Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác đấu thầu tuyển chọn tư vấn hiện nay

Lời nói đầu Trong các hoạt động kinh tế xã hội của nền kinh tế thị trường Việt nam hiện nay xây dựng cơ bản đang là lĩnh vực nóng bỏng nhất của nền kinh tế. Thị trường xây dựng cơ bản đang rất sôi động với sự tham gia của rất nhiều các đơn vị xây dựng trong và ngoài nước, trong bối cảnh đó các loại hình tư vấn cho đầu tư, tư vấn cho xây dựng bung ra hàng loạt, từ các tập đoàn tư vấn đa quốc gia có tầm cỡ trên thế giới, các công ty tư vấn lâu năm của nhà nước đến các hãng tư vấn tư nhân vừa thàn

doc72 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1220 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác đấu thầu tuyển chọn tư vấn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h lập, vai trò của tư vấn đối với đầu tư , chủ công trình là không ai phủ nhận được, với một hợp đồng tư vấn theo hình thức "trọn gói” hay “chìa khoá trao tay”, các chủ đầu tư, chủ công trình có thể “ngồi chơi xơi nước “ phó mặc dự án, công trình cho nhà tư vấn, từ khâu nghiên cứu cơ hội đầu tư, lập các báo cáo tiền khả thi, khả thi cho đến khi kết thúc dự án, dưới sự đôn đốc ,thúc ép và điều hành của các chuyên gia tư vấn, những người có chuyên môn sâu, kinh nghiệm nhiều trong lĩnh vực họ đang thực hiện, dự án có thể được triển khai một cách nhanh chóng, thuận lợi, đúng tiến độ, đúng theo pháp luật. Tuy nhiên không phải lúc nào tư vấn cũng thể hiện được tính ưu việt của nó, hiện tượng dự án bị chậm tiến độ thi công sai quy cách do tư vấn gây ra không phải là hiếm. Bởi vậy vấn đề với các nhà đầu tư, các chủ công trình là làm sao chọn lựa được nhà tư vấn đủ năng lực thực hiện dự án với chi phí phù hợp. Hình thức phổ biến hiện nay là thông qua đấu thầu để tuyển chọn tư vấn. Hoạt động đấu thầu đặc biệt là đấu thầu tuyển chọn tư vấn với các quốc gia phát triển là điều rất bình thường nhưng ở Việt nam đó là lĩnh vực rất mới mẻ và còn nhiều điều để bàn, đặc biệt là tình trạng đại đa số các nhà tư vấn Việt nam chưa thể đứng ra với tư cách là nhà thầu độc lập tham dự các cuộc đấu thầu tư vấn sử dụng nguồn vốn của các tổ chức quốc tế ;Với mục tiêu tìm hiểu sâu về hoạt động đấu thầu tuyển chọn tư vấn, nên trong thời gian thực tập tại văn phòng xét thầu - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, được sự giúp đỡ của các cán bộ làm việc tại đây- những người trực tiếp làm công tác quản lý hoạt động đấu thầu trong cả nước. Đặc biệt là chú Quốc Hùng, chuyên viên đặc trách về vấn đề đấu thầu tuyển chọn tư vấn. Tôi đã tập trung nghiên cứu và chọn đề tài “ Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác đấu thầu tuyển chọn tư vấn hiện nay” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình; trong khuôn khổ một chuyên đề không thể đề cập hết và sâu sắc tất cả các vấn đề liên quan; chỉ phác hoạ một số nét chính, nổi bật nhất hiện nay. Do thời gian thực tập ngắn, trình độ có hạn nên bài viết không tránh khỏi nhiều thiếu sót, tôi rất mong được sự góp ý của các thầy cô giáo, các cô, chú và các bạn để tôi có thể có được cái nhìn hoàn chỉnh về vấn đề. Tôi xin chân thành cảm ơn chú Quốc Hùng và các cô chú, anh chị cán bộ tại văn phòng xét thầu đã giúp đỡ tôi rất nhiều để hoàn thành bài viết này. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Nguyễn Hồng Minh đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề của mình ./. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả trong công Tác đấu thầu tuyển chọn tư vấn. A. Đặt vấn đề. Công cuộc đổi mới đất nước được Đảng khởi xướng đã trải qua hơn một thập kỷ; thành tựu đạt được từ sự đổi mới đã mang lại màu sắc ngày càng tươi sáng cho bức tranh kinh tế xã hội của đất nước. Từ một nước đang lâm vào khủng khoảng kinh tế, chỉ sau 10 năm đổi mới không những đã thoát ra khỏi cơn khủng khoảng mà còn tạo ra được những tiền đề vững chắc cho tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội. Bài học của thành tựu này ở đâu? Ngoài việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ kế hoach hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường để huy động được sức mạnh kinh tế của mọi thành viên trong xã hội thì một yếu tố rất quan trong khác là nhờ có được chính sách đầu tư đúng đắn, không những chỉ đem lại bước đột phá lớn trong phát triển kinh tế mà tạo ra hàng loạt các yếu tố cần thiết cho sự cất cánh. Vai trò này được thể hiện rất rõ thông qua hiệu qủa đem lại của mỗi công cuộc đầu tư, đã tạo ra hàng loạt hạng mục của cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, chuyển đổi cơ cấu kinh tế tận dụng mọi tiềm năng phát triển của các địa phương, làm thay đổi bộ mặt kinh tế của từng vùng lãnh thổ; Trong bôí cảnh trước mắt, con đường hội nhập vào kinh tế khu vực, kinh tế thế giới đang mở rộng cho chúng ta, do đó yêu cầu với hoạt động đầu tư ngày càng chặt chẽ đòi hỏi phát huy tối đa những thành tựu, kinh nghiệm quý báu đã đúc kết được trong thời gian qua, đồng thời phải hết sức hạn chế những tồn tại đang còn mắc phải; tồn tại lớn nhất của chúng ta là quá trình lập kế hoạch, nghiên cứu cơ hội đầu tư còn nhiều thiếu sót chưa có quy hoạch tổng thể phù hợp về trọng điểm đâù tư; quản lý, sử dụng nguồn vốn còn gây ra nhiều thất thoát lãng phí. Bởi vậy đấu thầu được áp dụng như một sự hỗ trợ đắc lực cho công tác quản lý tăng cường hiệu quả của hoạt động đầu tư, xây dựng. Trong đó, đấu thầu tuyển chọn tư vấn được đưa ra là nhằm giúp các nhà đầu tư chọn cho mình những cố vấn, những nhà chuyên môn có trình độ cao hỗ trợ về mặt kiến thức. Kinh nghiệm trong qua trình thực hiện dự án đầu tư, Hoạt động tư vấn đã có từ lâu ở nước ta nhưng thông qua đấu thầu để tuyển chọn ra tư vấn lại là rất mới, kết quả trong thời gian qua cho thấy, nhờ có đấu thầu mà các chủ thầu tự chọn được cho mình nhà tư vấn phù hợp, không những giúp ích cho hoạt động của dự án mà còn giảm đi rất nhiều những tiêu cực trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản. Công tác tư vấn có thể được thực hiện trên 2 lĩnh vực: tư vấn cho dự án (xây dựng, báo cáo, nghiên cứu tiền khả thi, khả thi: chuẩn bị đầu tư, tổ chức đầu tư) ,Tư vấn giám sát (giám sát qua trình các nhà thầu khác thực hiện qua trình xây lắp, mua sắm trang thiết bị hàng hoá) tuỳ từng yêu cầu đặc thù của từng dự án mà chủ đầu tư cần chọn loại tư vấn nào; người ta thường coi đấu thầu như một cái "chợ "tức là người mua bán hàng hoá, điều lệ và người quản lý; "chợ" muốn mang lại lợi ích thì mọi thứ trong đó phải tốt; đấu thấu tuyển chọn tư vấn cũng vậy, nhưng do còn mới áp dụng ở Việt Nam nên không thể tránh khỏi nhiều bất cập hạn chế; muốn nâng cao hiệu quả hoạt động này, phải có những giải pháp phù hợp tác động đồng bộ tới tất cả các nhân tố; Bài viết sau xin đi vào một số điểm chung về thực trạng cũng như giải pháp cơ bản để khắc phục một số hạn chế trong đấu thầu tư vấn ở Việt Nam. B. Nội dung. Chương I: Lý luận chung về công tác đấu thầu tuyển chọn tư vấn. 1. Khái quát chung. 