Tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập: LỜI MỞ ĐẦU
Khi mà hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng cả về chiều rộng và chiều sâu thì không một quốc gia nào có thể tự tách rời, cô lập mình mà vẫn phát triển mạnh được. Tham gia hội nhập kinh tế mở ra những cơ hội nhưng đồng thời cũng đặt ra những thách thức to lớn đối với mỗi quốc gia nói chung và mỗi doanh nghiệp nói riêng. Quyết định thành công trong hội nhập kinh tế là năng lực cạnh tranh vì nó là điều kiện duy trì sự tồn tại và phát triển thị trường. Trong những năm qua, các doanh ... Ebook Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập
45 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1423 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp vừa và nhỏ của ta với ưu thế năng động, nhanh nhạy với cơ chế thị trường... đã đóng vai trò rất quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nó khai thác tiềm năng vốn có trong dân, phát huy nội lực, mở rộng ngành nghề, góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập, xoá đói giảm nghèo và góp phần đáng kể vào ngân sách hàng năm. Song một thực tế đáng buồn là trong xu thế hội nhập kinh tế hiện nay so với các doanh nghiệp vừa và nhỏ của các nước trong khu vực và trên thế giới thì năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của ta còn quá thấp. Do đó, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam là một vấn đề thực sự cấp bách, cần phải được xem xét ngay.
* Góp phần nghiên cứu vấn đề này, đề tài của em tập trung nghiên cứu về “Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập”.
* Nội dung chính của đề tài gồm:
Chương I: Một số lý luận cơ bản về cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ;
Chương II: Thực trạng về năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam;
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.
CHƯƠNG I
MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CẠNH TRANH VÀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1. Lý luận chung về doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1 Khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1.1. Khái niệm chung về doanh nghiệp vừa và nhỏ
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân, kinh doanh vì mục đích lợi nhuận, có quy mô doanh nghiệp trong những giới hạn nhất định theo tiêu thức vốn, lao động, doanh thu, giá trị gia tăng thu được trong từng thời kỳ theo quy định của từng quốc gia1. Giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, NXB Chính Trị Quốc Gia, 2002, tr. 8.
2. Giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, NXB Chính Trị Quốc Gia, 2002, tr. 11 (trích luật doanh nghiệp VN).
.
Đây là khái niệm chung nhất về doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ mang tính tương đối và giữa các quốc gia thì nó có đặc trưng riêng.
1.1.2. Khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
Theo Luật doanh nghiệp thì doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam được hiểu là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân, không phân biệt thành phần kinh tế, có quy mô về vốn hoặc lao động thoả mãn các quy định của chính phủ đối với từng ngành nghề tương ứng với từng thời kỳ phát triển của nền kinh
.
- Luật doanh nghiệp Việt Nam -
1.2. Tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2.1. Các tiêu chí thường dùng
Qua nhiều sự nghiên cứu về tiêu chí phân loại ở các nước, có thể nhận thấy một số tiêu thức phổ biến nhất thường được dùng trên thế giới là:
+ Số lao động thường xuyên;
+ Vốn sản xuất;
+ Doanh thu;
+ Lợi nhuận;
+ Giá trị gia tăng.
Trong đó, hai tiêu thức được sử dụng nhiều nhất là vốn và lao động.
1.2.2. Các yếu tố tác động đến tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ
Có rất nhiều yếu tố tác động đến các tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ. Sau đây là một số yếu tố cơ bản:
- Trình độ phát triển kinh tế của mỗi nước: Trình độ phát triển càng cao thì trị số các tiêu thức càng tăng lên. Như vậy, ở một số nước có trình độ kinh tế thấp thì các trị số về lao động và vốn để phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ thấp hơn so với các nước đang phát triển.
- Tính chất ngành nghề: Vì đặc điểm của từng ngành nghề có những nét đặc trưng, có ngành sử dụng nhiều lao động (dệt, may...) nhưng lại có ngành sử dụng nhiều vốn và ít lao động (hoá chất, bưu chính viễn thông...) nên dựa vào tính chất ngành nghề để phân loại các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm để có thể so sánh, đối chứng trong phân loại vừa và nhỏ giữa các ngành khác nhau.
