Phần Một Lời nói đầu
T
nước. Một trong những lĩnh vực không thể thiếu giúp cho nền kinh tế có được một tốc độ phát triển nhanh và ổn định đó là phát triển ngành sản xuất công nghiệp. Việt Nam với nền tảng phát triển là một nền nông nghiệp lạc hậu, cơ sở hạ rong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, đã buộc chúng ta phải đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất tầng thấp kém, cộng thêm áp lực dân số thì những ngành có hàn lượng khoa học kỹ thuật thấp như ngành công nghiệp nhẹ
71 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1388 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác Xuất khẩu tại Công ty Dệt Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong công nghiệp chế biến mà đặc biệt là công nghiệp dệt may.
Thực tế trong những năm vừa qua, đã khảng định vị thế của ngành Dệt may Việt Nam, là một trong những ngành xuất khẩu mang lại nguồn thu ngoại tệ chủ yếu cho quá trình công nghiệp hoá đất nước. Ngành dệt may cũng là một trong những ngành đạt chỉ tiêu tổng kim ngạch trên một tỷ USD của Việt Nam là ngành đứng thứ hai về tổng kim ngạch xuất khẩu trong những năm qua. Tuy nhiêm, cùng với sự phát triển đi lên của ngành dệt may thì những doanh nghiệp trong nước tham gia vào hoạt động xuất khẩu trong đó có công ty Dệt Hải Phòng cũng bộc lộ không ít những khuyết điểm mà trong thời gian tới cần có biện pháp khác phục.
Trong quá trình thực tập, tìm hiểu hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá tại Công Ty Dệt Hải Phòng với sự giúp đỡ của Ban lãnh đạo, các phòng ban trong Công ty, cùng với sự nghiên cứu nghiệp vụ có chọn lọc cũng như ý muốn đóng góp một phần nhỏ kiến thức của mình vào giải quyết những khó khăn trong công ty, tôi đã chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác xuất khẩu tại Công Ty Dệt Hải Phòng” với kết cấu của luận văn bao gồm các phần:
Chương I: Một số vấn đề lý luận chung về hoạt động xuất khẩu.
Chương II : Thực trạng xuất khẩu tại Công Ty Dệt Hải Phòng .
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu tại Công Ty Dệt Hải Phòng .
Phần Hai phần nội dung
chương I:
Một số vấn đề lý luận chung về hoạt động xuất khẩu
I. Vai trò của hoạt động xuất khẩu
1. Vị trí của hoạt động xuất khẩu trong doanh nghiệp.
X
uất khẩu là việc cung cấp hàng hoá hoặc dịch vụ cho nước ngoài trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Cơ sở của hoạt động xuất khẩu là hoạt động mua bán và trao đổi hàng hoá (Bao gồm cả hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô hình) trong nước. Như vậy, Xuất khẩu là hoạt động tiêu thụ hàng hoá nhưng nó vượt qua khỏi biên giới quốc gia.
(T-H) Đối tượng lao động
Đứng trên góc độ của quá trình sản xuất kinh doanh thì xuất khẩu là một khâu quan trọng và là mục tiêu của sản xuất kinh doanh. Xuất khẩu làm tăng hiệu quả của sản xuất kinh doanh, nếu tổ chức tốt sẽ kích thích sản xuất góp phần làm phát triển doanh nghiệp. Trong quá trình vận động của vốn (tiền) xuất khẩu cũng như tiêu thụ vừa là giai đoạn cuối cùng vừa là giai đoạn kết thúc của quá trình tái sản xuất này để tiếp tục vận động sang một quá trình sản xuất khác trong vòng tuần hoàn vốn.
(T-H) Đối tượng lao động
Tư liệu lao động
Quá trình sản xuất Quá trình tiêu thụ (xuất khẩu)
Trong đó T: Tiền H: Hàng
ở tầm vĩ mô : Để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc đẩy mạnh xuất khẩu, Nhà nước còn tạo điều kiện môi trường pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động bằng các chính sách khuyến khích như: chính sách đầu tư, chính sách ưu đãi, các hàng rào thuế quan, phi thuế quan ...thông qua đó để điều tiết các ngành kinh tế mũi nhọn góp phần vào công cuộc Hiện đại hoá đất nước.
2. vai trò của xuất khẩu
- Xuất khẩu là một khâu trong quá trình tái sản xuất xã hội và có các chức năng chủ yếu sau:
+ Tạo vốn cho quá trình đầu tư trong nước bởi xuất khẩu tạo ra nguồn thu ngoại tệ chủ yếu cho quốc gia.
+ Chuyển hoá giá trị sử dụng, làm thay đổi cơ cấu giá trị sử dụng của tổng sản phẩm xã hội.
+ Góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế bằng việc tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh .
- Xuất khẩu thực hiện chức năng lưu thông hàng hoá từ trong nước sang các nước khác và có vai trò chủ yếu sau:
+ Nâng cao hiệu quả kinh doanh, thúc đẩy quá trình Công nghiệp hoá đất nước. Trong nền kinh tế mở, xuất khẩu còn được sử dụng như một công cụ thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế ở trong nước và nước ngoài, thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế nội bộ trong nước thông qua các hoạt động xuất khẩu .
+ Góp phần giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng của đất nước: vốn, việc làm, sử dụng tài nguyên có hiệu quả. ở nước ta hiện nay, nền kinh tế còn lạc hậu việc xuất khẩu chủ yếu là tài nguyên thô hoặc qua sơ chế và các sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản, tỷ trọng hàng công nghiệp chưa cao.Trong đó chủ yếu là các mặt hàng mang tính lao động thuần tuý như các sản phẩm dệt may, thủ công mỹ nghệ...
+ Đảm bảo sự thống nhất giữa nền kinh tế và chính trị trong hoạt động xuất khẩu. Nền kinh tế quốc tế cũng như nền kinh tế ở mỗi nước vận động theo nhiều xu hướng chung và cũng có nhiều lợi ích giống nhau, song cũng có những tiềm năng và những xu hướng bất ổn, cho nên sức mạnh của một nền kinh tế nền tảng phải là sự độc lập chủ quyền an ninh quốc gia. Đối với nước ta cần phát huy hết lợi thế có sẵn và tạo ra những chỗ đứng mới trên những thị trường ổn định.
II. các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu
Công tác xuất khẩu liên quan đến nhu cầu thị trường, tập quán tiêu dùng trong và ngoài nước cũng như các chính sách thuế quan, phi thuế quan của nhà nước ở các mức độ khác nhau trong đó gồm:
1.các nhân tố khách quan
1.1 Yếu tố cung cầu của thị trường .
ở mỗi thị trường nhu cầu sản phẩm thường rất khác nhau về chất lượng, quy cách cũng như mẫu mã. Do đó đòi hỏi mỗi doanh nghiệp khi muốn thâm nhập vào thị trường nào cần phải nghiên cứu kỹ đặc điểm tiêu dùng của thị trường đó.
Vi dụ: Nhật Bản được coi là một trong những nước trên thế giới đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao nhất, gồm cả độ bền và khả năng hoạt động. Thị hiếu của người tiêu dùng chủ yếu bắt nguồn từ truyền thống và điều kiện của Nhật Bản. Đây là yếu tố quan trọng trong việc quyết định tiêu dùng sản phẩm hàng hoá. Do khủng hoảng kinh tế gần đây nên người tiêu dùng Nhật Bản thích mua hàng hoá có giá trị hợp lý. Tuy nhiên xét về mặt chất lượng hàng hoá tiêu dùng thì người Nhật Bản đòi hỏi cao nhất trên thế giới....
Sau khi nắm vững các thói quen, tập quán tiêu dùng ở mỗi thị trường doanh nghiệp phải có chiến lược cạnh tranh một cách hoàn hảo. Thị trường ở mỗi nước có thể biến động tuỳ theo thu nhập của người dân, tập quán, thị hiếu tiêu dùng cũng như những biến động ở từng thời kỳ.
1.2 Yếu tố về hàng rào thuế quan, phi thuế quan.
Thuế quan là loại thuế gián thu đánh vào hàng hoá khi qua cửa khẩu của một nước.Trên thực tế khi đánh thuế có hai mục đích: có thể là mục đích tài chính và cũng có thể là mục đích bảo hộ. Cả hai mục đích này đều có ảnh hưởng to lớn đến việc xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp vào một nước khác.
Thuế quan tài chính thông thường đánh vào những hàng hoá xuất khẩu có lợi nhuận cao hay những hàng hoá không được khuyến khích .
Thuế quan bảo hộ chủ yếu đánh vào những hàng hoá nhập khẩu, làm tăng giá của hàng nhập để hàng hoá trong nước có ưu thế hơn về giá cả so với đối thủ cạnh tranh. Thuế quan bảo hộ là công cụ sắc bén tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước tăng nhanh sản xuất.
Khi nhà nước tăng thuế nhập khẩu, thông thường sẽ làm cho khối lượng hàng hoá nhập khẩu giảm do giá hàng tăng hạn chế tiêu dùng. Nhưng trong một số trường hợp sẽ làm cho giá cả hàng hoá trên thị trường tăng lên mà số lượng hàng nhập khẩu lại không giảm, và ngược lại.
Khi thuế suất xuất khẩu tăng sẽ hạn chế xuất khẩu do giá bán hàng hoá ra thị trường cao không đủ sức cạnh tranh với hàng nước khác. Biện pháp này nhà nước thường áp dụng với những hàng hoá không khuyến khích xuất khẩu. và ngược lại.
