Lời mở đầu
Trong những năm gần đây, cùng với sự đổi mới của cơ chế quản lý, hệ thống cơ sở hạ tầng ở nước ta có nhiều bước phát triển vượt bậc.đóng góp cho sự phát triển này là lỗ lực phấn đấu không ngừng của ngành xây dựng cơ bản, một ngành mũi nhọn trong chiến lược phát triển của đất nước. Sản phẩm của ngành xây dựng cơ bản có tính chất kinh tế, kỹ thuật, văn hoá, nghệ thuật cao, góp phần quan trọng trong việc đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng và phát triển của khoa học kỹ thuật,nâng cao đời sống
64 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1292 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty TNHH Tân Thành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vât chất, tinh thần cho người dân. Một bộ phận lớn của thu nhập quốc dân nói chung và tích luỹ nói riêng cùng với vốn đầu tư nước ngoài được sử dụng trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, vấn đề được đặt ra là làm thế nào để quản lý - sử dụng vốn có hiệu quả, khắc phục tình trạng lãng phí, chống thất thoát vốn trong điều kiện xây dựng cơ bản trải qua những giai đoạn thời gian thi công kéo dài và địa bàn trải rộng, phức tạp.
Để góp phần giải quyết vấn đề này và đặc biệt đước sự hướng dẫn, giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo hướng dẫn TS. Bùi Văn Vần , cùng với sự quan tâm, giúp đỡ, chỉ bảo của tập thể cán bộ, nhân viên phòng hành chính tổng hợp, phòng kinh tế kỹ thuật Công ty trách nhiệm hữu hạn Tân Thành. Em đã quyết định chọn đề tài ”Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Tân Thành” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cho mình, với mong muốn vận dụng những kiến thức đã được học ở nhà trường vào nghiên cứu thực tiễn, từ đó phân tích, đánh giá những kết quả đã đạt được cùng những vấn đề còn tồn tại góp phần hòan thiện công tác quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty trách nhiệm hửu hạn Tân Thành. Tất cả đựơc tập hợp lại trong ba phần chính của bài luận văn tốt nghiệp của em.
Chương 1: Vốn lưu động và các biện pháp chủ yếu để nâng cao hiêụ quả tổ chức sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng tổ chức sử dụng vốn lưu động của công ty trách nhiêm hửu hạn tân thành.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức quản lý , sử dụng vốn lưu động của công ty.
Do tầm nhận thức, sự hiểu biết và những kinh nghiệm thu thập trong quá trình học tập, tìm hiểu thực tế còn nhiều hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình thực hiện đề tài này. Rất mong được sự góp ý chỉ bảo của thầy cô để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn . Em xin chân thành cảm ơn.
Chương 1 : Vôn lưu động và các biên pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả tổ chức sử dụng vốn lưu động cua doanh nghiệp :
I. Vốn lưu động và nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp
1. Khái niệm
Cũng như các ngành sản xuất khác, ngành xây dựng cơ bản muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm thì cần phải có đủ ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất đó là: sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động.
Trong đó sức lao động là tổng hợp thể lực, trí lực của con người, là điều kiện tiên quyết của mọi quá trình sản xuất xã hội. Mọi quá trình vận động phát triển sản xuất kinh doanh đều đòi hỏi sức lao động ngày càng có chất lượng cao hơn.
Đối tượng lao động là hết thảy những vật mà con người tác động vào nhằm biến đổi nó phù hợp với mục đích sử dụng. Bao gồm các loại có sẵn trong thiên nhiên như cây gỗ trong rừng nguyên thuỷ, hải sản ngoài biển khơi… và các loại đã qua chế biến như nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm… chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất và không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, giá trị của nó được dịch chuyển toàn bộ, một lần vào giá trị sản phẩm.
Khác với đối tượng lao động, tư liệu lao động là một vật hay một hệ thống những vật làm nhiệm vụ truyền dẫn sự tác động của con người đến đối tượng lao động, làm thay đổi hình thái tự nhiên của nó, biến đối tượng lao động thành sản phẩm thoả mãn nhu cầu của con người. Những đối tượng lao động nói trên nếu xét về hình thái hiện vật thì được gọi là tài sản lưu động, còn xét về hình thái giá trị thì được gọi là vốn lưu động của doanh nghiệp.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, để hình thành các tài sản lưu động, doanh nghiệp phải bỏ ra một số vốn đầu tư nhất định. Vì vậy ta có thể hiểu vốn lưu động là số tiền ứng trước về tài sản lưu động để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra thường xuyên liên tục.
2. Phân loại vốn lưu động.
Phân loại vốn lưu động cần căn cứ vào một số tiêu thức nhất định để sắp xếp vốn lưu động theo từng loại, từng nhóm nhằm đáp ứng nhu cầu quản lý và mục đích sử dụng. Vì vậy việc phân loại có thể căn cứ vào một số tiêu thức sau:
2.1. Đặc điểm luân chuyển của vốn lưu động.
Là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động nên đặc điểm luân chuyển của vốn lưu động chịu sự chi phối bởi những đặc điểm của tài sản lưu động. Vì vậy, vốn lưu động của các doanh nghiệp không ngừng vận động qua các giai đoạn của chu kỳ kinh doanh bao gồm:
- Vốn lưu động trong khâu sản xuất như: Vốn sản phẩm đang chế tạo, bán thành phẩm tự chế, vốn về phí tổn đợi phân bổ.
- Vốn lưu động trong khâu dự trữ gồm: Vốn nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, vật liệu đóng gói.
- Vốn lưu động trong khâu lưu thông gồm: Vốn thành phẩm, vốn trong thanh toán, vốn bằng tiền.
Các quá trình trên diễn ra thường xuyên liên tục lặp đi lặp lại theo chu kỳ và được gọi là quá trình tuần hoàn, chu chuyển của vốn lưu động.
Do các nhà doanh nghiệp sản xuất hoạt động theo phương thức
T - H - SX - H’ - T’ nên hình thái ban đầu của vốn lưu động là tiền tệ rồi chuyển sang hình thái nguyên vật liệu dự trữ. Qua giai đoạn sản xuất, nguyên vật liệu được đưa vào chế tạo thành sản phẩm hoặc bán thành phẩm. Kết thúc quá trình vận động, sau khi sản phẩm đã được tiêu thụ vốn lưu động lại trở về hình thái tiền tệ. Như vậy vốn lưu động luôn có mặt ở tất cả các giai đoạn của quá trình sản xuất và thường xuyên chuyển từ dạng này sang dạng khác.
Trong các doanh nghiệp khác nhau thì sự vận động của vốn lưu động là khác nhau. Chẳng hạn, trong các doanh nghiệp thương mại thì phương thức vận động của vốn là T – H – T’. Do vậy bắt đầu quá trình vận động vốn lưu động từ hình thái tiền tệ chuyển sang hình thái hàng hoá và kết thúc lại trở về hình thái tiền tệ chứ không qua giai đoạn sản xuất, chế biến.
Như vậy, chúng ta có thể khái quát những nét đặc thù về sự vận động của vốn lưu động trong quá trình sản xuất kinh doanh như sau:
* Vốn lưu động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất kinh doanh, vốn lưu động được phân bổ khắp cả trong và ngoài doanh nghiệp. Nó có liên quan đến tất cả mọi người trong doanh nghiệp và những đối tượng ngoài doanh nghiệp.
* Vốn lưu động được chuyển dịch toàn bộ và một lần vào giá trị sản phẩm.
* Vốn lưu động vận động thường xuyên và nhanh hơn vốn cố định. Vốn lưu động biến đổi từ hình thái này qua hình thái khác và sau đó sẽ chuyển về hình thái ban đầu. Qua quá trình vận động, vốn lưu động không chỉ biến đổi về hình thái, mà quan trọng hơn nó còn tạo nên sự biến đổi về giá trị.
Những thông tin về sự biến đổi này rất cần thiết cho sự tìm ra phương hướng, biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động, mặt khác việc thu hồi vốn lưu động sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh có tác dụng trực tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp vì có thể thu hồi vốn lưu động thì doanh nghiệp mới có thể tiến hành mua sắm vật tư, thiết bị, trang trải nợ nần phục vụ cho chu kỳ sản xuất kinh doanh tiếp theo.
2.2. Hình thái biểu hiện của vốn lưu động.
Theo tiêu thức này thì vốn lưu động bao gồm:
- Vốn lưu động vật tư hàng hoá: Là các khoản vốn lưu động biểu hiện bằng hình thái hiện vật hàng hoá cụ thể như nguyên nhiên vật liệu, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, hàng hoá.
- Vốn lưu động bằng tiền: Bao gồm các khoản vốn tiền tệ như tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển, các khoản vốn trong thanh toán, các khoản đầu tư ngắn hạn.
