ và Zimbabuê sẽ tăng nhanh. Srilanka - nước xuất khẩu chè lớn nhất thế giới sẽ xuất khẩu 263 nghìn tấn chè năm 2005, tăng 1,6%/năm. Trong khi đó, dự báo xuất khẩu sẽ tăng mạnh ở các nước Châu Phi - đến năm 2005 xuất khẩu chè của Châu Phi dự kiến sẽ đạt 401 nghìn tấn, tăng 2,8%/năm giai đoạn 1994 - 2005. Các thị trường chè tiềm năng có thuế quan rất cao, giảm thuế nhập ở các nước này sẽ tăng tiêu thụ chè thế giới. Theo Ngân hàng thế giới, giá chè năm 2005 sẽ tăng lên 1.790 USD/tấn.
e. Đối với mặt hàng điều:
Tình hình thị trường điều thế giới đang rất thuận lợi cho các nước trồng và xuất khẩu sản phẩm điều. Nhu cầu tiêu thụ không ngừng tăng trong khi sản lượng thu hoạch ở hầu hết tất cả các nước trồng điều chủ yếu của thế giới gần như không thay đổi trong hai thập kỷ qua và dao động ở mức 500 - 600 nghìn tấn/năm. Do đó, giá điều có xu hướng nhích dần so với nhiều nông sản khác trên thị trường thế giới. Dự báo giá nhân điều trong thập kỷ tới, nhất là từ nay đến năm 2005 sẽ không dưới 4.500 USD/tấn.
Các nước sản xuất và xuất khẩu chính của thế giới là ấn Độ, Braxin, Việt Nam, Inđônêxia, Kênia... Trong đó ấn Độ là nước xuất khẩu điều nhân lớn nhất thế giới, dự báo năm 2005 chiếm thị phần khoảng 455 toàn thế giới. Việt Nam hiện nay là nước xuất khẩu điều lớn thứ ba trên thế giới (sau ấn Độ và Braxin), dự báo đến năm 2005 chiếm 25% thị phần thế giới.
Tóm lại, trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, hầu hết các mặt hàng nông sản trên thế giới đều có xu hướng thuận lợi, cung hàng nông sản trên thế giới theo dự báo sẽ tăng và vượt cầu nên tạo ra sự cạnh tranh quyết liệt về chất lượng và giá cả. Đối với Việt Nam, năm 2001 hầu hết các mặt hàng nông sản của Việt Nam như gạo, cà phê, hồ tiêu, hạt điều, cao su... đều có khối lượng xuất khẩu khá, song do hầu hết giá các mặt hàng nông sản trên thế giới giảm nghiêm trọng và giảm mạnh ở các mặt hàng Việt Nam có khối lượng xuất khẩu lớn nên lợi nhuận không cao. Từ đó Việt Nam đã có cái nhìn thực tế hơn khi điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông - lâm nghiệp, giảm sản lượng một số mặt hàng nông sản thị trường thế giới đang dư thừa như gạo, cà phê và tăng cường những mặt hàng mới có sức cạnh tranh hơn.
Tuy nhiên, triển vọng đối với một số sản phẩm nông sản mà Việt Nam có thể xuất khẩu riêng sang thị trường Mỹ - là thị trường tiêu thụ nông sản lớn nhất trên thế giới lại có phần sáng sủa hơn.
2. Dự báo nhu cầu hàng nông sản của Mỹ và triển vọng xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ.
Thị trường nội địa Mỹ có vị trí vô cùng quan trọng trong nền thương mại thế giới. Với thị trường nội địa khổng lồ, mức tiêu dùng cao của các tầng lớp dân cư, Mỹ có khả năng tác động mạnh đến các dòng hàng hoá, dịch vụ nhập khẩu. Mức tăng nhập khẩu của Mỹ năm 2000 là 13% so với năm ngoái 1999. Trong năm 1999 nhập khẩu của Mỹ tăng gấp 4 lần xuất khẩu. Mặt khác tình trạng khủng hoảng tài chính của các nước Châu á đã góp phần làm tăng sản lượng nhập khẩu của Mỹ từ các nước chịu ảnh hưởng. Cụ thể từ đầu năm 1998 đến năm 1999, mức tăng xuất khẩu của các nước bị khủng hoảng tài chính (Inđônêxia, Hàn Quốc, Philipin và Thái Lan...) sang Mỹ chiếm 93% mức tăng xuất khẩu của các nước này nói chung. Thực tế trong vòng 10 năm qua Mỹ đã nhập khẩu tăng 92% kể từ khi nền kinh tế thoát khỏi sự suy thoái vào đầu năm 1990, và bước vào giai đoạn phát triển kéo dài.