Trên thực tế, thuế quan bảo hộ không phải bao giờ cũng có tác dụng hạn chế nhập khẩu. Cho nên ngoài biện pháp đó nhà nước còn dùng các biện pháp phi thuế quan khác để hạn chế nhập khẩu, chúng gồm:
+ Quản lý hàng nhập khẩu bằng hạn ngạch: Biện pháp này nhằm chống lại những nhà sản xuất lớn có khả năng cạnh tranh cao, nhằm ngăn chặn hàng nhập khẩu từ nước ngoài vào để bảo vệ thị trường trong nước hoặc nhằm cân bằng cán cân thanh toán, hoặc làm công cụ mặc cả trong các cuộc thương lượng, cũng có thể dùng để hạn chế nhập khẩu một số mặt hàng mang tính chiến lược của nền kinh tế xã hội. Ví dụ: như gạo ở Việt Nam hiện nay.
+ Giấy phép nhập khẩu: Tính chất kín đáo và bí mật của giấy phép cũng như thủ tục cấp giấy phép của chính quyền nhà nước cũng tạo khả năng hạn chế nhập khẩu nhằm bảo hộ hàng trong nước.
+ Một số biện pháp hạn chế nhập khẩu khác: Bên cạnh những biện pháp hạn chế nhập khẩu trực tiếp, Nhà nước còn dùng một số biện pháp gián tiếp nhằm ngăn cản việc nhập khẩu hàng hoá từ nước ngoài như: Biện pháp về vệ sinh thú y, vệ sinh thực phẩm, hoặc các tiêu chuẩn về kỹ thuật như tiêu chuẩn về kích thước, bao bì, những tiêu chuẩn về môi trường sinh thái.
Các yếu tố về thuế quan, phi thuế quan có ảnh hưởng rất lớn đến việc xuất khẩu của một doanh nghiệp vào một thị trường nước ngoài, cho nên trước khi thâm nhập hàng hoá vào một thị trường nào doanh nghiệp cần phải nghiên cứu kỹ chính sách thuế quan, phi thuế quan của nước đó.
1.3 Tín dụng xuất khẩu .
Tín dụng xuất khẩu tức là nhà nước dành cho người nước ngoài những khoản tín dụng để mua hàng nước mình. Nhà nước không chỉ trực tiếp can thiệp vào thị trường tín dụng mà còn tạo điều kiện tín dụng xuất khẩu ưu đãi hơn so với điều kiện tín dụng trong nước. Điều đó làm khả năng xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước tăng lên. Ngoài ra, Nhà nước đảm bảo gánh vác mọi rủi ro đối với khoản tín dụng mà doanh nghiệp xuất khẩu nước mình dành cho nhà nhập khẩu nước ngoài. Đây là phương tiện quan trọng đẩy mạnh việc tiêu dùng hàng hoá ở thị trường nước ngoài. Nó làm cho nhà xuất khẩu yên tâm và mở rộng xuất khẩu ra thị trường nước ngoài mà không sợ gặp sự rủi ro.
1.4 Yếu tố về tỷ gía hối đoái.
Trong tình hình nền kinh tế mở cửa, các mối quan hệ kinh tế ngày càng rộng thì việc thanh toán không chỉ là đơn vị tiền tệ trong nước mà còn phải sử dụng nhiều loại ngoại tệ khác nhau, từ đó phát sinh nhu cầu tất yếu phải so sánh giá trị, so sánh sức mạnh đồng tiền trong nước và đồng ngoại tệ, đó là tỷ giá hối đoái. Như vậy, tỷ giá hối đoái dùng để biểu hiện và so sánh những quan hệ về giá cả giữa các đồng tiền một nước được biểu hiện qua đơn vị tiền tệ của nước khác. Do đó hoạt động xuất khẩu chịu ảnh hưởng rất lớn của tỷ giá hối đoái. Ví dụ như khi tỷ giá hối đoái tăng nghĩa là giá trị đồng nội tệ giảm so với đồng ngoại tệ sẽ khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu và ngược lại khi tỷ giá hối đoái giảm thì sẽ tăng nhập khẩu và hạn chế xuất khẩu.
2-các nhân tố chủ quan
2.1 Năng lực tổ chức và trình độ cán bộ làm xuất khẩu:
Đây là một yếu tố rất quan trọng có tính quyết định rất lớn trong quá trình nâng cao doanh thu bán hàng cũng như tìm kiếm lợi nhuận, nó bao gồm các khâu tổ chức tiêu thụ sản phẩm, tiếp thị, chính sách bán hàng.
Trình độ của cán bộ làm công tác xuất khẩu sẽ giúp cho doanh nghiệp giảm các rủi ro trong quá trình thực hiện các công tác đàm phán ký kết hợp đồng, cũng như tác nghiệp trong quá trình thực hiện hợp đồng. Thực tế hiện nay trong một số doanh nghiệp đội ngũ cán bộ làm công tác tác nghiệp vừa yếu cả về chuyên môn lẫn ngoại ngữ, nên điều dễ hiểu là nhiều hợp đồng xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam ký với nước ngoài bị rất nhiều sơ hở, yếu kém làm thua thiệt cho phía Việt Nam. Chính vì vậy, việc tổ chức và nâng cao trình độ của cán bộ làm công tác xuất khẩu rất cần thiết cho các doanh nghiệp.
2.2./ Công nghệ và thiết bị công nghệ.
Công nghệ bao gồm cả công tác công nghệ và phương tiện kỹ thuật được ký kết với nhau theo hình thức thích hợp, trong đó máy móc thiết bị kỹ thuật là phương tiện kỹ thuật để thực hiện phương pháp công nghệ.
Dây chuyền công nghệ và máy móc thiết bị ảnh hưởng rất lớn tới cơ cấu của sản xuất, đồng thời nó quyết định tới chất lượng sản phẩm và việc thay đổi cải tiến sản phẩm. Ngoài ra nó còn thúc đẩy việc tăng năng suất lao động. Khi máy móc thiết bị của doanh nghiệp hiện đại, phù hợp với năng lực hiện có của mình thì sẽ làm cho hàng hoá có chất lượng cao, mẫu mã đẹp... và ngược lại với trường hợp máy móc thiết bị lạc hậu hoặc quá hiện đại không thể áp dụng sẽ làm cho hàng hoá sản xuất ra không tiêu thụ được. Như vậy có thể kết luận là trình độ và khả năng công nghệ là một loại vũ khi sắc bén để thành công trong cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trên thị trường. Một dây chuyền công nghệ và máy móc thiết bị lạc hậu không thể sản xuất được những sản phẩm có chất lượng cao, có nhiều tính năng đáp ứng được nhu cầu đa dạng của thị trường.
2.3./ Trình độ lành nghề và bậc thợ của công nhân.
Trình độ tay nghề của công nhân phản ánh tính chất chuyên môn hoá, trình độ thành thạo nghề nghiệp. Nếu trình độ người làm công tác xuất khẩu kém sẽ làm cho doanh nghiệp thua thiệt trong đàm phán ký kết hợp đồng cũng như thực hiện hợp đồng xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp. Không những thế nếu trình độ nghề nghiệp của công nhân cao hơn mức yêu cầu của công việc được bố trí sẽ gây lãng phí trong việc sử dụng lao động, và ngược lại sẽ ảnh hưởng đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Cho nên vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải bố trí được một cơ cấu lao động tối ưu nhằm sử dụng có hiệu qua nguồn lao động đồng thời phải thường xuyên tổ chức công tác đào tạo tay nghề cho cán bộ công nhân viên, và luôn luôn coi đó là nhiệm vụ thường xuyên của mọi doanh nghiệp.
2.4./ Giá sản phẩm.
Giá sản phẩm là biểu hiện tổng hợp của nhiều mối quan hệ kinh tế trên thị trường (Vấn đề cung cầu, lưu thông tiền tệ). Chính vì vậy mà giá thành sản phẩm ảnh hưởng rất lớn tới khối lượng hàng hoá xuất khẩu và lợi nhuận của các doanh nghiệp. Muốn có một sản phẩm có giá trị cạnh tranh tốt đồng thời có lợi nhuận phù hợp thì đòi hỏi doanh nghiệp phải có một giá bán thích hợp với thị trường. Muốn xác định giá bán này doanh nghiệp phải căn cứ vào giá bình quân của giá thị trường, giá đó được tính như sau:
Sản lượng bình quân
Sản lượng
Giá bình quân
Cung
Cầu
Giá
Nếu giá bán cao hơn giá bình quân của thị trường thì sản phẩm - hàng hoá có thể bán được với số lượng ít thậm chí không bán được một sản phẩm nào.
Nếu bán với giá thấp hơn giá bình quân thì lợi nhuận của doanh nghiệp có thể bị giảm xuống hoặc không có lợi nhuận (lỗ vốn).
Từ đó ta thấy muốn bán giá thấp hơn mà không ảnh hưởng tới lợi nhuận, doanh nghiệp phải tăng doanh số bán hàng, ngoài ra phải phấn đấu giảm chi phí các yếu tố đầu vào như tiết kiệm vật tư, tăng năng suất lao động, hạn chế phế phẩm, hoàn thiện bộ máy quản lý, thay đổi quy trình công nghệ.
- Chất lượng hàng hoá và mẫu mã sản phẩm được người tiêu dùng rất quan tâm tuỳ thuộc vào thị trường mỗi nước. Các loại mẫu mã và chất lượng sản phẩm tuỳ thuộc vào tập quán người tiêu dùng theo lứa tuổi.
Do mức thu nhập bình quân ở mỗi nước là rất khác nhau nên thông thường ở các nước càng phát triển thì sự đòi hỏi về mẫu mã, chất lượng càng cao và càng khắt khe.
2.5./ Các biện pháp về hỗ trợ xuất khẩu.
Biện pháp hỗ trợ xuất khẩu bao gồm các hoạt động quảng cáo khuyết trương, tiếp thị thông qua phương tiện thông tin đại chúng, hội chợ triển lãm. Đây thực sự là một hoạt động rất cần thiết để mở rộng thị trường xuất khẩu. Thực chất của hoạt động này là tạo ra và sắp xếp các mối quan hệ trong kinh doanh vào một hệ thống đồng thời giải quyết các mối quan hệ đó, kích thích động viên người tiêu dùng mua hàng. Làm tốt công việc này doanh nghiệp sẽ đem lại :
+ Thế lực trong kinh doanh, tạo nhu cầu mới, tạo uy tín cho sản phẩm đối với người tiêu dùng.
