Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Công ty May Hưng Thịnh - Hà Tây

Lời Mở Đầu Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh ,các doanh nghiệp cần phải có một lượng vốn nhất định tuỳ thuộc vào qui mô, lĩnh vực mà doanh nghịêp đó hoạt động. Lượng vốn này bao gồm vốn cố định,vốn lưu động và các nguồn vốn chuyên dụng khác. Nhiệm vụ của các doanh nghiệp là phải huy động và sử đúng sao cho có hiệu quả nhất trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc chính và chấp hành pháp luật. Từ khi nền kinh tế hàng hoá còn chưa phát huy hết chức năng của nó, sản suất kinh doanh còn manh m

doc71 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1170 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Công ty May Hưng Thịnh - Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ún thì vốn đã nắm giữ vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, ngày nay khi nền kinh tế hàng hoá đã thực sự hoàn tiện thì vai trò của vốn . Vẫn không có sự thay đổi nó cùng với yếu tố con người và khoa học công nghệ góp phần vào sự hình thành tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vốn là yếu tố quan trọng quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp nhưng điều mà các nhà quản lý và lãnh đạo thực sự quan tâm đó là vốn được đưa vào sự dụng như thế nào, có hiệu quả hay không? Ngày nay trong nền kinh tế thị trường kinh doanh là một hoạt động kiếm lời, tối đa hoá lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của mọi doanh nghiệp. Để đạt được lợi nhuận tối đa các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao trình độ quản lý sản suất kinh doanh trong đó quản lý vốn là một bộ phận quan trọng có ý nghĩa quyết định đến kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Xuất phát từ nhận thức thực của bản thân về tầm quan trong của việc sự dụng vốn và những kiến thức đã được học tại trường cùng với sự hướng dẫn của cô Hồ Bích Vân và sự giúp đỡ của cán bộ phòng kế toán thống kê “Công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh- Hà Tây” em chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sự dụng vốn ở công ty may Hưng Thịnh –Hà Tây” nhưng do kiến thức còn hạn chế và do phạm vi đề tài em chỉ xin đề cập đến những giải pháp trong việc sử dụng vốn của công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh. Cuối cùng em xin cảm ơn cô Hồ Bích Vân và cán bộ phòng kế toán thống kê công ty may Thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịng-Hà Tây đã hướng dẫn tận tình để em hoàn thành đề tài này. Bố cục của bài viết ngoài phần mở đầu và kết luận ra, nội dung bài viết gồm 3 chương. Chương 1 : Tổng quan về vốn trong các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp Dệt may nói riêng. Chương 2: đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của công ty may xuất nhập khẩu hưng thịnh. Chương 3: một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiểu quả sử dụng vốn của công ty May thêu xuất nhập khẩu hưng thịnh. Chương I Tổng quan về vốn trong các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp dệt may nói riêng. I. Các khái niệm cơ bản : 1. Khái niệm về vốn: Vốn hiểu theo nghĩa hẹp là tiềm lực về tài chính của mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp, mỗi quốc gia. Nếu hiểu theo nghĩa rộng, vốn bao gồm nguồn nhân lực, nguồn tài lực, chất xám, tiền bạc và cả quan hệ đã tích luỹ của mỗi cá nhân, một doanh nghiệp, một Quốc gia. Trong đó vốn tiền tệ có vị trí rất quan trọng, là điểm xuất phát được ứng ra để chuyển hoá thành các yếu tố của các quá trình sản xuất kinh doanh. Ngày nay trong nền kinh tế thị trường mọi vận hành kinh tế đều được tiền tệ hoá do vậy phạm trù vốn được biểu hiện bằng giá trị vốn, được phản ánh bằng động tiền. Nó đại diện cho một lượng giá trị nhất định của tài sản. Vốn được biểu hiện dưới hai hình thái giá trị và hình thái hiện thật. Tuy nhiên, nó luôn tồn tại ở những hình thái vật chất khác nhau. Chính sự khác nhau nay sẽ quyết định đặc điểm chu chuyển vốn. Mà đặc điểm chu chuyển vốn lại là căn cứ khoa học để xác định phương thức quản lý vốn. Vốn luôn gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vì vậy mà vốn luôn vận động từ hình thái tiền tệ sang hình thái vật chất, từ đó cho thấy chỉ những tài sản được đưa vào kinh doanh, thương xuyên vận động trong quá trình sản xuất kinh doanh mới được gọi là vốn. Vốn là một lượng hàng hoá đặc biệt, được trao đổi trên thị trường tài chính, khi doanh nghiệp có nhu cầu mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh hoặc do đặc điểm chu chuyển vốn của doanh nghiệp mà doanh nghiệp cần có thêm vốn thì doanh nghiệp phải huy động vốn trên thị trường tài chính bằng cách mua quyền sử dụng, quyền định đoạt trong một thời kỳ nhất định. Người bán quyền sử dụng, quyền định đoạt vốn thu được một khoản tiền gọi là lợi tức. Hiện nay ở nước ta thị trường tài chính đang phát triển và hoàn thiện dần biểu hiện bằng việc hình thành thị trường chứng khoán. điều đó đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đa dạng hoá các kênh huy động vốn thay vì chỉ có thể huy động vốn từ các ngân hàng trong và ngoài nước, nhà nước… như trước đây. 2. Phân loại vốn. Vốn có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau 2.1 Căn cứ vào cơ cấu vốn trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vốn được chia thành. - Vốn sản xuất. Vốn sản xuất là giá trị toàn bộ tư liệu sản xuất được doạnh nghiệp sử dụng hợp lý và có kế hoạch vào việc sản xuất những sản phẩm theo kế hoạch. Vốn sản xuất được huy động từ nhiều nguồn khác nhau, tuỳ thuộc vào loại hình của doanh nghiệp. Nếu là doanh nghiệp nhà nườc thì đại bộ phận vốn sản xuất được nhà nước cấp. Còn các loại hình doanh nghiệp khác như doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty liên doanh…vốn sản xuất được hình thành từ nhiều nguồn góp lại. Xét theo hình thái vật chất, vốn sản xuất gồm hai yếu tố cơ bản là tư liệu lao động và đối tượng lao động. Đây là hai yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất kinh doanh trong bất kỳ đơn vị kinh tế nào. Hai yếu tố cơ bản này giữ một vị trí rất quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh ở bất kỳ đơn vị kinh tế nào. - Vốn đầu tư : Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo ra tiềm lực lớn hơn trong quá trình sản xuất kinh doanh, sinh hoạt xã hội và sinh hoạt trong mỗi gia đình. Đối với cơ sở kinh doanh dịch vụ lần đầu tiên được thành lập vốn đầu tư được dùng để xây dựng nhà xưởng, mua sắm trang thiết bị…để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật, mua sắm nguyên vật liệu, trả lương cho công nhân trong kỳ sản xuất kinh doanh lần đầu tiên Đồi với các cơ sở sản xuất kinh doanh đang hoạt động, vốn đầu tư dùng để mua sắm thêm trang thiết bị, xây dựng nhà xưởng ,và tăng thêm vốn lưu động nhằm mở rộng quy mô hoạt động hiện có, sửa chữa hoặc mua sắm tài sản cố định mới đã bị hư hỏng, hao mòn hữu hình và vô hình. Quá trình sử dụng vốn đầu tư xét về mặt bản chất, chính là quá trình thực hiện sự chuyển hoá vốn bằng tiền (vốn đầu tư) thành vốn hiện vật để tạo nên những yếu tố cơ bản của sản xuất kinh doanh và sinh hoạt. Như vậy quá trình sử dụng vốn đầu tư là nhằm duy trì tiềm lực sẵn có hoặc tạo ra tiềm lực mới lớn hơn trong quá trình sản xuất kinh doanh, dịch vụ và sinh hoạt đời sống. 2.2 Căn cứ vào vai trò và đặc điểm chu chuyển giá trị của vốn khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh thì có thể chia vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thành : - Vốn cố định : Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn sản xuất kinh doanh, là khoản tiền ứng ra hình thành tài sản cố định của doanh nghiệp. Vốn cố định là một khoản đầu tư mua sắm tài sản cố định vì vậy quy mô của vốn cố định sẽ quyết định quy mô của tài sản cố định song đặc điểm vận động của tài sản cố định lại quyết định đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của vốn cố định. -Vốn lưu động của doanh nghiệp. Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh ngoài sức lao động và tư liệu lao động thì doanh nghiệp phải có đối tượng lao động. Đối tượng lao động biểu hiện dưới hình thái hiện vật gọi là tài sản lưu động của doanh nghiệp. Tài sản lưu động là tài sản bằng tiền mặt hoặc có thể chuyển đổi thành tiền trong một chu kỳ kinh doanh hay một chu kỳ hoạch toán của doanh nghiệp. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường mọi vận hành kinh tế được tiền tệ hoá đòi hỏi doanh nghiệp phải ứng trước một số tiền để đầu tư mua sắm các tài sản lưu động, nhằm bảo đảm cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành thường xuyên hay nói một cách khác vốn lưu động là giá trị của tài sản lưu động. Nó bao gồm khoản phải thu, tiền mặt, dự trữ của doanh nghiệp.... 2.3 Căn cứ vào nguồn gốc hình thành vốn sản xuất kinh doanh, vốn của doanh nghiệp : Vốn của doanh nghiệp được chia làm hai loại - Vốn chủ sở hữu : Là số tiền vốn của chủ sở hữu, các nhà đầu tư đóng góp. Số này không phải là khoản nợ và doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán. Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu được hình thành khác nhau. Thông thường vốn chủ sở hưu bao gồm.: +Vốn góp: Vốn góp là số vốn của các bên tham gia thành lập liên doanh tiến hành đóng góp và được sử dụng vào mục đích kinh doanh. Số vốn này có thể được bổ xung tăng thêm hoặc rút bớt trong quá trình kinh doanh +Lãi chưa phân phối: Lãi là phần chênh lệch giữa một bên là toàn bộ doanh thu của các hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính và các khoản thu nhập bất thường với một bên là chi phí kinh doanh, chi phí từ hoạt động tài chính và các khoản chi bất thường. Số lãi này khi chưa phân phối cho các lĩnh vực được sử dụng trong quá trình kinh doanh sẽ được coi như vốn chủ sở hữu. - Vốn vay: Là số tiền mà doanh nghiệp đi vay, đi chiếm dụng của các đơn vị tổ chức, cá nhân. Do đó doanh nghiệp có trách nhiệm phải trả. Phần vốn này doanh nghiệp được sử dụng với những điều kiện nhất định như thời hạn sử dụng, lãi xuất… nhưng không thuộc quyền sở hữu. Vốn vay có thể huy động từ hai nguồn chính: vay từ các tổ chức tài chính như ngân hàng, một phần vay dưới dạng tài trợ phát triển và phát hành trái phiếu và cổ phiếu doanh nghiệp. 2.4 Căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn có thể phân chia nguồn vốn kinh của doanh thành hai loại. - Nguồn vốn thường xuyên: Bao gồm vốn chủ sở hữu và các khoản vay dài hạn đây là nguồn có tính chất ổn định và dài hạn mà doanh nghiệp có thể sử dụng. Nguồn vốn này được dành cho việc đầu tư mua sắm tài sản cố định và một bộ phận tài sản lưu động tối thiểu thường xuyên cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Nguồn vốn tạm thời: Là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn(dưới một năm)mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng các nhu cầu có tính chất ngắn hạn, bất thường phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn nay bao gồm cac khoản vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng. 2.5. Căn cứ vào phạm vi huy động, có thể chia làm hai loại : - Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp : Là nguồn vốn có thể huy động từ bên trong doanh nghiệp, bao gồm tiền khấu hao tài sản cố định, lợi nhuận để lại, các khoản dự phòng, các khoản thu từ nhượng bán- thanh lý tài sản cố định . - Nguồn vốn từ bên ngoài doanh nghiệp : Là nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động từ bên ngoài để đáp ứng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bao gồm vay vốn ngân hàng, và các tổ chức kinh tế khác, phát hành cổ phiếu, trái phiếu,nợ người cung cấp và các khoản nợ khác. Cách phân loại này chủ yếu giúp cho việc xem xét huy động nguồn vốn của các doanh nghiệp đang hoạt động. 3. Vai trò của vốn trong ngành dệt may xuất khẩu ở việt nam : Ngành dệt may nước ta là ngành có truyền thống lâu đời, là ngành gắn bó với đời sống nhân dân từ thành thị đến nông thôn, cung cấp hàng hoá tiêu dùng thiết yếu cho nên kinh tế quốc dân đồng thời còn là ngành xuất khẩu chiếm tỷ trọng cao trong tổng số kim ngạch xuất khẩu cụ thể năm 1998, ngành dệt may việt nam xuất khẩu đạt kim ngạch 1320USD, đứng thứ hai trong mười mặt hàng xuất khẩu có giá trị lớn. Với giá trị xuất khẩu khoảng415USD (chiếm 30% tổng kim ngạch xuất khẩu 1387 triệu USD của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài) Ngành dệt may không chỉ có vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hàng dệt may trong nước và tham gia xuất khẩu mà nó còn có vai trò hết sức quan trọng trong việc giải quyết việc làm, mang lại thu nhập cho người lao động, góp phần tạo sự ổn định, về mặt kinh tế, chính trị và xã hội là một vần đề mà không phải ngành nào cũng làm được. Trong số 38 triệu người ở độ tuổi lao động, chúng ta còn hàng chục triệu người thiêú việc làm và hàng trục triệu người chưa có việc làm, trong khi đó ngành dệt may còn nhiêu công đoạn sản xuất mang tính chất thủ công phải sử dụng nhiều lao động do đó tạo điều kiện cho việc giải quyết việc làm cho người lao động ở nước ta. Mặt khác nước ta so với nước khác giá sinh hoạt thấp hơn do đó giá nhân công rẻ hơn đây cũng là ưu thế của nước ta nói chung và cũng là ưu thế của ngành dệt may nói riêng trong việc giảm giá thành sản phẩm tạo sức cạnh tranh cho hàng hoá ở thị trường trong nước và trên thế giới. Hơn nữa,ngành dệt may nước ta có đội ngũ nhân công lành nghề, có khả năng tiếp thu kỹ thuật nhanh và có thể sản xuất được nhiều sản phẩm chất lượng cao do đó may công nghiệp việt nam đang là một thị trường gia công hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Để đáp ứng nhu cầu phát triển của nghành và giải quyết được vấn đề trên thì nghành cần có một lượng vốn đáng kể. Vốn có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển của nghành, con giải quyết được những nhu cầu bức xúc cho việc đầu tư vào tài sản cố định, tài sản lưu động phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành. Là một ngành may phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu và nhất là trong điều kiện chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường hiện nay,ngành rất cần vốn để đầu tư đổi mới máy móc và lắp đặt dây truyền công nghệ mới nhất. Nguồn vốn tự có của ngành có hạn vì vậy sự hỗ trợ từ bên ngoài là rất cần thiết. Nhờ các nguồn vốn này mà ngành dệt may của nước ta bắt đầu hoà nhập vào thị trường ngành dệt may thế giới. Nguồn vốn của ngành có thể huy động từ các nguồn sau đây: * Nguồn vốn do ngân sách nhà nước cấp : Đây là nguồn vốn được nhà nước duyệt chỉ cho phát triển kinh tế. Nó là số chênh lệch giữa tổng thu so với tổng chi của ngân sach nhà nước. * Vốn tự bổ xung của ngành : Đây là nguồn vốn rất quan trọng cho phát triển của ngành. Nguồn vốn này được hình thành từ hai nguồn: - Trích khấu hao cơ bản - Phần lợi nhuận còn lại bổ xung vào vốn kinh doanh. Ngoài ra ngành có thể bổ xung vốn hình thành từ chênh lệch giá không phải nộp, vốn vay sau khi đã trả nợ và lãi xuất tiền vay. Việc tăng hay giảm vốn này tuỳ thuộc vào hoạt động kinh doanh và việc phân cấp quản lý của nhà nước đối với mỗi doanh nghiệp. * Nguồn vốn vay ngân hàng , các tổ chức tín dụng : Vốn vay của ngân hàng có thể chia thành hai loại: - Vốn dài hạn và trung hạn: Là các khoản vay mà ngành dệt may sử dụng vào đầu tư dài hạn cho tài sản cố định. Hình thức này có thời hạn sử dụng lâu dài và lãi xuất ưu đãi. - Vốn ngắn hạn : Chủ yếu đáp ứng nhu cầu về vốn lưu động. Sử dụng vốn này phải chịu sức ép lớn về thời gian và lãi xuất. Vốn vay ngân hàng là một nguồn vốn rất quan trọng mà các doanh nghiệp sử dụng bởi dễ huy động để phục vụ cho nhu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Với các hình thức huy động doanh nghiệp có thể tập trung được một lượng vốn lớn nhanh chóng phục vụ mục tiêu sản xuất kinh doanh . Nếu doanh nghiệp đạt tỷ suất lợi nhuận cao nhờ vốn này thì đây là hình thức tín dụng có lợi nhất so với các hình thức góp vốn khác như cổ phiếu,trái phiếu…. * Nguồn vốn huy động thông qua liên doanh : Công ty liên doanh là hình thức đầu tư trong đó bên nước ngoài và bên Việt Nam cùng góp vốn thành lập một doanh nghiệp theo tỷ lệ đã thoả thuận. * Tiền trả trước của khách hàng. * Vốn trong dân: Nguồn vốn nhàn rỗi của dân được hình thành từ nhiều nguồn: Đó là sự tiết kiệm trong nước của đại bộ phận dân cư, tiền tiết kiệm của những người đi lao động, công tác ở nước ngoài.Thế nhưng do ở nước ta trình độ phát triển kinh tế còn thấp , thu nhập chưa cao nên tiết kiệm từ thu nhập của dân còn rất hạn chế. Hiện nay phần lớn nguồn vốn các doanh nghiệp may xuất khẩu huy động được là nhờ vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng. II. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn : 1. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định : Việc phân tích tính hình sử dụng tài sản cố định có biện pháp sử dụng triết để và có hiệu quả về số lượng , thời gian và công suất của máy móc thiết bị sản xuất và tài sản cố định khác là một vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi vì vốn cố định chiếm tỷ trọng lớn trong vốn kinh doanh do đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định sẽ góp phần quyết định đến nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp từ đó sẽ quyết định đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định người ta sử dụng một số chỉ tiêu sau : * Hiệu suất sử dụng tài sản cố định Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ = Số dư bình quân TSCĐ trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn cố định có thể tham gia tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu sản phẩm hàng hoá được tiêu thụ trong kỳ. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt . * Sức sản xuất của TSCĐ Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ = Nguyên giã TSCĐ bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này dùng để đánh giá trình độ quản lý và sử dụng TSCĐ. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. * Tỷ suất lợi nhuận vốn cố định Tổng lợi nhuận trong kỳ = _____________________________ 100% Vốn cố định bình quân trong kỳ Nếu chỉ căn cứ vào chỉ tiêu lợi nhuận theo số tuyệt đối thì mới chỉ đánh giá đươc hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh mà chưa thể đánh giá đúng được chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy ta phải sử dụng chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận để nói lên chất lượng của hoat. động sản xuất kinh doanh đồng thơì còn để đánh giá và so sánh hiệu quả sử dụng vốn ở trong doanh nghiệp và giữa các doanh nghiệp với nhau. Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định được sử dụng trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận.nếu tỷ suất lợi nhuận vốn cố định cao hơn tỷ suất lợi nhuận vốn sản xuất kinh doanh thì chứng tỏ doanh nghiệp đã sử dụng vốn này có hiệu quả. Trong quá trình phân tích , đánh giá nhà quản lý phải kết hợp các chỉ tiêu trên , so sánh giữa các thời kỳ , so sánh với các doanh nghiệp có điều kiện tương đương và so sánh với chỉ tiêu trung bình ngành để đánh giá chính xác hiệu quả sử dụng vốn cố định để từ đó kịp thời đưa ra các giải pháp hợp lý . 2. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động : Tài sản lưu động là những tài sản ngắn hạn và thường xuyên luân chuyển trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp . Do đó phân tích , đánh giá ,xem xét hiệu quả sử dụng vốn lưu động có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc phân tích , đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động thường dùng các chỉ tiêu sau: * Sức sản xuất của vốn lưu động Tổng doanh thu thuần = _________________________ Vốn lưu động bình quân * Sức sinh lời của vốn lưu động Lợi nhuận thuần = ___________________________ Vốn lưu động bình quân Hai chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn kinh doanh trong kỳ sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng giá trị sản lượng , doanh thu thuần , hay lợi nhuận thuần (lợi nhuận sau thuế ). Khi phân tích nhà quản lý có thể so sánh giữa các năm , giữa thực tế đạt đươc với số kế hoạch. Nêú sức sản xuất và sức sinh lời của vốn lưu động tăng lên chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động tăng lên và ngược lại nếu sức sản xuất và sức sinh lời của vốn lưu động giảm đi thì chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động giảm đi . * Số vòng quay của vốn lưu động: Tổng số doanh thu thuần = ______________________ Vốn lưu động bình quân Trong quá trình sản xuất kinh doanh vốn lưu động thường xuyên tăng lên hoặc giảm xuống xuyên qua các giai đoạn của quá trình tái sản xuất do đó đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động sẽ góp giải quyết nhu cầu về vốn lưu động. Chỉ tiêu số vòng quay của vốn cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ, nếu số vòng tăng chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động tăng và ngược lại. * Thời gian của một vòng luân chuyển Thời gian của kỳ phân tích = _____________________________ Số vòng quay của vốn lưu động trong kỳ Chỉ tiêu nay thể hiện số ngày cần thiết cho vốn lưu động quay được một vòng, thời gian của một vòng luân chuyển càng ngắn thì tốc độ luân chuyển vốn càng nhanh tức là vốn lưu động được sử dụng triệt để hơn. * Hệ số đảm nhiệm lưu động vốn lưu động bình quân = ______________________ tổng số doanh thu thuần Khi phân tích, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động ngoài những chỉ tiêu trên người ta con tính đến hệ số đảm nhiệm vốn lưu động. Hệ số này càng nhỏ thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao, số vốn tiết kiệm được càng nhiều. Thông qua chỉ tiêu này ta biết được để có một đồng luân chuyển cần bao nhiêu đồng vốn lưu động. Trong khi tính hệ số đảm bảo nhiệm vốn lưu động thì doanh thu thuần và tổng số doanh thu thuần được xác định như sau. Tổng doanh thu thuần = tổng doanh thu bán hàng trong kỳ-(tổng thuế phải nộp + chiết khấu+giảm giá hàng bán+doanh thu hàng bán bị trả lại)-Vốn lưu động bình quân năm = Tổng vốn lưu động bình quân 3 quý 4 3. Hệ thống chỉ tiêu và tỉ lệ tài chính chủ yếu : a. Nhóm chỉ tiêu về tình hình và khả năng thanh toán : Tình hình tài chính doanh nghiệp được thể hiện khá rõ nét qua các chỉ tiêu về khả năng thanh toán của doanh nghiệp bao gồm các chỉ tiêu sau * Khả năng thanh toán hiện hành Tổng số tài sản lưu động = ________________________ Số nợ ngắn hạn * Khả năng thanh toán nhanh tiền +chứng khoán gắn hạn +khoản phải thu = Tổng nợ ngắn hạn Tỷ lệ khả năng thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ . * Hệ số thanh toán tức thời Vốn bằng tiền = _____________ Nợ đến hạn Hệ số này phản ánh khả năng thanh toán nhanh các khoản nợ đã đến hạn phải thanh toán của doanh nghiệp. Nợ đến hạn bao gồm các khoản nợ gắn hạn và các khoản nợ dài hạn đã đến hạn phải thanh toán b. Nhóm chỉ tiêu về khả năng cân đối vốn : Chỉ tiêu nay dùng để đo lường phần góp vốn của các chủ sở hữu doanh nghiệp và có ý nghĩa quan trọng trong phân tích tài chính. Các chủ nợ nhìn vào số vốn chủ sở hữu để thể hiện mức độ tin cậy vào sự bảo đảm an toàn cho các món nợ. Nếu như sở hữu doanh nghiệp chỉ đóng góp một tỷ lệ nhỏ trong tổng số vốn thì rủi do trong sản xuất kinh doanh chủ yếu do các chủ nợ gánh chịu. Mặt khác, bằng các huy động vốn thông qua vay nợ, các chủ doanh nghiệp vẫn nắm được quyền kiểm soát và điều hành doanh nghiệp. Ngoài ra nếu doanh nghiệp thu được lợi nhuận từ tiền vay lớn hơn số tiền lãi phải trả thì lợi nhuận dành cho các chủ doanh nghiệp sẽ tăng lên đáng kể. Bao gồm các chỉ tiêu sau: * Chỉ số mắc nợ chung tổng nợ = tổng tài sản * Khả năng thanh toán lãi vay = lợi nhuận trước thuế + lãi vay Lãi vay Chỉ tiêu này cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo khả năng trả lãi hàng năm như thế nào. c. Nhóm chỉ tiêu về khả năng hoạt động : Các chỉ tiêu hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Các nhà phân tích, quản lý không chỉ đo lường hiệu quả sử dụng tổng nguồn vốn mà còn chủ động tới hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành nguồn vốn của doanh nghiệp người ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau. * Vòng quay tiền = Doanh thu tiêu thụ Tiền mặt và chứng khoán dễ chuyển nhượng Tỷ lệ này cho biết số vòng quay của tiền trong năm * Vòng quay dự trữ = Doanh thu tiêu thụ Gía trị hàng tồn kho * Kỳ thu tiền bảo quản Các khoản phải thu = x 360 Doanh thu tiêu thụ Chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá khả năng thu hồi vốn trên cơ sở các khoản phải thu và doanh thu tiêu thụ bình quân. Để thấy được khả năng hoạt động của từng loại tài sản trong phân tích người ta đề cập đến hiệu suất sử dụng tài sản. * Hiệu suất sử dụng tổng tài sản = Doanh thu tiêu thụ Tổng tài sản d. Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lãi : Nhóm chỉ tiêu này không phản ánh hiệu quả từng hoạt động riêng biệt của doanh nghiệp như các nhóm tỷ lệ trên mà nó phán ánh tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh và khả năng quản lý vốn có của doanh nghiệp. * Chỉ số doanh lợi tiêu thụ sản phẩm. = Lợi nhuận sau thuế Doanh lợi tiêu thụ Chỉ số này phản ánh số lợi nhuận sau thuế cho một đồng doanh thu * Doanh lợi vốn tự có = lợi nhuận sau thuế Vốn tự có Chỉ số này được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định đầu tư vào doanh nghiệp. Nó phản ánh khả năng sinh lợi của vốn tự có. * Doanh lợi vốn = Lợi nhuận trước thuế + lãi hoặc lợi nhuận sau thuế Tổng tài sản Chỉ tiêu này dùng để đánh giá khả năng sinh lời của một số đồng vốn đầu tư, chỉ tiêu này còn gọi là chỉ tiêu tỷ lệ hoàn vốn. Trong khi phân tích, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn áp dụng tổng hợp hệ thống chỉ tiêu trên cho phép chúng ta có được một cái nhìn đầy đủ và đúng đắn về hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp từ đó để tìm ra các giải pháp hữu hiệu 4. Sự cần thiết phải sử dụng hệ thống chỉ tiêu nêu trên để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn ở doanh nghiệp. Việc sử dụng hệ thống chỉ tiêu nêu trên cho phép doanh nghiệp nhìn thấy được thực lực hoạt động cuả mình, thấy được vốn của doanh nghiệp mình có được, sử dụng có hiệu quả hay không, có hợp lý hay không và đúng mục đích không đồng thời cũng thấy được là doanh nghiệp hoạt động đang trên đà phát triển hay đi xuống và nguyên nhân đó là do đâu để từ đó có cơ sở để đánh giá, xem xét và vạch ra yêu cầu đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động và hiệu quả sử dụng vốn có của doanh nghiệp .từ đó có biện pháp phát huy những mặt tích cực và có những biện pháp hữu hiệu để khắc phục những mặt hạn chế. 5. Đánh giá chung về ngành dệt may xuất khẩu. Thế mạnh và khả năng khai thác nội lực của nước ta hiện nay chính là nguồn nhân lực trong tổng số 38 triệu người trong độ tuổi lao động chúng ta còn hàng chục triệu người thiếu việc làm và hàng triệu người chưa có việc làm. Trong đó ngành dệt - may (nhất là may) còn nhiều công đoạn sản xuất mang tích thủ công nếu có khả năng giải quyết nhiều lao động mà suất đầu tư cho một chỗ làm việc lại rất thấp (khoảng 8 đến 10 triệu đồng). Ngành dệt - may Việt Nam đang đón nhận sự chuyển dịch từ các nước đang phát triển với đội ngũ lao động khéo tay và có kỷ luật, nếu chúng ta có cơ chế, chính sách tốt sẽ khai thác nhanh và có hiệu quả những ưu thế đó. Rút ra kinh nghiệm từ bài học đi lên công nghiệp hoá giai đoạn đầu ở các nước NIC (Nam Triều tiên, Đài Loan, Hồng Kông, Singapo) và các nước Đông nam á (Thái Lan, Indonêxia,Malayxia, Philipins...) cũng bắt đầu từ ngành công nghiệp dệt may. Hiện nay có nước có trên nửa triệu người lao động làm việc trong ngành công nghiệp dệt may và khoảng nửa triệu người làm dệt may gia đình, thủ công. Ngành dệt may còn có nghĩa vụ quan trọng đảm bảo đầy đủ nhu cầu thiết yếu của nhân dân trong nước “ Sau ăn mặc” Đồng thời còn có khả năng vươn lên trở thành một ngành xuất khẩu chủ lực năm 1996 xuất được 1,1 tỷ USD. Tuy vậy, ngành dệt may Việt Nam vẫn còn nhiều thiết bị cũ, lạc hậu, sản lượng vải cho xuất khẩu chưa cao, uy tín nhãn hiệu hàng hoá thấp, phụ liệu thiếu và chưa đồng bộ, mẫu mã thời trang chỉ mới bắt đầu được quan tâm. Phần lớn sản phẩm xuất khẩu vẫn chiếm tỷ lệ gia công là chính. Do vậy đòi hỏi toàn ngành phải nỗ lực hơn để thực hiện nhiệm vụ hướng ra xuất khẩu và khai thác triệt để tiềm năng “nội lực” về lao động. Trong hai năm 1997,1998 tổng công ty dệt may và các đơn vị thành viên đã chuyển dịch sản xuất từ 2 ca, 3 ca sang 1 ca/ngày, tiếp tục mở rộng quy mô chất lượng sản phẩm. Đặc biệt là việc chuyển dịch cơ cấu, đư0a các nhà máy về thị trấn ở các địa phương để vừa tận dụng nhà xưởng, vừa thu hút lao động nông nhàn, vừa công nghiệp hoá nông thôn. Hai năm qua tổng công ty và các đơn vị thành viên đã liên kết, liên doanh với các ngành, các địa phương mở mang được 45 xí nghiệp, giải quyết được gần 2 vạn lao động. Thuộc 18 tỉnh thành trong cả nước, nếu tính toàn ngành thì mỗi năm có thêm hàng trăm nhà máy mới ra đời, thu hút thêm 3 đến 4 vạn lao động, góp phần tăng kim ngạch bình quân khoảng 35% năm. Mục tiêu đặt ra của ngành là tiếp tục mở rộng thị trường, nhất là thị trường mới (Mỹ). Thị trường truyền thống (Đông Âu, Liên Xô), thị trường Phi quata. Đẩy mạnh và tăng cường hình thức mua đứt bán đoạn (FOB) giảm dần tỷ lệ gia công, coi trọng thị trường nội địa, hình thức siêu thị, cửa hàng, đại lý phục vụ nhân dân vùng sâu, vùng xa. Đẩy mạnh đầu tư nâng cấp chất lượng vải, đồng bộ phụ liệu, đầu tư những sản phẩm mới, sản phẩm quốc gia, huy động mọi nguồn lực phục vụ các chương trình đầu tư kể cả tạo mode và uy tín nhãn hiệu hàng hoá, bản quyền. Đầu tư chiều sâu, đầu tư mới, đầu tư mở rộng, tiếp tục phát huy việc đầu tư liên doanh, liên kết kể cả trong và ngoài nước để tranh thủ vốn, công nghệ, thị trường và kinh nghiệm quản lý. Để làm tròn nhiệm vụ đặt ra ngành cần có chính sách đầu tư phát triển, giải quyết về vốn, tài chính, thuế, đào tạo nguồn nhân lực tạo cho ngành thu hút thêm nhiều lao động hơn nữa để tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu cho đất nước. Một thời gian dài việc xuất khẩu hàng dệt may dựa vào nghị định thư hàng năm hoạt động tiếp thị thời kỳ này vẫn còn yếu kém nhất là khi tiếp cận với thị trường các nước có nền kinh tế phát triển, nhưng khách hàng yêu cầu cao, khó tính lại chưa quen thuộc với thị trường Việt Nam. Hạn ngạch EU giành cho Việt Nam đã hạn chế những số lượng ký hợp đồng trực tiếp với EU còn ít, phần lớn dựa vào nước thứ ba như Nam Triều Tiên, Hồng Kông, Đài Loan..) gia công cho họ dựa vào thị trường EU. Từ khi nhà nước ta có chủ trương thực hiện chính sách đổi mới đưa quyền chủ động sản xuất kinh doanh về cơ sở, các doanh nghiệp trở nên năng động và sản xuất kinh doanh có hiệu quả, song bên cạnh những kết quả tốt đẹp đã đạt được cũng bộc lộ nhiều những sai sót như sự thiếu quản lý chặt chẽ về tài chính, chưa có một thị trường tài chính hoàn thiện đã khiến cho việc huy động vốn hết sức khó khăn đây là một hạn chế. Đây là yếu tố mà tự doanh nghiệp không có khả năng khắc phục và gây ảnh hưởng không nhỏ đến hiêiụ qủa quản lý, sử dụng vốn của doanh nghiệp hơn nữa trong ngành dệt may của ta, các cơ sở còn thiếu sự phối hợp giúp đỡ nhau nhất làgiá cả gia công với nước ngoài, cạnh tranh không có tổ chức dẫn tới thiệt thòi chung cho ngành, chất lượng sản phẩm không được quản lý chặt chẽ, hiện tượng làm xấu của một số cơ sở đã gây ảnh hưởng xấu đến uy tín hàng dệt may Việt Nam. Đầu tư thiếu sự định hướng, tập