Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty TNHH Bình Minh

Mục lục Lời Nói Đầu Từ sau đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam nền kinh tế nước ta từng bước chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, một nền kinh tế hướng ngoại. Từ đó mọi hoạt động kinh tế, tài chính tín dụng, tiền tệ tín dụng trên thế giới và trong khu vực. Trong bối cảnh chung của đất nước thì mỗi đơn vị, tổ chức kinh tế hay doanh nghiệp cũng chịu tác động ảnh hưởng theo, các doanh nghiệp muốn tồn tại

doc72 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1363 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty TNHH Bình Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đứng vững và ngày càng phát triển, đòi hỏi phải có tiềm lực mạnh mẽ về mặt tài chính để có điều kiện cạnh tranh và tiến hành sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Mặt khác, theo đà phát triển của kinh tế,các quan hệ kinh tế tài chính ngày càng mở rộng và đa dạng. Vì vậy vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải có lượng vốn nhất định đồng thời tiến hành phân phối, quản lý và sử dụng nguồn vốn một cách có hiệu quả nhất. Quản lý và sử dụng vốn sao cho có hiệu quả là một nội dung quan trọng trong công tác quản lý tài chính của mỗi doanh nghiệp. Nó giúp cho các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho tình hình tài chính của doanh nghiệp luôn ở trạng thái ổn định và lành mạnh. Đây cũng là một vấn đề thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư, lãnh đạo doanh nghiệp và những người làm công tác tài chính kế toán. Xuất phát từ thực tế đó em mạnh dạn chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty TNHH Bình Minh” làm đề tài nghiên cứu cho báo cáo tốt nghiệp của mình. Phạm vi nghiên cứu đề tài là thông qua nguồn số liệu trong các báo cáo tài chính năm 2002, 2003,2004của Công ty TNHH Bình Minh Ngoài ra báo cáo tốt nghiệp còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu kinh tế như phương pháp tổng hợp phân tích, so sánh, hệ số… để làm rõ bản chất nội dung nghiên cứu. Báo cáo tốt nghiệp em bố trí theo bố cục như sau: Ngoài phần lời nói đầu và kết luận, chuyên đề được chia thành 3 chương sau: Chương I: Những vấn đề chung về vốn và hiệu quả sử dụng vốn. Chương II: Thực trạng tình hình quản lý và sử dụng vốn của Công ty TNHH Bình Minh Chương III :Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sư dụng vốn tại công ty TNHH Bình Minh Chương I: Những vấn đề chung về vốn và hiệu quả sử dụng vốn I. Những vấn đề chung về vốn 1. Khái niệm về vốn Do vai trò quan trọng của vốn trong sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp nói riêng và của một nền kinh tế nói chung, từ trước tới nay không chỉ có các doanh nghiệp, những nhà quản lý quan tâm, trăn trở về nguồn huy động và cách thức sử dụng vốn mà ngay cả các nhà kinh tế, nhà lý luận đã tốn không ít giấy mực và tâm trí để đưa ra một định nghĩa, một định nghĩa hoàn chỉnh nhất về vốn của doanh nghiệp. Dưới giác độ các yếu tố sản xuất, Các Mác đã khái quát hoá vốn thành phạm trù tư bản.Theo Các Mác, tư bản là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là một đầu vào của quá trình sản xuất. Định nghĩa của ông có tầm khái quát lớn. Tuy nhiên, do hạn chế của trình độ phát triển kinh tế lúc bấy giờ, Các Mác quan niệm chỉ có khu vực sản xuất vật chất mới tạo ra giá trị thặng dư. Paul.A.Samuelson nhà kinh tế học theo trường phái “tân cổ điển” đã thừa kế quan niệm về các yếu tố sản xuất của trường phái cổ điển và chia các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất ra thành 3 loại chủ yếu là: Đất đai, lao động và vốn. Theo ông, vốn là các hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ cho một quá trình sản xuất mới, là đầu vào cho hoạt động sản xuất của một doanh nghiệp: Đó có thể là các máy móc, trang thiết bị, vật tư, đất đai, giá trị nhà xưởng… Trong quan niệm về vốn của mình, Samuelson không đề cập tới các tài sản tài chính, những giấy tờ có giá đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Trong môn kinh tế học của D.Begg, tác giả đã đưa ra 2 định nghĩa vốn hiện vật và vốn tài chính của doanh nghiệp. Vốn hiện vật là dự trữ các hàng hoá đã sản xuất ra để sản xuất ra các hàng hoá khác; vốn tài chính là tiền và các giấy tờ có giá của doanh nghiệp. Như vậy D.Begg đã bổ sung vốn tài chính vào định nghĩa vốn của Samuelson. Trong 2 định nghĩa trên, các tác giả đã thống nhất nhau ở điểm chung cơ bản là: Vốn là đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, trong cách định nghĩa của mình, các tác giả đã đều thống nhất vốn với tài sản của doanh nghiệp. Theo sách từ điển kinh tế học thì vốn được dùng để chỉ nhân tố sản xuất do hệ thống kinh tế sản xuất ra. Hàng hoá tư bản là những hàng hoá được sản xuất ra, sau đó được sử dụng làm nhân tố đầu vào phục vụ cho các quá trình sản xuất khác như máy móc, trang thiết bị, nhà xưởng, nguyên vật liệu. Do khái niệm này bao gồm nhiều thứ khác nhau nên việc xác định khối lượng tư bản là vấn đề gây nhiều tranh cãi giữa các nhà kinh tế. “Thuật ngữ vốn thường được sử dụng để chỉ giá trị của máy móc, nhà xưởng và trang thiết bị”. Thực chất, vốn là biểu hiện bằng tiền, là giá trị của tài sản mà doanh nghiệp đang nắm giữ. Vốn và tài sản là 2 mặt hiện vật và giá trị của một bộ phận nguồn lực mà doanh nghiệp động vào quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Vốn biểu hiện mặt giá trị, nghĩa là vốn phải đại diện cho một loại giá trị hàng hoá, dịch vụ, một loại giá trị tài sản nhất định. Nó là kết tinh của giá trị chứ không phải là đồng tiền in ra một cách vô ý thức rồi bỏ vào đầu tư. Trong nền kinh tế thị trường, vốn là một loại hàng hoá. Nó giống các hàng hoá khác ở chỗ có chủ sở hữu nhất định. Song nó có điểm khác vì người chủ sở hữu có thể bán quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định. Giá của vốn (hay còn là lãi xuất) là cái giá phải trả về quyền sử dụng vốn nên vốn có thể lưu chuyển trong đầu tư kinh doanh và sinh lời. Dưới góc độ của doanh nghiệp, vốn là một trong những điều kiện vật chất cơ bản, kết hợp với sức lao động và các yếu tố khác làm đầu vào cho quá trình sản xuất kinh doanh. Sự tham gia của vốn không chỉ bó hẹp trong một quá trình sản xuất, riêng biệt, chia cắt, mà trong toàn bộ các quá trình sản xuất và tái sản xuất liên tục, suốt trong thời gian tồn tại của doanh nghiệp, từ khi bắt đầu quá trình sản xuất đầu tiên cho tới chu kỳ sản xuất cuối cùng. Tóm lại, vốn là một phạm trù được xem xét, đánh giá theo nhiều quan niệm, với nhiều mục đích khác nhau. Do đó, khó có thể đưa ta một định nghĩa về vốn thoả mãn tất cả các yêu cầu, các quan niệm đa dạng. Song hiểu một cách khái quát, ta có thể coi: Vốn kinh doanh là toàn bộ những giá trị ứng ra ban đầu hay các giá trị tích luỹ được cho các quá trình sản xuất tiếp theo của doanh nghiệp. 2. Vai trò của vốn. Vốn là điều kiện không thể thiếu được để thành lập một doanh nghiệp và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Để doanh nghiệp được phép thành lập bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải đầu tư một số vốn nhất định không nhỏ hơn mức vốn pháp định, là mức vốn tối thiểu mà pháp luật quy định đối với mỗi ngành nghề. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn đóng vai trò đảm bảo cho hoạt động của doanh nghiệp được tiến hành thuận lợi theo mục đích đã định. Nó là một trong bốn yếu tố đầu vào cơ bản của sản xuất. Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được đảm bảo khi hội đủ các yếu tố: vốn, lao động, tài nguyên và kỹ thuật công nghệ. Nhưng xét cho cùng thì điều kiện đầu tiên và quyết định là vốn khi có vốn, doanh nghiệp có thể sử dụng để thuê lao động, mua tài nguyên và công nghệ. Vì thế, vốn được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu, là điều kiện không thể thiếu để tiến hành sản xuất, tái sản xuất và mở rộng sản xuất kinh doanh. Vai trò của vốn chỉ có thể được phát huy trên cơ sở thực hiện các chức năng tài chính, thực hiện yêu cầu của cơ quan hạch toán kinh doanh. Điều đó có nghĩa là thực hành tiết kiệm, hiệu quả, trên cơ sở tự chủ về tài chính, doanh nghiệp phải sử dụng hợp lý, đúng mức vốn bỏ ra, phải làm sao với số vốn nhất định có thể thực hiện được nhiều việc nhất. Để khẳng định vai trò của vốn, Các Mác đã nói “Tư bản đứng vị trí hàng đầu vì tư bản là tương lai”. 3. Những đặc trưng cơ bản của vốn. Vốn là đại diện cho một lượng giá trị tài sản: điều đó có nghĩa là vốn được biểu hiện bằng giá trị của các tài sản hữu hình và vô hình như: Nhà xưởng, máy móc, thiết bị, đất đai, bằng phát minh, sáng chế,....Do đó một lượng tiền phát hành đã thoát ly khỏi giá trị thực của hàng hoá để đưa vào đầu tư, những khoản nợ mà không có khả năng thanh toán thì không được coi là vốn. Vốn luôn vận động để sinh lời: Vốn được biểu hiện bằng tiền, nhưng tiền chỉ là dạng tiềm năng của vốn, để trở thành vốn thì đồng tiền phải được đưa vào hoạt động kinh doanh để sinh lời. Trong quá trình hoạt động, vốn có thể thay đổi hình thái biểu hiện những điểm xuất phát và điểm cuối cùng của vòng tuần hoàn phải là giá trị – là tiền. Đồng vốn đến điểm xuất phát mới với giá trị lớn hơn. Đó cũng là nguyên tắc đầu tư, sử dụng, bảo toàn và phát triển vốn. Nói một cách khác, vón kinh doanh trong quá trình tuần hoàn luôn có ở mọi giai đoạn của quá trình tái sản xuất và thường xuyên chuyển từ dạng này sang dạng khác. Các giai đoạn này được lạp đi lặp lại theo một chu kỳ, mà sau mỗi chu kỳ vốn kinh doanh được đầu tư nhiều hơn. Chính yếu tố này đã tạo ra sự phát triển của các doanh nghiệp theo quy luật tái sản xuất mở rộng. - Trong quá trình vận động vốn không tách rời chủ sở hữu: Trong nền kinh tế thị trường không thể có một đồng vốn vô chủ. Nếu tách rời thì đó là những đồng vốn lãng phí, không hiệu quả. Ngược lại, chỉ có xác định rõ chủ sở hữu thì đồng vốn mới được sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả. Cần phải phân biệt rõ quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn, đó là hai quyền năng khác nhau.Tuỳ theo hình thức đầu tư mà người có quyền sở hữu và người có quyền sư dụng đồng nhất hoặc riêng rẽ. Song dù trong trường hợp nào thì người sở hữu vốn vẫn được quyền ưu tiên đảm bảo quyền lợi và được tôn trọng quyền sở hữu của mình. Đây là một nguyên tác để huy động và quản lý vốn. - Vốn phải được tập trung tích tụ đến một lượng nhất định mới có thể phát huy tác dụng: Để tiến hành hoạt động và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh vốn phải được tích tụ thành khoản lớn. Do đó doanh nghiệp không chỉ khai thác tiềm năng về vốn trong doanh nghiệp mà còn phải tìm cách huy động, thu hút nguồn vốn từ bên ngoài như: góp vốn liên doanh, liên kết, phát hành cổ phiếu, trái phiếu, vay nợ,..... - Vốn có giá trị về mặt thời gian. Trong điều kiện kinh tế thị trường cần phải xem xét yếu tố thời gian của đồng vốn vì nó ảnh hưởng đến sự biến động giá cả thị trường, lạm phát,... nên sức mua của đồng tiền ở mỗi thời kỳ là khác nhau. - Vốn là loại hàng hoá đặc biệt. Những người sẵn có vốn có thể đưa vào thị trường, người cần vốn thì vay. Nghĩa là người đi vay được quyền sử dụng vốn của người cho vay. Người đi vay phải trả một khoản tiền cho người cho vay. Đây là một khoản chi phí sử dụng vốn mà người đi vay phải trả cho người cho vay, hay nói một cách khác chính là giá của quyền sử dụng vốn. Khác với các loại hàng hoà thông thường khác, “ hàng hoá vốn” khi bán đi sẽ không mất quyền sở hữu mà chỉ mất quyền sử dụng trong một thời gian nhất định. Việc mua bán này diễn ra trên thị trường tài chính, giá mua bán tuân theo quan hệ cung – cầu về vốn trên thị trường. - Trong nền kinh tế thị trường, vốn không chỉ được biểu hiện bằng tiền của những tài sản hữu hình mà nó còn biểu hiện giá trị của những tài sản vô hình như: Vị trí địa lý kinh doanh, nhãn hiệu, bản quyền, phát minh sáng chế, bí quyết công nghệ... Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường thì khoa học, kỹ thuật, công nghệ cũng phát triển mạnh mẽ. Điều này làm cho tài sản vô hình ngày càng đa dạng phong phú, đóng góp một phần không nhỏ trong việc tạo ra khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Từ những đặc trưng này cho phép ta phân biệt giữa tiền và vốn: giữa một số quỹ tiền tệ khác trong doanh nghiệp và vốn. Vốn kinh doanh được sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh tức là cho mục đích tích luỹ chứ không phải mục đích tiêu dùng như một số quỹ khác trong doanh nghiệp. Vốn kinh doanh được ứng ra cho một chu kỳ sản xuất kinh doanh và phải thu về khi chu kỳ đó két thúc. Và lại được ứng cho chu kỳ tiếp theo. Vì vậy kinh doanh không thể “ tiêu dùng” như một số quỹ khác trong doanh nghiệp. Mất vốn kinh doanh đồng nghĩa với nguy cơ phá sản doanh nghiệp. Ngoài ra muốn có vốn thì phải có tiền song có tiền chưa hẳn là đã có vốn. Tiền được coi là vốn phải thoả mãn những điều kiện sau: Tiền phải đại diện cho một lượng hàng hoá nhất định, tức là phải được đảm bảo bằng một lượng hàng hoá nhất định có thực. Tiền phải được tập trung, tích tụ thành một khoản nhất định đủ sức đầu tư cho một dự án kinh doanh nào đó. Nếu tiền rải rác, không gom thành khoản thì không làm được gì. Khi đã đủ về lượng, tiền phải vận động nhằm mục đích sinh lời, cách thức, hình thái vận động của tiền phụ thuộc vào phương thức kinh doanh. Ngoài những đặc trưng cơ bản trên tiền còn có một số đặc trưng nữa mang tính riêng biệt như: + Là nguồn duy nhất tạo ra giá trị mới + Vừa là chủ thể quản lý vừa là đối tượng quản lý. + Tiềm ẩn trong mọi người, phụ thuộc vào tư tưởng, tình cảm, môi trường,..., chỉ biểu hiện khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. 4. Phân loại vốn trong doanh nghiệp Căn cứ vào mục đích, thời hạn, và tính chất sử dụng vốn mà người ta phân chia thành các loại sau: 4.1. Xét về vai trò và tính chất luân chuyển vốn khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh có thể phân thành hai loại. 4.1.1. Vốn cố định: Là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về tài sản cố định mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành 1 vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết thời hạn sử dụng. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, sự vận động được gắn liền với hình thái biểu hiện vật chất của nó là tài sản cố định. Vì vậy, khi nghiên cứu về vốn cố định trước hết phải dựa trên cơ sở tìm hiểu về tài sản cố định. Tư liệu sản xuất được chia thành 2 bộ phận là đối tượng lao động và tư liệu lao động. Đặc điểm của tư liệu lao động là chúng có thể tham gia một cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào nhiều chu kỳ sản xuất. Trong quá trình đó mặc dù tư liệu sản xuất bị hao mòn nhưng chúng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu. Chỉ khi nào chúng bị hư hỏng hoàn toàn hoặc không còn lợi ích kinh tế thì khi đó chúng mới bị thay thế. Tài sản cố định trong các doanh nghiệp là những tư liệu lao động có giá trị lớn tham gia một cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp qua nhiều chu kỳ sản xuất. Còn giá trị của nó được chuyển dịch dần từng phần vào giá trị sản phẩm trong các chu kỳ sản xuất. Một tư liệu lao động để thoả mãn là tài sản cố định phải có đồng thời 4 tiêu chuẩn cơ bản sau: Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó; Nguyên giá tài sản phải được xác định một cách đáng tin cậy; Thời gian sử dụng ước tính trên 1 năm; Có đủ tiêu chuẩn giá trị theo quy định hiện hành. Nếu phân loại theo hình thái vật chất thì tài