+ Tăng doanh số bán hàng, giảm lượng hàng hoá tồn kho, ứ đọng không cần thiết.
+ Hỗ trợ công tác bán hàng xuất khẩu .
+ Kích thích nhu cầu tiêu dùng.
III. nội dung hoạt động xuất khẩu
1./ nghiên cứu thị trường .
Trong kinh doanh nói chung không thể tách sản xuất với lưu thông vì hai khâu này gắn liền với nhau, thúc đẩy nhau phát triển, một khâu trong quá trình kinh doanh bị ách tắc sẽ gây cản trở đối với các khâu khác trong cả một hệ thống. Một trong những nguyên nhân làm cho sản phẩm hàng hoá bị ứ đọng là do giá thành cao, chất lượng kém, giá cả không được người mua chấp nhận. Theo nhiều nhà kinh doanh có kinh nghiện thì ngay trong quá trình xây dựng kế hoạch sản xuất sản phẩm thì cũng đồng nghĩa với việc tiến hành nghiên cứu thị trường để khi hàng hoá được sản xuất ra tiêu thụ một cách thuận lợi. Như vậy không những phải tìm hiểu thị trường trong nước mà còn phải mở rộng ra nghiên cứu thị trường nước ngoài.
1.1./ Các phương pháp nghiên cứu thị trường nước ngoài.
Khi nghiên cứu thị trường cần phải sử dụng những phương pháp thích hợp cũng như những cán bộ có năng lực và thích hợp với chuyên ngành của họ. Có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau nhưng có hai phương pháp chủ yếu đó là phương pháp nghiên cứu thị trường nước ngoài thông qua nghiên cứu tại bàn làm việc và phương pháp nghiên cứu trực tiếp trên thị trường nước ngoài.
- Phương pháp nghiên cứu tại bàn làm việc là việc nghiên cứu thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như sử dụng các loại báo chí, tạp chí, các loại ấn phẩm thường là các tạp chí kinh tế xuất bản định kỳ hoặc không định kỳ, các loại sách chuyên khảo, các bản thống kê, các thông báo của các công ty môi giới. Phương pháp này có ưu thế là chi phí thấp, tiết kiệm thời gian nhưng thông tin không cập nhập, dễ làm mất cơ hội trong kinh doanh.
- Nghiên cứu trực tiếp ở thị trường nước ngoài là cách nghiên cứu ngay tại thị trường tiêu thụ sản phẩm. Đây là phương pháp nghiên cứu rất phức tạp và tốn kém nhưng nó lại là phương pháp mang lại hiệu quả thiết thực nhất, mang lại thông tin cập nhập, giúp cho doanh nghiệp có thể chớp cơ hội để thành công trong cạnh tranh. Bởi nghiên cứu tiếp xúc trực tiếp với thị trường có thể tạo được các quan hệ trực tiếp với người mua hàng, bán hàng tìm hiểu và mua các mẫu hàng về để nghiên cứu sản xuất, xuất khẩu.
Ngoài ra các doanh nghiệp còn sử dụng các phương thức bán thử để tìm hiểu tình hình thị trường hàng hoá, qua đó người xuất khẩu có điều kiện nghiên cứu toàn diện. Phương pháp này sẽ tạo thuận lợi lâu dài nếu tìm được thị trường. Sau khi bán thử, thu thập thông tin về hàng của mình, cải tiến để xuất khẩu lớn hơn, phù hợp hơn .
1.2./ Các hình thức tổ chức nghiên cứu thị trường nước ngoài .
Trong công cuộc đổi mới cơ chế quản lý ở nước ta, việc đổi mới cơ chế xuất nhập khẩu là một hướng đi đúng đắn và quan trọng, việc nghiên cứu thị trường thế giới thể hiện sự hiểu biết về quy luật vận động của nó. Quy luật này thể hiện qua những biến đổi về nhu cầu, cung ứng giá cả hàng hoá cụ thể trên thị trường. Việc hiểu biết về quy luật của thị trường hàng hoá là để giải quyết những vấn đề liên quan như thái độ tiếp thu của người tiêu dùng, yêu cầu của thị trường đối với những hàng hoá mới sẽ được tiêu thụ, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, những biện pháp và hình thức thâm nhập, chiếm lĩnh thị trường.
Trong việc thực hiện chiến lược xuất khẩu sản phẩm hàng hoá cần phải xác định thị trường nào là thị trường trọng điểm, tiêu thụ nhiều sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp mình, và thị trường đó có cơ hội và những điều kiện thuận lợi để tăng khối lượng hàng xuất khẩu, thu được lợi nhuận cao hơn hay không? Ngoài ra, việc nghiên cứu thị trường nước ngoài còn phải thu thập những thông tin về các chế độ kiểm tra chất lượng sản phẩm hàng hoá theo từng bước. Trong việc giao dịch thương mại với các nước còn phải tìm hiểu rõ các chính sách về thuế quan và nhập khẩu của họ.
Sự cạnh tranh trên thị trường nói chung ngày càng gay gắt. Việc nghiên cứu thị trường còn phải xác định đầy đủ vị trí và sự hoạt động của đối thủ cạnh tranh, tức là đánh giá được khả năng kinh tế, khoa học kỹ thuật của các đối thủ cạnh tranh, đánh giá, xem xét các chiến lược thị trường, việc tổ chức, phục vụ khách hàng, chiến lược quảng cáo, cố vấn kỹ thuật, điều kiện bán hàng trên cùng thị trường của đối thủ cạnh tranh. Từ đó doanh nghiệp có thể xây dựng chiến lược xâm nhập thị trường thích hợp.
Việc nghiên cứu thị trường nước ngoài được vận dụng để xác định chiến lược kinh doanh nói chung và chiến thuật của người xuất khẩu hàng hoá trong hoạt động kinh tế đối ngoại nói riêng. Khi đã dự đoán được xu hướng phát triển của thị trường nước ngoài mà trước hết là xu hướng biến động về giá cả hàng hoá, người xuất khẩu cần xác định chiến lược kinh doanh như: Nếu giá cả hàng hoá có xu hướng tăng thì ta sẽ không bán ra vội vàng hoặc không bán hàng hoá với khối lượng lớn mà để cho mức tăng của giá cả đến một mức nhất định mới bán hàng thì như vậy doanh nghiệp mới thu được lợi nhuận cao trong những lúc giá cả hàng hoá có xu hướng tăng. Còn ngược lại, khi giá cả có xu hướng giảm thì phải nhanh chóng bán hàng để tránh tình trạng thua lỗ, và nhiều khi cần áp dụng những phương thức khác như bán hạ giá để bán với khối lượng lớn khi giá chưa kịp hạ.
Trong quá trình nghiên cứu thị trường nước ngoài, việc cần nắm vững những vấn đề quan trọng như: Làm cách nào để thâm nhập thị trường quốc tế, mở rộng quá trình tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá đã có sẵn trên thị trường truyền thống của doanh nghiệp. Nghiên cứu hàng hoá và dịch vụ để đẩy mạnh quá trình tiêu thụ hàng hoá mới, hoặc hàng hoá được đổi mới trên thị trường truyền thống và đẩy mạnh quá trình tiêu thụ hàng hoá có sẵn trên thị trường mới và nghiên cứu quá trình sản xuất có sản phẩm hàng hoá mới đưa ra tiêu thụ trên thị trường mới.
Việc nghiên cứu thị trường và công tác Marketing ngày nay đang giữ vị trí quan trọng trong điều kiện cạnh tranh giành thị trường gay gắt. Marketing trên thị trường nước ngoài thường hay được các công ty lớn quan tâm, họ coi đây là điều kiện tiên quyết trong việc giành thắng lợi trong cuộc chạy đua giành thị trường. Đối với đơn vị kinh doanh đối ngoại do rủi ro trên thị trường nước ngoài cao cho nên việc nghiên cứu thị trường nước ngoài có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
2- các hình thức xuất khẩu.
Chính sách giá cả cũng như tổ chức phương án xuất khẩu của doanh nghiệp có hai mục đích chính là tăng khối lượng hàng hoá bán ra và lợi nhuận thu về. Tuỳ theo từng thị trường, từng sản phẩm cụ thể, doanh nghiệp cần có những phương án bán hàng cũng như phương án xuất khẩu phù hợp với từng thị trường, từng nhóm khách hàng sao cho vừa linh hoạt vừa hiệu quả.
Việc lên phương án phân phối các kênh tiêu thụ về mặt lý luận cũng như thực tiễn cần phải có một phương án hợp lý mới mang lại hiệu quả kinh doanh to lớn trong công tác xuất khẩu. Không phải lúc nào doanh nghiệp cũng phải trực tiếp xuất khẩu mới mang lại hiệu quả kinh tế cao, mà theo kinh nghiệm ở một số nước phát triển cho thấy muốn đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá các doanh nghiệp sản xuất phải phối hợp chặt chẽ với các công ty môi giới bán hàng, các đại lý uỷ thác. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào mô hình quản lý, trình độ nghiệp vụ cũng như khả năng xúc tiến bán hàng mà mỗi doanh nghiệp có thể đồng thời tổ chức nhiều phương thức xuất khẩu khác nhau .
2.1./ Xuất khẩu trực tiếp.
Phương thức này thích hợp với những doanh nghiệp có mô hình sản xuất lớn. ở đây, doanh nghiệp tự tổ chức xuất khẩu với khách hàng nước ngoài không thông qua môi giới trung gian. Phương thức này có ưu điểm là doanh nghiệp có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với thị trường, với khách hàng. Do đó hiểu biết rõ nhu cầu về mẫu mã, chất lượng sản phẩm, các đòi hỏi về sự phù hợp giá cả, từ đó doanh nghiệp có những chính sách thay đổi một cách kịp thời về sản phẩm, về giá thành sao cho đáp ứng một cách kịp thời đầy đủ các đòi hỏi của người tiêu dùng vào từng thời điểm khác nhau trên những thị trường cụ thể. áp dụng phương thức này doanh nghiệp có thể tiết kiệm được chi phí bởi không phải mất chi phí trung gian do đó thu được lợi nhuận cao hơn. Tuy nhiên nó có nhược điểm là mạng lưới tiêu thụ hẹp, không độc quyền được thị trường, chịu rủi ro lớn.