- Tính lịch sử: Một doanh nghiệp trước đây coi là lớn, nhưng với quy mô như vậy hiện tại lại là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chú ý rằng, các tiêu thức và các tiêu chuẩn giới hạn trong từng giai đoạn cần có sự điều chỉnh để phù hợp với đường lối, chiến lược, chính sách phát triển của mỗi nước3. Tham khảo: Giáo trình Quản lý học kinh tế quốc dân, Tập II, NXB Khoa Học và Kỹ Thuật, 2001, tr. 395 - 396.
.
1.2.3. Các tiêu chí phân loại được sử dụng ở Việt Nam
+ Số lao động thường xuyên
+ Vốn sản xuất
Theo quy định của Chính phủ tại Công văn số 681/CP-KTN ngày 20 tháng 6 năm 1998 xác định tiêu thức phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ tạm thời quy định là những doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và số lao động trung bình hàng năm dưới 200 người. Trong những trường hợp cụ thể có thể sử dụng một hoặc cả hai tiêu thức trên.
Cũng theo quy định, doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có số lao động dưới 30 người và vốn dưới 1 tỷ đồng, còn doanh nghiệp vừa có từ 31 đến 200 lao động và vốn từ 1 tỷ đồng đến 5 tỷ đồng. Đối với doanh nghiệp công nghiệp, doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có vốn từ 1 tỷ đồng trở xuống và số lao động từ 50 người trở xuống, còn các doanh nghiệp thương mại và dịch vụ có số lao động dưới 30 người4. Giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, NXB Chính Trị Quốc Gia, 2002, tr. 13 -14.
.
Mặc dù, quy định này ra đời từ năm 1998 nhưng hiện nay do chưa có thêm văn bản nào bổ sung nên đến nay nó vẫn còn có hiệu lực. Mong rằng trong những năm tới, khi đất nước ta ngày càng phát triển thì trị số về vốn và lao động đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ cao hơn.
Chú ý rằng sự phân loại trên chỉ mang tính tương đối, không thể hiểu một cách cứng nhắc mà phải thường xuyên đánh giá, cân nhắc, điều chỉnh cho phù hợp với tình hình phát triển của đất nước trong từng thời kỳ.
1.3. Vị trí và vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vị trí và vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế của mỗi nước kể cả các nước phát triển cao. Thật vậy:
- Về số lượng: Các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm ưu thế tuyệt đối.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ có mặt trong nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực và là một bộ phận không thể thiếu được của nền kinh tế của mỗi nước. Nó là một bộ phận gắn bó chặt chẽ với các doanh nghiệp lớn, có tác dụng hỗ trợ, bổ sung, thúc đẩy các doanh nghiệp lớn phát triển.
- Sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần quan trọng trong việc giải quyết những mục tiêu KT - XH sau:
+ Một là, đóng góp đáng kể vào sự phát triển và ổn định kinh tế ở mỗi nước. Việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là những nước đang phát triển như nước ta.
+ Hai là, cung cấp cho xã hội khối lượng hàng hoá đáng kể, phong phú về chủng loại.
+ Ba là, thu hút lao động, tạo ra nhiều việc làm với chi phí thấp, góp phần giảm thất nghiệp.
+ Bốn là, tạo nguồn thu nhập ổn định, thường xuyên cho dân cư, góp phần giảm bớt chênh lệch về thu nhập trong dân cư, tạo ra sự phát triển tương đối đồng đều giữa các vùng và cải thiền mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế.
+ Năm là, khai thác, phát huy các nguồn lực và tiềm năng tại chỗ của các địa phương.
+ Sáu là, hình thành, phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh năng động.
+ Bảy là, tạo ra môi trường cạnh tranh thúc đẩy sản xuất - kinh doanh phát triển hiệu quả hơn...
Tóm lại, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển của mỗi nước, làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn.
2. Cạnh tranh và vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
2.1. Khái niệm về cạnh tranh
Do cách tiếp cận khác nhau và mục đích nghiên cứu khác nhau, nên trong thực tế có nhiều quan niệm khác nhau về cạnh tranh. Nhưng nhìn chung cạnh tranh trong kinh doanh được hiểu là chạy đua hay ganh đua gay gắt, quyết liệt giữa các chủ thể tham gia kinh doanh trên thị trường để giành giật những điều kiện kinh doanh thuận lợi nhất nhằm đem lại cho mình nhiều lợi ích nhất.