sản cố định có 2 loại là tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình. + Tài sản cố định hữu hình là những tài sản có hình thái biểu hiện là vật chất cụ thể như: nhà xưởng, máy móc, thiết bị, đất đai, vật tư.... + Tài sản cố định vô hình là những tài sản không có hình thái vật chất cụ thể như: bằng phát minh sáng chế, bí quyết công nghệ, bản quyền, chi phí sáng lập doanh nghiệp, lợi thế thương mại...Trong nền kinh tế thị trường để nâng cao khả năng của việc đầu tư tài sản cố định vô hình là rất quan trọng. Những chi phí đó cũng được quan niệm như giá trị của một tài sản cố định và phải được thu hồi dần để mua sắm tài sản cố định mới. Khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, sự vận động của tài sản cố định có những đặc điểm sau: - Về mặt hiện vật: Tài sản cố định tham gia hoàn toàn và nhiều lần vào quá trình sản xuất kinh doanh và nó bị hao mòn dần, bao gồm cả hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Nói một cách khác, giá trị sử dụng sẽ giảm dần cho đến khi tài sản cố định bị loại ra khỏi quá trình sản xuất kinh doanh. - Về mặt giá trị: Giá trị của tài sản cố định được chuyển dịch dần từng phần vào giá trị sản phẩm mà nó tạo ra trong quá trình sản xuất. Đặc điểm về mặt hiện vật và giá trị của tài sản cố định đã quyết định đến đặc điểm chu chuyển của vốn cố định. Song quy mô của vốn cố định lại được quyết định đến đặc điểm chu chuyển của vốn cố định. Qua mối liên hệ đó ta có thể khái quát những nét đặc thù về sự vận động của vốn cố định trong sản xuất kinh doanh: - Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất. Có đặc điểm này là do tài sản cố định có thể phát huy trong nhiều kỳ sản xuất, vì vậy hình thái biểu hiện bằng tiền của nó cũng được tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất tương ứng. - Vốn cố định luân chuyển dần dần, từng phần khi tham gia vào quá trình sản xuất, giá trị sử dụng của tài sản giảm dần. Theo đó vốn cố định cũn tách thành 2 phần: một phần sẽ gia nhập vào chi phí sản xuất sản phẩm (dưới hình thức chi phí khấu hao) tương ứng với giảm dần giá trị sử dụng của tài sản cố định. Phần còn lại của vốn cố định được “cố định” trong đó. Trong các chu kỳ sản xuất kế tiếp, nếu như phần vốn luân chuyển dần dần được tăng lên thì phần vốn cố định lại giảm đi tương ứng với mức suy giảm dần về giá trị sử dụng của tài sản cố định. Kết thúc sự biến thiên nghịch chiều đó cũng là lúc tài sản cố định hết thời hạn sử dụng và vốn cố định cũng hoàn thành 1 vòng luân chuyển. Để quản lý và sử dụng vốn cố định có hiệu quả ta phải nghiên cứu các phương pháp phân loại và kết cấu của tài sản cố định. - Theo hình thái biểu hiện: + Tài sản cố định hữu hình: Nhà xưởng, máy móc, thiết bị… + Tài sản cố định vô hình: bằng phát minh, sáng chế… - Theo nguồn hình thành: + Tài sản cố định tự có: được đầu tư bằng vốn ngân sách cấp hoặc vốn CSH. + Tài sản cố định đầu tư bằng vay vốn, thuê ngoài… - Theo công dụng kinh tế: + Tài sản cố định dùng cho sản xuất kinh doanh cơ bản. + Tài sản cố định dùng cho ngoài sản xuất kinh doanh cơ bản. - Theo tình hình sử dụng: + Tài sản cố định đang sử dụng. + Tài sản cố định chưa sử dụng. + Tài sản cố định không cần sử dụng. Mỗi cách phân loại có ý nghĩa khác nhâu giúp nhà quản trị đánh giá được tình hình tài sản cố định và từ đó có biện pháp tác động để sử dụng vốn cố định có hiệu quả hơn. 4.1.2. Vốn lưu động. Vốn lưu động của là số vốn bằng tiền ứng trước để đầu tư, mua sắm tài sản lưu động của doanh nghiệp nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục. Trong quá trình sản xuất kinh doanh bên cạnh tài sản cố định, doanh nghiệp luôn có một khối lượng tài sản nhất định nằm rải rác trong các khâu của quá trình tái sản xuất : dự trữ chuẩn bị sản xuất, phục vụ sản xuất, phân phối, tiêu thụ sản phẩm. Đây chính là tài sản lưu động của doanh nghiệp. Tài sản lưu động chủ yếu nằm trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp là các đối tượng lao động. Đối tượng lao động khi tham gia vào quá trình sản xuất không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, bộ phận chủ yếu của đối tượng lao động sẽ thông qua quá trình sản xuất tạo nên thực thể của sản phẩm, bộ phận khác sẽ hao phí mất đi trong quá trình sản xuất. Đối tượng lao động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất do đó toàn bộ giá trị của chúng được dịch chuyển 1 lần vào giá trị sản phẩm và được thực hiện khi sản phẩm trở thành hàng hoá. Bên cạnh một số tài sản cố định nằm trong quá trình lưu thông, thanh toán, sản xuất… thì doanh nghiệp còn có một số tư liệu lao động khác như vật tư phục vụ quá trình tiêu thụ, các khoản hàng gửi bán, các khoản phải thu… Từ đó, ta có thể rút ra vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về tài sản lưu động và tài sản lưu động lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được thực hiện một cách thường xuyên liên tục. Như vậy, dưới góc độ tài sản thì vốn lưu động được sử dụng để chỉ các tài sản lưu động. Vốn lưu động chịu sự chi phối bởi tính luân chuyển của tài sản lưu động, vốn lưu động luôn được chuyển hoá qua nhiều hình thái vật chất khác nhau và chuyển hoá phần lớn vào giá trị của sản phẩm, phần còn lại chuyển hoá vào quá trình lưu thông. quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra một cách thường xuyên liên tục nên vốn lưu động cũng tuần hoàn không ngừng và mang tính chu kỳ. Vốn lưu động hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất kinh doanh. Vốn lưu động là đIều kiện vật chất không thể thiếu của quá trình tái sản xuất. Muốn cho quá trình tái sản xuất được liên tục thì yêu cầu đặt ra đối với các doanh nghiệp là phải có đủ vốn lưu động để đầu tư vào các tư liệu lao động khác nhau, đảm bảo cho các tư liệu lao động tồn tại một cách hợp lý, đồng bộ với nhau trong một cơ cấu. Do đặc điểm của vốn lưu động là trong quá trình sản xuất kinh doanh luân chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần, tuần hoàn liên tục đã quyết định sự vận động của vốn lưu động-tức hình thái giá trị của tài sản lưu động là: + Khởi đầu vòng tuần hoàn, vốn lưu động dùng để mua sắm các đối tượng lao động trong khâu dự trữ sản xuất. ở giai đoạn này vốn đã thay đổi hình thái từ vốn tiền tệ sang vốn vật tư (T – H). + Tiếp theo là giai đoạn sản xuất, các vật tư được chuyển hoá thành bán thành phẩm, thành phẩm. ở giai đoạn này vốn vật tư chuyển hoá thành thành phẩm và bán thành phẩm. (H – SX…- H’) . + Kết thúc vòng tuần hoàn, sau khi sản phẩm được tiêu thụ vốn lưu động lại chuyển hoá sang hình thái vốn tiền tệ như điểm xuất phát ban đầu (H’–T’) (T’ > T) Trong thực tế, sự vận động của vốn lưu động không diễn ra một cách tuần tự như mô hình lý thuyết trên mà các giai đoạn vận động của vốn được đan xen vào nhau, các chu kỳ sản xuất được tiếp tục lặp lại, vốn lưu động được liên tục tuần hoàn và chu chuyển. Trong doanh nghiệp, việc quản lý tốt vốn lưu động có vai trò rất quan trọng. Muốn quản lý tốt vốn lưu động các doanh nghiệp phải phân biệt được các bộ phận cấu thành của vốn lưu động để trên cơ sở đó đề ra được các biện pháp quản lý phù hợp với từng loại. Trên thực tế vốn lưu động của doanh nghiệp bao gồm những bộ phận sau: + Tiền mặt và chứng khoán có thể bán được: Tiền mặt bao gồm tiền trong quỹ của doanh nghiệp và các khoản tiền gửi không có lãi. Chứng khoán bán được thường là thương phiếu (kể cả thương phiếu ngắn hạn). + Các khoản phải thu: trong nền kinh tế thị trường, việc mua bán chịu là không thể tránh khỏi, và đay cũng là một chiến lược trong cạnh tranh của doanh nghiệp. Các hoá đơn chưa được trả tiền này thể hiện quan hệ tín dụng thương mại và hình thành nên các khoản phải thu. tín dụng thương mại có thể tạo nên uy tín, vị thế của doanh nghiệp trên trường đồng