ở các doanh nghiệp khác nhau thì kết cấu vốn lưu động cũng khác nhau, việc phân tích kết cấu vốn lưu động sẽ giúp doanh nghiệp hiểu rõ hơn những đặc điểm riêng về số vốn lưu động mà mình đang quản lý và sử dụng, từ đó xác định đúng các trọng điểm và biện pháp quản lý vốn lưu động có hiệu quả hơn với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp. Mặt khác, thông qua việc thay đổi kết cấu vốn lưu động của mỗi doanh nghiệp trong từng thời kỳ khác nhau ta có thể thấy được những biến đối tích cực hay những hạn chế về mặt chất lượng trong công tác quản lý vốn lưu động của từng doanh nghiệp.
2.3 Nguồn hình thành vốn lưu động.
Trong nền kinh tế thị trường, vốn lưu động có thể được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Tuy nhiên căn cứ vào nội dung kinh tế, người ta có thể chia làm 2 nguồn hình thành cơ bản sau:
- Nguồn vốn chủ sở hữu
- Nguồn vốn vay ngắn hạn
2.3.1 Nguồn vốn chủ sở hữu.
Đối với một doanh nghiệp, tổng số tiền lớn hay nhỏ là rất quan trọng. Song trong nền kinh tế thị trường, điều quan trọng hơn là khối lượng vốn do doanh nghiệp đang nắm giữ được hình thành từ nguồn nào. Nguồn vốn của doanh nghiệp thể hiện trách nhiệm pháp lý và quyền sở hữu của người chủ về các tài sản hiện có của doanh nghiệp vốn chủ sở hữu được tạo nên từ các nguồn sau:
* Vốn ban đầu của chủ sở hữu: Là số tiền đóng góp của các nhà đầu tư người chủ sở hữu doanh nghiệp nó phụ thuộc vào loại hình của doanh nghiệp.
- Đối với doanh nghiệp nhà nước: Nguồn vốn chủ sở hữu do nhà nước (hay ngân sách nhà nước) cấp phát nên được gọi là vốn ngân sách nhà nước.
- Đối với công ty cổ phần: Nguồn vốn này được biểu hiện dưới hình thức vốn cổ phần, vốn này do những người sáng lập công ty phát hành cổ phiếu để huy động thông qua việc bán các cổ phiếu đó.
- Đối với doanh nghiệp tư nhân: Nguồn vốn này do chủ doanh nghiệp đầu tư hay các hội viên liên kết cùng nhau bỏ ra để đầu tư hình thành doanh nghiệp, nên được gọi là vốn tự có.
- Đối với doanh nghiệp liên doanh: Nguồn vốn này được biểu hiện dưới hình thức vốn liên doanh, vốn này được hình thành do sự đóng góp giữa các chủ đầu tư hoặc các doanh nghiệp để hình thành các doanh nghiệp mới.
- Vốn doanh nghiệp tự bổ sung: Là số vốn được bổ sung hàng năm từ lợi nhuận hoặc từ các quỹ của doanh nghiệp. Ngoài ra cần phải kể đến số vốn do các chủ sở hữu bổ sung mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Bên cạnh đó, vốn chủ sở hữu còn bao gồm chênh lệch đánh giá lại tài sản, quỹ phát triển sản xuất, quỹ dự trữ, chênh lệch tỷ giá, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, vốn đầu tư xây dựng cơ bản, kinh phí sự nghiệp.
2.3.2 Nguồn vốn tín dụng (vốn vay).
Trong nền kinh tế thị trường, ngoài nguồn vốn chủ sở hữu nguồn vốn tín dụng vẫn luôn được coi là nguồn vốn quan trọng thường xuyên và hiệu quả đối với hầu hết các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cả trên lý thuyết cũng như thực tế.
Vốn vay có ý nghĩa quan trọng không những chỉ ở khả năng tài trợ các nhu cầu bổ sung cho việc mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà còn tạo điều kiện linh hoạt trong việc thu hẹp quy mô kinh doanh bằng việc hoàn trả các khoản nợ đến hạn và giảm số lượng vốn vay. Nguồn vốn tín dụng được thực hiện dưới các phương thức chủ yếu sau:
-Vốn tín dụng ngân hàng: Là các khoản vốn mà các doanh nghiệp vay các ngân hàng thương mại, công ty tài chính, công ty bảo hiểm hay các tổ chức kinh doanh khác… theo nguyên tắc hoàn trả theo thời gian quy định.
Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng quan trọng nhất. Nó có quan hệ với các thành phần kinh tế trong xã hội và thoả mãn phần vốn khá lớn đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Việc sử dụng nguồn vốn tín dụng ngân hàng để tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động không chỉ giúp cho doanh nghiệp khắc phục được những khó khăn về vốn mà còn có tác dụng phân tán rủi ro trong kinh doanh. Tuy nhiên để sử dụng nguồn vốn tín dụng có hiệu quả, doanh nghiệp cũng cần phải có những phân tích đánh giá nhiều mặt khi quyết định sử dụng nguồn vốn này, đặc biệt là việc lựa chọn ngân hàng cho vay, khả năng trả nợ và chi phí sử dụng vốn vay từ các ngân hàng.
- Vốn tín dụng thương mại: Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các nhà doanh nghiệp biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá, mua bán trả góp, trả chậm hàng hoá, nguồn tín dụng thương mại có ảnh hưởng hết sức to lớn không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn đối với cả một nền kinh tế. Quy mô của nguồn vốn tín dụng thương mại phụ thuộc vào số lượng hàng hoá dịch vụ mua chịu và thời hạn mua chịu của khách hàng. Thời hạn mua chịu càng dài thì nguồn vốn tín dụng thương mại càng lớn.
- Vốn chiếm dụng của các đối tượng khác: Bao gồm các khoản phải trả cán bộ công nhân viên, phải trả thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước nhưng chưa đến hạn phải trả, phải nộp hay các khoản tiền đặc cọc. Mặc dù doanh nghiệp có quyền sử dụng số vốn này vào các hoạt động kinh doanh mà không phải trả lãi, nhưng nguồn vốn này không lớn và không có kế hoạch trước, mà chỉ đáp ứng vốn lưu động tạm thời.
- Vốn do phát hành trái phiếu: Là nguồn vốn doanh nghiệp thu được do phát hành trái phiếu ngắn hạn ra thị trường nhằm thu hút được các nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi trong xã hội. Việc phát hành trái phiếu cho phép phân phối rộng rãi, người vay tránh được các khó khăn và sự giàng buộc của ngân hàng, các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng có thể phát hành trái phiếu.
Như vậy, trong nền kinh tế thị trường, vốn lưu động được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, bằng các hình thức huy động rất đa dạng và phong phú. Mỗi hình thức có ưu điểm, nhược điểm nhất định. Vì vậy các nhà quản trị tài chính cần phải lựa chọn các phương pháp và hình thức thích hợp đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động liên tục với chi phí sử dụng vốn thấp nhất.
3. Vai trò của vốn lưu động.
Vốn trong các doanh nghiệp có vai trò quyết định đến việc thành lập, hoạt động và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Nó là điều kiện tiên quyết, quan trọng nhất của sự ra đời, tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Là một bộ phận không thể thiếu được trong vốn kinh doanh của các doanh nghiệp, vốn lưu động có những vai trò chủ yếu sau:
Một là: Vốn lưu động giúp cho các doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh một cách liên tục có hiệu quả. Nếu vốn lưu động bị thiếu hay luân chuyển chậm sẽ hạn chế việc thực hiện mua bán hàng hoá, làm cho các doanh nghiệp không thể mở rộng được thị trường hay có thể bị gián đoạn sản xuất dẫn đến giảm sút lơị nhuận gây ảnh hưởng xấu đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Hai là: Do đặc điểm của vốn lưu động là phân bố khắp trong và ngoài doanh nghiệp, đồng thời chúng lại chu chuyển nhanh nên thông qua quản lý và sử dụng vốn lưu động, các nhà tài chính doanh nghiệp có thể quản lý toàn diện tới việc cung cấp, sản xuất và phân phối của doanh nghiệp. Chính vì vậy, có thể nói rằng vốn lưu động là một công cụ quản lý quan trọng. Nó kiểm tra, kiểm soát, phản ánh tính chất khách quan của hoạt động tài chính thông qua đó giúp cho các nhà quản trị doanh nghiệp đánh giá những mặt mạnh, mặt yếu trong kinh doanh như khả năng thanh toán, tình hình luân chuyển vật tư, hàng hoá, tiền vốn, từ đó có thể đưa ra những quyết định đúng đắn đạt được hiệu quả kinh doanh cao nhất.