2.2. Tính quy luật của cạnh tranh
Cạnh tranh là một quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường. Vì trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp thường muốn đạt được lợi nhuận tối đa nên các doanh nghiệp có xu thế tham gia vào những ngành đem lại lợi nhuận cao chính điều này đã làm cho sự đua tranh giữa các doanh nghiệp để nhằm đạt được những điều kiện kinh doanh thuận lợi diễn ra quyết liệt. Theo lý luận kinh tế học, quy luật cạnh tranh sẽ đào thải những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả. Và đối với những doanh nghiệp làm ăn hiệu quả thì cạnh tranh lại là động lực cho sự phát triển lâu dài và ổn định của mình. Hơn nữa, nếu hạn chế cạnh tranh sẽ gây ra lãng phí nguồn lực, làm giảm tính năng động, sáng tạo của mỗi con người cũng như toàn xã hội, nền kinh tế sẽ kém phát triển. Do đó, cạnh tranh không phải là sự huỷ diệt mà là sự thay thế: thay thế những người thiếu năng lực bằng những người có năng lực, thay thế những doanh nghiệp yếu kém bằng những doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, thay thế sự đáp ứng nhu cầu xã hội không đầy đủ bằng sự đáp ứng ngày một tốt hơn.
Tóm lại, các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường đều phải đối mặt với cạnh tranh, nếu doanh nghiệp nào né tránh thì sớm muộn doanh nghiệp đó cũng sẽ bị đào thải bởi cạnh tranh là một quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường.
2.3. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
2.3.1. Vai trò của cạnh tranh đối với doanh nghiệp
Cạnh tranh là quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường bởi vậy bất cứ doanh nghiệp nào khi tham gia vào nền kinh tế thị trường cũng phải đối mặt với cạnh tranh và phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mình bằng cách tạo ra những lợi thế cạnh tranh vượt trội hơn so với đối thủ như là nâng cao chất lượng và mẫu mã sản phẩm, giảm giá, nâng cao hiệu quả công tác quản lý và nguồn nhân lực... Do đó cạnh tranh nó kích thích các doanh nghiệp năng động hơn, mạnh mẽ hơn và làm ăn có hiệu quả hơn. Mặt khác, các doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh vượt trội so với đối thủ trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp phát triển lâu dài và ổn định.
2.3.2. Vai trò của cạnh tranh đối với người tiêu dùng
Cạnh tranh thúc đẩy các doanh nghiệp thúc đẩy theo đuổi các chiến lược khác nhau, sử dụng hiệu quả các nguồn lực, áp dụng những công nghệ hiện đại để có thể đứng vững trên thị trường, thu được lợi nhuận cao... chính điều này đã làm cho người tiêu dùng được hưởng nhiều điều kiện thuận lợi hơn như: sự đa dạng chủng loại các mặt hàng, sản phẩm có chất lượng tốt hơn mà giá lại rẻ hơn, các dịch vụ ngày càng thuận tiện...
2.3.3. Vai trò của cạnh tranh đối với nền kinh tế
Cạnh tranh là động lực làm cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển vì cạnh tranh loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả đồng thời khẳng định sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp kinh doanh hiệu qủa. Cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển bình đẳng của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường, góp phần xoá bỏ sự độc quyền, sự bất bình đẳng trong kinh doanh. Mặt khác, cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự phân công lao động xã hội ngày càng sâu rộng, tạo ra những sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng tốt hơn, từ đó góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng xã hội.
2.4. Các hình thức cạnh tranh chủ yếu
2.4.1. Theo tính chất cạnh tranh
- Cạnh tranh lành mạnh (cạnh tranh mà có “sân chơi” bình đẳng).
- Cạnh tranh không lành mạnh (cạnh tranh mà có “sân chơi” không bình đẳng).
2.4.2. Theo mức độ cạnh tranh
- Cạnh tranh hoàn hảo (cạnh tranh thuần túy).
- Cạnh tranh không hoàn hảo.
a. Cạnh tranh hoàn hảo: Là hình thức cạnh tranh mà trong đó người bán và người mua không có ảnh hưởng lên giá thị trường mà giá cả thị trường là do quan hệ cung cầu trên thị trường quyết định. Các sản phẩm bán ra có tính chất đồng nhất cao. Điều kiện tham gia hay rút lui khỏi thị trường rất dễ dàng. Hình thức cạnh tranh hoàn hảo khó tìm thấy hiện nay.
b. Cạnh tranh không hoàn hảo: Cạnh tranh không hoàn hảo là hình thức cạnh tranh chiếm ưu thế trong các ngành sản xuất, mà ở đó các doanh nghiệp có đủ sức mạnh và thế lực có thể chi phối được giá cả sản phẩm của mình trên thị trường.