thời cũng có thể dẫn đến rủi ro trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. + Khoản dự trữ: Việc tồn tại vật tư, hàng hoá dự trữ, tồn kho là bước đệm cần thiết cho quá trình hoạt động thương xuyên của doanh nghiệp. Sự tồn tại này trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là hoàn toàn khách quan. Để quản lý và sử dụng tốt vốn lưu động cần phảI nghiên cứu các biện pháp phân loại vốn cũng như tỷ trọng của từng loại vốn trong tổn số vốn lưu động của doanh nghiệp. Vốn lưu động được phân loại như sau: các căn cứ đẻ phân loại vốn lưu động trong doanh nghiệp: - Căn cứ vào quá trình tuần hoàn vốn: + Vốn dự trữ sản xuất: nguyên vật liệu. + Vốn sản xuất: sản phẩm dở dang. + Vốn lưu thông: tiền mặt, thành phẩm. - Căn cứ vào nguồn hình thành: + Vốn tự có: ngân sách cấp. + Vốn liên doanh liên kết. + Vốn vay tín dụng. TDTM. - Căn cứ vào hình thái biểu hiện: + Vốn phát hành chứng khoán. + Vốn vật tư, hàng hoá. + Vốn tiền tệ. - Căn cứ vào phương pháp xác định: + Vốn lưu động định mức. + Vốn lưu động không định mức. Tuỳ theo mỗi cách phân loại mà nhà quản trị sẽ đưa ra những quyết định cụ thể trong việc quản lý và sử dụng vốn lưu động một cách có hiệu quả nhất. Từ những đặc điểm trên ta có thể phân biệt được sự khác nhau cơ bản giưa vốn lưu động và vốn cố định. Tên vốn Chức năng Tính chất tham gia vào quá trình sản xuất Hình thức chuyển hoá giá trị Vốn cố định Tư liệu lao động Nhiều lần Chuyển dần nhiều lần Vốn lưu động Đối tượng lao động Một lần Chuyển toàn bộ 1 lần 4.2. Vốn chủ sở hữu và nợ phải trả. 4.2.1. Vốn chủ sở hữu: Vốn chủ sở hữu là phần vốn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, doanh nghiệp có đầy đủ các quyền chiếm hữu, chi phối và định đoạt. Số vốn này không phải là một khoản nợ và doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán. Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau và mà vốn chủ sở hữu có nội dung cụ thể riêng. 4.2.2. Công nợ phải trả: Là khoản nợ phát sinh trong quá trình kinh doanh mà doanh nghiệp phải có trách nhiệm thanh toán cho các tác nhân kinh tế. Đó là số vốn mà doanh nghiệp đI vay, chiếm dụng của các đơn vị, tổ chức, cá nhân. 4.3. Nguồn vốn thường xuyên và nguồn vốn tạm thời. 4.3.1. Nguồn vốn thường xuyên: Là nguồn vốn từ 1 năm trở lên bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu và các khoản vay dài hạn. Đây là nguồn vốn có tính chất ổn định mà doanh nghiệp có thể sử dụng dành cho việc đầu tư mua sắm tài sản cố định và một bộ phận tài sản lưu động tối thiểu thường xuyên cần thiết cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 4.3.2. Nguồn vốn tạm thời: Đây là nguồn vốn có tính chất ngăn hạn (ít hơn một năm) mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng có nhu cầu tính chất tạm thời, bất thường trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 5. Nguồn hình thành vốn của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, muốn tiến hành sản xuất kinh doanh, đầu tư, điều kiện đầu tiên là phải có vốn, vốn đầu tư ban đầu và vốn đầu tư bổ xung để mở rộng sản xuất kinh doanh. Vốn kinh doanh được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, cơ bản là những nguồn sau: - Nguồn vốn do chủ kinh doanh đầu tư: đây là nguồn hình thành vốn ban đầu còn gọi là vốn điều lệ. - Nguồn vốn tự bổ xung: là vốn được hình thành từ lợi nhuận để lại từ vốn vay sau khi đã trả hết nợ và lãi tiền vay, từ các quỹ của doanh nghiệp được bổ xung vào vốn. - Nguồn vốn liên doanh, liên kết là vốn do các đơn vị khác tham gia liên doanh, liên kết với doanh nghiệp. - Nguồn vốn tín dụng: là các khoản vốn mà doanh nghiệp đi vay. 6. Cơ cấu vốn trong doanh nghiệp. 6.1. Khái niệm: Cơ cấu vốn trong doanh nghiệp chính là tỉ trọng giữa các khoản nợ với tổng số vốn của doanh nghiệp. Cơ cấu vốn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong trường hợp chia vốn của doanh nghiệp theo nguồn hình thành. Cơ cấu vốn phản ánh trong mỗi đồng vốn đang sử dụng có bao nhiêu phần trăm được huy động từ các khoản nợ và qua đó cũng thấy được mức độ đóng góp của vốn chủ sở hữu. Một cơ cấu vốn hợp lý phản ánh sự kết hợp hài hoà giữa vay nợ dài hạn, vay nợ ngắn hạn, nợ trái phiếu…Vì vậy cơ cấu vốn còn có thể được khái niệm như là việc bố trí các khoản vay để gia tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Cơ cấu vốn mục tiêu của doanh nghiệp hướng đến chính là cơ cấu vốn tối ưu. Cơ cấu vốn tối ưu cho doanh nghiệp là một cơ cấu hướng về sự cân bằng rủi ro và lãi suất. Với cơ cấu vốn tối ưu thì chi phia bình quân gia quyền của vốn là thấp nhất. 6.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Trong thực tế các doanh nghiệp ở các ngành khác nhau, thậm chí các doanh nghiệp trong cùng một ngành cũng có cơ cấu vốn rất khác biệt. Có thể đưa ra một số nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu vốn của doanh nghiệp như sau: + Sự ổn định doanh thu và lợi nhuận. + Cơ cấu tài sản. + Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành + Doanh lợi vốn và lãi suất huy động vốn. + Mức độ chấp nhận rủi ro của người lãnh đạo. + Thái độ của người cho vay. Xác định được ảnh hưởng của các nhân tố tới cơ cấu vốn của doanh nghiệp, giúp cho doanh nghiệp có những quyết định đúng đắn về việc quản lý và sử dụng vốn. Tóm lại, trong những điều kiện khác nhau và trong những thời kỳ khác nhau mỗi doanh nghiệp đều phải xác định được cơ cấu vốn hợp lý phù hợp với đặc điểm riêng của mình. Mỗi doanh nghiệp luôn có sự tính toán cân nhắc các nhân tố làm thay đổi cơ cấu tạo sự chủ động trong sản xuất kinh doanh. II. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn 1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Trong nền kinh tế thị trường vốn được coi là yếu tố rất quan trọng. Nó quyết định đến mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vì thế sử dụng vốn có hiệu quả là một yêu cầu khách quan đối với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Điều đó xuất phát từ lý do chủ yếu sau: Xuất phát từ mục đích sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Với bất kỳ một doanh nghiệp nào thì tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đều hướng tới một mục đích chung là lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu này đòi hỏi doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Xuất phát từ vị trí, vai trò của vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình: vốn là phạm trù kinh tế, là điều kiện tiên quyết của bất kỳ một doanh nghiệp nào tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như đảm bảo cho các hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành theo mục đích đã định. Ngoài ra vốn còn là điều kiện sử dụng các nguồn vốn tiềm năng khác để phát triển sản xuất kinh doanh phục vụ cho quá trình tái sản xuất kinh doanh mở rộng. Do vậy các doanh nghiệp cần quan tâm tới việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đay là mục tiêu cần đạt tới của việc sử dụng vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh. Xuất phát từ ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Vì hiện nay các doanh nghiệp phải bảo toàn vốn được giao ngay cả khi trượt giá phải đầu tư mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp phải hoàn toàn tự chủ trong việc tổ chức quá trình sản xuất kinh doanh, tự tìm thị trường, tự chịu trách nhiệm trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngày càng trở nên cấp thiết. Từ những vấn đề nêu trên cho thấy hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong công tác quản lý tài chính của doanh nghiệp. Nó quyết định sự sống còn và sự tăng trưởng cũng như sự phát triển của mỗi doanh nghiệp trong cơ chế mới . 2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn 2.