Hàng năm Mỹ nhập khẩu khoảng hơn 100 tỷ USD hàng nông sản. Dự báo trong tương lai con số này còn cao hơn nữa. Nguyên nhân là do Mỹ là một nước công nghiệp hàng năm nhập khẩu các tư liệu sản xuất và hàng hoá phục vụ công nghiệp, nguyên vật liệu chiếm tới 50% hàng nhập khẩu của Mỹ, trong đó cao su cũng là một trong những mặt hàng thuộc nhóm hàng hoá này, vì vậy tiềm năng nhập khẩu cao su của Mỹ trong những năm tới vẫn là rất lớn.
Đối với mặt hàng cà phê, mỗi năm Mỹ nhập khẩu khối lượng hàng nông sản cà phê khoảng 4 tỷ USD. Người Mỹ có thói quen uống cà phê rất nhiều lần trong ngày bởi điều kiện kinh tế xã hội của nước Mỹ có nhịp sống cao, thần kinh luôn căng thẳng là lý do làm cho người Mỹ uống nhiều cà phê nhất trên thế giới. Thu hút giới trẻ chuyển từ đồ uống giải khát có ga sang uống cà phê là mục tiêu quan trọng của hiệp hội ca phê Mỹ (NCA) và kết quả khảo sát gần đây cho thấy 79% số thanh niên Mỹ uống cà phê. Số người uống cà phê ở Mỹ là 54% hay 110 triệu người, số người uống cà phê không thường xuyên là 51 triệu người, chỉ tăng 1 triệu và 3 triệu người tương ứng so với năm 1999. Theo khảo sát, thì ở khu vực uống cà phê không thường xuyên được tăng thêm 13 triệu người trong vòng 4 năm qua. Tiêu thụ cà phê tính theo đầu người năm 2001, vẫn đạt mức 3,1 cốc/ngày, nhưng khác ở chỗ trọng lượng mỗi cốc cà phê tăng 9 ounce trong năm (1 ounce = 28,35 gam). Dự kiến năm 2002 mức tiêu thụ còn cao hơn nữa, đây là cơ hội cho các nước xuất khẩu cà phê sang Mỹ cũng như đối với Việt Nam.
Đối với mặt hàng gạo, gạo của Việt Nam không xuất khẩu trực tiếp sang Mỹ do chủng loại không thích hợp nhưng có nhiều khách hàng Mỹ mua gạo của ta để xuất sang Châu Phi theo các chương trình viện trợ của Chính phủ Hoa Kỳ và môi giới hoặc để Hoa Kỳ đảm bảo các hợp đồng cung ứng gạo đã ký với các nước khác - Hoa Kỳ thường nhập khẩu gạo để tái xuất sang các nước khác... Vì vậy, Việt Nam mặc dù vẫn còn hạn chế về mặt chất lượng trong xuất khẩu gạo sang thị trường Mỹ với mục tiêu phục vụ người tiêu dùng Mỹ, nhưng với các mục đích nhập khẩu gạo như trên của Mỹ thì Việt Nam vẫn có cơ hội để tăng xuất khẩu gạo vào thị trường này...
Mặc dầu kinh tế Mỹ gặp suy thoái trong năm 2001, đặc biệt là sau sự kiện 12/09, nhưng xuất khẩu của ta sang Mỹ năm 2001 vẫn đạt 1,065 tỷ USD, tăng 45,5% so với năm 2000, nâng cao tỷ trọng của thị trường này trong tổng kim ngạch xuất khẩu lên 7%. Bước sang năm 2002, xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ có thuận lợi cơ bản là Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đi vào thực thi, kinh tế Mỹ có biểu hiện hồi phục sớm hơn dự kiến. Trong bối cảnh đó, cần đặt ra mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ năm 2002 từ 50 - 70%.