1.1. Đầu tư phát triển trong nền kinh tế quốc dân. Đầu tư là sự bỏ ra, sự hy sinh những cái gì đó ở hiện tại (tiền, sức lao động, của cải vật chất, trí tuệ) nhằm đạt được kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai, kết quả đó có thể là, kết quả về tài chính, về cở sở vật chất, về nâng cao trình độ,bổ xung kiến thức...). Đầu tư có thể phân chia làm 3 loại căn cứ vào bản chất và phạm vi lợi ích cho đầu tư mang lại: Đó là Đầu tư tài chính, Đầu tư thương mại, Đầu tư tài sản vật chất và sức lao động. Đầu tài chính (đầu tư tài sản tài chính) là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra cho vay hoặc các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu) hoặc lãi suất tuỳ thuộc và hiệu quả kinh doanh của công ty phát hành. Đầu tư tài chính không tạo ra sản phẩm mới cho nền kinh tế (xét trong phạm vi quốc gia) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân đầu tư nhưng đầu tư tài chính có tác dụng huy động vốn trong nền kinh tế , tăng hiệu quả sử dụng vốn và tạo ra các cân đối cho nền kinh tế . Đầu tư thương mại là đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra mua hàng hoá và sau đó bán với gía cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch khi mua vào và khi bán. Loại đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (không tính đến ngoại thương) mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của người đầu tư trong quá trình mua đi hán lại, chuyển giao quyền sở hữu giữa người bán và với người đầu tư, người đầu tư với khách hàng của họ. Tuy nhiên đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do phát triển tạo ra từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển tăng thu ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền kinh tế nói chung. Đầu tư tài sản vật chất và sức lao động. Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nên kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh của mọi hoạt động xã hội khác là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội . Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng nhà cửa và các cơ sở hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ và bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì, tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế, loại đầu tư này được gọi chung là đầu tư phát triển (loại hình đầu tư này chính là nền tảng cơ bản cho đầu tư thương mại và đầu tư tài chính). Ba loại hình đầu tư trên có mối liên hệ mật thiết với nhau, đầu tư thương mại và đầu tư tài chính thúc đẩy đầu tư phát triển , đầu tư phát triển là cơ sở của đầu tư thương mại và tài chính .Trong một nền kinh tế quốc dân, người ta coi đầu tư phát triển là một nhân tố quan trọng nhất để phát triển kinh tế , là chìa khoá của sự tăng trưởng, vai trò đó được thể hiện cả trên giác độ vi mô và vĩ mô. Xét trên giác độ vĩ mô, đầu tư phát triển có các vai trò chính sau: Thứ nhất : đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu. Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế , theo số liệu của WB. Đầu tư thường chiếm khoảng 24-28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư sẽ làm cho tổng cầu tăng khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên làm tăng sản lượng tiềm năng và giảm giá. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng, kích thích sản xuất và tăng tích luỹ để phát triển kinh tế xã hội , tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống mọi thành viên trong xã hội . Thứ hai: đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế . Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và tổng cung của nền kinh tế . Làm cho mỗi sự thay đỏi của đầu tư dù chỉ là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì ổn định vừa là yếu tố phá vỡ ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia. Thứ ba, đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế : kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy muốn giữ tốc độ tăng trưởng trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được từ 15-20% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước. Vốn đầu tư ICOR Vốn đầu tư Mức tăng GDP ICOR = Mức tăng GDP = Nếu ICOR không đổi mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư . ở các nước phát triển ICOR thường lớn , từ 5-7 do thừa vốn thiếu lao động, vốn được sử dụng nhiều để thay thế cho lao động , do sử dụng công nghệ hiện đại có giá trị cao. Còn ở các nước chậm phát triển , ICOR thường thấp, từ 2-3 do thiếu vốn thừa lao động, thừa lao động nên có thể và cần phải sử dụng nhiều lao động thay thế cho vốn do sử dụng công nghệ kém hiện đại, giá rẻ. Kinh nghiệm cho thấy ICOR phụ thuộc vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành, vùng lãnh thổ cũng như phụ thuộc vào hiệu quả của chính sách kinh tế nói chung . Thông thường ICOR trong nông nghiệp thấp hơn so với trong công nghiệp. ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ cấu kinh tế chủ yếu do tận dụng năng lực sản xuất . Do đó ở các nước phát triển , tỷ lệ đầu tư thấp thường dẫn đến tốc độ tăng trưởng thấp còn đối với các nước đang phát triển Việt Nam thì đầu tư đóng vai trò như “cú huých” ban đầu tạo đà cho sự cất cánh của nền kinh tế . Thứ tư : đầu tư có tác động to lớn đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Kinh nghiệm của các nước tiên tiến trên thế giới cho thấy : con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn (9-10%) là tăng cường đầu tư và tạo ra sự phát triển nhanh ở các khu vực công nghiệp và dịch vụ . Đối với các ngành nông lâm ngư nghiệp, do sự hạn chế về đất đai và khả năng sinh học , để đạt được tốc độ tăng trưởng 5-6% là rất khó khăn. Như vậy chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh trong toàn bộ nền kinh tế Về cơ cấu lãnh thổ: đầu tư có tác dụng giải quyết những sự mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ , đưa những vùng lãnh thổ kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói ngèo , phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên , địa thế , kinh tế , xã hội , chính trị của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy sự phát triển của những vùng khác. Xét trên giác độ các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ :đầu tư quyết định sự ra đời , tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở sản xuất , từ quá trình xây dựng nhà xưởng , cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc trên nền bệ, tiến hành công tác XDCB và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong mỗi chu kỳ của mỗi cơ sở sản xuất vừa lớn, hiện đại hoá đều được tiến hành thông qua hoạt động đầu tư . Bởi vậy hiệu quả của mỗi công cuộc đầu tư sẽ quyết định đến không chỉ sự tồn tại, phát triển của mỗi cơ sở sản xuất mà còn quyết định đến sự phát triển xã hội của mỗi ngành,vùng và cả nước. Cho nên nâng cao hiệu quả của mỗi công cuộc đầu tư , hiệu quả sử dụng nguồn vốn sẽ có ý nghĩa đặc biệt trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội trước mắt cũng như trong lâu dài; Đấu thầu là một giải pháp quan trọng thực hiện điều đó. 1.2 Đấu thầu. Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng được các yêu cầu của bên mòi thầu trên cơ sở cạnh tranh giữa các nhà thầu. Bên mời thầu là chủ đầu tư hoặc đại diện hợp pháp của chủ đầu tư có dự án cần thực hiện. Nhà thầu là tổ chức kinh tế có đủ điều kiện và có tư cách pháp nhân để tham gia đấu thầu. Nhà thầu có thể là cá nhân trong trường hợp đấu thầu tuyển chọn tư vấn; nhà thầu là nhà xây dựng trong đấu thầu xây lắp. Là nhà cung cấp trong đấu thầu mua sắm hàng hoá ; là nhà tư vấn trong đấu thầu tuyển chọn tư vấn, là nhà đầu tư trong đấu thầu dự án (lựa chọn đối tác ) . Theo tính chất công việc được thực hiện trong chu trình thực hiện dự án đầu tư , đấu thầu được chia thành: đấu thầu tuyển chọn tư vấn, đấu thầu mua sắm hàng hoá, đấu thầu xây lắp và đấu thầu dự án. Đấu thầu mua sắm hàng hoá là một trong những loại hình đấu thầu nhằm lựa chọn các nhà thầu thực hiện việc cung cấp vật tư thiết bị cho dự án. Vật tư thiết bị của dự án gồm thiết bị toàn bộ hoặc thiết bị lẻ, thành phẩm, bán thành phẩm, nguyên liệu và vật liệu. Đấu thầu xây lắp là loại đấu thầu nhằm lựa chọn nhà thầu thực hiện các công việc xây lắp của các dự án. Đây là loại hình phổ biến nhất hiện nay. Đấu thầu dự án là loại hình đấu thầu mà dự án không cần phải chia thành các gói thầu, các dự án thực hiện theo phương thức BT, BOT, BTO. Điểm khác biệt giữa đấu thầu thực hiện dự án và các loại khác là nhà