Cạnh tranh không hoàn hảo có hai loại: Độc quyền nhóm và cạnh tranh mang tính độc quyền.
+ Độc quyền nhóm: Tồn tại trong các ngành sản xuất mà ở đó chỉ có một ít người sản xuất, mỗi người đều nhận thức được rằng giá cả các sản phẩm của mình không chỉ phụ thuộc vào hoạt động của mình mà còn phụ thuộc vào hoạt động của những kẻ cạnh tranh quan trọng trong ngành đó.
+ Cạnh tranh mang tính độc quyền: Là hình thức cạnh tranh mà trong đó các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau bằng việc bán các sản phẩm phân biệt (đã được làm cho khác sản phẩm của các doanh nghiệp khác), các sản phẩm này có thể thay thế cho nhau ở mức độ cao nhưng không phải là thay thế hoàn hảo. Người bán có thể thu hút khách hàng bằng các cách hữu hiệu như quảng cáo, khuyến mại, dịch vụ hậu mãi... Loại hình cạnh tranh này rất phổ biến hiện nay.
2.4.3. Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường
- Cạnh tranh giữa người bán và người mua.
- Cạnh tranh giữa những người mua với nhau.
- Cạnh tranh giữa những người bán với nhau.
Trong đó, cạnh tranh loại này chủ yếu xoay quanh vấn đề: chất lượng hàng hoá, giá cả, các điều kiện dịch vụ...
2.4.4. Căn cứ theo phạm vi lãnh thổ
- Cạnh tranh trong nước.
- Cạnh tranh quốc tế.
Trong bối cảnh hội nhập ngày nay thì cạnh tranh quốc tế ngày càng trở nên gay gắt, cạnh tranh quốc tế đòi hỏi các chủ thể phải tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế, thông lệ quốc tế.
Ngoài ra chúng ta còn có thể có những hình thức cạnh tranh khác khi xem xét dưới góc độ các công đoạn của sản xuất - kinh doanh, hoặc xem xét theo mục tiêu kinh tế 5. Tham khảo: Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Chính Trị Quốc Gia, 2003, tr. 10 - 13 và Giáo trình Kinh tế Vi mô, NXB Giáo dục, 145 - 168.
...
2.5. Các công cụ cạnh tranh chủ yếu
2.5.1. Cạnh tranh bằng giá cả
Quy luật giá trị đã chỉ ra rằng: Với cùng một sản phẩm có chất lượng như nhau, nếu sản phẩm nào có giá thấp hơn thì sẽ giành được lợi thế cạnh tranh hơn so với các sản phẩm cùng loại, do vậy giá cả là một công cụ trong những công cụ cạnh tranh hữu hiệu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể sử dụng công cụ cạnh tranh này qua các chính sách đặt giá như:
- Cạnh tranh bằng cách đặt giá cao: Được sử dụng khi doanh nghiệp có một lợi thế đặc biệt hay độc quyền trong việc cung ứng hàng hoá. Hoặc khi các sản phẩm mới được đưa ra lần đầu tiên, trên thị trường chưa có sản phẩm thay thế nên khách hàng khó so sánh hoặc khi cầu thị trường lớn hơn cung.
- Cạnh tranh bằng cách đặt giá thấp: Đặt giá thấp không có nghĩa là bán phá giá mà doanh nghiệp phải lấy mức giá hoà vốn làm căn cứ. Công cụ này được áp dụng nhằm đánh bại các đối thủ cạnh tranh khi áp lực cạnh tranh về giá cao. Muốn vậy, doanh nghiệp phải tìm cách giảm chi phí sản xuất.
- Cạnh tranh bằng mức giá linh hoạt: Tức là doanh nghiệp đưa ra những mức giá khác nhau cho những thị trường khác nhau khi giữa các thị trường có những điều kiện khác biệt.
- Cạnh tranh bằng cách bán phá giá: Tức là bán với giá thấp hơn giá thị trường, thậm chí còn thấp hơn giá thành sản phẩm. Nó được sử dụng trong những trường hợp như: Bán hàng tồn kho để thu hồi vốn, hoặc muốn đánh bại đối thủ đáng gờm trong trường hợp doanh nghiệp có tiềm lực tài chính. Bán phá giá không được khuyến khích sử dụng vì nó có thể gây những biến động xấu cho nền kinh tế, gây ra cạnh tranh không lành mạnh.