Thị trường Hoa Kỳ đã được mở, tác động tích cực tới kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt hàng. Trong Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện kế hoạch phát triển thương mại năm 2001 và phương hướng nhiệm vụ năm 2002 của Bộ Thương mại cho rằng “Xét giữa 2 hiệu ứng ngược chiều là ta được giảm thuế nhập khẩu vào Hoa Kỳ và kinh tế nước này tăng trưởng chậm lại thì hiệu ứng thứ nhất có phần mạnh hơn hiệu ứng thứ hai”. Vì vậy, về tổng thể, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ sẽ tăng, mức tăng thậm chí lớn hơn thời gian trước đây.
Hình 11: Dự báo tỷ trọng của thị trường Mỹ trong
tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Tỷ trọng (%)
Năm
Nguồn: Bộ Thương mại
Bảng 14: Dự báo xuất khẩu nông sản của Việt Nam vào Hoa Kỳ.
Đơn vị: Triệu USD
Mặt hàng
XK của VN vào
Hoa Kỳ
NK của Hoa Kỳ
Tăng XK hàng hoá VN vào Hoa Kỳ (%)
Thị phần VN tại HK
2000
2005
2010
2010
2005/2000
2010/2005
2010
Nông sản
62
100
500
12000
161
500
4,17
Cà phê hạt
162
200
350
3000
123
175
11,67
Hạt có dầu
15
50
100
3000
333
200
3,33
TKN XK hh VN vào HK
939
5850
11050
1157000
623
189
0,96
Nguồn: thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ
Những mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ gồm cà phê, hạt điều, hạt tiêu, cao su... Kim ngạch xuất khẩu nông sản sang Mỹ đạt trên 100 triệu USD/năm, trong đó cà phê, điều, hồ tiêu chiếm khoảng gần 90%. Triển vọng xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp rõ nét nhất là cà phê và cao su, mỗi năm Mỹ nhập khẩu khối lượng hàng nông sản cà phê khoảng 4 tỷ USD, cao su 8 tỷ... Dự báo đến năm 2010, thị phần của Việt Nam tại Hoa Kỳ sẽ đạt 0,96% thị trường Hoa Kỳ. Trong đó, mặt hàng nông sản cà phê dự báo đạt thị phần cao nhất trên thị trường Mỹ và đạt 11,67% tổng giá trị nhập khẩu cà phê của Hoa Kỳ. Một số mặt hàng nông sản khác dự báo đạt thị phần 4,17% thị trường hàng hoá nông sản Hoa Kỳ.
Tóm lại, thời kỳ 2000 - 2005 dự báo tốc độ gia tăng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào Hoa Kỳ cao gấp 6 lần vì đây là thời kỳ mới phát triển sau khi hiệp định thương mại Việt nam - Hoa Kỳ được ký kết, Việt Nam sẽ được hưởng quy chế thương mại bình thường NTR (hay còn gọi là quy chế tối huệ quốc MFN), các mặt hàng nông sản của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chỉ phải chịu mức thuế suất là khoảng 3% (so với khi chưa được hưởng là khoảng 40%) và tỷ trọng xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ cũng chiếm 19% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Giai đoạn 2005 - 2010, tốc độ tăng trưởng bắt đầu đi vào ổn định và giảm xuống chỉ còn 1,8%/năm. Như vậy, trong thời gian tới dự báo xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ sẽ tăng lên cả về giá trị và về tốc độ tăng, tuy nhiên đây mới chỉ là dự báo còn Việt Nam có thể đạt được hay không còn phụ thuộc rất nhiều vào các nhân tố khác, trong đó có cả nhân tố khách quan từ bên ngoài và cả nhân tố chủ quan từ bên trong doanh nghiệp cũng như Chính phủ Việt Nam.
II: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao sức cạnh
tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường Mỹ.
Để cạnh tranh được trên một thị trường rộng lớn như thị trường Mỹ, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có sự đầu tư, nghiên cứu kỹ lưỡng từ đó đưa ra các giải pháp, chiến lược thích hợp với khả năng, trình độ của mình. Cạnh tranh trên thị trường nước ngoài nói chung cũng như thị trường Mỹ nói riêng không chỉ là hoạt động một sớm một chiều, được chăng hay chớ mà cũng đòi hỏi phải có chiến lược cả lâu dài và ngắn hạn, kèm theo các biện pháp, công cụ cụ thể nhằm đạt được mục tiêu của doanh nghiệp.