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn nói chung. Hiệu suất sử dụng vốn: Doanh thu thuần trong kỳ Vòng quay toàn bộ vốn trong chu kỳ= Số vốn sử dụng bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh số vốn của doanh nghiệp trong một kỳ quay được bao nhiêu vòng. Qua chỉ tiêu này ta có thể đánh giá được khả năng sử dụng tài sản của doanh nghiệp thể hiện qua doanh thu thuần được sinh ra từ tàI sản doanh nghiệp đã đầu tư. Vòng quay càng lớn thì hiệu quả càng cao. Tỷ lệ doanh lợi trên tổng vốn trong kỳ Lợi nhuận thuần trong kỳ = Số vốn sử dụng bình quân trong kỳ Tỷ lệ doanh lợi trên tổng vốn: Chỉ tiêu này cho biết số lợi nhuận thuần được tạo ra trên một đồng vốn sả._.n xuất trong kỳ. 2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định. Hiệu suất sử dụng vốn cố định: Đây là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định, nó giúp các nhà phân tích biết được đầu tư một đồng vốn cố định có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Doanh thu thuần trong kỳ Hiệu suất sử dụng vốn cố định = Vốn cố định bình quân trong kỳ Tỷ lệ doanh lợi trên vốn cố định: Lợi nhuận thuần trong kỳ Tỷ lệ doanh lợi trên vốn cố định = Vốn cố định bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lơI của vốn cố định. chỉ tiêu này thể hiện một đồng vốn cố định bỏ vào sản xuất đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận thuần. Khả năng sinh lời của vốn cố định càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn càng tốt. 2.3 Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động có thể sử dụng một số chỉ tiêu sau: Hiệu suất sử dụng vốn lưu động: Doanh thu thuần Vòng quay vốn lưu động trong kỳ = Vốn lưu động bình quân. Vòng quay vốn lưu động phản ánh trong kỳ vốn lưu động quay được mấy vong. Qua đó cho ta biết một đồng vốn lưu động bỏ vào sản xuất kinh doanh đem lại bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Chỉ tiêu này tỉ lệ thuận với hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Tỉ lệ doanh lợi trên vốn lưu động: Tổng lợi nhuận Tỉ lệ doanh lợi trên vốn lưu động = Vốn lưu động bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động bỏ vào sản xuất kinh doanh đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tỷ lệ này càng cao phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao và ngược lại. Kỳ luân chuyển vốn lưu động: K: Kỳ luân chuyển vốn lưu động. L: Số lần luân chuyển (số vòng quay) của vốn lưu động trong kỳ. Chỉ tiêu này cho biết số ngày cần thiết để thực hiện một vòng quay vốn lưu động. Vòng quay của vốn càng nhanh thì kỳ luân chuyển vốn càng được rút ngắn và chứng tỏ vốn lưu động càng được sử dụng có hiệu quả. Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động: Hệ số này càng thấp thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao và ngược lại: Vốn lưu động Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động = Doanh thu thuần III. Biện pháp và phương hướng chung nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh bao gồm hàng loạt các phương pháp, biện pháp, công cụ quản lý nhằm sử dụng tiết kiệm, với hiệu quả kinh tế cao nhất các nguồn vốn hiện có, các tiềm năng về kỹ thuật công nghệ, lao động và các lợi thế khác của doanh nghiệp. Dưới đây là một số giải pháp chủ yếu: Lựa chọn phương án kinh doanh phương án sản phẩm. Lựa chọn và sử dụng hợp lý các nguồn vốn. Tổ chức và quản lý tốt quá trình sản xuất kinh doanh. Tăng cường hoạt động marketing. Mạnh dạn áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh. Tổ chức tốt công tác kế toán và phân tích hoạt động kinh tế. 1. Lựa chọn phương án kinh doanh, phương án sản phẩm. Trong điều kiện nền kinh tế thị trương, quy mô và tính chất sản xuất kinh doanh không phải do chủ quan doanh nghiệp quyết định, mà do thị trường quyết định. Khả năng nhận biết, dự đoán thị trường và nắm bắt thời cơ... là những yếu tố quyết định thành công hay thất bại trong kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn là lựa chọn đúng đắn phương án kinh doanh, phương án sản phẩm. Các phương án kinh doanh, phương án sản phẩm được xây dựng trên cơ sở tiếp cận thị trường để quyết định quy mô, chủng loại, mẫu mã chất lượng và giá bán sản phẩm. 2. Lựa chọn và sử dụng hợp lý các nguồn vốn. Thu hút và huy động vốn đầu tư có hiệu quả là điều kiện ảnh hưởng trực tiếp tới việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Các nguồn huy động bổ sung vốn trong nền kinh tế thị trường bao gồm rất nhiều nguồn: nguồn vốn doanh nghiệp tự bổ sung, vay ngân hàng, vay các đối tượng khác, liên doanh liên kết... Việc lựa chọn nguồn vốn nào rất quan trọng và cần phải dựa trên nguyên tắc hiệu quả kinh tế. Đối với những doanh nghiệp thừa vốn thì tuỳ từng điều kiện cụ thể lựa chọn khả năng sử dụng. Nếu đưa đi liên doanh liên kết hoặc cho các doanh nghiệp khác vay thì cần phải thận trọng. Thẩm tra kỹ các dự án liên doanh, kiểm tra tư cách khách hàng nhằm đảm bảo liên doanh có hiệu quả kinh tê, cho vay không bị chiếm dụng vốn do quá hạn chưa trả, hoặc mất vốn do khách hàng không có khả năng thanh toán. 3. Tổ chức và quản lý tốt quá trình sản xuất kinh doanh. Điều hành và quản lý tốt quá trình sản xuất kinh doanh là một giải pháp rất quan trọng nhằm đạt kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh cao. Tổ chức tốt quá trình sản xuất tức là đảm bảo cho quá trình đó được tiến hành thông suốt, đều đặn, nhịp nhàng giữa các khâu dự trữ, sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá và đảm bảo sự phối hợp ăn khớp, chặt chẽ giữa các bộ phận, đơn bị trong nội bộ doanh nghiệp nhằm sản xuất ra nhiều sản phẩm chất lượng tốt, tiêu thụ nhanh. Các biện pháp điều hành và quản lý sản xuất kinh doanh, nhằm hạn chế tối đa tình trạng ngừng việc của máy móc, thiết bị, ứ đọng vật tư dự trữ và thành phẩm, chất lượng sản phẩm kém gây lãng phí các yếu tố sản xuất và làm chậm tốc độ luân chuyển vốn. Để đạt mục tiêu nêu trên, các doanh nghiệp phải tăng cường quản lý các yếu tố của quá trình sản xuất. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định. - Bố trí dây chuyền sản xuất hợp lý, khai thác hết công suất thiết kế và nâng cao hiệu suất máy móc thiết bị, sử dụng triệt để diện tích sản xuất, giảm chi phí khấu hao trong giá thành sản phẩm. - Xử lý nhanh những tài sản cố định không cần dùng, hư hỏng nhằm thu hồi vốn nhanh, bổ xung thêm vốn cho sản xuất kinh doanh. - Phân cấp quản lý tài sản cố định cho các bộ phận sản xuất nhằm nâng cao trách nhiệm trong quản lý và sử dụng tài sản cố định, giảm tối đa thời gian nghỉ việc. - Thường xuyên quan tâm đến việc bảo toàn vốn cố định, thực hiện nghiêm chỉnh các nội dung của công tác bảo toàn và phát triển vốn. Một số biện pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động: Hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng phụ thuộc vào việc tiết kiệm và tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động. Các biện pháp chủ yếu thường được áp dụng trong quản lý vốn lưu động như sau: - Xác định đúng nhu cầu vốn lưu động cần thiết cho từng thời kỳ sản xuất, kinh doanh nhằm huy động hợp lý các nguồn vốn bổ xung. - Tổ chức tốt quá trình thu mua, dự trữ vật tư nhằm đảm bảo hạ giá thành thu mua vật tư, hạn chế tình trạng ứ đọng vật tư dự trữ, dẫn đến kém phẩm chất vật tư gây ứ đọng vốn lưu động. - Quản lý chặt chẽ việc tiêu dùng vật tư theo quy định nhằm giảm chi phí nguyên, nhiên vật liệu trong giá thành sản phẩm. - Tổ chức hợp lý quá trình lao động, tăng cường các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm, áp dụng các hình thức khen thưởng vật chất và tinh thần cho người lao động. - Tổ chức đa dạng các hình thức tiêu thụ sản phẩm. - Xây dựng quan hệ bạn hàng tốt với khách hàng nhằm củng cố uy tín trên thương trường. Tổ chức tốt quá trình thanh toán tránh và giảm các khoản