thầu trong đấu thầu thực hiện dự án thực hiện tất cả các hoạt động từ tư vấn đấu thầu, mua sắm vật tư thiết bị, xây lắp và vận hành chuyển giao hay nói cách khác là hình thức lựa chọn nhà thầu thực hiện toàn bộ các công việc của dự án; Quá trình đấu thầu phải tuân theo những nguyên tắc sau: - Nguyên tắc cạnh tranh với điều kiện ngang nhau: mỗi cuộc đấu thầu phải được thực hiện với sự tham gia của các nhà thầu có đủ năng lực để hình thàn một cuộc cạnh tranh mạnh mẽ. Điều kiện đặt ra với các đơn vị dự thầu và thông tin cung cấp cho họ ngang bằng nhau, nhất thiết không có sự phân biệt đối xử. -Nguyên tắc dữ liệu đầy đủ: các nhà thầu phải được đầy đủ tài liệu dự thầu với các thông tin cần thiết rõ ràng, chi tiết và có hệ thống về quy mô, khối lượng, quy cách yêu cầu chất lượng của công trình hay hàng hoá dịch vụ cần cung ứng, về tiến độ và điều kiện thực hiện , để đảm bảo nguyên tắc này, chủ thể quản lý dự án phải nghiên cứu kỹ, tính toán, cân nhắc thấu đáo để tiên liệu rất kỹ và rất chắc chắn về mọi yếu tố cơ bản của dự án, phải cố tình tránh tình trạng chuẩn bị sơ sài, tắc trách. -Nguyên tắc đánh giá công bằng: các hồ sơ đấu thầu phải được đánh giá không thiên vị theo cùng một chuẩn mực và được đánh giá bởi một hội đồng có đủ năng lực và phẩm chất. Lý do để được chọn hay bị loại đều phải được giải thích đầy đủ để tránh sự ngờ vực. -Nguyên tắc trách nhiệm phân minh: không chỉ quyền lợi, nghĩa vụ của các bên tham gia được đề cập đến và chi tiết có trong hợp đồng mà phạm vi trách nhiệm của mỗi bên ở từng phần việc được phân định rõ ràng để không một sai sót nào mà không có người chịu trách nhiệm. Mỗi bên liên quan đều phải biết mình có gánh chịu những gì nếu có sai sót và do đó mỗi bên phải nỗ lực tối đa trong việc kiểm soát bất trắc và phòng ngừa rủi ro. -Nguyên tắc 3 chủ thể: tức là chủ công trình, nhà thầu và kỹ sư tư vấn. Trong đó kỹ sư tư vấn hiện diện như một nhân tố bảo đảm cho hợp đồng luôn được thực hiện nghiêm túc đến từng chi tiết , mọi sự bất cập về tiến độ , kỹ thuật đước phát hiện kịp thời, những biện pháp điều chỉnh thích hợp được đứa ra đúng lúc, đồng thời kỹ sư tư vấn cũng là nhân tố hạn chế tối đa với những mưu toan thông đồng , thoả hiệp hoặc châm chước, gây thiệt hại cho những chủ đích thực của dự án. - Nguyên tắc tuân thủ nghiêm ngặt sự quản lý thống nhất của Nhà nước. - Nguyên tắc bảo lãnh, bảo hành và bảo hiểm đích đáng. Đáp ứng được các nguyên tắc này sẽ đảm bảo tính đúng đắn khách quan, công bằng và hiệu quả trong đấu thầu được thực hiện. * Các hình thức và phương thức đấu thầu. -Các hình thức lựa chọn nhà thầu. * Các hình thức và phương thức đấu thầu: - Các hình thức lựa chọn nhà thầu. Thứ nhất, đấu thầu rộng rãi: Là hình thức đấu thầu không hạn chế số lượng nhà thầu tham gia bên mời thầu phải thông báo công khai về các điều kiện, thời gian dự thầu trên các phương tiện thông tin đại chúng tối thiểu 10 ngày trước khi phát hành hồ sơ mời thầu. Thứ hai, đấu thầu hạn chế: là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu mời một số nhà thầu (tối thiểu là 5)có đủ năng lực tham dự. Danh sách nhà thầu tham dự phải được người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền chấp thuận, hình thức này chỉ được xem xét áp dụng khi có một trong các điều kiện sau: - Chỉ có một số nhà thầu có khả năng đáp ứng được yêu cầu của gói thầu. - Các nguồn vốn sử dụng yêu cầu phải tiến hành đấu thầu hạn chế. - Do tình hình cụ thể của gói thầu mà việc đấu thầu hạn chế có lợi thế. Thứ ba, chỉ định thầu: là hình thức chọn trực tiếp nhà thầu đáp ứng yêu cầu của gói thầu để thương thảo hợp đồng. Thứ tư, chào hàng cạnh tranh; hình thức này áp dụng cho những gói thầu mua sắm hàng hoá có giá trị dưới 2 tỉ đồng. Mỗi gói thầu phải có ít nhất 3 chào hàng của 3 nhà thầu khác nhau trên cơ sở yêu cầu chào hàng của bên mời thầu. Thứ năm, mua sắm trực tiếp. Là hình thức được áp dụng trong trường hợp bổ sung hợp đồng cũ đã thực hiện xong (dưới 1 năm) hoặc hợp đồng đang thực hiện với điều kiện chủ đầu tư có nhu cầu tăng thêm số lượng hàng hoá hoặc khối lượng công việc mà trước đó đã được tiến hành đầu thầu, nhưng phải bảo đảm không được vượt mức giá hoặc đơn giá trong hợp đồng đã ký trước đó. Trước khi ký hợp đồng, nhà thầu phải chứng minh có đủ năng lực về kỹ thuật và tài chính để thực hiện gói thầu mà chủ đâù tư có đủ năng lực thực hiện trên cơ sở tuân thủ quy định tại khoản 3 điều 4 của quy chế đấu thầu (ban hành kèm theo nghị định 88CP) Thứ sáu, mua sắm đặc biệt: hình thức này được áp dụng với các ngành hết sức đặc biệt mà nếu không có những quy định riêng thì không thể đấu thầu được. Phương thức đấu thầu. Thứ nhất, đấu thầu một túi hồ sơ: là phương thức mà nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu trong một túi hồ sơ, phương thức này áp dụng với đấu thầu mua sắm hàng hoá và xây lắp. Thứ hai, đấu thầu hai túi hồ sơ: Là phương thức mà nhà thầu nộp đề xuất về kỹ thuật và đề xuất về giá trong từng túi hồ sơ riêng vào cùng một thời điểm, túi hồ sơ đề xuất kỹ thuật sẽ được xem xét trước để đánh giá các nhà thầu đát số điểm kỹ thuật từ 70% trở lên sẽ được tiếp tục mở túi hồ sơ đề xuất về giá để đánh giá phương thức này chỉ được áp dụng đối với đấu thầu tuyển chọn tư vấn. Thực chất của hoạt động tư vấn là cung cấp các kiến thức cần thiết, sản phẩm của quá trình tư vấn là trí tuệ khác với sản phẩm của xây dựng là công trình xây dựng, sản phẩm của quá trình mua sắm hàng hoá là hàng hoá nên giá trị sản phẩm tư vấn có phạm vi rất rộng, bởi tầm quan trọng đặc biệt của tư vấn tới toàn bộ hoạt động đầu tư trong khi giá trị tư vấn thường chỉ chiếm khoảng 1% giá trị vốn đầu tư do đó vấn đề lựa chọn tư vấn như thế nào là rất quan trọng, trước đây chúng ta áp dụng hình thức lựa chọn hai túi hồ sơ nhưng theo cách thức là: Nhà thầu đạt điểm kỹ thuật cao nhất (³65%) sẽ được mời vào thương thảo về túi hồ sơ tài chính, nếu nhà thầu thứ nhất không đạt được thoả thuận với chủ đầu tư thì tiếp tục mời nhà thầu xếp hạng thứ hai về kỹ thuật. Hiện nay đã thay bằng phương pháp tổng hợp như đã trình bày, tức là mở túi hồ sơ của nhà thầu có điểm kỹ thuật ³ 70% tổng số điểm và đánh giá bằng điểm tổng hợp ( = % điểm giá ´ điểm giá+ % điểm kỹ thuật ´ điểm kĩ thuật). Điều đó cho thấy tầm quan trọng của vấn đề kỹ thuật trong tư vấn, trong phần kỹ thuật vấn đề con người thường chiếm 50 - 60% tổng điểm. Cho nên áp dụng phương thức hai túi hồ sơ là để tăng hiệu quả của tư vấn. Trước hết cần lựa chọn nhà tư vấn có năng lực cao, có kinh nghiệm, có giải pháp tối ưu cho thực hiện đầu tư sau đó mới đến việc các chi phí phù hợp có thể chấp nhận được, trước đây ta thường dùng hình thức giá trần, giá sàn nhưng nay hình thức này đã bị bãi bỏ cũng là chỉ mục tiêu này. Thứ 3, đấu thầu hai giai đoạn; phương thức này áp dụng cho những trường hợp sau: * Các gói thầu mua sắm hàng hoá và xây lắp có giá trị từ 500 tỉ đồng trở lên. * Các gói thầu mua sắm hàng hoá có tính chất lựa chọn công nghệ thiết bị toàn bộ, phức tạp về công nghệ và kỹ thuật hoặc gói thầu xây lắp đặc biệt phức tạp. * Dự án thực hiện theo hợp đồng chìa khoá trao tay. Quá trình thực hiện như sau: - Giai đoạn một: Các nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu bao gồm đề xuất về kỹ thuật và phương án tài chính (chưa có giá), để bên mời thầu xem xét và thảo luận cụ thể với từng nhà thầu nhằm thống nhất về yêu cầu và tiêu chuẩn kỹ thuật để nhà thầu chuẩn bị và nộp hồ sơ dự thầu chính thức của mình. - Giai đoạn thứ hai: Bên mời thầu mời các nhà thầu tham gia trong giai đoạn thứ nhất nộp hồ sơ dự thầu chính thức với đề xuất kỹ thuật đã được bổ xung hoàn chỉnh trên cùng một mặt hàng kỹ thuật và đề xuất chi tiết về tài chính với đầy đủ nội dung về