Cũng như để sản phẩm nông sản của Việt Nam ngày càng có vị thế cao trên thị trường Mỹ hay nói cách khác Việt Nam ngày càng xuất khẩu nhiều hơn mặt hàng nông sản sang thị trường này thì sản phẩm phải mang tính cạnh tranh cao, nghĩa là phải có khả năng cạnh tranh về nhiều mặt, trong đó sản phẩm có chất lượng cao và giá thành thấp là hai yếu tố cạnh tranh chính. Ngày nay, chất lượng càng trở thành yếu tố then chốt để cạnh tranh, cạnh tranh bằng giá cả sẽ dần dần không còn phù hợp nữa mà giải pháp thực tế cho cạnh tranh hiện nay là cạnh tranh bằng chất lượng. Chỉ có thể nói chiến lược cạnh tranh hướng về chất lượng mới có thể đảm bảo sự tồn tại và phát triển lâu dài của các doanh nghiệp Việt Nam. Hơn nữa như đã nêu trên trong phần những tồn tại, sức cạnh tranh của hàng hoá nông sản Việt Nam chưa cao do chất lượng chưa cao, mẫu mã, chủng loại đơn điệu do đó các doanh nghiệp nên:
+ áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm: Các doanh nghiệp cần đẩy mạnh việc áp dụng khoa học công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm từ đó để tạo uy tín, mở rộng thị trường và xuất khẩu với giá cao, nhằm hạn chế sự thua thiệt về giá so với các đối thủ cạnh tranh chủ yếu áp dụng các tiến bộ khoa học chủ yếu là vào khâu thu hoạch, bảo quản với những công nghệ tiên tiến hiện đại là một trong những nhân tố chủ yếu nâng cao chất lượng sản phẩm nông sản Việt Nam. Đồng thời, cần tập trung cho công tác nghiên cứu lai tạo giống tạo ra những giống có năng suất, chất lượng cao phục vụ xuất khẩu. Cụ thể, trong thời gian tới cần tạo ra bước chuyển biến mới để đáp ứng yêu cầu của chiến lược cạnh tranh nông sản trên thị trường Mỹ như sau:
Thứ nhất, Các doanh nghiệp nên xây dựng các tiêu chuẩn quản lý chất lượng: Thực tế cho thấy, thị trường Hoa Kỳ là một thị trường có yêu cầu về chất lượng rất cao. Vì vậy các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam cần áp dụng xây dựng các tiêu chuẩn về quản lý chất lượng để được cấp giấy chứng nhận ISO 9000, 9001... tiến tới đạt tiêu chuẩn về quản lý môi trường ISO 14000, một tiêu chuẩn được nhiều chuyên gia kinh tế đánh giá là không thể thiếu nếu muốn xuất khẩu vào thị trường Mỹ ở thế kỷ 21. Có thể nói ISO là giấy thông hành để các doanh nghiệp Việt Nam có thể được công nhận, có thể xâm nhập vào các thị trường lớn trên thế giới và có điều kiện cạnh tranh với sản phẩm của các nước khác.
Thứ hai, Huy động vốn đầu tư đổi mới công nghệ chế biến bảo quản: Chúng ta cần huy động vốn đầu tư để đổi mới công nghệ chế biến bảo quản còn lạc hậu trong sản xuất hàng nông sản ở Việt Nam từ nhiều nguồn khác nhau: Vốn đấu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước, vốn đầu tư từ nguồn vốn tự có của nhân dân, đầu tư từ vốn tín dụng, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
+ Chú trọng đầu tư cho thiết kế cải tiến mẫu mã, chủng loại hàng hoá và bao bì đóng gói: Do mẫu mã, bao bì đóng gói hàng hoá của Việt Nam chưa đáp ứng được với yêu cầu rất khắt khe của thị trường Mỹ. Vì vậy để tăng sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường Mỹ các doanh nghiệp cần chú trọng đầu tư cho việc thiết kế mẫu mã hàng hoá và bao bì đóng gói.
+ Tích cực tìm hiểu thị trường Mỹ, tìm kiếm và xử lý tốt các thông tin: Từ đó đưa ra các chiến lược phát triển trong dài hạn và ngắn hạn. Như đã trình bày một trong những nguyên nhân hạn chế hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ là do sự thiếu hiểu biết, thiếu thông tin của các doanh nghiệp Việt Nam về thị trường này.