Ba là: Vốn lưu động là tiền đề vật chất cho sự tăng trưởng và phát triển của các doanh nghiệp đặc biệt là đối với các doanh nghiệp thương mại và các doanh nghiệp nhỏ, bởi ở các doanh nghiệp này vốn lưu động chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng vốn, sự sống còn của các doanh nghiệp này phụ thuộc rất nhiều vào việc tổ chức, quản lý và sử dụng vốn lưu động. Mặc dù, hầu hết các vụ phá sản trong kinh doanh là hệ quả của nhiều yếu tố chứ không phải chỉ do quản trị vốn lưu động tồi. Nhưng cũng cần thấy rằng, sự bất lực của một số công tác trong việc hoạch định và kiểm soát chặt chẽ vốn lưu động và các khoản nợ ngắn hạn hầu như là nguyên nhân dẫn đến thất bại của họ.
Thứ tư : Vốn lưu động còn là nguồn lực quan trọng để thực hiện các chiến lược, sách lược kinh doanh nhằm phát huy tài năng của ban lãnh đạo doanh nghiệp. Nó giúp cho doanh nghiệp đưa hàng hoá từ lĩnh vực sản xuất sang lĩnh vực lưu thông, giải quyết được mâu thuẫn vốn có giữa sản xuất và tiêu dùng.
Tóm lại, vốn lưu động có một vai trò rất quan trọng trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, việc sử dụng vốn lưu động như thế nào cho có hiệu quả sẽ ảnh hưởng rất lớn đến mục tiêu chung của doanh nghiệp.
4. Những nhân tố ảnh hưởng đến kết cấu vốn lưu động.
Vốn lưu động của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất luôn luôn vận động luân chuyển từ hình thái này sang hình thái khác, do đó hiệu quả sử dụng vốn lưu động luôn chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố trong quá trình vận động đó. Bao gồm:
- Các nhân tố về mặt sản xuất như: đặc điểm kỹ thuật, công nghệ sản xuất của doanh nghiệp, mức độ phức tạp của sản phẩm chế tạo, độ dài của chu kỳ sản xuất, trình độ tổ chức quản lý sản xuất,... các yếu tố này ảnh hưởng đến tỷ trọng vốn trong các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh.
- Các nhân tố về mặt cung ứng như: khoảng cách giữa các doanh nghiệp với nơi cung cấp, khả năng cung cấp của thị trường, kỳ hạn giao hàng, khối lượng vật tư mỗi lần giao hàng, đặc điểm thời vụ của chủng loại vật tư,... tất cả các yếu tố này sẽ tác động đến chi phí vận chuyển, kế hoạch mua hàng, chi phí bảo quản...
- Các nhân tố về mặt thanh toán như: phương thức thanh toán được lựa chọn theo các hợp đồng bán hàng, thủ tục thanh toán, việc chấp hành nguyên tắc thanh toán của khách hàng.
- Các nhân tố về mặt quản lý có vai trò quan trọng trực tiếp quyết định đến hiệu quả sử dụng và kết cấu của vốn lưu động, đồng thời nó cũng tác động trực tiếp đến quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
- Các nhân tố về mặt sử dụng: Quá trình mua vật tư không phù hợp với quy trình công nghệ hoặc vật tư không đủ tiêu chuẩn chất lượng không thu hồi được phế liệu. Điều này có tác động không nhỏ đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp.
- Nhân tố về lạm phát: Do tác động của nền kinh tế luôn tồn tại lạm phát, nếu doanh nghiệp không điều chỉnh kịp thời giá trị của vật tư hàng hoá sẽ làm cho giá trị vốn lưu động của doanh nghiệp bị giảm theo tốc độ trượt giá của tiền tệ.
- Nhân tố về rủi ro: Trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị trường có nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia, bình đẳng cạnh tranh và với sức mua thị trường là có hạn thì sẽ luôn tồn tại những rủi ro về thua lỗ cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các rủi ro về thiên tai, địch họa có thể xảy ra bất cứ lúc nào dẫn đến sự thâm hụt về vốn cho doanh nghiệp.
Trên đây là những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng và kết cấu vốn của doanh nghiệp. Vậy doanh nghiệp phải căn cứ vào tình hình, điều kiện sản xuất kinh doanh cụ thể của mình để kiếm chế bớt bất lợi, phát huy ưu thế nhằm góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
II. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả tổ chức, sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp trong nên kinh té thị trường
1. ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả tổ chức sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp :
Trong cơ chế hiện nay, vấn đề quản lý vốn kinh doanh là rất cấp thiết và cấp bách đối với doanh nghiệp bởi vì quản lý vốn là khâu quan trọng giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả kinh doanh. Đối với vốn lưu động cũng vậy, muốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động thì phải quản lý tốt vốn lưu động. Do đó, khi đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động, ta không thể không xem xét đến việc quản lý vốn lưu động. Và để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động thì trong khâu quản lý vốn cần chú ý những vấn đề sau:
Một là: Xác định lượng vốn lưu động cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó đưa ra kế hoạch tổ chức huy động vốn lưu động, luôn đảm bảo một lượng vốn lưu động cần thiết tối thiểu cho quá trình sản xuất kinh doanh được thuận lợi liên tục. Đồng thời, tránh được tình trạng ứ đọng vốn, gây lãng phí nguồn lực, tăng chi phí cho doanh nghiệp, thúc đẩy quá trình luân chuyển vốn lưu động để từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp.
Hai là: Lựa chọn hình thức khai thác huy động vốn lưu động thích hợp nhằm đáp ứng nhu cầu cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, triệt để khai thác các nguồn vốn bên trong doanh nghiệp. Đồng thời, tính toán huy động vốn bên ngoài như vốn chiếm dụng, vay ngân hàng, phát hành trái phiếu,... một cách hợp lý nhằm hạ thấp chi phí và đảm bảo an toàn cho doanh nghiệp.
Ba là: Phải luôn có những giải pháp an toàn và phát triển vốn lưu động. Mục tiêu của doanh nghiệp là lợi nhuận nhưng trước đó vấn đề quan trọng đặt ra tối thiểu cho doanh nghiệp đạt được mục tiêu lợi nhuận là phải bảo toàn vốn lưu động.
Bốn là: Thường xuyên tiến hành phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động nhằm tăng cường nâng cao hiệu qủa tổ chức sử dụng vốn lưu động, góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Năm là: Đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trước sự cạnh tranh gay gắt, trước xu thế hội nhập với khu vực và thế giới.
Như vậy, quản lý tốt vốn lưu động sẽ giúp cho doanh nghiệp có điều kiện phát triển sản xuất kinh doanh đồng thời áp dụng được những tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại. Từ đó, tạo ra khả năng để doanh nghiệp nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm , hạ thấp chi phí giá thành sản phẩm. Bên cạnh đó, doanh nghiệp đồng thời khai thác được các nguồn vốn và sử dụng vốn có hiệu quả, tiết kiệm, làm tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động, giảm bớt nhu cầu vay vốn, giảm bớt chi phí về lãi vay.
2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tổ chức sử dụng vốn của doanh nghiệp
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động là chỉ tiêu chất lượng phản ánh mối quan hệ giữa kết quả thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh tới số vốn lưu động bỏ ra trong kỳ. Với việc cụ thể hoá kết quả kinh doanh và sử dụng vốn lưu động bằng các chỉ tiêu sát thực, doanh nghiệp sẽ đánh giá được hiệu quả sử dụng vốn lưu động một cách đúng đắn và khách quan, sau đây chúng ta xem xét lần lượt các chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
2.1. Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời.
2.1.1. Hệ số sinh lời:
Hệ số sinh lời của vốn lưu động hay còn gọi là mức doanh lợi vốn lưu động phản ánh một đồng vốn lưu động có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Hệ số sinh lời vốn lưu động càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng có hiệu quả. Hệ số sinh lời vốn lưu động có thể tính theo công thức sau:
HSL = Lợi nhuận
VLĐbq
Trong đó:
HSL : Hệ số sinh lời vốn lưu động
VLĐbq : Vốn lưu động bình quân trong kỳ
VLĐbq = VLĐĐK + VLĐCK
2
Trong đó: VLĐĐK: Số vốn lưu động đầu kỳ
VLĐCK: Số vốn động cuối kỳ
Các chỉ tiêu trên đây dùng để phản ánh tình hình sử dụng vốn lưu động là tiết kiệm hay lãng phí, hiệu quả hay không hiệu quả. Dựa vào các chỉ tiêu này, người ta có thể đánh giá khái quát về tình hình sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp.