tiến độ thực hiện, điều kiện hợp đồng, giá dự thầu. 1.3. ý nghĩa của đấu thầu với hoạt động đầu tư phát triển trong nền kinh tế. Trong chu trình của mỗi dự án đầu tư phát triển dù của tư nhân hay của Nhà nước chủ đầu tư đều phải thực hiện rất nhiều các công việc khác nhau từ việc xây dựng, mua sắm vật tư thiết bị... Để thực hiện những công việc này chủ đầu tư có thể làm hoặc có thể thông qua tổ chức, cá nhân khác có đủ điều kiện và tư cách pháp nhân được chuyên môn hoá thực hiện trong nền kinh tế thị trường, các dự án đặc biệt là những dự án thuộc khu vực kinh tế Nhà nước được thực hiện thông qua phương thức thứ 2. Vấn đề còn lại và quan trọng nhất của chủ đầu tư là làm thế nào để lựa chọn được các tổ chức và cá nhân có khả năng thực hiện tốt nhất những công việc trong chu trình của một dự án, lịch sử phát triển và quản lý dự án trong nước và quốc tế đã khẳng định đấu thầu là phương pháp có hiệu quả nhất thực hiện mục tiêu này đảm bảo sự thành công của chủ đầu tư. Đấu thầu được xem như một phương pháp quản lý dự án có hiệu quả nhất hiện nay trên cơ sở chống độc quyền, tăng cường cạnh tranh giữa các nhà thầu. Thông qua đấu thầu cả chủ đầu tư và nhà thầu đều có được nhiều lợi ích. Đối với chủ đầu tư (bên mời thầu): khai thác được năng lực của nhà thầu, có ngay được đội ngũ lao động lành nghề năng lực cao, các trang thiết bị, máy móc kỹ thuật hiện đại phù hợp để xây dựng được công trình đảm bảo chất lượng cao, thời gian hợp lý và giá cả phải chăng (có thể là giá thấp nhất); tiếp nhận được chuyển giao công nghệ, kỹ thuật xây dựng các công trình phức tạp cũng như nâng cao tay nghề đội ngũ lao động trong nước thông qua hình thức thầu phụ, liên doanh liên kết. Thông qua đấu thầu (kể cả chọn tư vấn) mà hiệu quả của các hoạt động đầu tư phát triển không ngừng được nâng cao. Do các bước của chu trình dự án đều được thực hiện với chất lượng cao, từ lập dự án tiền khả thi đến vận hành các kết quả đầu tư... Đối với các nhà thầu: Thông qua đấu thầu có thể có được ngay dự án để thực hiện, tạo việc làm, tăng thu nhập và do có tính chất cạnh tranh mà nhà thầu sẽ không ngừng tìm các biện pháp cải tiêngân sách Nhà nước kỹ thuật, hiện đại hoá trang thiết bị máy móc, nâng cao tay nghề cho công nhân, nâng cao năng lực quản lý, giảm thiểu các chi phí không cần thiết để giảm giá thành nhằm thắng thầu các công trình điều đó sẽ làm cho hiệu quả các hoạt động đầu tư được đảm bảo. 2. Đấu thầu tuyển chọn tư vấn. 2.1. Khái quát chung về tư vấn. Tư vấn có thể được hiểu là "mọi hình thức mang lại sự giúp đỡ về nội dung, phương pháp, quá trình hoặc cơ cấu của nhiệm vụ trong đó chuyên gia tư vấn thực sự không chịu trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ đó mà chỉ giúp đỡ những người có trách nhiệm làm việc đó mà thôi". Cũng có thể hiểu "tư vấn là dịch vụ cố vấn có hợp đồng và do những người có trình độ và được đào tạo đặc biệt cung cấp cho các tổ chức, những người này giúp đỡ khách quan và độc lập cho các tổ chức khách hàng để xác định các vấn đề quản lý giám sát, phân tích các vấn đề đó và kiến nghị các giải pháp giải quyết vấn đề đó đồng thời giúp đỡ thực hiện các giải pháp này khi đạt yêu cầu. Như vậy tư vấn về bản chất là dịch vụ cố vấn, cán bộ tư vấn là những cố vấn, không có thẩm quyền trực tiếp quyết định về những thay đổi và thực hiện các quyết định đó. Chức năng của cán bộ tư vấn là đảm bảo chất lượng và tính toàn vẹn của các dịch vụ mà họ thực hiện, khách hàng chịu hoàn toàn trách nhiệm phát sinh trong quá trình thực hiện các quyết định, tất nhiên trên thực tế của công tác tư vấn, "cố vấn" cũng có nhiều phương án và mức độ khác nhau, không phải chỉ đưa ra những lời khuyên nhủ đúng đắn mà còn phải đúng cách đúng người và đúng thời điểm. Đó là những kỹ năng cơ bản. và là ngệ thuật của người chuyên gia tư vấn. đương nhiên là khách hàng cũng phải có đủ kỹ năng để tiếp nhận và lời khuyên của cán bộ tư vấn. Tư vấn là một dịch vụ độc lập, chuyên gia tư vấn phải có khả năng đưa ra đánh giá độc lập của mình về một tình huống. Nói thật vấn đề và kiến nghị một cách thẳng thắn và khách quan cho tổ chức khách hàng về việc cần phải làm gì và không cần để ý gì đến việc điều đó sẽ ảnh hưởng như thế nào đến lợi ích của chính mình. Sự vô tư đó của cán bộ tư vấn có nhiều vẻ và có thể là vấn đề hết sức phức tạp trong một số trường hợp; Tư vấn phải đảm bảo: Độc lập về tài chính, có nghĩa là tư vấn không có lợi ích gì trong hoạt động của khách hàng, lòng mong muốn có được nhiều hợp đồng dịch vụ tư vấn hơn với cùng một khách hàng trong tương lai không ảnh hưởng gì đến tính khách quan của những lời khuyên nhủ trong vụ việc tư vấn ngày nay. Độc lập về hành chính. Có nghĩa là chuyên gia tư vấn không phải là cấp dưới của khách hàng và không bị ảnh hưởng bởi những quyết định hành chính của khách hàng. Độc lập về chính trị, có nghĩa là cán bộ quản lý cũng như nhân viên của tổ chức khách hàng không thể sử dụng quyền lực và các mối liên hệ về chính trị, đàm phán và những ảnh hưởng tương tự để gây ảnh hưởng không chính thức tới cán bộ tư vấn. Độc lập về cảm xúc, có nghĩa là cán bộ tư vấn luôn duy trì được sự vô tư của mình không tính đến các mối quan hệ bạn bè và các mối quan hệ họ hàng khác mà chúng có thể tồn tại ngay từ đầu hoặc phát triển lên trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tư vấn. Tư vấn có thể được mời đến khi một tổ chức thiếu những người có khả năng giải quyết các vấn đề, với cơ hội như nhau để thành công , thông thường là cần những phương pháp và kỹ thuật đặc biệt mà càn bộ tư vấn là chuyên gia; trong các trường hợp khác vấn đề được đưa ra có thể rất tổng quát nếu tổ chức đã không đạt được mục đích cơ bản của mình và kỹ năng đó có thể liên quan đến: chuẩn đoán, chiến lược, kế hoạch, phối hợp, hệ thống thông tin và nhiều vấn đề tổng quát tương tự khác hoặc cán bộ quản lý có thể thấy thực hiện cải tiến là cần thiết những tổ chức của họ lại thiếu những người có kỹ năng lập ra kế hoạch, tạo dựng và thực hiện có hiệu quả quá trình thay đổi không ít khó khăn mà người cán bộ tư vấn có thể cung cấp những kỹ năng đó làm cho khách hàng nhận biết được những mối liên hệ tổ chức, các quá trình ra giúp khách hàng xây dựng và thay đổi chiến lược xây dựng và theo đuổi chiến lược phù hợp cho sự thay đổi. - Nhứng tiếp xúc đầu tiên với khách hàng - Chuẩn đoán sơ bộ vấn đề - Lập kế hoạch vụ việc tư vấn - Kiến nghị vụ việc tư vấn với khách hàng - Hợp đồng tư vấn - Tìm hiểu sự việc - Phấn đấu và tổng hợp sự việc khảo sát chi tiết các vấn đề. - Xây dựng các giải pháp - Đánh giá các giải pháp có thể thay thế nhau - Kiến nghị với khách hàng - Lập kế hoạch thực hiện - Trợ giúp việc thực hiện - Kiến nghị điều chỉnh - Đào tạo - Đánh giá - Báo cáo cuối cùng - Giải quyết các cam kết - Các kế hoạch tiếp tục về sau - Chấm dứt Nhập cuộc Chuẩn đoán Lập kế hoạch hành động Thực hiện Kết thúc Sự giúp đỡ của tư vấn đối với khách hàng là một quá trình, quá trình tư vấn chính là hoạt động liên hiệp của khách hàng và của cán bộ tư vấn nhằm giải quyết những vấn đề cụ thể đã thoả thuận, thông thường quá trình này gồm 5 giai đoạn: nhập cuộc, chuẩn đoán, lập kế hoạch hành động, thực hiện và kết thúc: Như vậy quá trình tư vấn chính là quá trình giải quyết vấn đề bởi bản chất tư vấn là hình thức giải quyết vấn đề, sự khác biết giữa tư vấn và các hình thức giải quyết vấn đề khác nhau biểu hiện ở sự tham gia của chuyên gia tư vấn. Tư vấn có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, cơ bản là: Các công ty tư vấn, công ty dịch vụ kỹ thuật, quản lý xây dựng, công ty tư vấn quản lý, công ty dịch vụ mua sắm, công ty giám định, công ty kiểm tóan, các cơ quan liên hợp quốc, các tổ chức quốc tế, các ngân hàng, trường đại học, viện nghiên cứu, cơ quan Chính phủ, tổ chức phi Chính phủ, cá nhân....Các loại hình tư vấn này hoạt động trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội, với đội ngũ cán bộ, chuyên gia có năng lực cao, chuyên môn sâu, kỹ năng thành thạo, các công t._.y, đơn vị tư vấn đã giúp cho các hoạt động kinh tế xã hội ngày càng trở nên có hiệu quả hơn. 2.2. Tính cấp thiết của tư vấn đầu tư tại Việt Nam. Từ sau khi có luật đầu tư nước ngoài, các luật khuyến khích đầu tư, dòng vốn đâù tư từ ngoài vào nước ta ngày càng gia tăng, tính đến 31/12/1996 Nhà nước đã cấp giấy phép cho 1864 dự án với số vốn đăng ký là 28, 924 tỷ USD nếu trừ đi 18 dự án đã hết hạn hoạt động với số vốn là 0,253 tỷ USD, 178 dự án bị giải thể với tổng số vốn là 1,673 tỷ USD, số dự án hiện còn hiệu lực là 1568 dự án với số vốn đăng ký là 26,997 tỷ USD tính bình quân trong 5 năm (1988 - 1996) số dự án tăng bình quân 50% năm. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần tích cực vào giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội bức xúc của nước ta như huy động các nguồn lực từ bên ngoài phục vụ quá trình công nghiệp hoá đất nước, đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ tạo thêm việc làm, học tập nâng cao trình độ quản lý tăng thêm hàng hoá đáp ứng nhu cầu thay thế hàng nhập khẩu và hướng ra xuất khẩu, tạo thêm nguồn thu cho ngân sách; Bên cạnh những tác động tích cực đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng đặt ra nhiều vấn đề phức tạp, trong đó nổi lên một số vấn đề sau: Thứ nhất: Lựa chọn sai đối tác và lĩnh vực đầu tư, phần lớn các dự án rút giấy phép có nguyên nhân từ đây. Thứ hai: Những thủ tục hành chính phức tạp và phiền hà trong qúa trình xin giấy phép đầu tư và triển khai dự án đầu tư làm nhiều nhà đầu tư nản lòng và nhiều trường hợp làm lỡ cơ hội kinh doanh. Thứ ba: Đánh giá sai lệch trình độ và giá cả thiết bị đầu tư nước ngoài góp vào liên doanh, sự sai lệch này dẫn đến nhiều thua thiệt của phía Việt Nam trong hợp tác liên doanh với nước ngoài. Thứ tư: Hoạt động của một số dự án không đạt được hiệu quả như dự kiến do những khiếm khuyết trong quản lý điều hành và sự không ổn định của môi trường kinh doanh. Thật ra trong điều kiện chúng ta còn chưa có kinh nghiệm thu hút và quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài nhiều nhà đầu tư cũng chưa thật hiểu rõ và thích ứng với điều kiện đầu tư tại Việt Nam những khiếm khuyết đó là khó tránh khỏi. Song nếu các nhà đầu tư trong và ngoài nước chú trọng hơn đến việc lựa chọn và sử dụng các dich vụ tư vấn đầu tư thì có thể tránh được những khó khăn hoặc giảm thiểu được những rủi ro trong quá trình đầu tư. Kinh nghiệm thực tiễn của nhiều nước trên thế giới cho thấy rõ vai trò của tư vấn bởi việc bảo đảm sự an toàn và hiệu quả của quá trình đầu tư có một nghịch lý là những nhà kinh doanh có kinh nghiệm, các tổ chức kinh doanh có quy mô lớn, cơ cấu kinh doanh phức tạp lại coi trọng việc lựa chọn và sử dụng dịch vụ tư vấn hơn các nhà kinh doanh ít kinh nghiệm và các tổ chức kinh doanh nhỏ. ở những nước phát triển người ta coi tư vấn là một loại dịch vụ thiết yếu, nhà tư vấn là người bạn đồng hành với các nhà kinh doanh, đáng tiếc là ở Việt Nam dịch vụ tư vấn chưa được đặt đúng vị trí của nó, đôi khi các nhà kinh doanh, các chủ đầu tư quá tin vào kinh nghiệm và năng lực của mình để rồi chuốc lấy những thất bại to lớn. Mặt khác, đối với các công cuộc đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách Nhà nước vẫn tồn tại một thực trạng cơ bản là: chưa có quy hoạch tổng thể chi tiết cho các lĩnh vực dẫn đến đầu tư dàn trải, không trọng điểm, ít hiệu quả. Trong qua trình đầu tư nhiều dự án bị bỏ dở vì thiếu vốn vì không nghiên cứu kỹ về các yếu tố thay đổi khi lập báo cáo khả thi, một số dự án kéo dài quá lâu khâu đầu tư ban đầu, không đi vào vận hành kịp thời để lõ mất cơ hội đầu tư; chất lượng xây dựng, tuổi thọ củ nhiều công trình không đảm bảo yêu cầu của thiết kế kỹ thuật một phần do thiếu sự kiểm tra, giám sát điều hành chặt chẽ có khoa học, một phần do các đơn vị thiếu năng lực thi công; Nguồn vốn đầu tư bị thất thoát nhiều từ khâu cấp phát đến khâu sử dụng làm một số công trình có quyết toán cao hơn nhiều so với giá trị thực tế... Trước thực trạng đó, để tăng hiệu quả các hoạt động đầu tư sử dụng vốn Nhà nước, vốn ODA; Việc sử dụng tư vấn đầu tư từ khâu khảo sát lập quy hoạch, lập dự án tiền khả thi, khả thi đến thực hiện đầu tư, quản lý nguồn vốn...là một trong những giải pháp quan trọng trong quá trình đầu tư. Cho nên hiệu quả của sự lựa chọn tư vấn gắn chặt với hiệu quả của từng dự án đầu tư. Với một tư vấn có đủ trình độ năng lực sẽ hỗ trợ đắc lực cho chủ dự án từ việc nghiên cứu cơ hội đầu tư đến vận hành có hiệu quả các kết quả của công cuộc đầu tư và ngược lại tư vấn không đảm bảo yêu cầu sẽ hạn chế thậm chi triệt tiêu cả công cuộc đầu tư; vì vậy phát triển lực lượng tư vẫn cũng như việc lựa chọn tư vấn phù hợp có vai trò đặc biệt quan trọng với các hoạt động đầu tư. Để đáp ứng yêu cầu đó trong tình hình hiện nay song song với việc tạo hành lang cho tư vấn đầu tư, phát triển lực lượng tư vấn thì phải thay đổi nhận thức, suy nghĩ về vai trò của tư vấn có như vậy tư vấn đầu tư mới có đất để hoạt động đáp ứng đòi hỏi bức xúc của nền kinh tế. 2.3 Đấu thầu tuyển chọn tư vấn tại Việt Nam. Đấu thầu tuyển chọn tư vấn là một trong những chuẩn bị và thực hiện đầu tư nhằm lựa chọn nhà thầu thực hiện các công việc tư vấn chuẩn bị dự án, tư vấn thực hiện dự án và các tư vấn khác (quản lý dự án, thu xếp tài chính, đào tạo chuyển giao công nghệ...). Sở dĩ có sự phân loại như vậy là vì nếu theo phương thức tự làm tức là chủ đầu tư, đơn vị có nhu cầu xây dựng thực hiện quá trình xây dựng thì chủ đầu tư không đủ năng lực về đội ngũ liên doanh, cơ sở vật chất kỹ thuật nên chủ đầu tư chỉ có thể đảm nhận được những công trình hoặc hạng mục công trình nhỏ, đơn giản; chủ đầu tư cần có sự hỗ trợ của tư vấn đặc biệt là đối với các công trình không thuộc chuyên môn của mình. Để đạt được mục tiêu của mình nhà đầu tư có thể thông qua chuyên gia tư vấn độc lập hoặc một tổ hợp các nhà tư vấn môĩ người trong đó có khả năng thoả mãn tối ưu từng mặt trong những yêu cầu đã nêu: Đầu tư là một quá trình cấu thành từ nhiều công đoạn khác nhau nhà đầu tư có thể sử dụng dịch vụ tư vấn trong tất cả các công đoạn hoặc một số công đoạn họ cho là cần thiết; dịch vụ tư vấn trong các công đoạn bao gồm những nội dung chủ yếu sau: Trong công đoạn hình thành dự án đầu tư nhà đầu tư cần những dịch vụ tư vấn liên quan đến những nội dung về . * Có cơ hội đầu tư trong đó đặc biệt là môi trường đâù tư. * Lĩnh vực đầu tư, khả năng và điều kiện đạt tới mục tiêu đầu tư trong lĩnh vực đó. * Những vấn đề liên quan đến đối tác như mục tiêu và thiện chí hợp tác, năng lực công nghệ, tài chính, sự am hiểu về lĩnh vực kinh doanh. * Lập hoặc thẩm định các dự án tiền khả thi, dự án khả thi. Trong công đoạn xin giấy phép đầu tư, ở nước ta, chỉ đang trong quá trình cải tiến từ “nhiều cửa” “nhiều dấu” sang “một cửa, một dấu” để rút ngắn thời gian xin giấy phép đầu tư, các nhà đầu tư trong và ngoài nước rất cần những dịch vụ tư vấn sau đây: * Lập các hồ sơ xin giấy phép đầu tư, từ quá trình phương án kinh doanh, điều lệ hợp tác liên doanh đến các hồ sơ bổ túc kém theo: * Trực tiếp giao dịch với các cơ quan hữu quan trong quá trình thẩm định hồ sơ dự án đầu tư. * Thực hiện các công việc hành chính sau khi nhận giấy phép đầu tư, như đăng ký kinh doanh tại toà án kinh tế, đăng thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng về sự ra đời và hoạt động của các pháp nhân kinh tế mới. Trong giai đoạn triển khai dự án đầu tư, những dịch vụ tư vấn có tầm