Các doanh nghiệp Việt Nam khi muốn xuất khẩu cũng như nâng cao sức cạnh tranh hàng hoá của mình trên thị trường Mỹ thì trước hết phải nghiên cứu rõ đối tác của mình cũng như môi trường pháp lý của nó. Từ đó làm quen với các phong cách, tập quán buôn bán theo kiểu Mỹ, làm quen với các tiêu chuẩn của Mỹ và hệ thống luật pháp phức tạp của Mỹ. Điều đó giúp cho hàng hoá của doanh nghiệp qua hải quan có thể được phép nhập khẩu một cách dễ dàng đồng thời đề phòng có những khiếu nại, kiện tụng xảy ra sau khi bán hàng. Bởi người dân Mỹ rất tôn trọng pháp luật và có thể đem đơn ra toà bất cứ lúc nào.
Thị trường Mỹ rất phức tạp với nhiều dân tộc, nhiều tầng lớp dân cư, nhiều tôn giáo tín ngưỡng khác nhau đã tạo ra sự đa dạng, phong phú trong nhu cầu, sở thích tiêu dùng hàng hoá. Những nhu cầu, sở thích đó thì luôn luôn thay đổi, không chỉ theo mùa mà cũng không có nguyên nhân nhất định. Ngày nay, không phải các doanh nghiệp bán những cái mình có mà phải bán những hàng hoá nào mà người tiêu dùng thích. Do đó phải nghiên cứu nhu cầu, thị hiếu, sở thích của người tiêu dùng không những trong hiện tại mà phải dự báo được tương lai họ mong muốn gì. Việc nghiên cứu đó giúp cho doanh nghiệp có những giải pháp đối phó hiệu quả để có thể đứng vững trên thị trường hiện tại và thích ứng được với những thay đổi trong tương lai.
Hơn nữa, Mỹ là một thị trường rộng lớn, hấp dẫn nên không chỉ riêng Việt Nam mà rất nhiều nước trên thế giới đều mong muốn thiết lập và mở rộng quan hệ thương mại với Mỹ. Do đó tạo ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các đối thủ nhằm giành được nhiều thị phần hơn về phía mình. Mỗi đối thủ đều có những lợi thế và bất lợi riêng, vì vậy để thành công trong cạnh tranh thì chúng ta phải nghiên cứu nắm bắt được những mặt lợi thế và bất lợi đó của họ, đồng thời từ đó biết dược những lợi thế so sánh của mình là gì để phát huy nhằm nâng cao sức cạnh tranh.
Muốn làm tốt các công việc nghiên cứu đó thì doanh nghiệp Việt Nam phải biết cách thu thập và xử lý tốt các thông tin mà mình có, nhanh chóng nắm bắt được những cơ hội thuận lợi trong kinh doanh. Việc tìm hiểu thông tin có thể thông qua các phương tiện như: sách báo, khảo sát thực tiễn, tham gia các cuộc hội thảo, hội chợ triển lãm, thuê chuyên gia tư vấn hoặc qua các tổ chức tư vấn đặc biệt... Thông tin về thương mại ở Mỹ rất tự do, doanh nghiệp có thể chủ động tìm kiếm, tiếp cận trên Internet, qua các công ty, qua văn phòng đại diện của doanh nghiệp ở Mỹ hoặc qua các tổ chức tư vấn của Chính phủ và phi Chính phủ...
Sau khi doanh nghiệp nghiên cứu kỹ thị trường thì bản thân doanh nghiệp phải nghiên cứu môi trường bên trong doanh nghiệp. Mình có những khả năng nào, có thế mạnh nào để có thể thâm nhập, cạnh tranh trên thị trường Mỹ và những điểm yếu gì cần khắc phục. Doanh nghiệp phải tự xây dựng một chiến lược phát triển cụ thể trong ngắn hạn và dài hạn phù hợp với bản thân doanh nghiệp, phù hợp với chính sách luật pháp của Nhà nước, và phù hợp với thị trường.