2.1.2. Hệ số đảm nhiệm của vốn lưu động:
Hệ số đảm nhiệm của vốn lưu động được xác định bằng công thức:
HĐN = VLĐBQ
Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này phản ánh số vốn lưu động cần có để đạt được một đồng doanh thu, hệ số đảm nhiệm vốn lưu động càng nhỏ thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao và ngược lại.
2.2. Nhóm chỉ tiêu phản ánh tốc độ luân chuyển.
Sử dụng hợp lý, hiệu quả vốn lưu động được biểu hiện trước hết ở tốc độ luân chuyển vốn lưu động nhanh hay chậm, việc nâng cao tốc độ chu chuyển vốn lưu động có ý nghĩa to lớn vì với một số vòng không tăng nhưng có thể hoàn toàn tăng nhanh doanh số bán ra. Nó chính là điều kiện cơ bản để tăng thu nhập, lợi nhuận, tiết kiệm vốn lưu động và cũng là nhiệm vụ cơ bản của doanh nghiệp. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động được thể hiện bằng số vòng quay và số ngày của một vòng chu chuyển vốn lưu động.
2.2.1 Số vòng quay vốn lưu động.
V = Doanh thu thuần (trong kỳ)
VLĐBQ
Số vòng quay vốn lưu động phản ánh số lần luân chuyển vốn lưu động được thể hiện trong một thời kỳ nhất định thường tính trong một năm. Công thức tính như sau:
Trong đó:
V: Số lần luân chuyển của vốn lưu động trong kỳ
Số lần luân chuyển càng lớn thì hiệu suất sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
2.2 Thời gian trung bình một vòng luân chuyển vốn lưu động.
Số ngày trung bình của một vòng luân chuyển vốn lưu động phản ánh số ngày để thực hiện một vòng quay vốn lưu động, kỳ luân chuyển vốn lưu động càng ngắn thì càng tốt và ngược lại.
Công thức được xác định như sau:
K = 365 = 365*VLĐBQ
V Doanh thu thuần (trong kỳ)
Trong đó:
K: Thời gian trung bình một vòng luân chuyển vốn lưu động.
3. Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành vốn lưu động.
Để đánh giá một cách chính xác hơn, cặn kẽ hơn về hiệu quả sử dụng vốn lưu động chúng ta hãy lần lượt phân tích từng khoản mục cụ thể cấu thành lên vốn lưu động của doanh nghiệp:
3.1 Vòng quay các khoản phải thu.
Vòng quay các khoản phải thu phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu của doanh nghiệp thành tiền mặt và được xác định bằng công thức:
Vòng quay các khoản phải thu = Doanh thu thuần (vòng)
Số dư bình quân các khoản phải thu
Trong đó:
Số dư bình quân Số dư các khoản + Số dư các khoản
các khoản phải thu = phải thu đầu kỳ phải thu cuối kỳ
2
Vòng quay các khoản phải thu càng lớn thể hiện rằng doanh nghiệp thu hồi càng nhanh các khoản nợ. Điều đó được đánh giá là tốt vì vốn bị chiếm dụng giảm.
3.2 Kỳ thu tiền bình quân được xác định bằng công thức.
Kỳ thu tiền bình quân = 365 (ngày)
Vòng quay các khoản phải thu
Kỳ thu tiền bình quân càng ngắn thể hiện chính sách thu hồi công nợ của doanh nghiệp có hiệu quả. Tuy nhiên, nếu kỳ thu tiền bình quân mà quá ngắn nghĩa là phương thức tín dụng quá hạn chế, có thể sẽ làm ảnh hưởng không tốt đến quá trình tiêu thụ sản phẩm, bởi lẽ trong thời đại “Khách hàng là thượng đế” hiện nay việc mua bán chịu là một tất yếu khách quan và khách hàng luôn mong muốn thời hạn trả tiền được kéo dài thêm.
3.3 Kỳ trả tiền bình quân.
Kỳ trả tiền bình quân = 365 (ngày)
Vòng quay các khoản phải trả
= 365 * Số dư bình quân các khoản phải trả
Giá vốn hàng bán + Chi phí bán hàng + Chi phí quản lý doanh nghiệp
Kỳ trả tiền bình quân thể hiện số ngày bình quân của một lần doanh nghiệp đã trả cho các khoản nợ ngắn hạn từ việc mua bán chịu hàng hoá được thể hiện bằng công thức:
Những nhà quản lý doanh nghiệp luôn mong muốn kỳ trả tiền bình quân dài, nghĩa là khả năng đi chiếm dụng vốn từ các doanh nghiệp, cá nhân khác sẽ tăng. Tuy nhiên, không phải kỳ trả tiền bình quân càng dài càng tốt, vì khi đó khách hàng và nhà cung cấp bị thiệt, và sự đánh đổi ở đây chính là tác động đối với mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các đối tác trên.
3.4 Thời gian quay vòng hàng tồn kho.
Thời gian quay vòng hàng tồn kho phản ánh số ngày trung bình của một vòng quay hàng tồn kho, thời gian quay vòng hàng tồn kho càng ngắn thì số vòng quay hàng tồn kho càng lớn, chứng tỏ việc kinh doanh càng có hiệu quả, công thức xác định như sau:
Vòng quay hàng lưu kho = Giá vốn hàng bán (vòng)
Hàng lưu kho trung bình
Số ngày bình quân của = 365 (ngày)
một vòng quay hàng tồn kho Vòng quay hàng lưu kho
Số ngày một vòng quay hàng tồn kho càng ngắn (hay hệ số doanh số lưu kho cao) thì việc kinh doanh được đánh giá càng tốt bởi lẽ doanh nghiệp chỉ đầu tư cho hàng tồn kho thấp nhưng vẫn đạt được doanh số cao. Song, trong quá trình phân tích đánh giá, cần xem xét một cách cụ thể những yếu tố khác có liên quan, như phương thức bán hàng vận chuyển thẳng hoặc bán giao tay ba nhiều, thì hệ số vòng quay hàng tồn kho càng cao hoặc nếu duy trì mức tồn kho thấp cũng sẽ làm cho số ngày một vòng quay hàng tồn kho thấp nhưng cũng sẽ làm cho khối lượng tỉêu thụ hàng hoá sẽ bị hạn chế hơn.
3.5 Thời gian quay vòng tiền mặt (C.C.C).
Vòng quay tiền mặt là khoản thời gian bắt đầu từ khi trả tiền mặt cho nguyên vật liệu và kết thúc khi thu được tiền mặt từ các khoản phải thu và được xác định bằng công thức:
= Doanh thu thuần
Vốn bằng tiền + Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn
Vòng quay tiền mặt
Các doanh nghiệp luôn mong muốn có vòng quay tiền mặt ngắn vì khi đó số vốn mà doanh nghiệp đưa vào sản xuất kinh doanh sẽ cho một hiệu quả cao hơn từ đó sẽ làm tăng hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Tuy nhiên để làm được điều đó buộc các doanh nghiệp phải có chính sách quản lý tín dụng cấp cho khách hàng chặt, đồng thời tăng khả năng chiếm dụng vốn của khách hàng. Nhưng quan hệ của doanh nghiệp là mối quan hệ giữa các đối tác, khách hàng và nhà cung cấp nên khi doanh nghiệp có lợi thì nhất định các đối tác bị thiệt hại, điều đó sẽ ảnh hưởng không tốt tới các mối quan hệ của doanh nghiệp trên thị trường.
4. Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán.
Các hệ số này đo lường khả năng đáp ứng các ràng buộc pháp lý về tài chính của doanh nghiệp (nghĩa là thanh toán các khoản nợ ngắn hạn). Khi doanh nghiệp có đủ tiền, doanh nghiệp sẽ tránh được việc vi phạm các ràng buộc pháp lý về tài chính và vì thế tránh được nguy cơ chịu các áp lực về tài chính. Khả năng thanh khoán kế toán đo lường, khả năng thanh toán nợ ngắn hạn và nó thường liên quan đến vốn lưu động ròng, chênh lệch giữa tài sản lưu động và nợ ngắn hạn.
Để tính toán khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp người ta thường sử dụng một số phương pháp cụ thể như : hệ số thanh toán hiện thời, hệ số thanh toán nhanh, hệ số thanh toán bằng tiền.
4.1. Hệ số thanh toán hiện thời (CR).
Hệ số thanh toán hiện thời phản ánh mối quan hệ giữa tài sản lưu động và các khoản nợ ngắn hạn. Nó thể hiện mức độ đảm bảo của tài sản lưu động với nợ ngắn hạn và được xác định bằng công thức:
CR = TSLĐBQ
Tổng nợ ngắn hạn
Hệ số thanh toán hiện thời cao sẽ phản ánh khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn của doanh nghiệp là tốt. Tuy nhiên, không phải hệ số này càng cao là càng tốt, vì khi đó có một lượng tài sản lưu động lớn bị tồn chữ, làm việc sử dụng tài sản lưu động không hiệu quả, vì bộ phận này không sinh lời. Do đó tính hợp lý của hệ số thanh toán hiện thời còn phụ thuộc vào từng ngành nghề, góc độ của người phân tích cụ thể.