2.2./ Xuất khẩu theo phương thức uỷ thác (Phương thức mua bán qua trung gian).
Việc xuất khẩu thông qua một đơn vị khác có điều kiện thuận lợi hơn trong việc tiến hành xuất khẩu (Trong trường hợp này đơn vị được uỷ thác phải là đơn vị được phép xuất nhập khẩu trực tiếp). Bán hàng qua đại lý thông thường có hai loại: Đại lý bán buôn và đại lý bán lẻ. Việc buôn bán hàng hoá xuất khẩu mang danh nghĩa của doanh nghiệp, doanh nghiệp phải trả một tỷ lệ % cho các đại lý trên cơ sở số hàng bán thực tế để đẩy mạnh doanh số bán hàng, thông thường có một số đại lý có thể vừa là đại lý bán buôn vừa là đại lý bán lẻ.
Đặc điểm của phương thức xuất khẩu qua uỷ thác hay qua đại lý là đều phải qua trung gian và phải mất một tỷ lệ hoa hồng nhất định. Vì vậy doanh nghiệp cần phải lựa chọn kênh phân phối cho phù hợp với khả năng của chính mình sao cho đạt hiệu quả cao nhất, tiết kiệm được chi phí, thu hồi vốn nhanh, doanh số bán hàng tăng, thị trường bán hàng được mở rộng thuận lợi trong quá trình xuất khẩu của mình.
2.3./ Tái xuất khẩu:
Tái xuất khẩu là hình thức giao dịch trong đó hàng hoá mua về được xuất khẩu đi để kiếm lời không phải để tiêu dùng trong nước.
Mua bán theo hình thức này góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu. Bởi không phải lúc nào hàng hoá cũng được xuất khẩu một cách trực tiếp, hoặc thông qua trung gian, như trường hợp bị cấm vận, bao vây kinh tế thì chỉ có thể sử dụng phương pháp tái xuất thì các nước mới có thể tham gia buôn bán được với nhau. Thêm vào đó nước tái xuất có thể kiếm lời thông qua chênh lệch giá mua và giá bán.
2.4./ Hình thức xuất khẩu thông qua gia công xuất khẩu.
Gia công xuất khẩu là hình thức một bên nhận nguyên liệu, bán thành phẩm, linh kiện, phụ tùng đem về sản xuất chế biến thành dạng hoàn chỉnh hơn rồi giao lại cho phía bên kia để hưởng một khoản tiền thù lao gọi là phí gia công.
Hình thức này mang lại cho nước gia công cũng như nước thuê gia công nhiều lợi ích. Thứ nhất nước gia công có thể nhận được những khoản tiền thù lao, giải quyết công ăn việc làm trong khi không có đủ điều kiện sản xuất hàng hoá xuất khẩu cả về vốn, công nghệ, nước nhận có thể tạo uy tín với trường thế giới... Thứ hai những nước thuê gia công có thể tận dụng được lao động của các nước nhận gia công, có thể thâm nhập được thị trường nước nhận gia công...
2.5./ Xuất khẩu thông qua hội chợ triển lãm.
Hoạt động xuất khẩu qua hội chợ triển lãm ngày nay rất phổ biến, các doanh nghiệp sản xuất và các doanh nghiệp thương mại rất có điều kiện giới thiệu quảng cáo và kích thích bán hàng khi tham gia vào hội chợ triển lãm. Nhiều công ty qua hội chợ triển lãm có thể mở rộng thị trường nhiều nước mà trước đó doanh nghiệp chưa có điều kiện bán hàng. Việc bán hàng xuất khẩu thông qua hội chợ triển lãm là một phương thức quảng cáo mang lại hiệu quả cao cho doanh nghiệp, giảm các chi phí.
IV./Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động xuất khẩu
Trong cơ chế hạch toán kinh doanh hiện nay, chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh là chỉ tiêu duy nhất có tính chất pháp lệnh để đánh giá hiệu quả trong sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
Lợi nhuận (Lãi, lỗ) = Doanh thu bán hàng xuất khẩu - (Giá vốn hàng hoá + Chi phí bán hàng + Chi phí quản lý doanh nghiệp +Thuế).
Lợi nhuận = Doanh số x Tỷ suất lợi nhuận
Nội dung của hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xuất khẩu bao gồm các khoản sau:
- Hiệu quả kinh doanh xuất khẩu cơ bản.
- Hiệu quả kinh doanh ngoài xuất khẩu.
- Hiệu quả kinh doanh sản xuất phụ.
Tổng các hiệu quả trên là hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1./ Chỉ tiêu về tỉ suất lợi nhuận.
- Việc phân tích các chỉ tiêu tỉ suất lợi nhuận sẽ giúp doanh nghiệp nhận biết được khả năng sinh lợi trên một số lĩnh vực kinh doanh. Từ đó mà doanh nghiệp có biện pháp kinh doanh trong kỳ tới. Các chỉ tiêu tỉ suất lợi nhuận được tính bằng các công thức sau:
TP
TF
TPF =
x 100%
TPF: Tỷ suất lợi nhuận của chi phí bán hàng
TF: Tổng chi phí bán hàng xuất khẩu
TP: Tổng lợi nhuận bán hàng xuất khẩu
TP
(VC + VL)
TPV =
x 100%
ý nghĩa: Cứ một đồng chi phí bán hàng thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
TPV : Tỷ suất doanh lợi vốn sản xuất kinh doanh.
VL :Vốn lưu động.
VC : Vốn cố định.
TP :Tổng chi phí bán hàng.
ý nghĩa: Cứ một đồng vốn sản xuất kinh doanh thì có bao nhiêu đồng lợi nhuận.
TP
TD
TPD =
x100%
Tỷ suất lợi nhuận doanh thu:
TP: Tổng lợi nhuận.
TD: Tổng doanh thu bán hàng.
ý nghĩa: Cứ một đồng doanh thu bán hàng thì có bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Sau khi tiến hành phân tích cả ba chỉ tiêu trên giữa các kỳ với nhau hoặc giữa các doanh nghiệp khác nhau nhưng sản xuất những sản phẩm cùng loại. Nếu các chỉ tiêu tỷ suất này của doanh nghiệp càng lớn thì chứng tỏ khả năng sinh lời trên lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp càng cao và ngược lại nếu các chỉ tiêu trên mà thấp thì chứng tỏ khả năng sinh lời càng thấp, sau đó phân tích các nhân tố ảnh hưởng và đề ra những biện pháp để tăng lợi nhuận trong kỳ kinh doanh tới. Qua phân tích ba chỉ tiêu sẽ cho ta thấy việc kinh doanh hàng hoá xuất khẩu lỗ hay lãi. Khả năng sinh lời hoặc lỗ do các nhân tố nào tạo ra, nó có phải từ chi phí bán hàng cao (thấp), doanh thu, thuế cao (thấp)... để từ đó có biện pháp phát huy những mặt mạnh, hạn chế những mặt còn tồn đọng và tìm ra biện pháp thích hợp để giải quyết.
2./ chất lượNg hàng hoá xuất khẩu.
Trong các doanh nghiệp sản xuất nói chung và doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nói riêng thông thường có hai loại chất lượng hàng hoá:
+ Hàng hoá đủ tiêu chuẩn xuất khẩu.
+ Hàng hoá không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu (phế phẩm).
Khi đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp xuất khẩu, thì chỉ tiêu chất lượng hàng hoá ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh, khi phân tích người ta sử dụng hai chỉ tiêu:
2.1./ Tỷ lệ phế phẩm (tính theo hiện vật).
Mục đích của phương pháp này là ta so sánh được hàng phế phẩm chiếm bao nhiêu % trong hàng hoá xuất ra của doanh nghiệp.
HF
HC+HF
TF =
x 100 %
TF :Tỷ lệ phế phẩm.
HF :Hàng phế phẩm.
HC : Hàng đảm bảo đủ tiêu chuẩn.
Mục đích của phương pháp này là ta so sánh được số lượng hàng phế phẩn chiếm bao nhiêu % trong tổng số hàng hoá xuất ra của doanh nghiệp.
2.2./ Tỷ lệ phế phẩm bình quân (Tính theo giá trị).
CF+CS
CM+CF+CS
TF =
x 100 %
TF :Tỷ lệ phế phẩm bình quân.
CF :Chi phí thu mua hàng phế phẩm.
CS :Chi phí sửa chữa chế biến hàng phế phẩm.
CM :Giá mua hàng xuất khẩu .
Từ công thức trên ta thấy tử số là toàn bộ hàng phế phẩm tính theo giá trị, mẫu số là toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra trong kỳ. Qua tính toán phân tích chỉ tiêu này doanh nghiệp có thể thấy được toàn bộ thiệt hại do chất lượng hàng phế phẩm gây ra so với toàn bộ chi phí mà doanh ng._.hiệp bỏ ra trong kỳ là bao nhiêu %.
Sau khi phân tích, so sánh giữa hai kỳ với nhau hoặc hai doanh nghiệp sản xuất sản phẩm cùng loại sẽ cho doanh nghiệp thấy được tỷ lệ phế phẩm của doanh nghiệp mình và nếu tỷ lệ bình quân hàng phế phẩm của doanh nghiệp càng nhỏ càng tốt. Tỷ lệ này chứng tỏ chất lượng hàng hoá xuất khẩu cao hay thấp và nếu tỷ lệ này càng nhỏ thì hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp càng cao.
±D = TF1 - TF0
TF1 : Tỷ lệ phế phẩm kỳ này.