nợ đến hạn hoặc quá hạn chưa đòi được. - Tiết kiệm các yếu tố chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí lưu thông góp phần giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận. 4. Tăng cường hoạt động Marketing. Để sản xuất kinh doanh đáp ứng tối đa nhu cầu thị trường, các doanh nghiệp cần phải hiểu biết và vận dụng tốt các phương pháp marketing. Marketing có vai trò đặc biệt quan trọng trong khâu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Sản phẩm tiêu thụ nhanh làm rút ngắn thời gian luân chuyển vốn. Do đó khả năng sử dụng vốn hiệu quả hơn. Các doanh nghiệp phải tổ chức bộ phận chuyên trách về vấn đề tìm hiểu thị trường để thường xuyên có được những thông tin đầy đủ, chính xác, tin cậy về diễn biến của thị trường. Trên cơ sở đó các doanh nghiệp có thể kịp thời thay đổi phương án kinh doanh, phương án sản phẩm, xác định phương thức tiêu thụ sản phẩm và chính sách giá cả hợp lý. 5. Mạnh dạn áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh. Kỹ thuật tiến bộ và công nghệ hiện đại là điều kiện vật chất để doanh nghiệp sản xuất ra những sản phẩm mới, hợp thị hiếu, chất lượng cao, nhờ đó mà doanh nghiệp có thể tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ, tăng giá bán, tăng lợi nhuận. Đồng thời nhờ áp dụng kỹ thuật tiến bộ, doanh nghiệp có thể rút ngắn chu kỳ sản xuất sản phẩm, giảm tiêu hao nguyên vật liệu hoặc sử dụng các loại vật tư thay thế nhằm tăng tốc độ luân chuyển vốn, tiết kiệm chi phí vật tư, hạ giá thành sản phẩm. 6. Tổ chức tốt công tác kế toán và phân tích hoạt động kinh tế. Qua số liệu, tài liệu kế toán, đặc biệt là các báo cáo kế toán tài chính doanh nghiệp thường xuyên nắm được số vốn hiện có, kể cả về mặt giá trị và hiện vật, nguồn hình thành và các biến động tăng, giảm vốn trong kỳ, mức độ đảm bảo vốn lưu động, tình hình và khả năng thanh toán... nhờ đó, doanh nghiệp có thể đề ra các giải pháp đúng đắn để xử lý kịp thời các vấn đề về tài chính nhằm đảm bảo cho quá trình kinh doanh được tiến hành thuận lợi theo các chương trình kế hoạch đề ra. Vì vậy tổ chức tốt công tác kế toán ở doanh nghiệp là một trong những giải pháp quan trọng nhằm tăng cường quản lý, kiểm tra, kiểm soát quá trình kinh doanh, sử dụng các loại vốn nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao. Bên cạnh việc tổ chức tốt công tác kế toán, cần thực hiện công tác phân tích hoạt động kinh doanh trong đó có phân tích tình hình tài chính và hiệu quả sử dụng vốn. Việc đánh giá phân tích các số liệu kế toán sẽ giúp các doanh nghiệp tìm ra những giải pháp để đạt hiệu quả sử dụng vốn ngày càng cao. Chương II: Thực trạng tình hình quản lý và sử dụng vốn của công ty TNHH Bình Minh I. Đặc điểm tình hình sản xuất kinh doanh của công ty TNHH Bình Minh. 1. Lịch sử hình thành và TNHH Bình Minh phát triển. Công ty TNHH Bình Minh là doanh nghiệp tư nhân thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố Hà Nội, có trụ sở tại 320 Đường Lạc Long Quân- Quận Tây Hồ - Hà Nội. Công ty đã trải qua 40 năm xây dựng phát triển làm nghiệp vụ nuôi trồng thuỷ sản cung cấp thực phẩm cho nhân dân thủ đô, bảo vệ củng cố và khai thác cảnh quan Hồ Tây và Hồ Trúc Bạch để phục vụ nhu cầu vui chơi giải trí của nhân dân thủ đô. Trong quá trình tồn tại và phát triển công ty đã trải qua nhiều tên gọi: Công ty nuôi cá Hà Nôị, Liên hiệp xí nghiệp thuỷ sản Hà Nội, công ty TNHH Bình Minh . Cách đây 9 năm ngày 12/11/1994 UBND thành phố Hà Nội đã ra quyết định số 3042/Q Đ-UB đổi tên công ty đầu tư phát triển thuỷ sản và khai thác Hà Nội thành công ty TNHH Bình Minh và xác định lại nhiệm vụ cho công ty. Theo quyết định trên công ty có nhiệm vụ: quản lý toàn bộ diện tích Hồ Tây, Hồ Trúc Bạch để đầu tư khai thác bảo vệ cảnh quan môi trường, bảo vệ diện tích tự nhiên của hồ, chống lấn chiếm, sản xuất kinh doanh, du lịch và dịch vụ, tham gia nghiên cứu các đề tài khoa học thi công xây dựng công trình hạ tầng kỹ thuật công trình công cộng. 2. Đặc điểm sản xuất kinh doanh của công ty. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty chủ yếu là nuôi trồng thuỷ sản, khai thác cảnh quan môi trường khu vực hồ Tây để kinh doanh các dịch vụ du lịch, văn hoá, thể thao và vui chơi giải trí. Đồng thời thi công xây dựng các công trình công cộng, xây dựng và kinh doanh nhà ở. Có thể thấy hình thức kinh doanh chủ yếu của Công ty là dịch vụ. Công ty có thuận lợi là được giao toàn bộ diện tích hồ Tây và hồ Trúc Bạch để quản lý và khai thác. Đây là những điểm vui chơi giải trí lớn của nhân dân thủ đô nên rất thuận lợi đối với việc sản xuất kinh doanh của Công ty. Tuy nhiên hồ Tây, hồ Trúc Bạch nằm trải rộng trên nhiều địa bàn, tình hình trị an phức tạp, mặt nước rộng nên rất khó khăn đối với việc bảo vệ, duy trì và khai thác đối với diện tích 2 hồ. 3. Cơ cấu tổ chức bộ máy kinh doanh của công ty Cơ cấu tổ chức của công ty gồm: - Ban giám đốc: Gồm 1 giám đốc và 1 phó giám đốc. - 2 phòng nghiệp vụ chuyên môn giúp việc:Phòng tổ chức-hành chính-tổng hợp và phòng kế toán tài chính. - Các đơn vị trực thuộc của công ty: +Đội môi trường Hồ Tây. + Đội nuôi cá Hồ Tây. + Đội nuôi cá Trúc Bạch. + Bộ phận đầu tư phát triển Hồ Tây. + Du thuyền Hồ Tây. + Trung tâm đầu tư phát triển thuỷ sản Nhật Tân. + Trung tâm dịch vụ Hồ Tây. Cơ cấu tổ chức của công ty có thể được mô tả theo sơ đồ sau đây: Trung tâm dịch vụ Hồ Tây Ban giám đốc Phòng kế toán tài chính Phòng tổ chức hành chính-tổng hợp Các đơn vị trực thuộc công ty Bộ phận phát triển Hồ Tây Du thuyền Hồ Tây Đội nuôi cá Trúc Bạch Đội nuôi cá Hồ Tây Đội môi trường Hồ Tây Trung tâm đầu tư phát triển thuỷ sản Nhật Tân Nhiệm vụ chủ yếu của công ty là thực hiện tốt việc sản xuất kinh doanh, đảm bảo sản xuất kinh doanh có lãi, bảo toàn vốn và nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên trong công ty. Bên cạnh đó công ty còn phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước. Để thực hiện tốt nhiệm vụ đó công ty đầu tư khai thác Hồ Tây đang từng bước sắp xếp tổ chức hợp lý hoá công tác quản lý nhằm phù hợp với tình hình phát triển chung. Trong đó: Ban giám đốc: Gồm 2 người - Giám đốc chịu trách nhiệm trực tiếp trước công ty đầu tư khai thác Hồ Tây, trước pháp luật Nhà nước về các hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, tham gia xây dựng các kế hoạch sản xuất kinh doanh. Đại diện cho công ty kí kết hợp đồng và là người đại diện cho quyền lợi của cán bộ. Công nhân viên trong công ty theo luật định. - Phó giám đốc: Là người giúp việc cho giám đốc, thay mặt giám đốc khi đi vắng hoặc được uỷ quyền giải quyết các công việc nội chính để điều hành mọi hoạt động của công ty đảm bảo đúng chế độ chính sách của Nhà nước và công ty quy định. * Phòng tổ chức – hành chính – tổng hợp. Quản lý nhân sự toàn công ty, theo dõi công văn giao dịch khi đến và tổng hợp báo cáo thường kỳ về hoạt động của công ty. * Phòng tài chính kế toán. Có nhiệm vụ theo dõi tình hình biến động tăng giảm tài sản khai thác sử dụng nguồn vốn có hiệu quả. Theo dõi các hoạt động doanh thu, chi phí, tiền lương, giải quyết tất cả các vấn đề liên quan đến thanh toán với khách hàng và theo dõi thực hiện nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước. Ngoài ra báo cáo tham mưu cho ban giám đốc về tình hình quản lý công ty. 4. Đặc điểm tổ chức công tác kê toán công ty. Để thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ trên, đồng thời căn cứ vào yêu cầu quản lý và trình độ hạch toán của nhân viên kế toán, bộ máy kế toán được thành lập như sau: - Kế toán trưởng:Là người đứng đầu chỉ đạo trực tiếp các nhân viên kế toán trong công ty.Kế toán trưởng có nhiệm vụ tổ chức và điều hành toàn bộ hệ thống kế toán của công ty,làm tham mưu cho giám đốc về tài chính,các hoạt động sản xuất kinh