4.2 Hệ số thanh toán nhanh (QR).
= TSLĐBQ - Hàng lưu kho
Tổng nợ ngắn hạn
QR
Hệ số thanh toán nhanh đo lường mức độ đáp ứng nhanh của vốn lưu động trước các khoản nợ ngắn hạn. Trong tài sản lưu động của doanh nghiệp hiện có thì vật tư hàng hoá có tính thanh khoán thấp nhất, do đó nó có khả năng thanh toán kém nhất. Vì vậy khi xác định hệ số thanh toán nhanh người ta đã trừ phần hàng tồn kho ra khỏi tài sản đảm bảo thanh toán nhanh và được thể hiện bằng công thức:
Cũng như hệ số thanh toán hiện thời, độ lớn hay nhỏ của hệ số này còn tuỳ thuộc vào từng ngành nghề kinh doanh cụ thể thì mới có thể kết luận là tích cực hay không tích cực. Tuy nhiên nếu hệ số này quá nhỏ thì doanh nghiệp sẽ gặp phải khó khăn trong việc thanh toán công nợ.
4.3 Hệ số thanh toán bằng tiền (tức t._.hời).
Hệ số thanh toán tức thời = Tiền mặt
Tổng nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng nợ ngắn hạn thì hiện tại doanh nghiệp có bao nhiêu đơn vị tiền tệ tài trợ cho nó. Nếu chỉ tiêu này cao phản ảnh khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp là tốt, nếu chỉ tiêu này mà thấp thì khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp là chưa tốt. Tuy nhiên, khó có thể nói cao hay thấp ở mức nào là tốt và không tốt. Vì nó còn phụ thuộc vào lĩnh vực kinh doanh hoặc góc độ của người phân tích .
Như vậy có thể nói, việc phân tích và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công tác tài chính của doanh nghiệp. Bởi vì nó không chỉ ảnh hưởng tới lợi nhuận mà còn liên quan đến việc thu hút các nguồn lực cho doanh nghiệp.
5. Một số biên pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả tổ chức sử dụng vón lưu động của doanh nghiệp:
5.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu lâu dài của doanh nghiệp là phát triển. Để đạt được mục tiêu đó doanh nghiệp luôn cần nỗ lực hết sức phấn đấu nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh mà trong đó vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh có vị trí quan trọng hàng đầu.
Việc sử dụng vốn lưu động hiệu quả luôn gắn liền với lợi ích và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là vấn đề có tính cấp thiết đối với sự tồn tại của doanh nghiệp và là một tất yếu khách quan mà doanh nghiệp cần đạt được. Việc quản lý và sử dụng vốn lưu động kém hiệu quả sẽ làm tốc độ luân chuyển chậm, hiệu quả sử dụng vốn thấp ở mức nghiêm trọng hơn hiện tượng này rất dễ dẫn đến thất thoát vốn và ảnh hưởng đến quá trình tái sản xuất. Quy mô vốn giảm khiến cho chu kỳ sản xuất sau thu hẹp hơn so với chu kỳ trước. Tình trạng trên nếu kéo dài liên tục thì chắc chắn doanh nghiệp không thể đứng vững được trên thị trường.
Với ý nghĩa như vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động là hết sức cần thiết đối với mỗi doanh nghiệp. Vì vốn lưu động là một bộ phận cấu thành nên tổng nguồn vốn của doanh nghiệp là yếu tố quan trọng tài trợ cho tài sản lưu động, là công cụ để thực hiện các chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, đảm bảo cho sự hoạt động nhịp nhàng cân đối, củng cố và tăng cường công tác kế hoạch hoá cũng như việc hạch toán kinh tế và đẩy mạnh thi đua sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp.
5.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, quản lý và sử dụng vốn lưu động một cách có hiệu quả, hợp lý có ảnh hưởng rất quan trọng đối với việc hoàn thành nhiệm vụ chung của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau. Nhằm phát huy được những mặt mạnh, giảm thiểu những mặt tiêu cực tác động đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động, đòi hỏi các nhà quản lý phải nắm bắt được các nhân tố tác động đó.
5.2.1 Nhân tố khách quan.
Bao gồm các nhân tố:
* Đặc điểm hoạt động sản xuất, kinh doanh: đặc điểm của hoạt động sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp có ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Doanh nghiệp làm nhiệm vụ sản xuất khác doanh nghiệp làm nhiệm vụ lưu thông, doanh nghiệp có tính chất thời vụ thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động khác với doanh nghiệp không mang tính thời vụ.
Chu kỳ sản xuất kinh doanh ảnh hưởng trước hết đến nhu cầu sử dụng vốn lưu động và khả năng tiêu thụ sản phẩm do đó cũng ảnh hưỏng tới hiệu qủa vốn lưu động. Những doanh nghiệp có chu kỳ kinh doanh ngắn thì nhu cầu vốn lưu động thường không có biến động lớn, doanh nghiệp cũng thường xuyên thu được tiền bán hàng. Điều đó giúp doanh nghiệp dễ dàng trang trải các khoản nợ nần, đảm bảo nguồn vốn cho kinh doanh do đó nó cũng ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh. Ngược lại, những doanh nghiệp có chu kỳ sản xuất kinh doanh dài thì nhu cầu vốn lưu động thường biến động lớn, tiền thu bán hàng không đều, tình hình thanh toán chi trả gặp nhiều khó khăn ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Chính vì vậy các nhà quản lý doanh nghiệp cần phải căn cứ vào đặc điểm hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp cũng như tình hình thực tế để đề ra kế hoạch cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
* Thị trường và khả năng tiêu thụ sản phẩm: Đây là một trong những nhân tố có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động và nó càng có ý nghĩa hơn trong điều kiện nến kinh tế thị trường hiện nay, khi mà chúng ta đang phải đối mặt với tình trạng dư cung ở tất cả mọi ngành, mọi lĩnh vực, cùng với sự cạnh tranh khốc liệt trên thương trường. Điều đó đòi hỏi các nhà doanh nghiệp phải tiến hành phân tích thị trường xác định đúng đắn mức cầu về sản phẩm, hàng hoá và xem xét đến các yếu tố cạnh tranh. Đồng thời căn cứ vào tình hình hiện tại, doanh nghiệp tiến hành chọn phương án kinh doanh thích hợp nhằm tạo ra lợi thế của doanh nghiệp trên thị trường.
* Chính sách kinh tế của nhà nước trong việc phát triển nền kinh tế: vai trò chủ đạo của nhà nước trong nền kinh tế thị trường được thể hiện thông qua việc điều tiết hoạt động kinh tế ở tầm vĩ mô. Nhà nước là người hướng dẫn, kiểm soát và điều tiết hoạt động của doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế. Thông qua các chính sách, pháp luật và các biện pháp kinh tế… Nhà nước tạo môi trường và hành lang cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh và hướng các hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp đi theo quỹ đạo của kế hoạch vĩ mô. Bởi vậy, nó có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
* Tiến bộ của khoa học công nghệ: trong thời đại ngày nay, trình độ tiến bộ khoa học công nghệ cũng có ảnh hưởng tới sự phát triển của doanh nghiệp nói chung cũng như hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng. Vì vậy, doanh nghiệp phải quan tâm đến việc áp dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật vào quá trình sản xuất kinh doanh nhằm hiện đại hoá trang thiết bị, nâng cao chất lượng, đổi mới sản phẩm. Nếu doanh nghiệp không tiếp cận kịp thời với sự tiến bộ của khoa học, công nghệ để đổi mới trong thiết bị, sản phẩm thì sẽ có nguy cơ dẫn doanh nghiệp tới tình trạng làm ăn thua lỗ do sản phẩm làm ra không còn thích ứng, phù hợp với nhu cầu thị trường.
* Uy tín của doanh nghiệp:
Uy tín của doanh nghiệp có một nội dung hết sức phong phú thể hiện trong mối quan hệ với các tổ chức tín dụng, các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính, các bạn hàng, khách hàng của doanh nghiệp về sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ của mình… Một doanh nghiệp có uy tín, điều kiện vật chất được khai thác triệt để tạo ra một sự phát triển vững chắc cho doanh nghiệp. Khi đó doanh nghiệp vẫn có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường mà không cần dự trữ một lượng vốn quá lớn. Điều này sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp.