TF0 : Tỷ lệ phế phẩm kỳ trước.
Nếu : - D :Thì chất lượng hàng hoá xuất khẩu tăng lên.
+ D : Thì chất lượng hàng hoá xuất khẩu giảm.
Qua phân tích ta tìm được nguyên nhân làm giảm chất lượng sản phẩm từ đó tìm ra biện pháp khắc phục.
chương II:
Thực trạng xuất khẩu tại Công Ty Dệt
Hải Phòng
I./Giới thiệu chung về Công Ty Dệt Hải Phòng .
C
ông Ty Dệt Hải Phòng tiền thân là xí nghiệp Hải Phòng đây là một doanh nghiệp nhà nước, trực thuộc sự quản lý của sở Công Nghiệp Hải Phòng, được thành lập theo quyết định số 61/QĐ/TCCQ ngày 27/01/1988, là một trong những công ty trong ngành dệt may được trực tiếp tham gia xuất nhập khẩu. Hiện nay, thị trường chủ yếu của công ty là thị trường nội địa và thị trường Nhật Bản, hướng tới công ty đang có kế hoạch mở rộng sang thị trường EU và thị trường Mỹ. Với vị thế là một doanh nghiệp vừa và nhỏ với cơ sở khi thành lập đặt tại 151B Niệm Nghĩa, Hải Phòng, diện tích sử dụng là 9,25 nghìn m2 và số lao động vào khoảng 320 người năm 2001. Hiện nay, công ty mở rộng thêm cơ sở sang cơ sở II đặt tại đường KaMen - Kiến An - Hải phòng. Cơ sở hai này sẽ chuyên sản xuất hàng dệt kim, với diện tích sử dụng khoảng 20 nghìn m2, số lao động bước đầu tuyển vào và gửi đào tạo là 500 người và ngày 13/5/2000 nhân dịp giải phóng Hải Phòng cơ sở II đã đi vào hoạt động với các mặt hàng chủ yếu là hàng dệt kim.
Từ ngày thành lập đến nay, trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử cũng như nền kinh tế của thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng, nhiều lúc tưởng rằng công ty không thể vượt qua, nhưng với sự cố gắng của tập thể cán bộ công nhân viên của công ty cũng như sự trực tiếp chỉ đạo và hỗ trợ của thành phố, công ty đã vượt qua mọi khó khăn để phát triển giải quyết cho hàng trăm công ăn việc làm cho người lao động Thành phố.
1./ QUá trình hình thành và phát triển Công Ty.
1.1./Giai đoạn năm 1988 đến năm 1991.
Thời gian này, nền kinh tế Việt Nam đang chìm đắm trong giấc mộng của nền kinh tế chỉ huy, quan niệm bao cấp dẫn đến rất nhiều ngành nghề của Hải Phòng trong đó có ngành dệt không được chú trọng một cách thoả đáng. Cho nên khi quyết định 217/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ban hành nhằm chuyển đổi nền kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường đã buộc các doanh nghiệp của Việt Nam nói chung và của Hải Phòng nói riêng phải tự chuyển đổi từ phương thức “xin- cho” sang phương thức hạch toán kinh doanh lấy thu bù chi và có lãi. Rất nhiều doanh nghiệp và các hợp tác xã dệt thủ công của Hải Phòng dần dần bị giải thể hoặc chuyển qua các ngành nghề khác.
Trên tinh thần của hiệp định 19/05 giữa nhà nước Việt Nam và Liên Xô (cũ), và cùng với việc cần thiết phải khôi phục ngành dệt Hải Phòng, UBND thành phố đã ra quyết định số 61/QD/TCCQ ngày 27/01/1988 chính thức thành lập xí nghiệp dệt tiền thân của Công Ty Dệt Hải Phòng ngày nay. Trong giai đoạn này, công ty chủ yếu chú trọng vào đầu tư xây dựng cơ bản và sản xuất thử với sản phẩm bước đầu ra đời là các loại khăn bông xuất khẩu trực tiếp sang thị trường Liên Xô cũ và một số nước Đông Âu XHCN anh em trước đây để thực hiện kế hoạch cam kết của nhà nước ta với nhà nước bạn và một phần sản phẩm còn được sản xuất ra để đáp ứng trực tiếp nhu cầu tiêu dùng của địa phương và một số tỉnh lân cận, đem lại nguồn thu bước đầu cho thành phố, giải quyết công ăn việc làm cho một số lượng lớn người lao động.
Trong giai đoạn này, xí nghiệp tiến hành cải tạo xây dựng cơ sở vật chất, hoàn thiện cơ cấu quản lý, tiếp nhận và đào tạo đội ngũ công nhân, tiếp nhận và lắp đặt hệ thống dây truyền thiết bị chủ yếu được nhập khẩu hoặc nhận viện trợ của Liên Xô với công nghệ dệt khăn theo công nghệ cũ là công nghệ tẩy nhuộm sau. Tuy nhiên, cùng với sự khó khăn của thành phố nên nguồn vốn để xây dựng cơ bản của xí nghiệp bị hạn chế do sự cấp phát nhỏ giọt đã dẫn đến tình trạng xí nghiệp không thể đủ điều kiện để lắp đặt một cách đồng bộ dây chuyền sản xuất của mình, có rất nhiều máy móc lạc hậu điển hình là sáu máy xe sợi thủ công...
Cũng như tình trạng chung của cả nước thì trình độ quản lý và tay nghề của công nhân tại công ty còn chưa có nhiều kinh nghiệm do: Thứ nhất là kinh phí đầu tư cho dạy nghề còn hạn chế, không đồng bộ, cán bộ quản lý nhiều người không được đào tạo cơ bản đồng bộ. Thứ hai là đội ngũ công nhân viên được tập hợp ở các nơi trong thành phố cũng như các tỉnh lân cận nên không tránh khỏi những bỡ ngỡ và chưa phát huy được sự năng động sáng tạo trong quá trình quản lý và sản xuất.
Trên đây là một số khó khăn của xí nghiệp trong bước đầu thành lập, nhưng cùng với sự cố gắng của tập thể thì xí nghiệp vẫn sản xuất được một số sản phẩm phục vụ cho việc xuất khẩu sang thị trường Liên xô cũ và một số nước XHCN Đông Âu cũ, Thái Lan, Lào...
Từ sự biến động của lịch sử thế giới dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu, làm cho Việt Nam không thể thực hiện được các hiệp định mậu dịch với họ. Do đó mà thị trường xuất khẩu của xí nghiệp Dệt Hải Phòng cũng mất đi, đẩy công ty đến bên bờ vực thẳm của sự phá sản và sụp đổ, làm ăn thua lỗ triền miên tưởng rằng không thể vượt qua được. Nhưng nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường đã đẩy xí nghiệp sang một trang mới, một giai đoạn phát triển mới.
1.2. /Giai đoạn từ tháng 10/1991 đến năm 1997.
Như trên đã đề cập thì giai đoạn này là giai đoạn khởi đầu cho quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường, nền kinh tế Việt Nam bước vào một hướng phát triển mới nhưng gặp nhiều khó khăn do đồng tiền nội địa mất giá, thị trường xuất khẩu không còn, lại bị bao vây kinh tế của Mỹ...dẫn đến rất nhiều công ty bị phá sản. Cũng như tình hình chung của nhiều doanh nghiệp thì xí nghiệp Dệt Hải Phòng bắt đầu bước vào sản xuất chính thức với phương thức hạch toán kinh doanh lấy thu bù chi và có lãi. Những khó khăn mà Công Ty Dệt Hải Phòng gặp phải trong giai đoạn này cũng như các doanh nghiệp khác trong cả nước mà đặc biệt là những khó khăn về nguyên vật liệu, phụ tùng thay thế, máy móc thiết bị, thiếu vốn, thiếu ngoại tệ để nhập vật tư, thiết bị cho sản xuất. Do lạm phát mà giá cả các yếu tố đầu vào tăng nhanh làm ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành sản phẩm, do đó ảnh hưởng đến tiến độ tiêu thụ sản phẩm trong nước cũng như sản phẩm xuất khẩu sang thị trường nước ngoài của xí nghiệp gây rất nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Thêm vào đó là tình trạng lạm phát cao làm cho đồng lương không đủ đáp ứng đời sống của công nhân viên đã làm cho nhiều cán bộ kỹ thuật bỏ việc tạo cho xí nghiệp khó khăn chồng chất khó khăn.
Tuy vậy, nhờ sự giúp đỡ của Tổng công ty Dệt may Việt Nam và một số doanh nghiệp trong ngành mà Xí nghiệp Dệt Hải Phòng đã thích ứng được với điều kiện mới, và đã sản xuất ra những mặt hàng đáp ứng được nhu cầu của khách hàng cả trong nước cũng như nước ngoài. Nhờ đẩy mạnh công tác Marketing mà số lượng khách hàng tìm đến công ty ngày càng nhiều. Cùng với sự chuyển hướng sản xuất đến mua nguyên vật liệu, bán thành phẩm kết hợp với hình thức gia công cho khách hàng nên uy tín của công ty đã được từng bước nâng cao, thị trường đã được mở rộng. Để thuận tiện cho công tác giao dịch cũng như vị thế của xí nghiệp ngày 14/01/1993 theo quyết định số 82/QĐ/TCCQ của UBND thành phố Hải Phòng đổi tên xí nghiệp dệt Hải Phòng thành Nhà máy Dệt Hải Phòng với tên giao dịch quốc tế là Hai Phong Textile Company.
Từ đây, nhờ sự giúp đỡ của thành phố, các ban ngành hữu quan, Nhà máy Dệt Hải Phòng đã đầu tư theo chiều sâu, hoàn chỉnh dây chuyền thiết bị, máy móc, áp dụng những công nghệ tiên tiến phù hợp với việc đa dạng hoá sản phẩm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Trong dự án đầu tư chiều sâu thì chủ yếu đầu tư vào mua máy móc thiết bị mới, hiện đại như máy hồ sợi, tẩy, nhuộm, máy sấy, máy sén lông...và một phần nhỏ nữa là đầu tư vào sửa chữa, cải tạo nâng cấp nhà xưởng, sân bãi. Từ đây chất lượng sản phẩm của nhà máy đã được nâng cao đủ sức tự mình vươn ra chiếm lĩnh thị trường cả trong nước và nước ngoài.