quan trọng hàng đâù mà các nhà đầu tư quan tâm là: * Những công việc liên quan đến quá trình xây dựng cơ bản như thiết kế, thẩm kê dự án và thẩm định dự án, lựa chọn nhà thầu xây dựng cơ bản, giám sát quá trình xây dựng. * Khởi thảo hợp đồng chuyển giao công nghệ phù hợp với nội dung của dự án và pháp lệnh chuyển giao công nghệ của Nhà nước. * Đánh giá trình độ và giá trị của công nghệ được chuyển giao. Trong công đoạn khai thác dự án đầu tư, nội dung của dịch vụ tư vấn mà các nhà đầu tư cần là những dịch vụ liên quan đến quá trình vận hành của doanh nghiệp như xử lý các tình huống phát sinh trong quá trình kinh doanh, những quan hệ với bạn hàng, tranh trấp giữa các bên. Trong công đoạn kết thúc dự án đầu tư, tất cả các trường hợp việc kết thúc dự án được xử lý theo trình tự nhất định, dịch vụ tư vấn sẽ giúp các bên thực hiện theo quy định của luật pháp và theo đúng theo quy định của điều lệ nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mỗi bên như đánh giá và phân chia tài sản, xử lý công nợ. Cũng cần phải nhấn mạnh rằng trong tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, các nhà đầu tư có nhu cầu tư vấn nhưng không nhất thiết họ phải sử dụng tất cả các nội dung của tư vấn nêu trên, việc sử dụng loại tư vấn nào phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng của nhà đầu tư có các loại tư vấn các bên phối hợp với nhau cùng sử dụng, có loại tư vấn chỉ một bên sử dụng thậm chí cùng một nội dung nhưng các bên sử dụng tư vấn riêng. Trình tự tổ chức đấu thầu: - Lập hồ sơ mời thầu: Thư mời thầu, điều khoản tham chiếu (mục đích, phạm vi công việc, tiến độ, trách nhiệm, nhiệm vụ của tư vấn,trách nhiệm của bên mời thầu và các nội dung liên quan khác) các thông tin cơ bản liên quan, các điều kiện ưu đãi nếu có, các phụ lục chi tiết kèm theo). - Thông báo đăng ký dự thầu: Thông báo trên các phương tiện thông tin thích hợp hoặc gửi trực tiếp cho các nhà thầu do các cơ quan hoặc tổ chức có liên quan cung cấp thông tin giới thiệu. - Xác định danh sách ngắn: Việc xác định danh sách ngắn được thực hiện theo các tiêu chuẩn lựa chọn được người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền chấp thuận và phải được phê duyệt. - Mời thầu: Bên mời thầu cung cấp hồ sơ mời thầu cho các nhà thầu trong danh sách ngắn. - Nhận và quản lý hồ sơ dự thầu: Bên mời thầu chỉ nhận hồ sơ dự thầu nộp đúng hạn theo quy định của hồ sơ mời thầu và quản lý theo chế độ quản lý hồ sơ “mật”. - Mở túi hồ sơ đề xuất kỹ thuật: Thực hiện theo các tiêu chuẩn đánh giá được quy định trong hồ sơ mời thầu và tiêu chuẩn đánh giá chi tiết được người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền phê duyệt trước thời điểm mở túi hồ sơ đề xuất kỹ thuật. - Mở túi hồ sơ đề xuất tài chính: Mở đồng thời túi hồ sơ đề xuất tài chính của các nhà thầu đạt từ 70% tổng số điểm kỹ thuật trở lên. - Đánh giá tổng hợp: Việc cho điểm để xếp hạng phải căn cứ vào cơ cấu điểm giữa kỹ thuật và giá trên cùng một mặt bằng đã nêu trong hồ sơ mời thầu; tỉ trọng điểm về giá không vượt quá 30% tổng số điểm ; Điểm giá được tính như sau (giả sử tính 100 điểm ) Điểm giá (của nhà thầu đang xét) = Giá dự thầu thấp nhất x 100 Giá dự thầu của nhà thầu đang xét Công thức tính điểm đối với hồ sơ dự thầu: Điểm tổng hợp = điểm kỹ thuật x (K %) + điểm giá x (G %) Trong đó: K % là tỉ trọng về kỹ thuật ( tối thiểu = 70%) G % là tỉ trọng về giá ( tối đa =30%) - Trình duyệt các danh sách xếp hạng các nhà thầu. - Thương thảo hợp đồng: Bên ngoài thầu xếp hạng thứ nhất đến thương thảo hợpđồng trong trường hợp không thành công, bên mời thầu sẽ mời nhà thầu xếp hạng tiếp theo đến thương thảo những phải được người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền cấp phê duyệt. - Trình duyệt kết quả đấu thầu. - Công bố trúng thâù và thương thảo hoàn thiện hợp đồng: Bên mời thầu thông báo kết quả đấu thầu được phê duyệt cho các nhà thầu tham gia dự thầu, tiến hành thương thảo hoàn thiện hợp đồng với nhà thầu trúng thầu. - Trình duyệt nội dung hợp đồng và ký hợp đồng. * Tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu của nhà thầu tư vấn, tiêu chuẩn này được nêu ngay trong hồ sơ mời thầu. Khi tiêu chuẩn đánh giá nêu trong hồ sơ mời thầu còn chưa cụ thể thì hoặc cần lập tiêu chuẩn phê duyệt đánh giá chi tiết và phải được người hoặc cấp có thẩm quyền phê duyệt trước khi mở thầu; thường sử dụng phương pháp chấm điểm để đánh giá hồ sơ dự thầu tư vấn (điểm 100 hoặc 1000) Thứ nhất: Tiêu chuẩn đánh giá về kỹ thuật - Về kinh nghiệm (khoảng 10 đến 20% tổng số điểm). Nội dung này bao gồm: + Kinh nghiệm thực hiện các gói thầu tương tự do nhà thầu đã thực hiện trong vòng 3 đến 5 năm gần đây (tuỳ theo từng gói thầu). + Kinh nghiệm thực hiện các gói thầu có điều kiện tương tự về mặt tự nhiên xã hội và kinh tế đã thực hiện trong vòng 3 đến 5 năm gần đây. Các nội dung khác: Năng lực nhà thầu: số lượng, chất lượng đội ngũ chuyên gia hiện có của nhà thầu, doanh thu trong vòng 3 - 5 năm gần đây. Kinh nghiệm quản lý: mức độ phù hợp về trình độ quản lý hiện đại của nhà thầu so với yêu cầu của gói thầu. Các hoạt động khác: Tỉ trọng về điểm và mức điểm yêu cầu tối thiểu của từng nội dung về kinh nghiệm được xác định tuỳ thuộc vào tính chất của từng gói thầu. - Về giải pháp và phương pháp luận (30 - 40% tổng số điểm), bao gồm: +Hiểu rõ yêu cầu mục đích của gói thầu: mức độ hiểu biết của nhà thầu về mục đích, yêu cầu của gói thầu được nêu trong “điều khoản tham chiếu”. +Phương pháp luận do nhà thầu đề xuất: mức độ hoàn chỉnh, hợp lý của phương pháp luận do nhà thầu đề xuất so với yêu cầu nêu trong “điều khoản tham chiếu”. +Sáng kiến cải tiến: các sáng kiến cải tiến do nhà thầu đề xuất sẽ được xem xét trong quá trình đánh giá. +Chương trình công tác: tính hợp lý củ sơ đồ tổ chức, biểu đồ công tác, lịch bố trí nhân sự. + Công lao động (tháng - người): mức độ phù hợp về công lao động (tháng/người) do nhà thầu đề xuất so với yêu cầu nêu trong hồ sơ mời thầu. + Đào tạo và chuyển giao công nghệ: Mức độ phù hợp với yêu cầu của hồ sơ mời thầu về nội dung đào tạo như số lượt người được đào tạo, thời gian đào tạo, hình thức đào tạo tại hiện trường, theo lớp, trong nước, ngoài nước, về nội dung chuyển giao công nghệ như tài liệu và các phần mềm cần chuyển giao. +Phương tiện làm việc: Sự hợp lý về các yêu cầu hỗ trợ chỗ làm việc, trong thiết bị, cán bộ hỗ trợ của bên mời thầu, phương tiện đi lại. + Cách trình bày: Mức độ trình bày hồ sơ dự thầu của nhà thầu. Tỷ trọng điểm và mức điểm yêu cầu tối thiểu của từng nội dung về giải pháp và phương pháp luận được xác định tuỳ thuộc vào tính chất của từng gói thâù. - Tiêu chuẩn về nhân sự (khoảng 50 đến 60% tổng số điểm), Nội dung này bao gồm: +Nhân sự theo chức danh của từng chuyên gia: chức danh nhân sự tham gia gói thầu thường bao gồm: Cố vấn trưởng (đội trưởng) và chức danh của các chuyên gia khác thuộc từng lĩnh vực cụ thể. Tỷ trọng điểm và mức điểm yêu cầu tối thiểu của các chức danh được xác định căn cứ theo tính chất của từng gói thầu. Thông thường điểm của cố vấn trưởng (đội trưởng) chiếm tỷ trọng cao nhất; khi đánh giá nhân sự theo từng chức danh cần lưu ý một số điểm sau Đối với cố vấn trưởng (đội trưởng): yêu cầu về kinh nghiệm đối với chuyên gia này là đã làm cố vấn trưởng trong những dự án trước đây. Đồng thời yêu cầu về kinh nghiệm và năng lực của cố vấn này như yêu cầu đối với chuyên gia thuộc lĩnh vực cụ thể khác, chuyên gia với tư cách là cố vấn trưởng phải có tối thiểu 5 năm công tác trở lên thuộc lĩnh vực chuyên môn có liên quan đến dự án. Đối với các chuyên gia thuộc các lĩnh vực cụ thể: yêu cầu về trình độ học vấn và những kết quả đào tạo có liên quan đến giá thầu, yêu cầu về phạm vi công việc và kinh