* Lạm phát: Là quá trình đồng tiền bị mất giá theo thời gian, nó luôn xuất hiện thường trực trong mọi nền kinh tế, trong mọi thời kỳ phát triển của xã hội, do đó nó sẽ ảnh hưởng tới giá trị vốn lưu động trong kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp không có được sự bổ sung thích hợp thì nó sẽ làm cho vốn lưu động bị giám sút theo tỷ lệ lạm phát và ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
* Rủi ro trong sản xuất kinh doanh: Lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn, quá trình sản xuất kinh doanh luôn chứa đựng những rủi ro bất chắc. Vì vậy, nếu doanh nghiệp không có những kế hoạch biện pháp phù hợp thì có thể dẫn tới sự suy giảm của vốn lưu động, thậm chí còn dẫn tới tình trạng phá sản.
5.2.2 Những nhân tố chủ quan.
Bên cạnh những nhân tố khách quan kể trên các nhân tố chủ quan cũng có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp đó là các nhân tố.
* Nhân tố con người: Có thể nói con người luôn đóng vai trò trung tâm và có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường như hiện nay, khi các doanh nghiệp phải cạnh tranh nhau một cách gay gắt thì con người lại càng khẳng định được mình là nhân tố quan trong tác động đến hiệu quả kinh doanh. Đối với các nhà lãnh đạo thì trình độ quản lý, khả năng chuyên môn của họ sẽ giúp doanh nghiệp đạt được lợi nhuận tới ưu. Bên cạnh đó, ý thức trách nhiệm trong lao động cũng như khả năng thích ứng với yêu cầu thị trường của cán bộ công nhân viên sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động cho doanh nghiệp.
* Trình độ và khả năng quản lý: Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung thì trình độ và khả năng quản lý bị coi nhẹ hoặc là không cần thiết, không liên quan đến sự sống còn của doanh nghiệp. Ngược lại, trong điều kiện nền kinh tế thị trường nó giữ một vai trò quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Nếu trình độ quản lý doanh nghiệp còn non kém sẽ dẫn tới việc thất thoát vật tư, hàng hoá, sử dụng lãng phí tài sản lưu động, hiệu quả sử dụng vốn lưu động thấp.
* Việc xây dựng chiến lược và phương án kinh doanh: Các chiến lược và phương án kinh doanh phải được xác định trên cơ sở tiếp cận thị trường cũng như phải có sự phù hợp với đường lối phát triển kinh tế của nhà nước. Đây là một trong những nhân tố cơ bản ảnh hưởng rất lớn đến hiệu qủa sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp.
Ngoài các nhân tố trên, hiệu quả sử dụng vốn lưu động còn chịu ảnh hưởng của một số nhân tố khác như: lỗ tích luỹ, việc trích lập dự phòng… các nhân tố này tác động đến lợi nhuận do đó cũng ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp.
Trên đây là một số nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp, các doanh nghiệp cần xem xét quy mô, loại hình của doanh nghiệp mình mà hạn chế những ảnh hưởng xấu có thể xẩy ra nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp.
5.3. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động các doanh nghiệp có thể áp dụng nhiều biện pháp khác nhau và không doanh nghiệp nào giống doanh nghiệp nào, tuy nhiên có thể kể ra một số biện pháp chủ yếu sau:
* Lựa chọn phương án, kế hoạch kinh doanh thích hợp với thực tế thị trường: việc lựa chọn và xây dựng các kế hoach kinh doanh, phải có nhiều bộ phận trong doanh nghiệp cùng hợp tác thực hiện trên cơ sở nghiên cứu tíếp cận thị trường và đánh giá đúng tình hình thực tế của doanh nghiệp, các phương án, kế hoạch kinh doanh thích hợp sẽ giúp cho doanh nghiệp đạt được hiệu quả tối ưu. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng phải quan tâm đến việc thực thi các phương án kinh doanh mang tính khoa học và thực tiễn. Cụ thể, doanh nghiệp phải tiến hành tìm kiếm bạn hàng nhằm đảm bảo có được nguồn cung cấp và tiêu thụ hàng hoá ổn đinh, lâu dài. Hơn nữa, doanh nghiệp phải có sự chuẩn bị chu đáo và có các giải pháp phù hợp với những biến cố, thử thách của cơ chế thị trường.
* Xác định chính xác nhu cầu vốn lưu động và các hình thức sử dụng: do hoạt động sản xuất kinh doanh luôn biến động và doanh nghiệp thường xuyên tiến hành mở rộng sản xuất kinh doanh nên nhu cầu về vốn lưu động cũng thường xuyên thay đổi. Vì vậy, doanh nghiệp phải xác định đúng đắn các nhu cầu vốn lưu động cần thiết cho hoạt động sản xuất, kinh doanh trong từng thời kỳ, từng giai đoạn. Trên cơ sở đó mà cân đồi với khả năng cung ứng nhằm đảm bảo cho doanh nghiệp sử dụng vốn một cách hiệu quả nhất, tránh lãng phí . Cùng với việc xác định nhu cầu vốn lưu động chính xác, doanh nghiệp cũng cần xem xét chi phí cho việc sử dụng lưu trữ vốn lưu động và ưu nhược điểm của mỗi hình thức.
* Sử dụng vốn một cách tiết kiệm, không lãng phí: Để sử dụng vốn lưu động một cách có hiệu quả, doanh nghiệp phải tìm ra các biện pháp nhằm góp phần huy động tối đa số tài sản lưu động hiện có vào hoạt động sản xuất kinh doanh, giải phóng các khoản tài sản bị ứ đọng. Mặt khác, định kỳ cần phải tiến hành phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp. Việc phân tích tài chính này nhằm đánh giá những điểm mạnh, điểm yếu về tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp qua đó giúp cho lãnh đạo doanh nghiệp đánh giá tổng quát tình hình luân chuyển vật tư hàng hoá, các khoản phải thu, phải trả… để có thể thấy được nguyên nhân của vốn lưu động bị ứ đọng, kém hiệu quả trong sử dụng và đưa ra các quyết định về sản xuất kinh doanh nhằm đảm bảo mọi nguồn tài chính của doanh nghiệp được sử dụng tiết kiệm hiệu quả nhất.
* Giải quyết tốt quá trình thanh toán: Doanh nghiệp phải theo dõi thường xuyên, chặt chẽ việc thực hiện thu hồi công nợ từ khách hàng và các khoản phải thu khác, đồng thời có biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro không được thanh toán. Mặt khác, doanh nghiệp phải giám sát chặt chẽ các khoản chi tiêu phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
Tóm lại, vốn lưu động là một bộ phận vốn quan trọng của doanh nghiệp, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động là một nhân tố quyết định hiệu quả kinh doanh chung của doanh nghiệp. Do đó, quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Chương II : THựC TRạNG Tổ CHứC Sử dụng vốn lưu động của công ty trách nhiệm hữu hạn tân thành
I. Vài nét về công ty trách nhiệm hữu hạn tân thành
1. Khái quát quá trình hình thành, phát triển của công ty trách nhiệm hữu hạn tân thành :
Tên công ty : Công ty Tân Thành
Trụ sở giao dịch: Đông hưng - Đông Sơn – Thanh Hoá.
Điện thoại : 037.820115
Số FAX : 037.692957
Số tài khoản : 431101000267 ( Ngân hàng Nông Nghiệp & PTNT Thanh hoá )
Giấy đăng ký kinh doanh: Số 040459
Mã số thuế :2800176140-1
Công ty Tân Thành đươc thành lập ngày 16/02/1993 có tổng số vốn tự có ban đầu là 1.300.000.000 đồng. Sau 13 năm tự hoàn thiện và phát triển tính đến 28/12/2005 công ty có tổng số vốn tự có 37.996.732.260 đồng tăng 2.923% so với năm 1993. Ngành nghề ban đầu khi thành lập công ty là : vận tải hàng hoá, sản xuất vật liệu xây dựng, kinh doanh than. Do xu thế phát triển chung của doanh nghiệp nên để có thể tồn tại và phát triển nên đến năm 1994 công ty đã bổ xung thêm ngành nghề Xây Dựng công trình giao thông , thuỷ lợi dân dụng .
Ngày đầu thành lập, Công ty gặp khó khăn chồng chất, thiếu vốn, thiếu cán bộ quản lý. Trước tình hình đó, Ban lãnh đạo Công ty đã từng bước tháo gỡ khó khăn, luôn hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh được giao, tạo được niềm tin đối với khách hàng về chất lượng sản phẩm cũng như tiến độ thi công. Đặc biệt trong những năm gần đây, Công ty đã trúng thầu những công trình lớn, nhỏ trị giá nhiều tỷ đồng như: xây dựng đường giao thông, nhà văn hoá, bệnh viện, trường học... trong tỉnh.