2.5.2. Cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm được thể hiện qua các chỉ tiêu như: tính kỹ thuật, tính thẩm mỹ, tính kinh tế, độ an toàn... Chất lượng sản phẩm ngày càng trở thành một công cụ cạnh tranh hữu hiệu của doanh nghiệp. Đặc biệt, khi mà thu nhập và đời sống dân cư ngày càng cao thì phương thức cạnh tranh bằng giá tỏ ra không hiệu quả. Chất lượng sản phẩm và dịch vụ sẽ là mối quan tâm hơn đối với khách hàng, bởi vậy, một sản phẩm chất lượng thấp dù giá rẻ cũng không thể tiêu thụ được, ngược lại, một sản phẩm dù mức giá cao hơn một chút nhưng có chất lượng cao hơn lại dễ dàng tiêu thụ hơn. Khi mà khoa học ngày càng phát triển làm cho vòng đời của sản phẩm ngắn hơn, các sản phẩm cũ nhanh chóng bị thay thế bởi những sản phẩm với những tính năng hoàn thiện hơn thì chất lượng trở thành một công cụ hữu hiệu để thành công trong cạnh tranh.
2.5.3. Cạnh tranh bằng việc cung cấp các hoạt động dịch vụ
Trong cuộc sống ngày nay, khi mà cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt, những đòi hỏi của người tiêu dùng ngày càng cao, chất lượng và giá cả của các doanh nghiệp tương đối đồng đều thì để tạo được nét khác biệt, các doanh nghiệp phải quan tâm đến phương thức cạnh tranh bằng cung cấp dịch vụ như: bảo hành, sửa chữa miễn phí, khuyến mại, giao hàng tận nơi... Các dịch vụ hoàn hảo sẽ làm tăng sự hài lòng của khách hàng, tạo được hình ảnh đẹp về doanh nghiệp trong lòng khách hàng. Bởi vậy, khi cuộc sống ngày càng phát triển thì hình thức cạnh tranh thông qua việc cung cấp các dịch vụ tỏ ra rất hiệu quả6.Tham khảo giáo trình Khoa học quản lý, Tập I, NXB Khoa Học và Kỹ Thuật, 2001, tr. 361-362;
Giáo trình chiến lược kinh doanh, NXB Thống Kê, HN - 1999, tr. 107 - 121.
.
Để có thể thành công trong cạnh tranh, các doanh nghiệp cần phải rất linh hoạt trong lựa chọn công cụ cạnh tranh và cần phải phối hợp nhiều công cụ để có thể tạo ra sức mạnh tổng hợp.
3. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
3.1. Khái niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Có rất nhiều quan niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhưng quan niệm cho rằng “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thể hiện thực lực và lợi thế của nó so với các đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách hàng, tồn tại và vươn lên trên thị trường cạnh tranh trong nước và quốc tế về một hay một hay nhiều sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp để thu được lợi ích ngày càng cao cho doanh nghiệp mình” có lẽ là phù hợp hơn cả.
Xuất phát điểm của năng lực cạnh tranh là lợi thế cạnh tranh - nghĩa là khả năng sản xuất và cung cấp sản phẩm tốt hơn đối thủ. Tuy nhiên không pbải những gì doanh nghiệp hơn đối thủ đều là lợi thế cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh trước hết phải là yếu tố thành công cơ bản, gắn liền với nhu cầu của khách hàng, đồng thời là điểm mạnh của doanh nghiệp và luôn so sánh với đối thủ. Vì thế điều sống còn đối với mỗi doanh nghiệp là phải hiểu rất rõ lợi thế cạnh tranh của mình là gì, bắt nguồn từ đâu và làm thế nào để duy trì và phát triển lợi thế cạnh tranh đó.
3.2. Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
3.2.1. Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp
Chiến lược của doanh nghiệp xác định lĩnh vực mà doanh nghiệp hoạt động, mục tiêu và kỳ vọng trong lĩnh vực đó. Trên cơ sở đó thì đề ra cách thức phân bổ nguồn lực để có thể đạt được mục tiêu đã đề ra. Một doanh nghiệp nếu xây dựng được chiến lược đúng đắn sẽ cho phép nó xác định đúng hướng đi của mình, sử dụng một cách hiệu quả các nguồn lực để có thể tạo ra những lợi thế so với đối thủ cạnh tranh và cho phép thành công trong cạnh tranh.