Cùng với những trang thiết bị mới hiện đại là việc làm tốt công tác tiếp thị đã giúp cho nhà máy sản xuất ra được những sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã đa dạng, giá cả hợp lý nên dần dần đã đủ sức cạnh tranh với những sản phẩm cùng loại trên thị trường. Các khách hàng trong nước và các khách hàng quốc tế đã biết đến sản phẩm của công ty và ngày càng nhiều người tìm đến đặt hàng với số lượng lớn. Đặc biệt mặt hàng khăn bông của nhà máy Dệt Hải Phòng đã đáp ứng được nhu cầu khách hàng nước ngoài khó tính nhất như Nhật Bản. Hiện nay thị trường xuất khẩu chủ yếu của công ty chính là thị trường Nhật Bản, và hướng tới công ty đã, đang có kế hoặch vươn tới thị trường EU và thị trường Mỹ Thực tế cho thấy công ty đã nhận được một số hợp đồng xuất khẩu sang hai thị trường này tuy không phải là lớn nhưng nó lại là động lực để thúc đẩy sự cố gắng của tập thể cán bộ công nhân viên nhà máy.
Qua nhiều đánh giá từ các buổi họp thường niên của công ty thì giai đoạn này được đánh giá là giai đoạn bản lề để công ty lớn mạnh và phát triển như ngày hôm nay.
1.3./ Giai đoạn từ 1997 đến nay.
Để phù hợp với sự tăng trưởng và vị thế của nhà máy trên thị trường, Ngày 09/01/1995 theo quyết định 1678 QĐ/ĐMDN của UBND thành phố Hải Phòng chính thức đổi tên thành Công Ty Dệt Hải Phòng ngày nay. Để nâng cao chất lượng cũng như để mở rộng sản xuất, năm 2000 UBND thành phố quyết định cho phép công ty xây dựng cơ sở II tại đường KaMen - Kiến An - Hải Phòng với diện tích sử dụng là 20.000 m2, số công nhân tuyển dụng và gửi vào trong Nha Trang đào tạo giai đoạn I là 500 người. Toàn bộ máy móc thiết bị tại cơ sở này là những dây chuyền công nghệ tiên tiến của Đức, Italia, Nhật Bản và Đài Loan và ngày 13/05/2000 cơ sở này đã đi vào hoạt động. Khi đi vào hoạt động công ty đang có kế hoạch chuyển cơ sở II này thành cơ sở chính, là nơi điều hành sản xuất kinh doanh cũng như giao dịch chính của công ty với khách hàng. Còn cơ sở chính hiện đặt tại 151 B Niệm Nghĩa Hải Phòng sẽ chuyển thành phân xưởng sản xuất hàng dệt may của công ty.
Tóm lại, có thể đánh giá giai đoạn này là giai đoạn tạo ra cho công ty có những chuyển biến rõ rệt, làm ăn có lãi, đời sống cán bộ công nhân viên được nâng cao, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu đã từng bước thay đổi nhanh chóng và đây là giai đoạn công ty thu được những thành quả vượt bậc so với những năm trước.
Trên đây là điểm qua vài nét về quá trình hình thành và phát triển của Công Ty Dệt Hải Phòng, cho ta thấy để có ngày hôm nay Công ty Dệt Hải Phòng đã phải trải qua bao thăng trầm để xây dựng và trưởng thành, và đó cũng là bản ghi nhận một thành quả cố gắng của tập thể cán bộ công nhân viên công ty cũng như sự giúp đỡ của thành phố và các ngành liên quan.
2./ Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý hiện tại của Công Ty.
2.1./ Chức năng và nhiệm vụ.
Công Ty Dệt Hải Phòng hiện nay là một doanh nghiệp nhà nước có chức năng xuất nhập khẩu trực tiếp do sở Công Nghiệp Hải Phòng quản lý. Công ty được thành lập năm 1988 với mục đích khôi phục và phát huy ngành Dệt tại Hải Phòng. Sản phẩm chủ yếu được sản xuất bởi công ty là các loại khăn tắm, khăn ăn, khăn rửa mặt các loại, với công suất 400 tấn sản phẩm một năm, phục vụ cho xuất khẩu và một phần đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của thành phố. Thị trường xuất khẩu chủ yếu của công ty hiện nay phải kể đến là Nhật Bản, Eu, thị trường các nước trong khối ASEAN như Thailand, Lào... và thị trường tiềm năng đó là thị trường Hoa Kỳ. Từ ngày thành lập đến nay, hàng năm công ty đã thu lại cho ngân sách thành phố hàng trăm triệu đồng. Cùng với sự ổn định và phát triển trong một thời gian dài công ty Dệt Hải Phòng đã góp phần giải quyết cho hàng trăm công ăn việc làm cho người lao động thành phố.
Hiện nay, khi thành phố đầu tư cho công ty cơ sở II chuyên sản xuất hàng Dệt kim và đã đi vào hoạt động thì nhiệm vụ của công ty được nâng nên cao hơn đó là phải tiếp tục giải quyết công ăn việc làm cho người lao động thành phố, tăng thu nhập cho tập thể cán bộ công nhân viên trong cơ quan, đóng góp đủ cho Ngân sách thành phố, góp phần làm rạng rỡ nền công nghiệp của thành phố. Tiếp tục mở rộng thị trường bằng sản phẩm mới như áo thun, quần áo lót, bít tất... sang những thị trường mới và cả thị trường truyền thống mà đặc biệt là tham gia chiếm lĩnh thị trường Hoa Kỳ ngay khi điều kiện cho phép.
2.2./Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý sản xuất.
Lúc đầu, khi thành lập công ty do ảnh hưởng của cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung nên bộ máy quản lý của xí nghiệp rất cồng kềnh, số cán bộ quản lý hành chính nhiều, quản lý kém hiệu quả không phát huy được sức mạnh và lợi thế của công ty. Thêm vào đó khi mới thành lập thì ngành dệt ở Hải Phòng vẫn là một lĩnh vực mới cho nên công tác quản lý điều hành sản xuất của công ty gặp nhiều khó khăn. Từ ngày đổi mới đến nay, công ty đã có nhiều thay đổi lớn về mặt tổ chức theo phương hướng cán bộ chủ chốt kiêm nhiệm phụ trách các phân xưởng, coi trọng và ưu tiên nhân viên có trình độ chuyên môn cao, trẻ hoá dẫn đội ngũ cán bộ quản lý, các phân xưởng được sắp xếp lại, bố trí lại, tạo ra hệ thống điều hành quản lý thống nhất. Đứng đầu là giám đốc, sau đó là phó giám đốc, dưới nữa là các phòng ban kiêm nhiệm chịu trách nhiệm trước giám đốc, phó giám đốc và luật pháp chủ quản. Dưới đây là sơ đồ bộ máy quản lý và sản xuất của công ty:
tổ đóng gói
Giámđốc:
Là người vừa đại diện cho nhà nước vừa đại diện cho công ty chịu trách nhiệm trước UBND thành phố Hải Phòng cũng như cơ quan chủ quản là sở công nghiệp Hải Phòng về mọi hoạt động của công ty theo pháp luật. Giám đốc được quyền quyết định tổ chức bộ máy quản lý, các bộ phận sản xuất kinh doanh dịch vụ của công ty.
Phó Giám Đốc:
Là người giúp việc cho giám đốc, được giám đốc phân công giúp việc về các công việc tổ chức, nội chính, đoàn thể.
Hiện nay, trong công ty chỉ có một giám đốc và một phó giám đốc chịu trách nhiệm điều hành sản xuất kinh doanh của công ty.
Các phòng ban:
Phòng kế hoạch kỹ thuật đầu tư:
Phòng có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch sản xuất ngắn hạn, dài hạn, phương án sản xuất sản phẩm, điều độ tác nghiệp trong công ty. Phòng xây dựng kế hoạch giá thành đơn vị, trả tiền lương cho từng loại sản phẩm, trên cơ sở đó lựa chọn nguyên liệu, vật tư, lựa chọn máy móc thiết bị cho phù hợp, đảm bảo chất lượng và tiến độ sản xuất của cả doanh nghiệp. Ngoài ra phòng còn chịu trách nhiệm về các vấn đề thiết kế chế tạo thử sản phẩm mới, nghiên cứu áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, sửa chữa máy móc thiết bị. Phòng còn có trách nhiệm kiểm tra sản phẩm trước khi nhập kho.
Phòng kế toán:
Hoạt động theo pháp lệnh kế toán thống kê và điều lệ tài chính kế toán của Bộ tài chính đã ban hành. Quản lý và điều tiết vốn cho công ty. Phòng có trách nhiệm tổ chức hạch toán kiểm tra theo dõi thu chi tài chính của toàn công ty, xây dựng các dự toán, tính giá thành dự toán cũng như giá thành thực tế để cùng với các phòng ban khác có kế hoạch điều chỉnh cho phù hợp. Phòng kế toán còn có trách nhiệm quản lý tất cả mọi tài sản của doanh nghiệp bao gồm cả tài sản cố định và tài sản lưu động, tiền mặt và tiền gửi ngân hàng, các khoản nợ đọng thu chi... từ đó tính ra lỗ lãi hàng kỳ, hàng năm, thực hiện các báo cáo với giám đốc và cơ quan chủ quản.