Là một đơn vị có bề dầy kinh nghiệm, với doanh thu trung bình xấp xỉ 6.000.000.000 đồng/ tháng Công Ty TNHH Tân Thành có uy tín trên thị trường trong và ngoài tỉnh Thanh Hóa, Công ty luôn phải đề ra kế hoạch phát triển kinh doanh của riêng mình để vừa đáp ứng được nhu cầu của thị trường, mặt khác lại phù hợp với nội lực của mình. Phương châm chủ yếu trong chiến lược kinh doanh của Công Ty là thu hút được nhiều khách hàng, nâng cao chất lượng sản phẩm, nhằm cạnh tranh với các doanh nghiệp khác.
Trong những năm qua Công ty Tân Thành luôn hoàn thành nhiệm vụ, đóng góp đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước. Đã được Chính phủ tặng thưởng: Bằng khen, Bộ tài chính tặng bằng khen, Công đoàn ngành giao thông tặng Bằng khen và cờ .....
Đó là kết quả của sự phấn đấu và tự khẳng định mình của Ban lãnh đạo cũng như sự nỗ lực của từng thành viên trong Công ty. Chúng ta hy vọng rằng trong những năm tiếp theo, Công ty sẽ đạt được những thành tựu đáng kể trong việc tìm kiếm hợp đồng, mở rộng sản xuất và uy tín của Công ty ngày càng được nâng cao.
2. Chức năng, nhiệm vụ quản lý sản xuất kinh doanh của công ty :
2.1. Chức năng của công ty.
Công ty có các chức năng cơ bản sau:
- Vận tải hàng hoá.
- Kinh doanh nguyên vật liệu xây dựng.
- Thi công các công trình giao thông thuỷ lợi.
2.2. Nhiệm vụ của công ty.
Công ty quản lý, sử dụng phần vốn, nguồn lực và có nhiệm vụ bảo toàn phát triển vốn và nguồn lực đó. Ngoài nguồn vốn đóng góp của các sáng lập viên, công ty con huy động thêm các nguồn vốn khác để sản xuất kinh doanh và xây dựng cơ sở vật chất. Trong quá trình hoạt động công ty có nhiệm vụ lậpke hoạch , tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh xây dựng, hoàn thành các hợp đồng kinh tế với các tổ chức, cơ quan, đơn vị trong và ngoài tỉnh đồng thời cũng phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, trách nhiệm của mình đối với nhà nước và cơ quan cấp trên theo luật định của nhà nước .
Ngoài ra trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình công ty còn phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ: Bảo vệ doanh nghiệp, bảo vệ môi trường, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội theo quy định của pháp luật. Đào tạo, tuyển dụng đội ngũ người lao động có trình độ chuyên môn vững vàng, có tầm nhìn, để hoạch định các chiến lược kinh doanh một cách chủ động, sáng tạo và có hiệu quả.
3. Đặc điểm tổ chức quản lý sản xuất và quản lý tài chính kế toán của công ty trach nhiêm hữu hạn Tân thành:
Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của Công ty và đặc điểm của ngành xây dựng, Công ty Tân Thành tổ chức bộ máy quản lý theo mô hình trực tuyến chức năng. Bộ máy Công ty tinh gọn, linh hoạt, có hiệu lực cao, phù hợp với cơ chế thị trường. Giám đốc Công ty là người trực tiếp chỉ huy toàn bộ bộ máy quản lý và các bộ phận khác.
Bộ máy quản lý của Công ty gồm:
Giám đốc: là người điều hành sản xuất kinh doanh của toàn Công ty, được các sáng lập viên bổ nhiệm, đề cao trách nhiệm cá nhân, tăng cường kỷ luật hành chính, là người đứng đầu và chịu trách nhiệm trước Nhà nước, và trước cán bộ công nhân viên Công ty về mọi hoạt động của Công ty.
Giúp việc cho Giám đốc là hai Phó giám đốc:
Phó giám đốc kinh doanh: Phụ trách về hoạt động kinh doanh của Công ty, quản lý phòng hành chính và phòng kế toán tài chính.
Phó giám đốc kỹ thuật: Phụ trách về mặt kỹ thuật và quản lý các phòng kỹ thuật nghiệp vụ và phòng vật tư.
Các công việc cụ thể do các phòng ban chuyên môn thực hiện. Hiện nay Công ty có 4 phòng ban chức năng. Để hiểu rõ hơn về bộ máy tổ chức của Công ty ta đi sâu nghiên cứu chức năng hoạt động của từng phòng ban:
Phòng tổ chức lao động- hành chính: Phòng gồm có 4 người với trình độ chuyên môn cao giúp Giám đốc trong việc sắp xếp bộ máy của toàn Công ty, thực hiện tốt đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, quản lý việc thực hiện tiền lương, tiền thưởng của các đơn vị trong toàn Công ty đúng với quy chế tiền lương của Nhà nước. Do đó các nhân viên trong phòng phải tổ chức tốt công tác cán bộ trong toàn Công ty để cho phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty, quản lý và đề xuất bổ nhiệm cán bộ theo đúng thẩm quyền. Tổ chức công tác tuyển dụng, ký hợp đồng lao động, giải quyết chính sách cho người lao động, theo dõi, giám sát sự biến động của lao động cũng như an toàn thi công. Làm tốt công tác an ninh nội bộ, quản lý hồ sơ toàn bộ cán bộ công nhân viên trong toàn Công ty. Ngoài ra còn phải thực hiện tốt công tác thi đua khen thưởng cho toàn nhân viên trong Công ty.
Phòng Kế hoạch kỹ thuật: Là phòng chuyên trách về kỹ thuật, theo dõi phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh một cách kịp thời, chính xác theo yêu cầu quản lý của Công ty và Nhà nước nên phòng kế hoạch kỹ thuật phải tiếp thị và quan hệ với các đối tác để tiếp cận các dự án, làm bài thầu và tham gia đấu thầu các dự án (Nếu trúng thầu làm phương án tổ chức thực hiện trình Giám đốc để duyệt theo nội dung hợp đồng ký kết với bên A), quản lý các dự án, lập các biện pháp tổ chức thi công, thời gian hoàn thành công trình, bàn giao công trình theo tiến độ đã cam kết, giám sát kỹ thuật công trình, quyết toán công trình.
Phòng tài chính kế toán: Là phòng tham mưu giúp giám đốc quản lý điều hành các mặt hoạt động kinh doanh thông qua việc quản lý tài chính, gồm 6 người được phân chia nhiệm vụ rõ ràng. Nhưng nhìn chung công tác hạch toán kế toán của phòng bao gồm các công việc sau đây: Quản lý việc sử dụng vốn toàn Công ty và các đơn vị trực thuộc, thường xuyên hướng dẫn nghiệp vụ, giám sát và kiểm tra công tác tài chính kế toán, việc sử dụng vốn của các đơn vị trực thuộc để phát hiện ngăn chặn kịp thời khi các đơn vị có biểu hiện vi phạm nguyên tắc tài chính, sử dụng vốn không đúng mục đích. Hàng năm làm tốt công tác xây dựng kế hoạch tài chính kế toán và thường xuyên thực hiện tốt công tác thống kê, báo cáo và theo dõi mặt thu, chi tài chính của Công ty. Quyết toán và phân tích hoạt động kinh tế để đánh giá đúng, chính xác kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn Công ty. Giải quyết tốt vốn để phục vụ kinh doanh của toàn Công ty được kịp thời. Thông qua việc quản lý vốn để quản lý tốt tài sản, trang thiết bị hiện có của Công ty và khai thác có hiệu quả tài sản đó. Bên cạnh đó thực hiện tốt chế độ báo cáo thống kê.
Phòng cung ứng và quản lý vật tư: Là phòng nghiên cứu lập kế hoạch về vật tư cho việc thi công từng công trình, giám sát việc thi công về tiến độ cũng như chất lượng công trình. Phòng căn cứ vào các bảng dự toán công trình, bảng thiết kế, kế hoạch, công việc để giao vật tư. Ngoài ra để đáp ứng đủ vật tư cho sản xuất thì phòng phải có kế hoạch đầu tư, dự trữ vật tư. Khi công trình hoàn thành các nhân viên trong phòng tham gia vào việc thanh quyết toán công trình.
Ngoài bốn phòng ban còn có các đội thi công xây dựng: đội 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8. Là đơn vị sản xuất trực thuộc Công ty, theo chế độ hạch toán nội bộ, thực hiện chế độ khoán của Công ty. Các đội xây dựng thực hiện công tác thi công các công trình do Giám đốc giao và hạch toán sản xuất theo các chỉ tiêu được giao khoán, sau khi hoàn thành các công trình quyết toán với Công ty. Các đội phụ trách thi công trên các địa bàn khác nhau.