+ Tăng cường liên doanh liên kết hay thành lập các hiệp hội xuất khẩu chuyên ngành để đáp ứng các đơn đặt hàng: Thực tế các doanh nghiệp Việt Nam còn nhỏ bé về quy mô sản xuất, vốn kinh doanh, kinh nghiệm kinh doanh quốc tế. Trong khi đó thị trường Mỹ rất rộng lớn với nhiều loại công ty từ nhỏ đến rất lớn mới thành lập hay đã tồn tại hơn 100 năm. Môi trường cạnh tranh khắc nghiệt, yêu cầu chất lượng hàng hoá cao, các nhà nhập khẩu Mỹ thường có những đơn đặt hàng với số lượng lớn, đòi hỏi thời gian giao hàng đúng hạn trong một thời hạn không mấy rộng rãi... Ngoài ra các nhà phân phối Mỹ thường thiết lập hệ thống phân phối toàn cầu, nghĩa là không chỉ bán ở Mỹ mầ theo các kênh đi khắp thế giới. Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam với quy mô vừa và nhỏ, khả năng tài chính và năng lực sản xuất có hạn khó lòng có thể đáp ứng được các đơn đặt hàng có quy mô lớn. Do vậy, nếu nhận được đơn đặt hàng vựơt quá khả năng của mình, các doanh nghiệp nên liên kết với các doanh nghiệp khác cùng ngành hàng để đảm bảo được quy mô và thời hạn giao hàng... Từ đó mà có thể đáp ứng được các đòi hỏi của thị trường nhằm duy trì, củng cố và nâng cao thị phần của mình cũng như của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung. Có thể nói khả năng liên kết của các doanh nghiệp Việt Nam không chỉ trên thị trường Mỹ là một vấn đề cần lưu ý.
Các doanh nghiệp cũng nên tiến hành liên doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài để thu hút vốn, công nghệ và học tập kinh nghiệm nhằm mục tiêu tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường Mỹ. Nhất là hiện nay, khi hiệp định thương mại có hiệu lực, nhiều nước mà trước hết là các nước trong khu vực như Hàn Quốc, Thái Lan, Singapore... sẽ gia tăng đầu tư vào Việt Nam vì họ coi Việt Nam là cầu nối để hàng hoá của họ được xuất khẩu vào thị trường Mỹ với mức thuế suất thấp. Các doanh nghiệp Mỹ cũng sẽ đến Việt Nam nhiều hơn để sử dụng những lợi thế ở thị trường Việt Nam trong việc sản xuất hàng hoá rồi xuất khẩu ra các thị trường khác, trong đó có thị trường Mỹ.
Làm được như vậy các doanh nghiệp Việt Nam sẽ gia tăng sức cạnh tranh của mình trong cuộc chiến tranh giành thị phần trên thị trường Mỹ, tạo nên uy tín cho nhãn mác Việt Nam, từ đó củng cố và phát triển thị phần cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung.
+ Tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại, quảng cáo khuyếch trương sản phẩm của Việt Nam trên thị trường Mỹ: Các biện pháp này có thể được thực hiện thông qua các hội chợ, triển lãm, và đặc biệt qua mạng Internet. Hiện nay thương mại điện tử tuy mới xuất hiện nhưng đang được phát triển rất nhanh chóng và đang trở thành một công cụ hỗ trợ kinh doanh rất đắc lực. Vì vậy muốn hợp tác với nước Mỹ một cách nhanh chóng và hiệu quả, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam không còn con đường nào khác là phải tiếp cận từng bước một cách hợp lý, tạo môi trường kinh doanh thực sự, và hình thành thương mại điện tử ở Việt Nam để hội nhập với thương mại điện tử thế giới. Để có thể hoạt động tốt trong thương mại điện tử, các doanh nghiệp cần xác định bước đi thích hợp trong sử dụng Internet, cụ thể là: chuẩn bị làm việc trong môi trường tiếng Anh là chủ yếu; nhanh chóng làm quen và sử dụng các dịch vụ Internet như thư điện tử (E-mail). Thông qua E-mail doanh nghiệp có thể truyền tải văn bản, hình ảnh và tương lai cả video và âm thanh. Tham gia trao đổi tin tức trên mạng Internet. Doanh nghiệp có thể tham gia trao đổi theo một nhóm chuyên ngành hẹp theo chủ đề doanh nghiệp quan tâm. Bằng cách này, doanh nghiệp có thể tién hành nghiên cứu thị trường, nghiên cứu sản phẩm, tiếp xúc với khách hàng.