- Phòng tổ chức, hành chính, lao động, tiền lương:
Lập phương án tổ chức bộ máy quản lý sản xuất kinh doanh triển khai kế hoạch lao động tiền lương trên cơ sở xây dựng định mức lao động của từng loại sản phẩm. Xây dựng chức năng, nhiệm vụ nội quy, qui chế hoạt động của công ty, bảo vệ tài sản giữ gìn an ninh trật tự trong toàn công ty. Xây dựng kế hoạch và tuyển dụng lao động, xây dựng và đào tạo bồi dưỡng tay nghề nâng cấp, nâng bậc cán bộ công nhân viên, xây dựng và thực hiện an toàn lao động, vệ sinh công nghiệp, phòng cháy, chữa cháy. Các công tác tài chính văn thư, khám chữa bệnh phục vụ ăn ca cho cán bộ công nhân viên.
- Các phân xưởng:
+ Phân xưởng chuẩn bị: Bao gồm các bước công việc Se, Mắc, Hồ, Nhuộm,Tẩy sợi đảm bảo chất lượng bao gồm nhiều tổ, mỗi tổ có chức năng nhiệm vụ riêng.
* Tổ se, mắc sợi: Có nhiệm vụ se sợi, đảo sợi (công việc này nhằm tạo cho sợi tăng thêm tính cường lực) và mắc trục thì tuỳ từng loại sợi sản phẩm mà có những cách mắc sợi khác nhau.
* Tổ Hồ Sợi: Sau khi sợi mắc song sẽ được đưa qua hồ để tăng độ bền kéo của sợi.
* Tổ tẩy nhuộm: Sau khi hồ sợi thì sẽ đi đến Tổ tẩy nhuộn để làm trắng sợi theo từng yêu cầu của từng loại sản phẩm.
+Phân xưởng Dệt: Phân xưởng này hoạt động theo thiết kế mẫu mã và đơn đặt hàng, máy móc trong phân xưởng này có tính tự động cao, và do đó công nhân chỉ việc thay suốt sợi khi hết và điều chỉnh máy khi có sự cố. Hiện nay, máy dệt trong Công Ty Dệt Hải Phòng tại cơ sở dệt may bao gồm 90 máy Dệt chủ yếu là của Liên Xô (cũ). Các máy này chủ yếu sử dụng để sản xuất ra sản phẩm khăn bông. Còn tại cơ sở sản xuất hàng dệt kim tại đường KaMen-Kiến An -Hải Phòng thì máy móc thiết bị chủ yếu là máy móc thiết bị hiện đại của các nước có ngành Dệt phát triển, trong đó có 12 máy Dệt của Đức và Italia mà các loại này chủ yếu sử dụng vào dệt kim như dệt các sản phẩm để sản xuất Tất, áo thun, quần áo lót ...
+ Phân xưởng may hoàn tất: Sau khi bán thành phẩm được hoàn tất từ phân xưởng Tẩy nhuộn sẽ chuyển qua phân xưởng may, và từ phân xưởng này thì sản phẩm được hoàn tất qua khâu chế tạo.
+ Tổ KCS: Sau khi sản phẩm được hoàn tất sẽ chuyển qua Tổ KCS để kiểm tra. Đây là bước cuối cùng trước khi đưa sản phẩm vào đóng gói. Bước này là bước quyết định đến chất lượng sản phẩm bởi ở đây nếu như sản phẩm có khuyết tật sẽ bị loại bỏ còn những sản phẩm đạt tiêu chuẩn sẽ được đưa vào đóng gói để chuẩn bị đưa vào nhập kho và tiêu thụ (xuất khẩu).
+ Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu:
Có nhiện vụ tổ chức tốt công tác cung cấp nguyên vật liệu nhập khẩu, quản lý, bảo quản kho tàng vật tư. Căn cứ vào hợp đồng đã ký cũng như kế hoạch sản xuất kinh doanh của phòng kế hoạch kỹ thuật đầu tư để lập kế hoạch nhập khẩu nguyên vật liệu và thực hiện các công việc xuất khẩu sản phẩm.
Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu là nơi tổ chức công tác tiêu thụ sản phẩm, tăng cường hỗ trợ xúc tiến bán thông qua các loại hình trung gian như Đại lý ký gửi, Hội chợ triển lãm, mở cửa hàng giới thiệu sản phẩm tiêu thụ.
Trong cơ cấu của phòng kinh doanh xuất nhập khẩu có các bộ phận khác như bộ phận nghiên cứu thị trường, bộ phận nghiên cứu sản phẩm để tìm cách chiếm lĩnh và đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng trong và ngoài nước. Để làm tốt nhiệm vụ của mình yêu cầu phòng kinh doanh xuất nhập khẩu phải kết hợp với các phòng ban khác, đặc biệt là phòng kế hoạch để cùng nhau lập kế hoạch sản xuất, tiêu thụ sản phẩm để từ đó nâng cao hiệu quả của công tác xuất nhập khẩu. Một công việc không kém phần quan trọng mà phòng kinh doanh xuất nhập khẩu phải đảm nhiệm đó là phải thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
2.3./ Đặc điểm kỹ thuật.
2.3.1./ Đặc điểm về tài sản cố định.
Máy móc thiết bị và tài sản cố định của công ty có rất nhiều loại đa dạng. Do trước đây khi thành lập, công ty được trang bị máy móc thiết bị chủ yếu của các nước XHCN (cũ), nên máy móc, thiết bị lạc hậu và không đồng bộ, được sản xuất bởi nhiều nước khác nhau cho nên việc đảm bảo yêu cầu cho sản xuất gặp rất nhiều khó khăn. Và khi công ty đầu tư chiều sâu thì vấn đề không đồng bộ của hệ thống máy móc thiết bị phần nào được giải quyết, và từ đây chất lượng sản phẩm được nâng cao đáp ứng nhu cầu của thị trường. Sản phẩm của công ty đã đủ sức cạnh tranh trên thị trường với giá thành sản phẩm phù hợp. Sau đây là hệ thống các máy móc thiết bị của công ty tại cơ sở dệt may:
Bảng I: Một số máy móc thiết bị trong Công Ty Dệt Hải Phòng.
STT
Tên Máy Móc- Thiết Bị
Số Lượng
Nơi Sản Xuất
Máy dệt ATM_- 175
90
Liên Xô cũ
Máy đánh ống
02
Liên Xô cũ
Máy mắc
02
Liên Xô cũ
Máy dồn
01
Liên Xô cũ
Máy Se đậu
02
Liên Xô cũ
Máy ép kiện
01
Việt Nam
Máy suốt
03
Liên Xô cũ
Máy may
25
Liên Xô cũ
Máy hồ sợi
01
Trung Quốc
Máy vắt-tẩy nhuộm
04
02 của Ba Lan, 1 của Đài Loan
Máy vắt li tâm
02
1của Hunggari, 1củaTrung Quốc
Máy sấy
01
Trung Quốc
Máy sén nhung
01
Trung Quốc
Nồi hơi
02
Trung Quốc
Trạm máy bơm
01
Liên Xô cũ
Theo : Báo cáo kiểm kê thiết bị của Công Ty Dệt Hải Phòng năm 1999
2.3.2./ Đặc điểm về nguyên vật liệu.
Nguyên vật liệu chính của công ty là sợi Ne 20/1, Ne 32/1, Cotton 100%. Công ty thường mua sợi của các doanh nghiệp trong nước như công ty Dệt Hà Nội, Công ty Dệt 8/3, Công ty dệt Nha Trang, nhập sợi của ấn Độ, Trung Quốc... Quá trình nhập nguyên vật liệu của công ty mua ở trong nước hay mua ở nước ngoài là tuỳ thuộc vào từng thời kỳ khi có sự chênh lệch giữa giá nhập khẩu và giá mua của các doanh nghiệp trong ngành ở tại trong nước. Ngoài những nguyên vật liệu kể trên công ty còn phải nhập một số hoá chất khác từ các nước khác nhau như từ Singapore, Trung Quốc, Nam Triều Tiên, Pháp, Mỹ, Italia... Đó là những hoá chất như Bevaloid 5400, Bevaloid 4168, Ô xi già (H2O2) và các hoá chất làm nềm sợi... Ngoài ra còn những hoá chất phụ mua của các doanh nghiệp trong nước như hoá chất xút (NaOH), Silicat (Na2SiO3), Tinh bột trắng, Chỉ trắng, Túi PE, bao PP... Sau đây là một số những nguyên vật liệu nhập khẩu từ các nước ngoài trong một vài năm gần đây.
Bảng II: Tình hình nhập khẩu nguyên vật liệu của Công Ty Dệt Hải Phòng
Đơn vị : 1.000Đ
Stt
Năm
Tên N.liệu
1999
2000
2001
1
Sợi Ne 20/1
2.022.184
978.735
-
2
Sợi Ne31/1
1.438.629
668.737
-
3
Bevaloid 4118
20.925
26.400
44.000
4
Bevaloid 4168
102.724
139.920
220.000
5
Vevatol
49.122
58.725
69.000
6
Besnop
35.532
60.220
75.000
7
Unitex
-
125.000
175.000
8
Leuconphor
-
69.000
184.000
9
Chất ổn định H2O
-
6.200
9.000
10
Xút
-
60.000
64.000
11
Ô Xi Già
-
119.000
130.900
12
Sô Đa
-
6.400
9.600
13
Công Hoá
-
26.000
3.900
14
Thuốc nhuộm
-
225.000
135.000
15
Các chất phụ trợ
-
7.530
12.500
16
Tổng Cộng
-
2.574.867
1.131.900
Theo : Báo cáo tình hình nhập khẩu của Công Ty Dệt Hải Phòng năm 2001
Ghi chú: (-) Do giá hàng trong nước thấp hơn giá hàng nhập khẩu cho nên công ty chuyển sang nhập của các doanh nghiệp trong nước.