nghiệm thực hiện đối với gía thầu. Trong quá trình xây dựng tiêu chuẩn đánh giá cần phân biệt các chuyên gia làm việc thường xuyên và các chuyên gia làm hợp đồng cho nhà thầu. Cam kết của các chuyên gia về lý lịch và đảm bảo quỹ thời gian để thực hiện gói thầu. + Tiêu chuẩn nhân sự của từng chức danh được xem xét trên 4 nội dung sau kinh nghiệm chung (10 - 20% tổng số điểm của từng chức danh): trình độ học vấn, số năm công tác. Kinh nghiệm có liên quan đến gói thầu (60 - 70% tổng số điểm của từng chức danh): số lượng gói thầu tương tự đã thực hiện. Các yếu tố khác (10 - 20% Tổng số điểm của từng chức danh): kinh nghiệm làm việc ở nước ngoài, ngoại ngữ.... Biên chế thường xuyên của các chuyên gia thuộc nhà thầu (50% Tổng số điểm của từng chức danh). Thứ hai: Tiêu chuẩn đánh giá tổng hợp về kỹ thuật và giá. Tiêu chuẩn đánh giá tổng hợp bao gồm tiêu chuẩn về kỹ thuật và tiêu chuẩn về giá, trong đó tiêu chuẩn kỹ thuật không được dưới 70% và tiêu chuẩn về giá không được vượt quá 30% Tổng số điểm; cách tính tiêu chuẩn tổng hợp như đã trình bày (sau đó các nhà thầu sẽ được xếp hạng theo điểm tổng hợp). Nguồn vốn dành cho các hoạt động tư vấn thường chỉ chiếm khoảng 1% tổng số vốn đầu tư, nhưng lại rất quan trọng vì nó quyết định hiệu quả của 99% số vốn còn lại, do đó các hoạt động đấu thầu tuyển chọn tư vấn rất được coi trọng đặc biệt là sự chặt chẽ trong khâu xét duyệt cho nên các tổ chức tài chính lớn, các nhà tài trợ như WB, ADB, DECF đều có những quy định nghiêm ngặt trong tuyển chọn tư vấn cho các dự án mà mình cho vay. Ví dụ: Theo ADB Dịch vụ tư vấn, cả tư vấn cá nhân và công ty tư vấn, trong các lĩnh vực khác nhau được ngân hàng sử dụng để thực hiện các hoạt động của mình và được các bên vay cần sự hỗ trợ của tư vấn để đảm bảo đạt hiệu quả kinh tế tối đa trong việc chuẩn bị xây dựng, vận hành dự án cũng như trong quá trình thực hiện các hoạt động có liên quan...Vì vậy trong các định ước vay ODA của WB, ADB, JBIC cho các dự án đều có quy định phải tổ chức đấu thầu tuyển chọn tư vấn cũng như đấu thầu thực hiện dự án. Để thực hiện có hiệu quả các dự án, việc chọn ra nhà tư vấn nào cho nhà đầu tư là có vai trò then chốt nên trong quá trình tổ chức đấu thầu tuyển chọn tư vấn, việc vận dụng hợp lý các quy định, kinh nghiệm của các tổ chức quốc tế vào hoàn cảnh cụ thể Việt Nam sẽ giúp cho các công cuộc đấu thầu mang lại hiệu quả cao đó là chọn được nhà tư vấn đáp ứng được yêu cầu của chủ đầu tư, của dự án với chi phí phù hợp. Chương II: Thực trạng công tác đấu thầu tuyển chọn tư vấn hiện nay ở Việt Nam. 1. Thực trạng Tư vấn đầu tư tại Việt Nam. 1.1. Tư vấn đầu tư trong nước. Với chủ trương đa dạng hoá việc huy động các nguồn vốn ở Việt Nam trong những năm gần đây đã xuất hiện nhiều loại hình đầu tư, FDI, ODA, BOT đặc biệt là các nguồn vốn ODA chiếm tỷ trọng đáng kể trong khoảng 500 - 600 triệu USD/năm, 300 triệu USD từ ADB và khoảng 500 - 800 triệu USD/ năm từ JBIC chỉ tính riêng chi phí cho các hoạt động tư vấn cho các dự án vay từ các tổ chức tài trợ lớn như ADB, WB và JBIC đã lên tới 240 triệu USD trong vòng 3 năm bình quân 80 triệu USD/năm. Trong thời gian tới nguồn vốn đầu tư này phát triển càng kéo theo chi phí cho công tác tư vấn cũng tăng lên, hoạt động tư vấn đa dạng và phức tạp, chủ yếu là chất xám, sản phẩm của trí tuệ, vì vậy chỉ có được các dịch vụ tư vấn hoàn hảo khi nhà tư vấn có chuyên môn giỏi và có đạo đức hành nghề tốt hay nói các khác là có lương tâm nghề nghiệp; thời kỳ 1992 - 1995 là thời kỹ bùng nổ của các công ty tư vấn trong nước; Riêng Bộ xây dựng đã cấp chứng chỉ hành nghề cho trên dưới 200 đơn vị, Bộ kế hoạch đầu tư (tới tháng 7/1997) cũng đã cấp 34 chứng chỉ hành nghề dịch vụ tư vấn đầu tư chưa kể hàng loạt các công ty tư vấn do các Bộ, Địa phương cấp giấy phép hoạt động. Hiệp hội tư vấn xây dựng Việt Nam cho biết tính đến cuối 1997 có tới 429 đơn vị tư vấn xây dựng được cấp chứng chỉ hành nghề, có rất nhiều các công ty tư vấn ra đời nhưng chưa có chuẩn mực đánh giá quy định việc thành lập, phần lớn các công ty tư vấn Việt Nam năng lực còn chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế. Tư vấn Việt Nam có thể hoạt động với 3 hình thức: Có thể liên doanh,Trong một tổ chức hoặc trong một dự án, hình thức này sẽ đảm bảo cho sự bình đẳng giữa các bên tư vấn trong việc thực hiện dự án nhưng hình thức này ít phổ biến; hình thức phổ biến nhất là liên danh hay liên kết với các tổ chức tư vấn quốc tế, khi tham gia hình thức này, tư vấn trong nước không tham gia ký kêt hợp đồng, trong nhiều trường hợp họ cũng không được mời tham gia thương thảo hợp đồng mà chỉ đóng vai trò thầu phụ. Hình thức thứ 3 là tư vấn độc lập cho các tổ chức tư vấn khác về cung cấp người, thông tin ...trường hợp này thường xảy ra khi một tổ chức tư vấn nhận được nguồn kinh phí để hoạt động. Xét về lâu dài mục tiêu của tư vấn Việt Nam là trở thành một thành viên trong liên doanh thực hiện dự án, các hình thức khác vẫn được khuyến khích và chấp nhận và đặc điểm chung của tư vấn trong nước hiện nay là sự non trẻ về tuổi đời và thiếu kinh nghiệm, hệ thống trong nghề nghiệp tư vấn theo thông lệ quốc tế, nguyên nhân là do đất nước trải qua những cuộc chiến tranh kéo dài và sự tiếp cận với các hệ thống quốc tế mới chỉ thực sự bắt đầu thập kỷ 90 khi có đường lối đổi mới và mở cửa của Đảng; chỉ có một vài công ty có tuổi đời 30 năm còn lại là từ 3-5 năm nên chưa tiếp cận được với các thông lệ quốc tế và còn yếu kém về kinh nghiệm và năng lực. Tuy vậy, tư vấn trong nước có những ưu điểm cơ bản về khả năng tiếp thu nhanh và tinh thần quyết tâm học hỏi là tiền đề cho sự phát triển; hiện nay tư vấn trong nước đang ở giai đoạn liên kết để học hỏi, phát triển dần nhưng cũng còn rất nhiều vấn đề nảy sinh trong sự liên kết này. Thứ nhất về chuyển giao về tiếp cận công nghệ tư vấn. Quá trình liên kết là quá trình tiếp thu những kinh nghiệm và công nghệ tư vấn theo thông lệ quốc tế bao gồm các khâu: thủ tục trình tự, tổ chức thực hiện và quản lý dự án, đào tạo chuyên gia, những công nghệ và giải pháp kỹ thuật mới, mở rộng tầm nhìn, tiếp cận và trang bị những kỹ thuật hiện đại, phục vụ cho công tác KSTK... Thực sự là trong vòng 5- 7 năm liên kết; Về mặt xây dựng ,nhiều dây chuyền công nghệ hiện đại đã được nhập vào Việt Nam ( ở đây phải nhấn mạnh rằng chủ yếu vốn bằng nguồn vốn tự có của tư vấn trong nước, kết hợp với một số trang bị trong một vài dự án cụ thể) những công nghệ xây dựng là mới với Việt Nam nhưng quen thuộc với các nước cũng đang được phát triển như xây dựng đương theo tiêu chuẩn ASSHTO, cọc khoan nhồi đường kính lớn, đúc lòng, đúc dẩy, cầu đây văng... Để đẩy nhanh quá trình chuyển giao và tiếp cận công nghệ tư vấn cần phải có sự nỗ lực từ hai phía: tư vấn trong nước phải chủ động trong kế hoạch và thực hiện, tư vấn nước ngoài phải có đủ thiện chí và sẵn sàng giúp đỡ, chuyển giao. ở đây cần có vai trò của chủ đầu tư trong khi thương thiyết hợp đồng đặt ra những nghĩa vụ và quy định nội dung, kinh phí để tư vấn nước ngoài thực hiện, không nên quá chú trọng đến một số chuyến đi tham quan nước ngoài. Thứ hai: về hiệu quả kinh tế. Xét về mặt kinh tế có thể nhận xét rằng đối với hình thức công ty liên doanh, hầu như không đạt được hiệu qủa nào đáng kể, còn đối với các liên danh, liên kết theo từng dự án thì sao? So với công ty liên doanh về tư vấn thì hình thức này phổ cập hơn nhiều vì nó là bắt buộc khi tư vấn trong nước chưa đủ mạnh để đấu thầu độc lập và quy định của nhà nước Việt Nam đòi hỏi các tư vấn nước ngoài phải liên danh hoặc liên kết với tư vấn trong nước để đấu thầu đặc biệt là các dự án ODA ,các bên cho vay đều buộc ta phải đấu thầu quốc tế về tư vấn. Trong lĩnh vực này đang có