+ Tận dụng và phát huy lực lượng Việt kiều đang sống và làm việc tại Mỹ: Với số lượng trên 2 triệu người đang sinh sống và làm việc tại Mỹ, trong đó một số lớn là những người có trình độ khoa học cao do được tiếp xúc với nền công nghệ hiện đại, có sự am hiểu về luật pháp Mỹ và có tâm huyết, có năng lực. Đây sẽ là nguồn lực đáng kể cho các doanh nghiệp Việt Nam thu hút và khai thác triệt để trong việc hợp tác kinh doanh sử dụng làm môi giới, trung gian với các công ty Mỹ. Đồng thời với một lực lượng đông đảo như vậy, họ cũng là một thị trường tiêu thụ đáng kể hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ và qua đó quảng bá hàng Việt Nam tới các cộng đồng người khác ở Mỹ. Từ đó mà mở rộng và nâng cao được thị phần cho doanh nghiệp.
Với vai trò quan trọng như vậy, lực lượng Việt kiều ở Mỹ đang và sẽ trở thành những đối tác quan trọng của các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ. Để phát huy vai trò của lực lượng này, các doanh nghiệp cần chủ động trong việc tìm kiếm, hợp tác, đồng thời phải có các đối sách phù hợp để ưu đãi, kêu gọi và tạo điều kiện cho họ hợp tác kinh doanh, quay về đóng góp cho quê hương. Các doanh nghiệp sẽ đóng vai trò cầu nối giữa họ với quê hương và thông qua các hoạt động cụ thể của các doanh nghiệp Nhà nước sẽ đưa ra các chính sách, biện pháp vĩ mô phù hợp để phát huy vai trò của người Việt Nam ở nước ngoài nói chung, ở Mỹ nói riêng.
Bên cạnh đó Nhà nước cần hỗ trợ và tạo mọi điều kiện thuận lợi trong hoạt động của các doanh nghiệp:
+ Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, thường xuyên cung cấp các thông tin cập nhật về thị trường Mỹ cho các doanh nghiệp Việt Nam: Thông qua việc thiết lập hệ thống các trung tâm thương mại tại các thành phố lớn như New York, Los Angeles, Boston... nhằm tạo cầu nối giảm chi phí giao dịch cho các công ty xuất nhập khẩu trong nước, tăng kim ngạch xuất khẩu. Trung tâm này do Nhà nước đứng ra bảo trợ hoặc kết hợp với các công ty Mỹ và Việt kiều tổ chức.
Công tác xúc tiến thương mại cần đảm bảo khuyến khích và hỗ trợ cho các doanh nghiệp xây dựng ở nước ngoài hệ thống mạng lưới đại lý, phân phối hàng hoá, kho ngoại quan, trung tâm trưng bày sản phẩm; áp dụng các phương thức mua bán linh hoạt như giao hàng thanh toán chậm, đổi hàng, lập công ty pháp nhân nước sở tại để nhập hàng Việt Nam; hợp tác với nước ngoài và cụ thể ở đây là Mỹ trong lĩnh vực quảng cáo, giới thiệu hàng hoá thông qua báo chí, truyền hình và xuất bản ấn phẩm...
Mặt khác cần tăng cường vai trò của các đại sứ quán, các tham tán thương mại ở Mỹ trong các hoạt động xúc tiến thương mại. Cần có biện pháp và phương hướng hành động thích hợp nhằm tạo mối quan hệ gắn bó giữa các tham tán thương mại với các hiệp hội ngành hàng. Từ đó khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng mạng lưới đại lý phân phối hàng, trung tâm trưng bày sản phẩm ở Mỹ, đồng thời cung cấp kịp thời những thông tin cho các doanh nghiệp trong nước về giá cả, cạnh tranh, biến đổi trong nhu cầu tiêu dùng...
+ Hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu: Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp cải tiến công tác tổ chức quản lý xuất khẩu nông sản theo hướng phân khu vực thị trường cho các đầu mối xuất khẩu lớn để tạo hướng chuyên sâu về khu vực thị trường cho các doanh nghiệp xuất khẩu, hạn chế sự cạnh tranh giữa chính các doanh nghiệp của ta làm thiệt hại đến lợi ích quốc gia, xây dựng cơ chế quản lý giá lãi suất, thuế, tỷ giá và dự trữ xuất khẩu linh hoạt nhưng phải nằm trong khuôn khổ nhất định.
+ Xây dựng trung tâm chuyên thu thập và cung cấp thông tin: Nhằm cung cấp các thông tin về xuất nhập khẩu nông sản trên thị trường thế giới cũng như thị trường Mỹ cho các doanh nghiệp trong nước để giúp cho các doanh nghiệp định hướng sản xuất, chế biến và xuất khẩu nông sản đồng thời giúp cho các quyết định của doanh nghiệp có chất lượng cao.