Như vậy nhìn vào bảng trên cho ta thấy tổng trị giá nhập khẩu của năm 2001 là 1.131.900 nghìn đồng giảm 43,9% so với 2.574.867 nghìn đồng năm 2000. Lý do giảm trị giá nhập khẩu như chúng ta biết thì do công ty là một doanh nghiệp được phép xuất nhập khẩu trực tiếp cho nên khi giá cả của hàng trong nước và hàng nhập khẩu có sự chênh lệch công ty sẽ chọn nguồn nào có mức giá thấp hơn để cung cấp nguyên vật liệu đầu vào cho mình. Chính vì thế mà trong năm 2001 giá hàng trong nước thấp hơn với hàng nhập khẩu cho nên công ty đã chọn giải pháp là mua hàng của các doanh nghiệp trong nước thay vì phải nhập khẩu, do đó mà năm 2001 tổng trị giá hàng nhập khẩu của công ty đã giảm hẳn so với năm 2000.
2.3.3./ Quy trình công nghệ.
Quy trình công nghệ dệt là một quy trình rất phức tạp, và kéo dài thời gian. Nó bắt đầu từ khi nguyên vật liệu được đưa vào sản xuất đến khi có sản phẩm nhập kho qua rất nhiều công đoạn. Chất lượng của các công đoạn bán thành phẩm sẽ làm ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ phế phẩm của các công đoạn tiếp theo.Trong mỗi công đoạn thì chất lượng sản phẩm bị ảnh hưởng không những từ những yếu tố chủ quan như máy móc thiết bị, trình độ tay nghề của công nhân mà nó còn chịu ảnh hưởng từ những nhân tố khách quan khác như yếu tố thời tiết. Bởi khi thời tiết hanh khô sẽ làm cho sợi bị khô, dễ gẫy và dễ đứt từ đó chất lượng sản phẩm sản xuất ra rất kém và khi thời tiết có độ ẩm cao thì do sợi là loại chất liệu hút ẩm mạnh nên việc định mức sản phẩm gặp rất nhiều khó khăn.
Hiện nay, tại cơ sở sản xuất hàng dệt may có hai quy trình công nghệ dệt khăn, mà theo đó công ty sẽ áp dụng công nghệ nào để sản xuất là tuỳ vào kế hoạch sản xuất của công ty cũng như tuỳ vào yêu cầu của khách hàng.
+ Quy trình công nghệ dệt khăn tẩy trước:
Sợi mộc được đưa vào đảo, se, guồng thành những con sợi nhỏ, sau đó đưa vào Máy Tẩy Nhuộm đ Vắt đ Sấy khô đ Đánh ra thành ống sợi nhỏ và sau đó đưa lên giàn mắc phân băng (mắc từng sợi một) đ Dệt đ Cắt May đ Sản phẩm cuối cùng. Những sản phẩm sản xuất ra theo công nghệ này thường được bán vào những thị trường mà ở đó sự đòi hỏi về chất lượng không cao lắm như các thị trường thuộc các nước Đông Âu (XHCN cũ) và thị trường nội địa. Ưu điểm của sản phẩm do công nghệ này sản xuất ra là sản phẩm có độ bền cao nhưng đặc tính kỹ thuật không cao.
+ Quy trình công nghệ dệt khăn tẩy sau:
Sợi mộc được đưa vào đánh ống sau đó mắc hàng loạt (mắc nhiều trục một lúc) đ Hồ Sợi đ Dệt đ Tẩy hoặc Nhuộm đ Máy vắt đ Máy sấy khô đ Cắt May đ Thành phẩm. Ưu điểm của sản phẩm sản xuất ra từ quy trình công nghệ này là chất lượng hàng hoá cao mẫu mã đẹp đáp ứng được nhu cầu của những khách hàng khó tính nhất hiện nay như thị trường Nhật Bản của công ty. Sau đây là sơ đồ biểu hiện quy trình của hai công nghệ trình bày ở trên.
Nguyên vật liệu chính
Sợi Mộc
Sợi mộc
Đánh ống
Đảo, Se,Guồng sợi
Mắc đồng loạt
Tẩy nhuộm thủ công
Hồ Sợi
Đánh ống
Dệt 1
Mắc phân băng
KCS 1
Dệt
Tẩy Nhuộm
KCS 1
Cắt May
KCS 2
Sấy
Cắt May
KCS 2
Nhập Kho Thành Phẩm
Sơ đồ III: Quy trình công nghệ dệt
II./ hoạt động xuất khẩu tại công ty dệt Hải Phòng thời gian qua.
1./ kết quả sản xuất tại Công Ty thời gian qua.
Công Ty Dệt Hải Phòng là một doanh nghiệp nhà nước có nhiệm vụ sản xuất phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Từ những năm 1990 thị trường xuất khẩu chính của công ty là thị trường các nước Đông Âu (XHCN) và từ khi các nước này sụp đổ đã ảnh hưởng rất mạnh đến quá trình sản xuất kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp. Trong thời gian này để tháo gỡ những khó khăn, công ty đã uỷ thác xuất khẩu cho Tổng công ty Dệt may Việt Nam (Vinatex) hay Tocontap, Unimex... Nên hiệu quả sản xuất kinh doanh không cao.
Từ khi có cơ chế chính sách mới, công ty đã tìm cho mình một hướng làm ăn mới đó là trực tiếp nghiên cứu thâm nhập thị trường, nhằm xuất khẩu trực tiếp không thông qua uỷ thác. Công ty tiến hành thay đổi cơ chế quản lý trong chính công ty mình như thay đổi chức năng phòng Vật Tư thành phòng Kinh doanh xuất nhập khẩu với chức năng và quyền hạn cao hơn...Cùng với đó là sự đầu tư của thành phố và sự mạnh dạn vay vốn kinh doanh của công ty để đầu tư theo chiều sâu cho nên trong những năm gần đây hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty không ngừng tăng nên. Sau đây là tình hình sản xuất của công ty trong các năm từ 1998 đến 2000.
Bảng III: Tình hình sản xuất kinh doanh tại Công Ty Dệt Hải Phòng.
Đơn vị :Triệu Đồng
chỉ tiêu
năm
1998
1999
2000
I. Vốn kinh doanh
1. Vốn ngân sách
11.379,4
11.104,5
11.759,99
2. Vốn tự bổ sung
31,9
31,9
31,9
II. Kết quả kinh doanh
1. Doanh thu
10.653,500
12.831,200
14.361,700
2. Lãi trước thuế
12,4
13,4
13,55
III.tổng mức nộp ngân sách
132,9
139,95
73,66
1. Thuế doanh thu
55
100
40
2. Thuế xuất nhập khẩu
11,5
12,4
14
3. Thuế sử dụng vốn + thuế đất
66,4
37,55
19,66
IV. Tổng nợ phải trả
14.354
13.403
14.414,25
1. Nợ ngân sách
424,6
422,3
426,5
2. Nợ ngân hàng
10.574,4
9.459,7
10.179,7
3. Nợ khác
3.355
3.521
3.808,05
V. tổng nợ phải thu
873,8
1.651,3
529,79
Theo Báo cáo tình hình sản xuất kinh doanh của Công Ty Dệt Hải Phòng năm 2000
Như vậy là trong những năm qua doanh thu của doanh nghiệp không ngừng tăng nên (so với năm 1998 năm 1999 tăng 20,4% và năm 2000 tăng 11.9% so với năm 1999). Năm 2000 doanh thu của công ty đạt trên 14 tỷ đồng, số lượng này nếu so với một công ty của trung ương thì quả thực là nhỏ nhưng so với một công ty địa phương như Công Ty Dệt Hải Phòng thì đây là cả một thành quả phấn đấu của tập thể cán bộ công nhân viên trong công ty. Tuy nhiên cùng với sự tăng lên không ngừng của doanh thu qua các năm thì khoản nợ của công ty cũng tăng lên đột biến trong năm 1999. Năm 1998 số nợ phải thu của công ty chỉ có 873,8 triệu đồng nhưng đến năm 1999 thì số nợ tăng lên đến 1.651,3 triệu đồng (tăng 1,89 lần so với năm 1998), và đến năm 2000 số nợ phải thu của công ty chỉ còn là 529,79 triệu đồng (giảm 68% so với năm 1999). Sở dĩ có tình trạng này là do năm 1999 có khủng hoảng kinh tế khu vực cho nên phía Nhật Bản chậm thanh toán cho công ty. Nhưng sang năm 2000 khi chỉ còn dư âm khủng hoảng nên số nợ này đã được thanh toán một phần. Nhưng bên cạnh số nợ phải thu thì số nợ phải trả của công ty cũng tương đối cao mà chủ yếu là nợ phải trả cho Ngân hàng và một phần nợ phải trả cho Ngân sách. Như vậy ta thấy cùng với số vốn Ngân sách và tổng số nợ phải trả thì nó đã chiếm gần hết số vốn của doanh nghiệp. Trong khi nhu cầu mở rộng sản xuất luôn luôn yêu cầu doanh nghiệp phải đáp ứng mà nguồn vốn tự bổ sung thường xuyên không thay đổi do đó chủ yếu nhờ vào nguồn vốn Ngân sách. Câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao nguồn vốn tự bổ sung của công ty là thường xuyên không tăng? Để trả lời cho câu hỏi này ta hãy quay lại bảng III thì ta thấy doanh thu sau khi đã trừ đi chi phí thì lãi còn rất ít (năm 1998 là 12,4 triệu đồng, năm 1999 có 13,4 triệu đồng, năm 2000 là 13,55 tỷ đồng). Như vậy một điều dễ hiểu là không thể trích một phần lợi nhuận hàng năm của công ty ra để bổ sung vào vốn kinh doanh, và nếu mở rộng sản xuất thì chỉ có thể dựa vào vốn Ngân sách thành phố cấp. Mà thực tế khi cơ sở dệt kim được hoàn thành với tổng số vốn đầu tư xấp sỉ 90 tỷ đồng thì chủ yếu là do vốn của Ngân sách thành phố Hải Phòng cấp, còn vốn tự có của công ty hầu như không có.
Công ty Dệt Hải Phòng tại cơ sở Dệt may do máy móc thiết bị không đồng bộ và có phần lạc hậu cho nên t._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0361.doc