sự phát triển theo tỷ lệ % do tư vấn Việt Nam đảm nhận ngày càng lớn trong tổng chi phí cho tư vấn của dự án. ở các dự án đầu , tư vấn trong nước thường là tư vấn phụ mà không trực tiếp tham gia vào đấu thầu. Khi tư vấn nước ngoài trúng thầu, tư vấn trong nước cử một số người để tư vấn nước ngoài quản theo thoả thuận giữa hai bên về số người- tháng và đơn giá do nhà nước duyệt. Kết quả là tư vấn Việt Nam có dịp đào tạo tư vấn trong nước nhưng lại có rủi ro là người giỏi dễ bị mất tuy công việc vẫn còn. ở các dự án gần đây đã phát triển thành các liên danh đấu thầu giữa tư vấn Việt Nam và tư vấn nước ngoài với các hợp đồng chia việc trước như toàn bộ công tác điều tra, khảo sát, thí nghiệm do tư vấn trong làm, một phần thiết kế và lập hồ sơ đấu thầu cũng do tư vấn trong nước làm, tỉ lệ % do tư vấn trong nước làm hiện mới chỉ chiếm khoảng 15% chi phí tư vấn cho dự án, nhưng đó cũng là một bước tiến mới. Song nó sẽ đi kèm rủi ro là khi mà tư vấn trong nước đã phát triển thì nhiều liên danh sẽ không trúng thầu mặc dù có lực lượng mạnh, đây cũng là tất yếu khi thị trường tư vấn phát triển đó là chưa kể tới những rủi ro khác. khi có sự dàn xếp và can thiệp bên ngoài vào sự bố trí các liên danh tham gia đấu thầu. Một hình thức mới xuất hiện ở các dự án ODA và đã có bài bản ở các dự án FDI là tư vấn Việt Nam đứng ra trực tiếp đấu thầu cạnh tranh quốc tế với các tư vấn nước ngoài điều này đòi hỏi tư vấn trong nước phải có đội ngũ chuyên gia mạnh cả về quản lý dự án lẫn chuyên môn. Có trường hợp tư vấn trong nước đã thuê tư vấn nước ngoài (cá nhân) làm dự án cho mình, đây là một hướng phát triển đầy thử thách. Xét về hiệu quả đối với ngân sách Nhà nước, có thể nhận thấy. Nếu ta chỉ quản lý tư vấn trong nước với mức lương tính toán cỡ 1000USD/tháng. So với quản lý cả tư vấn nước ngoài với mức lương tính toán cỡ 20.000 USD/tháng sẽ thấy ngay hiệu quả về tài chính mà cần xem xét một cách toàn diện những yếu tố đảm bảo cho sự cạnh tranh bình đẳng giữa tư vấn trong nước và tư vấn nước ngoài. Yếu tố đầu tiên cần xét đến là mức lương của tư vấn Việt Nam và tư vấn nước ngoài; hiện tại lương tư vấn nuớc ngoài(TVNN) trong các dự án thường bằng 20 - 25 lần so với lương TVTN(tư vấn trong nước), nếu so mức lương của kỹ thuật viên độ chênh lệch đến 40 lần vì vậy tư vấn trong nước dù có tham gia với khối lượng lớn đến đâu thì cũng chỉ nhận được một giá trị sản lượng rất nhỏ so với tư vấn nước ngoài. Chúng ta đã nhận thấy rõ sự không bình đẳng này trước hết nằm trong cơ chế tiền lương; Lương một kĩ sư nước ngoài bằng 20 - 40 lần lương kỹ sư Việt Nam. Giả thiết rằng sự chênh lệch mức lương này rút lại còn từ 3 - 5 lần, khi đó tình hình xảy ra là: Hoặc, các liên doanh tư vấn trong và ngoài nước vẫn tồn tại: hiển nhiên là trong trường hợp này sản lượng của tư vấn trong nước sẽ tăng đáng kể, lưu ý rằng một trong những chính sách của các tư vấn địa phương theo thông tin thì WB và ADB chấp nhận sản lượng tư vấn trong nước có thể lên tới 40 - 50%; Hoặc, tư vấn trong nước và tư vấn nước ngoài cùng tồn tại, độc lập đấu thầu tư vấn: trên cùng một mặt bằng về trình độc chuyên môn, tư vấn trong nước sẽ có nhiều lợi thế để cạnh tranh. Khi bàn về lương tư vấn trong nước, các công ty nước ngoài cũng thừa nhận sự bất hợp lý này. Họ luôn giải thích rằng chính họ cũng đề nghị tăng lương cho tư vấn trong nước lên ít nhất 2000 USD/tháng song không được phía Việt Nam chấp nhận. Vì vậy Nhà nước cần phải xem xét lại chính sách tiền lương và những điểm khác trong cơ chế sao cho điều chỉnh được cơ cấu giá thành giữa tư vấn trong nươc, tư vấn nước ngoài và dịch vụ khảo sát trên cơ sở vẫn giữ nguyên tổng giá thành tư vấn (thường chiếm từ 7 - 10% Tổng dự toán cho toàn bộ các dịch vụ văn phòng, đi lại, khảo sát, lập dự án, tư vấn giám sát) tránh tình trạng tư vấn trong nước tham gia tới 90% tổng số Man. Month (người - tháng) và thực hiện toàn bộ các dịch vụ khảo sát nhưng chỉ nhận được tối đa 15% Tổng giá trị hợp đồng. Bản thân các công ty tư vấn trong nước cũng cần tìm cách vươn lên để tự khẳng định mình thông qua tiếp thu công nghệ mới từ tư vấn nước ngoài. Thay đổi cách hoạt động của mình, tăng cường hợp tác với tư vấn nước ngoài, các tổ chức quốc tế để nhanh chóng hội nhập và nâng cao trình độ... Việt Nam cần hình thành các công ty tư vấn đầu đàn đủ mạnh tạo điều kiện tham gia liên doanh với tư vấn nước ngoài hoặc tham gia đấu thầu các gói thầu tư vấn có giá trị lớn, đòi hỏi kỹ thuật cao. 1.2. Tư vấn đầu tư nước ngoài. Các công ty tư vấn nước ngoài là một lực lượng quan trọng thậm chí là chủ yếu tham gia vào các cuộc đấu thầu tuyển chọn tư vấn tại Việt Nam đặc biệt là các dự án sử dụng nguồn vốn viện trợ quốc tế (từ WB, ADB, JBIC) và đều dành phần thắng trong các dự án quan trọng, các dự án sử dụng vốn quốc tế. Đóng góp của tư vấn nước ngoài vào các dự án là rất lớn. Giúp triển khai nhanh chóng các dự án, đảm bảo tiến độ và chất lượng công trình... Hầu hết các đơn vị trong nước đều hài lòng với chất lượng công việc của tư vấn. Khi tham gia vào đấu thầu tại Việt Nam các công ty nước ngoài có rất nhiều lợi thế: trước hết là tư vấn trong nước chưa phát triển nên sự cạnh tranh là rất ít, các công ty tư vấn trong nước tham gia vào đấu thầu chủ yếu bằng liên danh, liên kết và làm thầu phụ cho các công ty nước ngoài. Thứ hai, các công ty tư vấn nước ngoài có đội ngũ kỹ sư, chuyên viên kỹ thuật có trình độ tay nghề cao, có đầy đủ độ chính xác cần thiết của các thiết bị đo đạc địa hình, khoan thăm dò, thí nghiệm hiện trường, thí nghiệm trong phòng... Trong khi đó các tổ chức tư vấn trong nước không chỉ thiếu về cán bộ chuyên môn, cán bộ quản lý dự án mà thiết bị phương tiện làm việc rất nghèo nàn lạc hậu; Nguyên nhân chính là do đơn giá xây dựng, đơn giá các dịch vụ tư vấn của ta quá thấp,nguồn kinh phí khảo sát thiết kế trả cho các công ty tư vấn quá chậm, hàng năm doanh thu chỉ đạt được khoảng 50 - 60% giá trị hoàn thành bàn giao do vậy không thể có khả năng tái đâù tư chiều sâu, tái sản xuất và tăng thêm sức mạnh của công y. Trong quá trình thực hiện hợp đồng tư vấn nước ngoài, sẽ có nhiều thuận lợi nếu họ liên kết có hiệu quả với các đơn vị tư vấn Việt Nam, bởi tư vấn nước ngoài cũng có nhiều hạn chế khi cung cấp các dịch vụ tại Việt Nam; do tư vấn không hiểu rõ về tình hình Việt Nam nên một số dự án bước triển khai ban đầu gặp nhiều khó khăn và mất thời gian để tư vấn nắm bắt vấn đề, có nhiều dự án do thay đổi nhân sự chính (về hưu, sức khoẻ, chuyển công tác khác) nên ảnh hưởng đến hiệu quả công việc chung; Hầu hết các dự án đều chậm so với tiến độ đề ra nguyên nhân chính là do việc xét thầu, phê duyệt kết quả xét thầu, phê duyệt hợp đồng, thực hiện hợp đồng bị kéo dài; tư vấn phần lớn tập trung chính vào phần kỹ thuật, còn ít chủ động trong phần thương mại để có các ý kiến tham mưu cho chủ đầu tư, các dự án đều gặp khó khăn về tài chính vì tiến độ kéo dài phát sinh các công việc đòi hỏi tư vấn phải làm thêm giờ so với dự kiến ban đầu trong hợp đồng; nhiều khi không có sự hiểu nhau giữa tư vấn và chủ đầu tư về phương pháp làm việc dẫn đến những khó khăn trong thời gian đầu hợp tác; Mức độ chuyển giao công nghệ chưa cao ( chỉ đạt mức trung bình), không đáp ứng được mong muốn và yêu cầu của phía Việt Nam; Xuất hiện nhiều trở ngại dẫn đến việc sử dụng chưa hiệu quả tư vấn nước ngoài như, khó khăn trong giao tiếp (ngôn ngữ, chênh lệch kiến thức), thiếu nhân lực trong nước có đủ khả năng, một số thủ tục quy định chưa rõ ràng, chồng chéo, phí thù lao còn quá chênh lệch giữa tư vấn trong nước và tư vấn nước ngoài. Theo các nhà tư vấn nướcngoài, để phía Việt N._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29050.doc
Tài liệu liên quan