+ Tăng cường đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng: Như bến cảng, kho bãi để giảm chi phí vận chuyển và bốc xếp hàng hoá nhằm tăng sức cạnh tranh cho hàng nông sản xuất khẩu nói chung và sang thị trường Mỹ nói riêng.
+ Củng cố và phát triển quan hệ toàn diện với Mỹ: Mỹ có một vị trí quan trọng, nhất là về kinh tế trong chính sách đối ngoại của các quốc gia.Việc Việt Nam có quan hệ bình thường với Mỹ sẽ đóng góp tích cực vào việc tăng cường vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Hơn nữa trong điều kiện ngày nay, chính trị và kinh tế là những nội dung không thể tách biệt. Một bất đồng nhỏ về chính trị cũng có thể dẫn đến sự đổ vỡ các quan hệ kinh tế và ngược lại. Đặc biệt Mỹ là nước thường sử dụng kinh tế để chi phối về chính trị cũng như sử dụng kinh tế để chi phối về chính trị. Vì vậy việc Nhà nước ta tiếp tục phát triển quan hệ thương mại với Mỹ sẽ có tác động quan trọng đến hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam nói chung cũng như hàng nông sản nói riêng sang thị trường Mỹ.
kết luận
Nhìn lại quá trình đổi mới của nước ta cho thấy Đảng và Nhà nước đã sớm nhận ra tầm quan trọng của sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản. Thông qua xuất khẩu các quốc gia có được nguồn ngoại tệ nhằm trang trải các nhu cầu nhập khẩu, góp phần duy trì và mở rộng tái sản xuất trong nước, tranh thủ tiến bộ khoa học và công nghệ thế giới, đáp ứng nhu cầu không ngừng nâng cao trình độ phát triển kinh tế - xã hội đất nước, hoà nhập với nền kinh tế thế giới.
Từ kinh nghiệm phát triển của nhiều nước, nhất là các nước trong khu vực, mấy chục năm gần đây cho thấy thi hành các chính sách nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp hướng về xuất khẩu đã nhanh chóng khắc phục tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, thúc đẩy phát triển kinh tế vượt bậc. Song muốn đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản cũng đồng nghĩa với việc phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá đó trên thị trường nước nhập khẩu. Đặc biệt Mỹ là một thị trường rất hấp dẫn, không chỉ đối với Việt Nam mà đối với hầu hết các nước trên thế giới đều có mong muốn xuất khẩu hàng hoá vào thị trường này. Do đó để đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản sang Mỹ thì đòi hỏi Việt Nam phải cạnh tranh được với hàng nông sản của các nước khác cũng xuất khẩu sang thị trường này.
Thông qua nghiên cứu đề tài này, ta thấy mặc dù Việt Nam có nhiều lợi thế và tiềm năng về xuất khẩu hàng hoá nói chung, hàng nông sản nói riêng trên thị trường Mỹ với quy mô lớn, tuy nhiên sức cạnh tranh chưa cao. Để khai thác có hiệu quả khả năng của Việt Nam và và quy mô của thị trường Mỹ, một mặt đòi hỏi sự nỗ lực của người sản xuất và kinh doanh, mặt khác đòi hỏi phải có sự quan tâm đồng bộ và nhiều mặt của Nhà nước để tạo dựng vị thế và sức cạnh tranh cao cho hàng hoá nông sản xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường Mỹ.
Qua thời gian thực tập tại Vụ Hợp tác quốc tế - Bộ Nông nghiệp & PTNT, cùng với kiến thức đã tích luỹ được ở trong trường, em đã mạnh dạn đi sâu vào nghiên cứu những giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường Mỹ. Nội dung luận văn tốt nghiệp đã phần nào giải quyết được 3 vấn đề lớn:
Làm sáng tỏ sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường Mỹ.
Phân tích và đánh giá thực trạng sức cạnh tranh của hàng hoá nông sản Việt Nam trên thị trường Mỹ trong thời gian qua.
Đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá nông sản Việt Nam trên thị trường Mỹ trong thời gian tới.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do trình độ còn hạn chế, hàng hoá và thị trường lại là những lực lượng đầy biến động nên không thể tránh khỏi sự thiếu sót về sự cập nhật thông tin. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy giáo, cô giáo, các cô, chú các anh chị và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn !
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28624.doc