3.2.2. Quy mô của doanh nghiệp
Quy mô của doanh nghiệp là một nhân tố quan trọng quyết định đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có lợi thế quy mô như có nguồn tài chính vững mạnh, số lượng đông đảo nhân viên có năng lực, thị phần lớn sẽ có năng lực cạnh tranh cao. Doanh nghiệp có thể sử dụng lợi thế quy mô để tạo ra rào cản ngăn cản các đối thủ cạnh tranh xâm nhập thị trường, mở rộng thị trường, khẳng định vị thế của mình trên thị trường.
3.2.3. Năng suất lao động
Năng suất lao động cũng là một nhân tố quan trọng cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Năng suất lao động chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như văn hoá tổ chức, công nghệ của doanh nghiệp, hiệu quả của công tác quản lý nhân sự... Năng suất của doanh nghiệp cao sẽ làm tăng sản lượng, tiết kiệm thời gian, giảm chi phí, hạ giá thành dẫn đến nâng cao năng lực cạnh tranh về giá của doanh nghiệp.
3.2.4. Sản phẩm kinh doanh của doanh nghiệp
+ Chất lượng và giá cả sản phẩm
Như đã nói ở trên, cả chất lượng và giá cả đều là những công cụ hữu hiệu để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Chúng luôn đi liền với nhau, nếu sản phẩm của doanh nghiệp có chất lượng bảo đảm với giá mà thị trường có thể chấp nhận được thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ cao. Tuy vào từng loại thị trường, loại sản phẩm, khách hàng... mà doanh nghiệp kinh doanh mà doanh nghiệp nên chú trọng chất lượng hay giá cả hoặc cả hai để có thể tạo được năng lực cạnh tranh tốt nhất cho mình.
+ Tính đa dạng và khác biệt của sản phẩm
Trong kinh doanh hiện đại, khi mà điều kiện thị trường phức tạp, hay thay đổi, cạnh tranh gay gắt thì rất hiếm doanh nghiệp kinh doanh một loại sản phẩm vì như vậy sẽ khó tránh khỏi rủi ro. Do đó, các doanh nghiệp thường lựa chọn chiến lược đa dạng hoá sản phẩm, nó cho phép doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng, giảm bớt rủi ro, tăng uy tín của doanh nghiệp. Mặt khác, các doanh nghiệp cố gắng tạo ra cho sản phẩm của mình những tính năng nổi trội, độc đáo để tăng sự hấp dẫn, từ đó tăng năng lực cạnh tranh của mình. Do đó, tính đa dạng và khác biệt của sản phẩm cũng là một nhân tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
3.2.4. Vị thế của doanh nghiệp trên thị trường
Vị thế của doanh nghiệp biểu hiện ở thị phần, sức mạnh và khả năng chi phối của doanh nghiệp trên thị trường. Nó cho phép doanh nghiệp thực hiện một cách thuận lợi các biện pháp cạnh tranh của mình và khả năng ảnh hưởng đến khách hàng, các đối tác cũng như các đối thủ cạnh tranh. Vị thế của doanh nghiệp càng cao thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp càng cao.
3.3. Các chỉ tiêu cơ bản đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
3.3.1. Thị phần của doanh nghiệp
Thị phần là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh thế mạnh trên thị trường của một doanh nghiệp. Thị phần lớn tạo điều kiện cho doanh nghiệp hạ thấp chi phí sản xuất do lợi thế về quy mô, đồng thời củng cố lòng tin của khách hàng.
Doanh thu của doanh nghiệp
Thị phần của doanh nghiệp = -------------------------------------- x 100
Tổng doanh thu của toàn ngành
Chỉ tiêu càng lớn phản ánh vị trí càng cao của doanh nghiệp trong ngành.
3.3.2. Tốc độ tăng doanh thu
Tốc độ tăng doanh Tốc độ tăng doanh thu của doanh nghiệp
thu của DN so với = -------------------------------------------------------- x 100
đối thủ cạnh tranh Tốc độ tăng doanh thu của đối thủ cạnh tranh
Nếu chỉ tiêu này lớn hơn 1 thì chứng tỏ doanh thu của doanh nghiệp tăng nhanh hơn doanh thu của đối thủ cạnh tranh, do đó doanh nghiệp có thể có năng lực cạnh tranh cao hơn đối thủ cạnh tranh và ngược lại, nếu chỉ tiêu này nhỏ hơn 1 thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thấp hơn đối thủ cạnh tranh.