doanh,tổ chức kiểm tra kế toán trong nội bộ công ty. - Kế toán theo dõi tài sản cố định và tổng hợp đầu tư xây dựng cơ bản:Báo cáo tình hình tăng giảm và số hiện có của tài sản cố định đồng thời phải lập bảng tính khấu hao tài sản cố định sau mỗi quá trình sản xuất kinh doanh. - Kế toán tiền gửi ngân hàng, tiền mặt và tổng hợp toàn công ty:Có nhiệm vụ lập phiếu cho, trên TK 112 định kỳ lập bảng đối chiếu với ngân hàng,đối chiếu công nợ nội bộ đồng thời tổng hợp toàn công ty. - Kế toán quỹ: Thanh toán các chứng từ thu chi khi đã được giám đốc,kế toán trưởng ký duyệt.Ngoài ra thủ quỹ quản lý quỹ của công ty. Ta có thể khái quát cơ cấu tổ chức bộ máy kế toán tại công ty qua sơ đồ sau: Sơ đồ bộ máy kế toán: Kế toán trưởng Kế toán theo dõi và tổng hợp đầu tư XDCB Kế toán quỹ Kế toán tiền gửi NH,tiền mặt và tổng hợp toàn công ty Nhân viên kế toán ở các đơn vị trực thuộc Việc lựa chọn hình thức tổ chức kế toán như trên phù hợp với quy mô hình thức sản xuất kinh doanh và nó đáp ứng kịp thời hợp lý và kinh tế cho hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như bản thân công tác tài chính. Tạo ra một cơ chế quản lý vừa phân tán tạo điều kiện cụ thể để cho các đơn vị trực thuộc chủ động điều hành hoạt động kinh doanh. Chính nhân tố này đã góp phần đáng kể vào thành công của công ty trong thời gian qua. Xuất phát từ trình độ sản xuất, yêu cầu trình độ quản lý, Công ty đang thực hiện vi tính hoá công tác kế toán và bước đầu đã được đưa vào sử dụng. Chế độ kế toán hiện hành, phòng tài vụ có trách nhiệm lập các báo cáo tài chính sau: - Bảng cân đối kế toán. - Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. - Báo cáo lưu chuyển tiền tệ. II. Khái quát tình hình sử dụng vốn của công ty. 1. Kết quả kinh doanh và tình hình tài chính của Công ty. 1.1. Tình hình tài chính của Công ty trong 3 năm 2002, 2003, 2004 Công ty TNHH Bình Minh là doanh nghiệp Nhà nước hạng I, Công ty đã đứng vững và ngày càng phát triển trong nền kinh tế thị trường. Qua hơn 40 năm hoạt động, Công ty đã làm tốt mọi nhiệm vụ thuộc về chức năng của Công ty. Cùng với sự phát triển của đất nước, Công ty đã có những bước phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng hoà nhập thích ứng với cơ chế mới và nhanh chóng khẳng định vai trò của mình trên thương trường. Kết quả đó được minh chứng qua sự phát triền không ngừng và khả năng vững mạnh về tài chính của Công ty trong những năm gần đây. Ta thấy vốn là yếu tố không thể tách rời của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh .Bởi vậy nhiệm vụ của các doanh nghiệp la phải tổ chức, huy động và sử dụng vốn sao cho có hiệu quả nhất trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc tài chính, tín dụng và chấp hành luật pháp về việc thường xuyên tiến hành phân tích tình hình biến động vốn và nguồn vốn sẽ giúp cho nhà quản lí doanh nghiệp và các cơ quan chủ quản cấp trên thấy được thực trạng cũng như các nguyên nhân và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp .Khi phân tích tình hình biến động, phân bố và nguồn vốn cần phải xem xét đánh giá các biến động về tài sản để trên cơ sở đó đánh giá khả năng chủ động vốn kinh doanh cua doanh nghiệp. Từ số liệu trên bảng cân đối kế toán qua các năm 2002, 2003, 2004 của công ty TNHH Bình Minh ta lập bảng phân tích biến động tài sản. Bảng 1: Tình hình biến động tài sản của Công ty TNHH Bình Minh Đơn vị tính: Triệu đồng Tài sản 2002 2003 2004 So sánh 2003/2002 So sánh 2004/2003 Số tiền Tỉ trọng (%) Số tiền Tỉ trọng (%) Số tiền Tỉ trọng (%) Tuyệt đối Tương đối (%) Tuyệt đối Tương đối (%) A.TSLĐ và ĐTNH 9219 33,45 9596 33,98 11053 37,02 377 4,09 1457 15,18 I.Tiền 1500 5,45 1395 4,94 1805 6,05 -105 -7 410 29,39 1.Tiền mặt tại quỹ 900 3,27 184 0,65 800 2,68 -716 -79,56 616 334,78 2.Tiền gửi NH 600 2,18 1211 4,29 1005 3,37 611 101,83 -206 -17,01 II.Các khoản ĐTTC ngắn hạn 4625 16,78 1635 5,79 2239 7,49 -2990 -64,65 604 36,94 II.Các khoản phải thu 1640 5,95 4195 14,85 3814 12,77 2555 155,79 -381 -9,08 1.Phải thu KH 222 0,81 520 1,84 192 0,64 298 134,23 -328 -63,08 2.Trả trước cho người bán 140 0,51 50 0,18 50 0,17 -90 -64,29 0 0 3.Phải thu nội bộ 1200 4,35 3525 12,48 3491 11,69 2325 193,75 -34 -o,96 4.Phải thu khác 78 0,28 100 0,35 81 0,27 22 28,21 -19 -19 IV.Hàng tồn kho 775 2,81 1033 3,66 1365 4,57 258 33,29 332 32,14 V.TSLĐ khác 679 2,46 888 3,14 1410 4,72 209 30,78 522 58,78 VI.Chi sự nghiệp - - 450 1,59 420 1,41 - - -30 -6,67 B.TSCĐ và ĐTNH 18340 66,55 18640 66,02 18806 62,98 300 1,64 166 0,89 I.TSCĐ 1954 7,09 2254 7,98 2420 8,10 300 15,35 166 7,36 1.Nguyên giá TSCĐ 2650 3044 3109 2.Giá trị hao mòn luỹ kế -696 -790 -689 II.ĐTTC dài hạn 16367 59,39 16367 57,97 16367 54,81 0 0 0 0 III.CPCD cơ bản dở dang 19 0,07 19 0,07 19 0,07 0 0 0 0 Tổng tài sản 27559 100 28236 100 29859 100 677 2,46 1623 5,75 Qua bảng trên ta thấy tổng tài sản cua công ty năm 2003 tăng hơn so với năm 2002 là 179triệu đồng với số tương đối la 2,46%, năm 2004 tăng hơn so với năm 2003 là 1623 triệu đồng với số tương đối là 5,75%.Điều đó chứng tỏ tài sản của công ty vẫn liên tục tăng qua các năm, đặc biệt la giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2003. -Tài sản cố định của công ty năm 2002 so với năm 2003 tăng lên là 166 triệu đồng với số tương đối là 7,36%,năm 2002 so với năm 2003 tăng lên là 300 triệu đồng với số tương đối là 15,35%.ta thấy tài sản cố định của công ty liên tục tăng qua 3 năm vừa rồi, mặc dù tỉ lệ tăng trong giai đoạn 2003-2004 có thấp hơn so với giai đoạn 2002-2003 nhưng điều đó cũng đủ cho thấy cơ sở vật chất, kỹ thuật của công ty được tăng cường, quy mô năng lực kinh doanh được mở rộng, thể hiện xu thế phát triển sản xuất kinh doanh của công ty đang có chiều hướng tốt. - Vốn bằng tiền của công ty năm 2003 giảm hơn so với năm 2002 là 105 triệu đồng với số tương đối là 7%, năm 2004 tăng hơn so với năm 2003 là 410 triệu đồng với số tướng đối là 29,39%.Ta thấy vốn bằng tiền của công ty liên tục tăng trong 3 năm qua, nhất là trong giai đoạn 2003-2004 điều này rõ ràng làm tăng khả năng thanh toán của công ty . - Các khoản phải thu năm 2002 tăng hơn so với năm 2003 là 2555 triệu đồng với số tương đối là 155,79%, năm 2004 lại giảm hơn so với năm 2003là 381 triệu đồng với số tương đối là 9,08%. Qua đây ta thấy các khoản phải thu của công ty trong 3 năm qua đã có xu hướng giảm xuống, tăng trong giai đoạn 2002-2003 sau đó lại giảm xuống trong giai đoạn 2003-2004, điều này cùng với việc tăng doanh số bán hàng liên tục trong 3 năm qua chứng tỏ công ty dã nhanh chóng thu hồi các khoản nợ của khách hàng, làm cho vốn không bị ứ đọng, từ đó làm cho vòng luân chuyển vốn tăng cao, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. - Các khoản đầu tư tài chinh ngắn hạn cua công ty năm 2002 giảm hơn so với năm 2001 là 2990 triệu đồng với số tương đối là 64,65% năm 2004 tăng hơn so với năm 2003 là 604 triệu đồng với số tương đối là 36,94%. Qua số liệu trên ta thấy mặc dù các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn có giảm trong giai đoạn 2002-2003, nhưng sau đó lại tăng lên trong giai đoạn 2003-2004 điều đó chứng tỏ công ty đã rất chú trọng đến việc đầu tư vào các loại hình có thời hạn thu hồi dưới 1 năm dể nhằm tăng lợi nhuận cho công ty. - Các khoản đầu tư tài chính dài hạn của công ty trong 3 năm qua đều bằng 16367 triệu đồng và chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng tài sản (đều lớn hơn 0,5). Năm 2002 chiếm 59,39%,năm 2003 chiếm 57,97%, năm 2004 chiếm 54,81%.