trung vào một số mặt hàng nêu hầu như chưa tạo được hệ thống các mặt hàng chủ lực. Tất nhiên, để hiểu sâu hơn về tình hình hoạt động và sử dụng vốn của ngành may, các phần dưới đây sẽ phân tích kỹ về tình hình sử dụng vốn ở xí nghiệp may thuê xuất nhập khẩu Hưng Thịnh._. nhằm đưa ra những giải pháp để nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp may như góp phần tạo ra một diện mạo mới cho ngành dệt may trong tổ chức công nghiệp nhẹ và có thể hội nhập quốc tế và khu vực. Chương II Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh - Hà Tây. I. Khái quát về quá trình hình thành và phát triển của công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh - Hà Tây : Công ty may thêu Xuất nhập khẩu Hưng Thịnh Hà Tây được thành lập ngày 30/05/1989 theo Quyết định số 183/QĐ - UB và sau đó công ty được thành lập lại theo quyết định số 203/QĐ - UB ngày 24/04/1993 của UBND tỉnh Hà Tây, Công ty trực thuộc ban tài chính - quận chi thành uỷ Hà Tây, là đơn vị trực tiếp làm kinh tế xây dựng ngân sách của Đảng. Ra đời từ cơ chế quản lý tập trung bao cấp ngành dệt may Việt Nam cho đến giai đoạn trước khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, chủ yếu là sản xuất theo kế hoạch nhà nước và nằm trong chương trình hiệp định 19/5 giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Liên Xô cũ. Hàng hoá sản xuất ra chủ yếu xuất sang Liên Xô theo kế hoạch phân bổ của nhà nước. Đến năm 1990 khi Liên Xô tan rã hiệp định 19/5 bị phá vỡ toàn bộ ngành dệt may lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng không có thị trường tiêu thụ, công nghệ máy móc thiết bị lạc hậu và không có kinh nghiệm trong thị trường may mặc thế giới, nhiều doanh nghiệp đã không thể đứng vững được trước sóng gió của cơ chế thị trường. Sau những biến động của các sự kiện chính trị quốc tế năm 1990 công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh mất đi thị trường cung cấp nguyên vật liệu và thị trường tiêu thụ chủ yếu, sản xuất bị đình đốn, đời sống của cán bộ công nhân viên gặp rất nhiều khó khăn, lúc này công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã có những kết quả ban đầu đánh kích lệ. Với niềm tin mãnh liệt vào đường lối của Đảng vào thành qủa tất yếu của công cuộc đổi mới và sự tự tin vào bàn tay, khối óc của tập thể, công ty đã tháo gỡ dần khó khăn tìm kiếm thị trường mới vào tháng 4/1992 công ty đã chính thức ký hợp đồng trực tiếp với khách hàng Nam Triều Tiên, tháng 6/1992 chuyến hàng đầu tiên đã được giao đúng thời hạn hợp đồng với chất lượng đảm bảo, từ đó khách hàng trong và ngoài nước đến quan hệ đặt hàng ngày càng nhiều công ty đã giữ vững được mối quan hệ lâu dài với nhiều khách hàng như: Nam Triều Tiên, Nhật Bản, Hồng Kông, Đài Loan, Hà Lan. Thành công lớn nhất của công ty là công ty đã ký được hợp đồng gia công dài hạn 5 năm với hãng Hahabacinternation (Nam Triều Tiên) tạo khả năng ổn định sản xuất, giải quyết việc làm với thu nhập ổn định cho công nhân viên của công ty. Bảng số 1: Kết quả sản xuất từ năm 1998 đến năm 2000 Stt Chỉ tiêu ĐVT 1998 1999 2000 1 Tài sản cố định Triệu 6.080,9 9.290,3 9.764,3 2 Nguồn vốn kinh doanh Nt 5.990 8.130,6 8.825,2 3 Doanh thu sản xuất kinh doanh Nt 18.200 25.300 30.000 4 Phân xưởng sản xuất quy ra áo jacket làm chuẩn Cái 292.400 350.900 400.900 5 Lợi nhuận trước thuế 1000 354.000 516.000 857.000 6 Thực hiện nghĩa vụ với nhà nước Nt 360.000 4.500.000 5.300.000 7 Số lượng công nhân viên Người 490 550 640 8 Thu nhập bình quân đầu người đ/người 440.000 460.000 500.000 Mặc dù với số vốn ban đầu khi thành lập rất ít Vốn cố định: 851.500.000đ Vốn lưu động: 163.500.000đ Nhưng qua những năm hoạt động doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư mở rộng sản xuất, thay thế các thiết bị đã cũ, nâng cao chất lượng sản phẩm. Toàn bộ nguồn vốn đầu tư doanh nghiệp huy động bằng nguồn vay ngân hàng với thời hạn trả nợ từ 3 đến 5 năm. Năm 1993 Công ty đầu tư một dàn máy thêu tự động TA - SI - MA của Nhật và dây chuyền may dệt kim với tổng số vốn đầu tư của Nhật và dây chuyền may dệt kim với tổng vốn đầu tư là 2,3 tỷ đồng. Chỉ đến năm 1995 công ty hoàn thành kế hoạch trả nợ, nguồn vốn trả nợ chiếm tới 80% là từ khấu hao cơ bản của bản thân tài sản hình thành bằng nguồn vốn vay. Đầu năm 1996 công ty lập luận chứng kinh tế đầu tư mở rộng nhà xưởng mua sắm máy móc thiết bị trị giá 3,8 tỷ đồng, đưa vào khai thác ngay năm1997 và đã trả nợ vay được 1 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho hơn 100 lao động trên địa bàn tỉnh Hà Tây. Qúa trình hình thành và phát triển về mọi mặt của công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh như trở thành hình mẫu của sự chuyển hướng kịp thời của doanh nghiệp Việt Nam nói chung, doanh nghiệp dệt may nói riêng nhằm hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Nó khẳng định sự tồn tại và phát triển đi lên của một doanh nghiệp bằng cách luôn giữ được khách hàng truyền thống như Hồng Kông, Nhật Bản, Ba Lan và không ngừng mở rộng các khách hàng mới như Malaixia, Plestin. Sản phẩm của công ty có mặt ở nhiều thị trường thế giới như khối ASEAN, Đông Âu, và Nam Phi.... khởi đầu một cơ hội phát triển cho ngành dệt may mặc xuất nhập khẩu của tỉnh Hà Tây nhất là về năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế, giải quyết được việc làm ổn định cho trên 640 lao động. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường hiện nay thì trước những yêu cầu về chất lượng sản phẩm, kỹ mỹ thuật ngày càng cao thì ngoài việc mở rộng mặt bằng sản xuất, đồng bộ hoá dây chuyền sản xuất doanh nghiệp còn phải quan tâm đến vấn đề đổi mới thiết bị và công nghệ tiên tiến, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá trên thị trường trong và ngoài nước. Sớm nhận thức được điều đó, năm 1998 công ty đã lập dự án vay ngân hàng 1400 triệu đồng để đầu tư mua sắm máy giác mẫu và bắt đầu dựa vào thiết kế bằng máy vi tính, chấm dứt việc giác mẫu thủ công sơ đồ và chỉ sau 5 tháng hoạt động công ty đã gặt hái đựơc những thành công. Toàn bộ giác mẫu được chuyển đến phòng kỹ thuật và 8 công nhân giác mẫu đã được bố trí sắp xếp công việc khác. Thay vào đó việc sử dụng CAD/CAM với nhân viên kỹ thuật có trình độ cao đẳng và đại học. Thành công này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong công tác chuẩn bị sản xuất của công ty, đồng thời cũng là mốc son đánh dấu sự tiến bộ vượt bậc trong việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất của ngành dệt may Việt Nam. Vừa qua, do ảnh hưởng của sự khủng hoảng tiền tệ ở các thị trường lớn tiêu thụ sản phẩm của công ty bị giảm sút, công ty đã mạnh dạn tiếp cận với thị trường ở một số nước phát triển như Pháp, Đức..... và bước đầu đã có những đơn đặt hàng đảm bảo mức sản xuất bình thường, ổn định. 2. Cơ cấu tổ chức và quản lý của công ty. Cơ cấu tổ chức và quản lý của công ty có thể được khái quát qua sơ đồ sau: Sơ đồ 1: Sơ đồ bộ máy quản lý của công ty may thêu Xuất nhập khẩu Hưng Thịnh. ( Biểu hình sơ đồ 1) Là một doanh nghiệp có quy mô vừa với số lượng công nhân là 600người, việc tổ chức bộ máy quản lý của công ty đòi hỏi phải hợp lý và gọn nhẹ, phân công từng bộ phận có chức năng và nhiệm vụ cụ thể đáp ứng yêu cầu quản lý khoa học và chất lượng cao. Chức năng của giám đốc và các phòng ban ta có thể hiểu như sau: - Ban giám đốc Là người điều hành toàn bộ các hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, đồng thời là người chịu trách nhiệm cao nhất về tất cả các hoạt động của công ty, đồng thời ban giám đốc cũng phải tham mưu ý kiến các phòng ban. - Phòng hành chính. Là phòng thực hiện chức năng tham mưu giúp giám đốc trong công tác cơ cấu tổ chức bộ máy, công tác nhân sự, quản lý cán bộ và lao động, công tác tiền thưởng, giải quyết chế độ chính sách và quyền lợi đối với người lao động theo quy định của nhà nước và công ty. Phòng hành chính thực hiện