3.3.3. Tỷ suất lợi nhuận
Lợi nhuận của doanh nghiệp
Tỷ suất lợi nhuận = ------------------------------------ x 100
Doanh thu của doanh nghiệp
Chỉ tiêu này cho thấy nếu thu được 100 đồng doanh thu thì sẽ có bao nhiêu đồng lợi nhuận trong đó. Nếu chỉ tiêu này cao chứng tỏ DN làm ăn hiệu quả đồng thời phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là cao7. Giáo trình Phân tích kinh doanh, NXB Giáo dục, tr.187.
.
3.3.4. Tỷ trọng chi phí
Tổng chi phí
Tỷ trọng chi phí = ---------------------- x 100
Tổng doanh thu
Chỉ tiêu này phản ánh để thu được 100 đồng doanh thu thì phải mất bao nhiêu đồng chi phí. Nếu chỉ tiêu này quá cao thì chứng tỏ doanh nghiệp có thể sử dụng nguồn lực là chưa hiệu quả và cần có biện pháp giảm chi phí để tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp8. Giáo trình Phân tích kinh doanh, NXB Giáo dục,tr. 262.
.
3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
3.4.1. Các nhân tố thuộc môi trường bên ngoài
Các nhân tố thuộc môi trường bên ngoài là các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp, có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chúng tạo ra những cơ hội cũng như thách thức cho doanh nghiệp. Môi trường bên ngoài gồm:
* Môi trường vĩ mô
* Môi trường vi mô (môi trường ngành)
a. Môi trường vĩ mô
Môi trường vĩ mô của doanh nghiệp là tổng hợp các nhân tố kinh tế, chính trị - pháp luật, văn hoá - xã hội, tự nhiên, công nghệ, tự nhiên... Các nhân tố có thể tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới doanh nghiệp và doanh nghiệp không thể thay đổi nó mà cần phải biết thích nghi một cách sáng tạo.
* Môi trường kinh tế: Tỷ lệ lạm phát, tỷ giá hối đoái, lãi suất, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng, tốc độ tăng trưởng kinh tế... Chúng có ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
* Môi trường chính trị - pháp luật: Luật doanh nghiệp, chính sách thuế, các quan điểm, đường lối của nhà nước... ngày càng có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của doanh nghiệp. Một thể chế chính trị ổn định, pháp luật rõ ràng sẽ tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh và ngược lại.
* Môi trường khoa học công nghệ: Khi mà khoa học công nghệ ngày càng phát triển thì nó sẽ tạo ra những cơ hội cũng như những nguy cơ cho các doanh nghiệp. Cho phép các doanh nghiệp ứng dụng những khoa học hiện đại để tạo ra các sản phẩm có sức cạnh tranh lớn và ngược lại nó cũng có thể làm cho công nghệ hiện tại của doanh nghiệp trở nên lỗi thời.
* Môi trường văn hoá - xã hội: Các yếu tố văn hoá - xã hội như phong tục tập quán, lối sống, thói quen... có ảnh hưởng đến việc tiêu dùng của khách hàng. Nếu doanh nghiệp có sự hiểu biết và thích nghi sáng tạo về môi trường văn hoá - xã hội có thể tạo ra cho mình năng lực cạnh tranh cao hơn so với đối thủ.
* Môi trường tự nhiên: Đó là các tài nguyên thiên nhiên, đất đai, khoáng sản, nước... Nếu doanh nghiệp nào có thể khai thác hiệu quả, hợp lý các tài nguyên thiên nhiên thì có thể tạo dựng được cho mình năng lực cạnh tranh cao.
* Môi trường quốc tế: Là các tiêu chuẩn kinh doanh của quốc tế, thông lệ quốc tế... Khi mà hội nhập ngày càng mở rộng thì nó mở ra cho các doanh nghiệp cơ heir và những thách thức, do đó có thể làm tăng hoặc giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
b. Môi trường vi mô
So với môi trường vĩ mô, môi trường vi mô có tác động trực tiếp tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong ngành.
Theo M.Porter thì có 5 lực lượng chính có ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
* Đối thủ cạnh tranh trực tiếp: Đó là những doanh nghiệp cùng tạo ra và cung ứng một loại sản phẩm trên cùng một thị trường giống doanh nghiệp. Cạnh tranh với các đối thủ trực tiếp thường là gay gắt nhất. Nếu đối thủ cạnh tranh có tiềm lực lớn hơn so với doanh nghiệp thì sẽ là mối đe doạ lớn đối với doanh nghiệp. Doanh nghiệp muốn thắng được các đối thủ cạnh tranh thì cần phải nghiên cứu về họ thật thận trọng để có thể đưa ra những chiến lược tác chiến hợp lý.
* Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn: Đó là những người có dự tính sắp gia nhập thị trường, những người mới gia nhập. Sự xuất hiện đối thủ cạnh tranh tiềm năng làm cho cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn, có thể là yếu tố làm thu hẹp thị phần, giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.
* Những nhà cung cấp: Đó là những người cung ứng những đầu vào cho doanh nghiệp. Nhà cung ứng có thể áp lực mạnh cho doanh nghiệp về giá, khối lượng khiến giá thành sản phẩm của doanh nghiệp cao do đó có thể làm giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp cần phải lựa chọn cho mình nhà cung ứng tốt nhất với giá cả và khối lượng ổn định.
* Khách hàng: Khách hàng là người có ảnh hưởng lớn đến sự thành công của doanh nghiệp. Nếu khách hàng ép giá, giảm khối lượng mua, yêu cầu chất lượng cao hơn mà mức giá như cũ hay yêu cầu cung cấp nhiều dịch vụ hơn hoặc từ bỏ doanh nghiệp để lựa chọn doanh nghiệp khác thì có thể làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp, giảm sự cạnh tranh của doanh nghiệp so với những đối thủ cạnh tranh. Do đó, doanh nghiệp muốn thành công thì phải tạo dựng được lòng tin nơi khách hàng bằng cách thoả mãn tốt nhu cầu, thị hiếu... của khách hàng.
* Sản phẩm thay thế: Khi giá cả mặt hàng mà doanh nghiệp cung ứng cao thì khách hàng có xu hướng sử dụng các sản phẩm thay thế. Nó có thể làm giảm thị phần và làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp9. Tham khaỏ: Chiến lược chính sách và kinh doanh, NXB Thống Kê, 1997, tr. 41 - 71.
.
3.4.2. Các nhân tố thuộc môi trường bên trong
Đó là những tiềm lực mà doanh nghiệp sử dụng để tạo ra những lợi thế cạnh tranh so với đối thủ cạnh tranh.
* Nguồn nhân lực: Yếu tố con người có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có đội ngũ công nhân viên lành nghề, giàu kinh nghiệm, nhiệt tình với công việc, đoàn kết, trung thành với doanh nghiệp thì đó sẽ là cơ sở làm tăng năng suất cho doanh nghiệp, giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Đồng thời doanh nghiệp có đội ngũ cán bộ quản lý có năng lực, có đức hạnh, nghị lực, nhạy bén với cơ chế thị trường sẽ giúp doanh nghiệp có chiến lược cạnh tranh đúng đắn, dẫn dắt doanh nghiệp đi tới được mục tiêu mà doanh nghiệp đã đặt ra.
* Nguồn tài chính của doanh nghiệp: Vốn là một nhân tố không thể thiếu trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời nó cũng là một nhân tố quyết định tạo dựng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Nếu doanh nghiệp có quy mô tài chính lớn, khả năng huy động vốn tốt, chi phí huy động vốn thấp, cơ cấu tài chính hợp lý, phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn vốn sẽ cho phép doanh nghiệp theo đuổi những chiến lược lâu dài, thích ứng với những điều kiện biến động... và dành thắng lợi trong cạnh tranh.
* Công nghệ - kỹ thuật của doanh nghiệp: Công nghệ - kỹ thuật của doanh nghiệp là một yếu tố trực tiếp ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng của sản phẩm. Do đó, nó có ảnh hưởng lớn đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiêp có máy móc với công nghệ hiện đại, cập nhật, sẽ cho phép doanh nghiệp tăng năng suất, chất lượng sản phẩm.
* Cơ cấu tổ chức: Nếu doanh nghiệp có một cơ cấu thích hợp và linh hoạt sẽ cho phép doanh nghiệp nâng cao hiệu quả kinh doanh và có khả năng ứng biến với những sự thay đổi của môi trường.
* Văn hoá doanh nghiệp: Doanh nghiệp mà có bầu không khí và nề nếp tổ chức tốt, phát triển được các mối quan hệ phi chính thức tốt đẹp của doanh nghiệp, ban lãnh đ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KTO012.doc