Đây là nguồn vốn góp liên doanh bằng đất của công ty. Qua đây ta thấy mặc dù tỷ trọng của khoản này có giảm xuống nhưng vẫn còn chiếm tỷ trọng cao. Ngoài việc xem xét tình hình phan bổ vốn,doanh nghiệp cần phải phân tích tình hình biến động nguồn vốn và tỷ trọng của từng loại chiếm trong tổng vốn cũng như xu hướng biến động của chúng. Nếu nguồn vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng cao trong tổng số nguồn vốn thì doanh nghiệp có đủ khả năng tự đảm bảo về mặt tài chính và tính độc lập của doanh nghiệp với chủ nợ là cao. Ngược lại nếu công nợ phải trả chiếm chủ yếu trong tổng số nguồn vốn thì khả năng đảm bảo về mặt tài chính của doanh nghiệp sẽ thấp. Tình hình biến động nguồn vốn của công ty TNHH Bình Minh dược tóm tắt qua bảng 2. Bảng 2: Tình hình biến động nguồn vốn ở Công ty TNHH Bình Minh Đơn vị tính: Triệu đồng Tài Sản 2002 2003 2004 So sánh 2003/2002 So sánh 2004/2003 Số tiền Tỉ trọng (%) Số tiền Tỉ trọng (%) Số tiền Tỉ trọng (%) Tuyệt đối Tương đối (%) Tuyệt đối Tương đối (%) A. Nợ phải trả 3035 11,01 4378 14,58 4678 15,09 1343 44,25 300 6,85 I. Nợ ngắn hạn 2885 10,47 4378 14,58 4678 15,09 1493 51,75 300 6,85 1. Vay ngắn hạn 120 0,44 - - - - - - - - 2. Nợ dài hạn đến hạn trả 50 0,18 - - - - - - - - 3. Phải trả cho người bán 380 1,38 234 0,78 222 0,72 -146 -38,42 -12 -5,13 4. Người mua trả tiền trước 200 0,73 260 0,87 276 0,89 60 30 16 6,15 5. Phải nộp ngân sách 140 0,51 300 0,99 366 1,18 160 114,28 66 22 6. Phải trả CNV 45 0,16 70 0,23 220 0,71 25 55,55 150 214,28 7. Phải trả cho các đơn vị nội bộ 1950 7,08 3514 11,69 3594 11,59 1564 80,21 80 2,28 8. Phải trả khác - - - - - - - - - - II. Nợ dài hạn 150 0,54 - - - - - - - - B. Nguồn vốn CSH 24524 88,99 25658 85,42 26330 84,91 1134 4,63 672 2,62 I.Nguồn vốn quỹ 24124 87,54 25253 84,08 24910 80,33 1129 4,68 -343 -1,36 1. Nguồn vốn KD (trong đó vốn góp liên doanh bằng đất là 16368) 18989 68,90 19994 66,55 20422 65,86 1005 5,29 428 2,14 2. Quỹ đầu t PT 40 0,15 40 0,13 40 0,13 0 0 0 0 3. Quỹ DPT/C 190 0,69 196 0,65 190 0,61 6 3,16 -6 -3,06 4. Lãi chua phân phối 270 0,98 323 1,08 515 1,66 53 19,63 192 59,44 5. NV đầu tư XDCB 4633 16,81 4728 15,74 3724 12,01 95 2,05 -1004 -21,24 6. Quỹ khen thưởng phúc lợi 2 0,007 -28 -0,09 19 0,06 -26 13000 -9 -32,14 II. Nguồn kinh phí 400 1,45 405 0,74 1420 4,58 5 1,25 1015 250,62 Tổng nguồn vốn 27559 100 30036 100 31008 100 2477 48,88 972 9,47 Qua số liệu ở bảng 2 cho thấy, nguồn vốn chủ sở hữu của công ty TNHH Bình Minh là nguồn vốn cơ bản nhất và thường xuyên có tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của công ty (luôn vượt trội 50%). Năm 2004 tăng hơn so với năm 2003là 672 triệu đồng với số tương đối là 2,62%, năm 2003 giảm hơn so với năm 2002 là 1134 triệu đồng với số tương đối là 4,63%. Như vậy ta thấy chỉ tiêu này có giảm trong giai đoạn 200-2003 nhưng sau đó lại tăng lên trong giai đoạn 2003-2004 điều đó chứng tỏ nguồn vốn chủ sở hữu của công ty có xu hướng tăng lên trong 3 năm vừa qua.Trong nguồn vốn chủ sở hữu thì nguồn vốn kinh doanh chiếm tỷ trọng lớn nhất : năm 2002 chiếm 68,90%, năm 2003 chiếm 66,55%, năm 2004 chiếm 65,86% tổng nguồn vốn. Nguồn vốn kinh doanh của công ty năm 2003 tăng hơn so với năm 2002 là 1005 triệu đồng với số tương đối là 5,29%, năm 2004 tăng hơn so với năm 2003 là 428 triệu đồng với số tương đối đối là 2,14%.Qua số liệu này ta thấy nguồn vốn kinh doanh của công ty đầu tư khai thác Hồ Tây có xu hướng tăng lên trong 3 năm qua, điều này cho thấy trong 3 năm qua công ty rất chú trọng đến việc đầu tư nhằm khai thác triệt để hơn nữa tiềm năng của công ty Hồ Tây và Hồ Trúc Bạch. Các khoản nợ phải trả xét về mặt tuỵệt đối năm 2003 tăng hơn so với năm 2002 là 1343 triệu đồng với số tương đối là 44,25%, năm 2004 tăng hơn so với năm 2003 là 300 triệu đồng với số tương đối là 6,85%. Ta thấy các khoản nợ này tăng giữa các năm xong đã có xu hướng tăng chậm lại (6,85% năm 2004 so với 44,25% năm 2003). Điều này chứng tỏ công ty đã rất cố gắng trong việc chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật tín dụng, thanh toán, giữ uy tín trên thị trường. Cụ thể là các khoản phải trả cho người bán liên tục giảm qua 3 năm vừa rồi, năm 2003 giảm 146 triệu đồng so với năm 2002 với số tương đối 38,42%,năm 2004 giảm 12 triệu đồng so với năm 2003 với số tương đối 5,13%.Các khoản người mua trả tiền trước liên tục tăng trong 3 năm vừa qua: năm 2003 tăng so với năm 2002 là 60 triệu đồng với số tương đối là 30%, năm 2004 tăng hơn so với năm 2003 là 16 triệu đồng với số tương đối là 6,15% mặc dù tỉ lệ này có xu hướng giảm xuống nhưng vẫn còn tăng cao trong 3 năm vừa qua điều đó cho thấy công ty đã tạo được cho các bạn hàng một niềm tin vững chắc vào tình hình kinh doanh của công ty. Các khoản phải nộp ngân sách liên tục tăng trong 3 năm qua:năm 2002 tăng hơn so với năm là 160 triệu đồng với số tương đối là 11428%, năm 2004 tăng hơn so với năm 2003 là66 triệu đồng với số tương đối là 22%, qua số liệu này ta thấy công ty làm ăn ngày càng có lãi, các khoản đóng góp vào ngân sách nhà nước ngày càng cao. Tóm lại, tình hình tài chính của công ty trong những năm vừa qua đã có nhiều biến chuyển rõ rệt. Trong 3 năm qua công ty đã không ngừng đầu tư thêm một số tài sản cố định mới như hệ thống máy đầu tư cho du thuyền Hồ Tây… góp phần làm tăng công suất thiết bị, phục vụ tốt hơn nhu cầu vui chơi giải trí của nhân dân thủ đô cũng như khai thác tốt hơn nữa tiềm năng giàu có của hồ Tây và hồ Trúc Bạch. Cùng với việc đầu tư thêm tài sản cố định, công ty đã thanh lý một số tài sản cố định cũ không đáp ứng được yêu cầu sản xuất kinh doanh. Nguồn kinh doanh của công ty 3 năm qua có xu hướng tăng và tạo thành nguồn vốn bổ xung lớn. Thông qua các khoản phải thu và phải trả cho thấy tình hình thanh toán của công ty được đảm bảo. Nguồn vốn của công ty chủ yếu là nguồn vốn chủ sở hữu, đây là một lợi thế rất lớn của công ty trong kinh doanh, nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường cạnh tranh rất khốc liệt hiện nay. Điều này cho phép công ty tự chủ về mặt tài chính, làm giảm chi phí của vốn vay, nó còn cho thấy khả năng tự tài trợ của công ty ngày càng cao, phản ánh tình hình tài chính lành mạnh và khả quan. 1.2.Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh cua công ty. Để hiểu rõ hơn về thực trạng kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty chúng ta cần xem xét bảng báo cáo kết quả kinh doanh của công ty trong 3 năm 2002, 2003, 2004. Bảng 3: Kết quả kinh doanh của Công ty TNHH Bình Minh qua 3 năm 2002, 2003, 2004 Đơn vị tính: Triệu đồng Chỉ tiêu 2002 2003 2004 So sánh 2003/2002 So sánh 2004/2003 1. Tổng doanh thu 5382 5561 6515 179 3.33 954 17.16 2. Các khoản giảm trừ - - - - - - - 3. Doanh thu thuần 5382 5561 6515 179 3.33 954 17.16 4. Giá vốn hàng bán 4122 4442 6189 320 7,76 1747 39,33 5. Chi phí bán hàng 70 80 80 10 14,29 0 0 6. Chi phí quản lý doanh nghiệp 968 866 842 -102 -10.54 -24 -2,77 7. Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh 135 195 415 60 44,4 220 112,82 8. Thu nhập hoạt động TC 329 348 334 19 5,78 -14 -4,02 9. Chi phí hoạt động TC 218 2100 89 -118 -54,13 -11 -11 10. Lợi nhuận thuần từ hoạt động TC 232 138 149 -94 -40,52 11 7,97 11. Thu nhập hoạt động bất thường 182 209 222 27 14,84 13 6.22 12. Chi phí hoạt động bất thường 182 202 180 20 10,99 -22 -10,89 13. Lợi nhuận từ hoạt động bất thường 0 6 36 6 0 30 500 14. Tổng lợi nhuận trước thuế 254 324 492 70 27.56 168 51,85 15. Thuế thu nhập 64 80 124 16 25 44 55 16. Lợi nhuận sau thuế 193 255 378 62 32,12 123 48,24 Qua bảng trên ta thấy các chỉ tiêu về kết quả hoạt động của công ty qua 3 năm qua đều đạt được và có sự tăng trưởng rõ ràng, điều đó chứng tỏ cán bộ công nhân công ty đã có nhiều cố gắng trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty qua 3 năm vừa rồi. Cụ thể như sau: - Tổng doanh thu của công ty năm 2002 tăng so với._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33844.doc
Tài liệu liên quan