mọi vấn đề quản lý hành chính pháp chế công tác quản trị, công tác đời sống. - Phòng kế toán tài vụ. Là phòng chuyên môn nghiệp vụ có chức năng quản lý tài sản, quản lý sản xuất bằng tiền vốn, quản lý công tác thu chi, tổng hợp và hệ thống hoá các số liệu hạch toán. Phòng này tham mưu giúp giám đốc xây dựng phương hướng, kế hoạch sản xuất kinh doanh, xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch và phương án thực hiện có hiệu quả các chỉ tiêu đề ra. Để làm được điều đó công ty phải thường xuyên nắm vững diễn biến và nhu cầu của thị trường, điều chỉnh kịp thời kế hoạch sản xuất nhằm sản xuất kinh doanh có lãi. - Bộ phận KCS. Là bộ phận thuộc sự chỉ đạo của giám đốc công ty làm chức năng tham mưu về kỹ thuạt sản xuất hàng hoá cùng với phòng kỹ thuật. Nhiệm vụ chính của bộ phận này là tiến hành kiểm tra chất lượng từ khâu nhập nguyên liệu đến khi hoàn thành đóng gói và nhập kho mang đi tiêu thụ. - Các phân xưởng. Là đơn vị trực thuộc, thực hiện chức năng sản xuất theo kế hoạch phục vụ cho sản xuất chính và mục tiêu phát triển của công ty. Vậy với một cơ cấu sản xuất như vậy công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh sẽ có điều kiện để hoạt động một cách có hiệu quả cao nhất. 3. Cơ cấu sản xuất kinh doanh của công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh : Công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh là một doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng may mặc xuất khẩu nên cơ cấu tổ chức sản xuất được hình thành theo nguyên tắc lập ra các phân xưởng. Hiện nay công ty có 3 phân xưởng may và 1 phân xưởng thêu. Phân xưởng thuê chủ yếu sản xuất tự động thêu trên quần áo theo mẫu của đơn đặt hàng phục vụ cho phân xưởng may. Các phân xưởng may chuyên sản xuất các mẫu hàng khác nhau nhưng quy trình công nghệ bố trí tương đối nhau, liên hoàn từ khâu đầu đến khâu cuối. Trước khi đưa vào sản xuất cần thực hiện một số công đoạn mang tính chất bắt buộc, công đoạn này do bộ phận kỹ thuật của công ty tiến hành, đó là bộ phận giác mẫu theo mẫu của khách hàng. Công tác kiểm tra đối chiếu tác nghiệp, kiểm tra chủng loại, màu sắc và chất liệu cả vải và phụ liệu khác kèm theo có phù hợp không. Nếu vướng mắc phải có biện pháp khắc phục kịp thời sau đó mới đưa vào dây chuyền sản xuất. Sau khi sản phẩm hoàn thành nó sẽ chuyển sang công đoạn đóng gói theo các cỡ quy định tất nhiên trong quá trình may, trước khi đưa vào mỗi công đoạn đều được bộ phận KCS kiểm nghiệm và giám sát trong quá trình thực hiện. Để hoàn thành nhiệm vụ sản xuất công ty đã bố trí bộ máy quản lý sản xuất và quản lý doanh nghiệp một cách đồng bộ tại các phân xưởng sản xuất. Thường thì mỗi phân xưởng có một quản đốc và một nhân viên kinh tế. Trong mỗi phân xưởng được chia làm 5 đến 6 tổ sản xuất. Từ tổ cắt phục vụ cho toàn phân xưởng, còn các tổ khác đều được lập theo một dây chuyền khép kín. ở các tổ có tổ trưởng quản lý trực tiếp từ 33 đến 40 công nhân và một tổ phó chịu trách nhiệm kỹ thuật và thu hàng, kiểm hàng khi sản xuất xong. 4. Nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và các mặt hàng chủ yếu của Công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh : Công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh là một doanh nghiệp nhà nước trực tiếp làm kinh tế xây dựng ngân sách đảng với nhiệm vụ chủ yếu là may thêu hàng may mặc xuất khẩu và phục vụ thị trường trong nước. Các mặt hàng chính của công ty là áo Jacket và dệt kim. Trước đây, việc kinh doanh của công ty rất đơn giản nhà nước cấp vốn hoàn toàn, mặt hàng sản xuất thị trường tiêu thụ đều do nhà nước chỉ định và thị trường tiêu thụ chính là Liên Xô và Đông Âu. Khi chuyển đổi sang cơ chế thị trường dưới sự cạnh tranh của rất nhiều doanh nghiệp may mặc, việc kinh doanh của công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh không còn đơn giản nữa, lúc này mọi doanh nghiệp đề phải tự tìm kiếm cho mình nguồn hàng, nguyên liệu và cả khách hàng.... mặc dù gặp rất nhiều khó khăn nhưng công ty đã có nhiều cố gắng giữ vững lòng tin với khách hàng và công ty đã bước đầu gặt hái được những thành công. Cũng như nhiều đơn vị may khác, việc sản xuất kinh doanh của công ty 100% làm theo đơn đặt hàng trong đó 80% là hàng may gia công, chỉ còn lại khoảng 20% là sản xuất theo mua nguyên liệu bán thành phẩm. Khách hàng đến với công ty phần lớn là khách hàng truyền thống. Thường ký kết các hợp đồng dài hạn. Thế nhưng để quá trình sản xuất được diễn ra liên tục công ty đã ký những hợp đồng ngắn hạn, tăng cường mở rộng thị trường để tìm kiếm những khách hàng mới. Tuy nhiên, hiện nay công ty mới chỉ chú trọng đến thị trường xuất khẩu mà chưa quan tâm tới thị trường trong nước. Hiện nay công ty chủ trương tiếp tục củng cố và giữ vững thị trường xuất khẩu vốn có như Nam Triều Tiên, Nhật Bản, Hồng Kông, Hà Lan.. mở rộng sang các thị trường như Pháp, Đức.. thường xuyên nâng cao chất lượng hợp tác để có được thị trường lâu dài, ổn định và hiệu quả. Công ty tập trung mạnh mẽ vào đầu tư chiều sâu bằng cách cải tạo, xây dựng nhà xưởng, lắp đặt thiết bị máy móc hiện đại theo dây chuyền công nghệ tiên tiến, đặc biệt chú ý đào tạo cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật. Đây là yếu tố quyết định sự phát triển của công t 5. Đặc điểm về lao động. Hiện nay công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh có 640 lao động cả gián tiếp và lao động trực tiếp với mức thu nhập bình quân là 500.000đ/ tháng. Qua bảng số liệu sau đây ta sẽ thấy rõ cơ cấu về cán bộ, lao động của công ty. Bảng số 2: Cơ cấu cán bộ, lao động của công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh Chỉ tiêu Số cán bộ lao động Tỷ trọng 1. Lao động gián tiếp 40 6,25 Trong đó - Trình độ đại học 27 4,22 - Trình độ dưới đại học 13 7,03 2. Lao động trực tiếp 600 93.75 - Lao động lành nghề 590 92,19 - Lao động phổ thông 10 1,56 3. Tuổi đời bình quân Với đặc điểm là một công ty may thêu xuất nhập khẩu với 640 lao động, thì đây không phải là một lượng lớn nhưng số lao động này được đào tạo theo những chuyên ngành khác nhau để phục vụ cho công tác quản lý và trực tiếp sản xuất. Phần lớn là cán bộ của công ty được đào tạo theo 3 chuyên ngành chủ yếu là: - Công nhân may - Quản lý kinh tế - Tài chính kế toán Lao động gián tiếp của công ty là 40 người chiếm 6,25% trong tổng lao động là 640 người. Trong đó trình độ đại học chíêm 4,22% như vậy có thể nói rằng trình độ đại học được nâng cao ở số cán bộ quản lý vì với bộ phận quản lý họ cần phải có trình độ cao để luôn nhanh nhạy tiếp thu được những công nghệ mới, tìm kiếm phát triển được thị trường cũng như trình độ tổ chức kinh doanh. Số lao động trực tiếp là 600 người chiếm 93,73% trong tổng số lao động. Trong đó lao động lành nghề chiếm 92,19% , lao động phổ thông chỉ chiếm 1,56% số lao động này đều được đào tạo qua các lớp do doanh nghiệp tổ chức và thi tuyển và tuỳ theo trình độ của mỗi người mà công ty có thể xắp xếp công việc sao cho hợp lý. Số cán bộ đại học chiếm 4,22% là 27 người hầu hết cán bộ này đều được tốt nghiệp ở các trường đại học trong và ngoài nước, họ có đầy đủ kiến thức quản lý tiên tiến phục vụ cho trước mắt và lâu dài. Số cán bộ dưới đại học chiếm 2,03% tương ứng là 13 người và số này đều là công nhân được đào tạo ngay tại các trường về công nghệ may. Số lượng công nhân làm trực tiếp của cônog ty phần lớn tuổi đời còn rất trẻ nhưng họ cũng đã có một trình độ tương đối cao. Trong thời gian vừa qua công ty đã xây dựng dự án mở rộng quy mộ sản xuất, tuyển thêm công nhân có tay nghề cao đồng thời tạo điều kiện cho những cán bộ có trình độ dưới đại học nâng cao năng lực quản lý, đủ khả năng tiếp thu công nghệ tiên tiến và hiểu sâu về thời trang. Mặt khác công ty cùng chăm lo bồi dưỡng, bổ xung cán bộ giảng dạy có trình độ cao gắn liền với đổi mới cơ sở vật chất kỹ thuật máy móc nhằm đưa công ty ngày càng phát triển, thu hút được khách hàng trên thị trường quốc tế. II. Một số nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của Công ty May thêu xuất nhập khẩu Hưng Thinh. Công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh là một doanh nghiệp Nhà nước. Để đứng vững trong cơ chế thị trường, nó phải chủ động trong mọi công tác tổ chức quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty như một doanh nghiệp tư nhân thực thụ. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như trong công tác quản lý sử dụng vốn, nó chịu tác động của nhiều yếu tố mang tính khách quan, có yếu tố ảnh hưởng tích cực, có yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Do đó chúng ta phải nhận biết chúng để phát huy nhân tố tích cực, hạn chế nhân tố tiêu cực, điều chỉnh nhân tố chủ quan theo hướng thích nghi với các yếu tố khách quan, nhằm tạo ra những hiệu ứng tốt trong quá trình sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn của Công ty nói riêng. Sau đây là một số nhân tố . 1. Nhân tố về cạnh tranh Cũng như các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại, phát triển và thích ứng với thị trường thì Công ty luôn phải giải quyết các vấn đề cơ bản như: sản xuất mặt hàng may mặc nào? Đối tượng sử dụng là ai? Số lượng và chất lượng như thế nào? Nguồn cung cấp ở đâu? Với mục tiêu là đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về hàng may mặc không những ở thị trường trong nước và nước ngoài. Cy may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh đã cố gắngđầu tư đổi mới trang thiết bị máy móc, tìm kiếm và nắm bắt kịp thời những mẫu mã mới, thị hiếu của người tiêu dùng, cố gắng hạ thấp giá thành gia công sản phẩm và đảm bảo nguồn hàng luôn ổn định, ít biến động. Do sự nỗ lực, cố gắng của Công ty mà doanh thu tiêu thụ và lợi nhuận của Công ty năm sau luôn cao hơn nắm trước. Tuy nhiên với nhu cầu làm đẹp ngày càng cao thì nhu cầu về hàng may mặc ngày càng lớn nhưng trong những năm qua mức tăng của lợi nhuận, doanh thu tiêu thụ của Công ty chưa tương xứng với mức độ tăng của nhu cầu về hàng may mặc trên thị trường. Nguyên nhân chủ yếu đó là do hiện nay Công ty đang có rất nhiều đối thủ cạnh tranh quyết liệt trên cùng một địa bàn hoạt động. Chỉ tính riêng trên địa bàn tỉnh Hà Tây hiện nay có tới 4 Công ty may may lớn nhỏ, trong đó có một Công ty liên doanh. Chính sự tồn tại của các doanh nghiệp cạnh tranh này đã gây trở ngại lớn cho Công ty trong việc mở rộng thị trường tiêu thụ và tìm kiếm nguồn hàng. Mặt khác những Công ty khác đã sẵn sàng ký những đơn đặt hàng với giá rất thấp để mong muốn mở rộng thị trường hoặc nhằm giải quyết công ăn việc làm cho cán bộ công nhân viên của họ. Chính vì vậy làm bên đối tác nước ngoài luôn tìm cách dìm giá mua khiến cho lợi nhuận của Công ty không cao, đồng thời Công ty vẫn chưa tạo được cho mình nhiều khác hàng truyền thống thường xuyên và việc xâm nhập vào các thị trường mới vẫn còn nhiều khó khăn. 2. Cơ chế chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước : Cùng với sự chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, Công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh cũng có những thay đổi căn bản trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp Công ty tiến hành sản xuất kinh doanh theo chỉ tiêu pháp lệnh. Còn trong cơ chế thị trường, Công ty phát huy tính chủ động sáng tạo trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, từ khâu huy động vốn, tìm kiếm nguồn hàng cho đến khâu tiêu thụ, về công tác huy động vốn ngoài phần vốn do Nhà nước cấp, Công ty được phép chủ động huy động từ các nguồn vốn khác cho hoạt động kinh doanh. Nguồn vốn tự huy động của Công ty chủ yếu là vay ngắn hạn và dài hạn ngân hàng, Công ty phải tự tìm kiếm lấy thị trường và tổ chức tiêu thụ. Sự quản lý vĩ mô của Nhà nước có ảnh hưởng đến Công ty còn được thể hiện qua việc thực hiện nghĩa vụ của Công ty đối với Nhà nước như quy định về doanh thu thuế xuất - nhập khẩu, thuế VAT ngoài ra về khoản thu sử dụng vốn ngân sách, theo nghị định 22/HĐBT ngà nghị định 39/CP của Chính phủ. Công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh cũng như các doanh nghiệp Nhà nước khác hàng tháng phải nộp khoản thu sử dụng vốn ngân sách Nhà nước để đảm bảo sự công bằng giữa các thành phần kinh tế, hiện nay về khoản thu này đang tiếp tục tranh cãi vì nếu sắp tới đây, Nhà nước thống nhất bỏ khoản thu này thì Công ty sẽ có thêm cơ hội để thực hiện tái đầu tư mở rộng hoạt động kinh doanh. Nói chung hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty luôn phải chịu sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Tuy nhiên, trong giai đoạn vừa qua, chính sách mở cửa của Nhà nước mà ngành dệt may nói chung và Công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh nói riêng đã có rất nhiều thuận lợi đẻ mở rộng thị trường tiêu thụ, tiếp cận với các máy móc thiết bị hiện đại, học hỏi kinh nghiệm với các bạn hàng nước ngoài. Đây là những được hết sức thuận lợi mà Công ty phải tận dụng. Trong những năm vừa qua Nhà nước đã có nhiều chính sách và chủ trương đúng đắn, kịp thời đối với ngành dệt may. Điều này làm tăng hiệu quả hoạt động và sử dụng vốn của Công ty. 2.1. Khắc phục lạm phát và chỉnh đốn ổn định vĩ mô Công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh là ngành sản xuất kinh doanh với những máy móc thiết bị chủ yếu phải nhập từ nước ngoài và sản phẩm chủ yếu gia công cho các bạn hàng nước ngoài. nếu như sảy ra lạm phát tức là đồng tiền bị mất giá hay nói một cách khác giá của hàng hoá dịch vụ tăng đáng kể điều đó sẽ làm cho việc nhập máy móc hay ký kết các đơn đặt hàng là hết sức khó khăn từ đó sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn. 2.2. Chính sách thu hút vốn đầu tư. Muốn hoạt động kinh doanh của Công ty thuận lợi và đạt được kết quả cao thì trước hết phải đảm bảo nhu cầu về vốn. Để xác định được chính xác nhu cầu về vốn đầu tư thì phải xuất phát từ nhu cầu thị trường và thông qua việc tìm hiểu về nhu cầu thị trường Công ty sẽ đi đến quyết định về phương án sản xuất và số lượng sản phẩm sẽ sản xuất ra. Tất nhiên, chất lượng mẫu mã sẽ do bên đặt hàng quyết định.Còn lượng vốn kinh doanh là bao nhiêu để có thể đáp ứng yêu cầu sản xuất là do phía Công ty định liệu, thường thì trước khi sản xuất một lô hàng nào đó Công ty phải đầu tư máy móc thiết bị mới để sản xuất. trước khi ký hợp đồng Công ty cần phải có một dự toán hoàn chỉnh. Công ty phải có chính sách huy động vốn để chủ động bổ sung cho vốn cố định của mình. Do đó mà nếu chính sách thu hút vốn đầu tư của Nhà nước mà thông thoáng sẽ tạo được thuận lợi cho Công ty huy động vốn từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước thông qua hình thức liên doanh liên kết nhằm tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và tạo thêm vốn để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Hiện tại Công ty chỉ giám huy động vốn vay dưới 50% phần còn lại là sử dụng vốn ngân sách. trong thời gian tới nếu Công ty không mạnh dạn vay thêm vốn để có thể mở rộng quy mô sản xuất thì chắc chắn rằng hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty sẽ khó có thể đạt được kết quả cao và sản phẩm của Công ty cũng khó có khả năng cạnh tranh được với sản phẩm của doanh nghiệp khác. 2.3. Chính sách đào tạo chuyên môn của Công ty Chuyển đổi sang cơ chế thị trường, một trong những vấn đề đáng quan tâm là trình độ quản lý của cán bộ và trình độ chuyên môn của công nhân sản xuất - Một bộ máy tổ chức tốt và trình độ quản lý cao sẽ giúp cho hoạt động kinh doanh của Công ty đạt kết quả cao và ngược lại. Chuyển sang cơ chế mới, chỉ một số ít cán bộ công nhân viên của Công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh thích ứng được với cơ chế thị trường. Số còn lại vẫn còn nhiều người mang nặng tác phong lao động của người quan liêu bao cấp. Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả hoạt động của Công ty. Mặc dù đã nhận thức được vấn đề trên nhưng do được khó khăn về kinh tế cũng như công tác tổ chức, việc đào tạo nâng cao trình độ kỹ thuật, quản lý về chuyên môn cho cán bộ công nhân viên của Công ty hiện tại còn chưa được thực hiện. Theo kế hoạch những năm tới Công ty sẽ cố gắng tạo điều kiện cho anh chị em đi học đại học tại chức về các lĩnh vực có liên quan đến trình độ kinh doanh mà Công ty đang cần. mặt khác Công ty sẽ thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo để nâng cao tay nghề cho công nhân. Hiện nay Công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh chưa có được đội ngũ làm marketing nhanh nhạy, sáng tạo, năng động và giỏi ngoại ngữ. Đó là yêu cầu quan trọng, bức thiết của chính sách đào tạo cán bộ của Công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh trong giai đoạn tới. Tóm lại: Trong quá trình phân tích và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của Công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh-Hà Tây thấy có rất nhiều mặt đạt được và có những hạn chế. Để đáp ứng nhu cầu về các mặt hàng may mặc và có thể cạnh tranh được trên thị trường thì đòi hỏi Công ty phải có những biện pháp tốt cho trước mắt và cũng như cho lâu dài nhằm khắc phục những tồn tại và phát huy thế mạnh của mình nhằm ngày càng nâng cao hiệu quả hoạt động và sử dụng vốn cũng như hiệu qủa kinh doanh của Công ty III. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của công ty may thêu xuất nhập khẩu. Trước đây công ty hoạt động chủ yếu dựa trên vốn nhà nước cấp, mọi đơn đặt hàng, nơi tiêu thụ đều do nhà nước chỉ định về số lượng, giá cả. Do công ty không phát huy được vai trò chủ động của mình mà phụ thuộc hoàn toàn vào nhà nước. Hơn nữa trong thời kỳ đó thường xảy ra hiện tượng báo cáo có lãi để lấy thành tích được biểu dương nên công tác hạch toán kinh doanh của công ty luôn luôn thiếu chính xác, luôn trong tình trạng lãi giả, lỗ thật. Sau năm 1991 khi Liên Xô tan rã, hiệp định 19/5 bị phá vỡ, ngành dệt may nói chung và công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh - Hà Tây nói riêng đã phải chủ động hoàn toàn trong hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên một phần vốn mà nhà nước giao cho, chủ động trong hạch toán kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của mình. Sau khi đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ với nhà nước. Trong cơ chế thị trường công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh gặp không ít những khó khăn, phải cố gắng từng bước khắc phục những khó khăn đó đề tồn tại và phát triển. Một trong những vấn đề khó khăn của công ty đó là vấn đề vốn. Vốn luôn là bài toán hóc búa không chỉ đối với mọi ngành kinh doanh mà đối với công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh cũng vậy, để đáp ứng nhu cầu về vốn lưu động thường xuyên công ty đã áp dụng phương pháp hạch toán theo cơ chế mới và sử dụng vốn có hiệu quả cao hơn. 1. Thực trạng về cơ cấu vốn và qúa trình huy động vốn của công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh. 1.1. Cơ cấu vốn của công ty. Để xem xét, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của công ty trong những năm gần đây ta không thể không quan tâm đến cơ cấu vốn (tỷ trong từng bộ phận) và những tác động vai trò kinh tế của chúng để từ đó có cái nhìn tổng quát về tình hình quản lý, sử dụng vốn của công ty để có phương pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệuquả sử dụng vốn ở công ty hiện nay. Vốn kinh doanh của công ty được chia thành vốn cố định (TSCĐ) và vốn lưu động (TSLĐ) được thể hiện qua bảng 2 dưới đây. Bảng 2. cơ cấu vốn của công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh Đơn vị tính: 1000đ Năm 1998 1999 2000 Chỉ tiêu Số tiền Tỷ lệ % Số tiền Tỷ lệ % Số tiền Tỷ lệ % - Tổng vốn KD 6.553.706 100 9.247.622 100 10.736.870 100 - Tổng TSCĐ (thuần) 4.209.236 64 5.662.031 61 7.209.811 67 - Tổng TSLĐ 2.344.470 36 3.583.591 39 3.527.039 33 Qua số liệu trên ta thấy trong cả 3 năm tổng vốn cố định của công ty luôn chiếm trên 60% tổng vốn kinh doanh. Điều này nói lên rằng với đặc điểm là một công ty chuyên may gia công xuất khẩu nên TSCĐ luôn chiếm tỷ trọng lớn. Tuy nhiên tỷ trọngvốn lưu động chiếm dưới 40% cũng không nhỏ vì đây là bộ phận có nhu cầu thường xuyên nên nó cũng đặt ra cho công ty nhiều điều cần giải quyết. Cụ thể tổng số vốn của công ty năm 2000 so với năm 1999 tăng 1.489.248 điều này thể hiện quy mô cơ sở vật chất của công ty có được đầu tư thêm. Tỷ lệ TSCĐ của công ty cũng tăng lên 6% do trong năm qua công ty đã mua sắm thêm máy móc thiết bị mới nhưng TSLĐ năm 2000 so với năm 1999 giảm đi 6%. Việc giảm lượng TSLĐ này do rất nhiều nguyên nhân. Việc tìm giải pháp để làm tăng hiệu quả sử dụng từng bộ phận vốn sẽ góp phần thúc đẩy tăng hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh cũng như giảm tỷ lệ vốn lưu động trong tổng vốn. Việc áp dụng đầy đủ hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đối với vốn cố định và vốn lưu động là một trong những biện pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của công ty. TSLĐ của công ty trong 3 năm qua mặc dù chỉ chiếm dưới 40% nhưng nó có vai trò rất quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của công ty . Do đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động sẽ góp phần tích cực vào việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của công ty. Cơ cấu TSLĐ được thể hiện qua bảng sau Bảng 3: Cơ cấu gía trị TSLĐ Đơn vị tính: 1000đ Năm 1998 1999 2000 Chỉ tiêu Số tiền Tỷ lệ % Số tiền Tỷ lệ % Số tiền Tỷ lệ % - Tổng TSLĐ 2344470 100 3585591 100 3327059 100 1. Tiền mặt 449.135 19 421.784 11,7 401.564 11,3 2. Khoản phải thu 759.446 32,4 1.463.361 41 1474.610 41,7 3. Dự trữ 542.381 23,2 1486.184 41,3 1367384 39 4. TSLĐ khác 393.308 25,4 212.282 6 283.301 8 Qua số liệu bảng 3 cho ta thấy. Tiền mặt năm 1999 và năm 2000 đều giảm đi so với năm 1998 cụ thể năm 1999 giảm so với năm 1998 là 27351.000đ giảm 7,7% năm 2000 giảm so với năm 1999 là 20.220.000đ giảm đi 0,3%. Sở dĩ có sự giảm đi này là do công ty đã đầu tư nhiều vào vào việc mua sắm nâng cấp các máy móc thiết bị phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Các khoản phải thu đều tăng lên qua3 năm cụ thể năm 1999 tăng so với năm 1998 là 705. 915.000đ tương ứng là tăng 8,6%. Năm 2000 tăng so với năm 1999 là 9.249.000đ tương ứng tăng 0,7%. Nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng tăng lên của khoản phải thu là do đặc điểm sản xuất kinh doanh của ngành dệt may đưa lại bởi vì sản phẩm dệt may sản xuất ra công ty bàn giao cho bên đặt hàng nhưng không phải cứ giao hàng là công ty được thanh toàn toàn bộ mà phần lớn chỉ được thanh toán một phần như đã thoả thuận trong hợp đồng. Phần còn lại phải chờ cho bên B tiêu thụ được sản phẩm mới thanh toán nốt phần còn lại. Hơn nữa trong cơ chế thị trường tình trạng chiếm dụng vốn của nhau giữa các doanh nghiệp diễn ra phổ biến do đó nếu công ty không chấp nhận điều này và không năng động thì công ty sẽ khó ký được những hợp đồng lớn. Qua bảng 3 ta thấy một điều đặc biệt là lượng dự trữ luôn chiếm 1 tỷ lệ cao trong tổng TSLĐ khoảng trên dưới 40% tổng TSLĐ mà lượng dữ trự này phần lớn là hàng tồn kho. Nguyên nhân chính của tình trạng này là trong thời gian này một số nguyên liệu công ty mua về nhưng lỗi thời không phù hợp với tình hình hiện nay và một số sản phẩm sản xuất sai quy cách và bị khách hàng trả lại. Mặt khác ta thấy tài sản dự trự là lượng vốn lưu động cần thiết dự trữ để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hàng liên tục và thường xuyên vì vậy việc xây dựng một lượng tài sản dự trữ hợp lý là điều kiện kiên quyết để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn bởi vì._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0096.doc
Tài liệu liên quan