Song khi có nhiều công trình cùng được tiến hành thi công dồn dập, Công ty có thể điều phối, thay đổi địa bàn thi công của các đội để phù hợp với tình hình chung của đơn vị.
Các phòng ban, các đội trong Công ty có quan hệ mật thiết với nhau, các phòng ban có trách nhiệm hướng dẫn các đội thi công công trình và tạo điều kiện cho họ hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình đồng thời các đội là người nắm bắt quá trình thi công công trình nên phản ánh lại để các phòng ban nắm vững hơn tình hình hiện tại để có biện pháp chỉ đạo kịp thời. Nhưng mục đích cuối cùng của mỗi đơn vị, phòng ban là nhằm phục vụ sản xuất và lợi ích của cán bộ công nhân viên Công ty.
Nhờ việc xây dựng bộ máy tổ chức quản lý hợp lý, phù hợp với đặc điểm tổ chức sản xuất của nên Công ty luôn xác định được chiến lược kinh doanh hiệu quả, tạo được vị trí vững chắc trong nền kinh tế nói chung và ngành xây lắp nói riêng.
Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty tân thành:
Giám đốc
Phó giám đốc: kinh doanh
Phó giám đốc: kỹ thụât
Phòng tổ chức lao động hành chính
Phòng tài chính kế toán
Phòng kinh tế kỹ thuật
Phòng cung ứng và quản lý vật tư
Đội
công trình 1
Đội
công trình 2
Đội
công trình.….
Đội
công trình 8
4. Đặc điểm về hoạt động kinh doanh của công ty :
Công ty Tân Thành là doanh nghiệp xây dựng các công trình giao thông- Thuỷ lợi và Công trình dân dụng nên sản xuất kinh doanh chủ yếu là thi công xây mới, nâng cấp và cải tạo hoàn thiện ... các công trình giao thông - thuỷ lợi và công trình dân dụng
Do đó nhiệm vụ chính của Công ty trong thời gian này là nhận thầu các công trình xây dựng và tổ chức thi công hợp lý. Thực hiện thi công công trình phải theo Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng do Nhà nước ban hành. Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước, phát triển và mở rộng quy mô kinh doanh. Đồng thời không ngừng mở rộng thị trường trong nước góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Bên cạnh đó phải đảm bảo cho tất cả cán bộ công nhân viên trong công ty có việc làm, thu nhập ổn định. Thực hiện tốt các mặt như văn hoá thể thao, không ngừng quan tâm đến đời sống của người lao động.
Quá trình sản xuất của Công ty là quá trình thi công, sử dụng các yếu tố vật liệu, nhân công, máy thi công và các yếu tố chi phí khác để tạo nên các hạng mục công trình.
Cũng như các doanh nghiệp xây lắp khác, sản phẩm của Công ty là sản phẩm xây lắp có quy mô vừa và lớn, mang tính chất đơn chiếc, thời gian sản xuất kéo dài, chủng loại yếu tố đầu vào đa dạng đòi hỏi có nguồn vốn đầu tư lớn. Vì vậy, việc tổ chức quản lý và hạch toán nhất thiết phải theo sát dự toán bên A giao: dự toán thiết kế, dự toán thi công, trong quá trình sản xuất phải luôn so sánh giữa chi phí thực tế với dự toán hoặc giá thoả thuận với chủ đầu tư, điều này làm tăng khối lượng công tác hạch toán của Công ty lên rất nhiều.
Các công trình xây dựng của Công ty tiến hành trên nhiều địa điểm khác xa nhau vì vậy các lực lượng thi công như thiết bị, máy móc, người lao động đều phải di chuyển theo địa điểm thi công. Đặc điểm này làm cho công tác quản lý, sử dụng, hạch toán tài sản và vật tư phức tạp do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, thời tiết và dễ mất mát hư hỏng, điều kiện làm việc và đời sống của người lao động rất khó khăn.
Cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội và sự tiến bộ nhanh chóng của khoa học kỹ thuật trong nền kinh tế quốc dân, Công ty đã không ngừng đổi mới, hiện đại hoá, góp phần quan trọng vào việc nâng cao nâng suất lao động và chất lượng sản phẩm.
Công ty đã thực hiện khoán gọn cho các đội sản xuất. Các đơn vị sản xuất chính trong Công ty là các đội xây dựng 1, 2...và có mô hình tổ chức sản xuất như sau:
Đội trưởng các đội xây dựng có trách nhiệm tổ chức thi công các công trình, phân công công việc cho nhân viên của mình, chịu trách nhiệm trước giám đốc Công ty, thực hiện các điều khoản hợp đồng đã ký
Nhân viên kỹ thuật: là các kỹ sư có trình độ, thiết kế các công trình, kiểm tra, giám sát về kỹ thuật thi công, đảm bảo an toàn và đúng tiến độ thi công.
Nhân viên kinh tế đội: theo dõi các khoản chi phí phát sinh tại các đội và tập hợp các chứng từ liên quan tới quá trình sản xuất kinh doanh của đội gửi lên phòng kế toán của Công ty và tính giá thành của các công trình mà đội đã thực hiện.
Các tổ thi công tiến hành thi công các công trình và báo cáo lên đội trưởng về tiến độ thi công và hoàn thành trách nhiệm được giao, quản lý các nhân viên của mình thi công theo đúng thiết kế.
Với các đặc điểm về tổ chức sản xuất kinh doanh như vậy, các đội xây dựng tiến hành thi công các công trình theo đúng quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm Công ty đã đặt ra: Hình thức sản xuất kinh doanh mà Công ty đang thực hiện gồm cả đấu thầu và chỉ định thầu. Sau khi hợp đồng kinh tế được ký kết với chủ đầu tư (bên A), Công ty giao cho bộ phận kỹ thuật lập kế hoạch và dự toán thiết kế, thi công công trình và hạng mục công trình đó. Sau đó Công ty tiến hành giao khoán cho các đội xây dựng, các đội xây dựng tổ chức các vấn đề về nhân công, nguyên vật liệu cho công tác thi công công trình:
- Về vật tư: Công ty chủ yếu giao cho phòng cung ứng và quản lý vật tư và các đội tự mua ngoài theo yêu cầu thi công.
- Về máy thi công: Máy của công ty.
- Về nhân công: chủ yếu lao động phổ thông và công nhân kỹ thuật do Công ty thuê ngoài theo hợp đồng.
- Về chất lượng công trình: đội trưởng là người đại diện cho đội, phải chịu trách nhiệm trước Giám đốc về chất lượng công trình và an toàn lao động. Các đội tiến hành tổ chức thi công các công trình, hạng mục công trình đảm bảo đúng tiến độ, chất lượng như hợp đồng kinh tế đã ký kết với chủ đầu tư. Khi công trình hoàn thành thì giá dự toán, giá trúng thầu là cơ sở để nghiệm thu, xác định giá quyết toán và để đối chiếu thanh toán, thanh lý hợp đồng với bên A.
Quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm của Công ty Tân Thành được thể hiện tóm tắt qua sơ đồ sau:
Sơ đồ các bước hoạt động của công ty:
Tổ chức các vấn đề về nhân công, vật liệu...
Lập kế hoạch và dự toán các công trình và hạng mục công trình
Tổ chức thi công các công trình, hạng mục công trình
Đấu thầu và nhận hợp đồng xây lắp công trình, hạng mục công trình
Duyệt quyết toán công trình, hạng mục công trình hoàn thành
Nghiệm thu bàn giao công trình, hạng mục công trình hoàn thành
Thanh lý hợp đồng, bàn giao công trình, hạng mục công trình hoàn thành
5. Kết quả sản xuất kinh doanh của công ty một số năm gần đây :
Trong suốt thời gian qua Công ty Tân Thành là một DNNN có bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực xây lắp cũng đang đứng trước những thách thức chung của toàn ngành nhưng Công ty không ngừng phấn đấu để ngày một lớn mạnh và phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, tạo dựng vị trí vững chắc trong ngành xây dựng. Trong quá trình hoạt động xây dựng Công ty đã và đang thi công nhiều công trình lớn .
Dưới đây là kết quả kinh doanh trong một số năm gần đây:
Đơn vị tính: VNĐ
TT
Chỉ tiêu
Đvt
2003
2004
2005
1
Tổng tài sản
Trđ
98.235
99.903
98.305
2
Tổng NVCSH
Trđ
35.985
37.208
40.898
3
Doanh thu
Trđ
78.152
79.235
81.136
4
Tổng lợi nhuận
Trd
172
175
180
5
T/n bq người/th
Nđ
850
920
950
Bảng cân đối kế toán của công ty ( ngày 31/12/2005 )
Chỉ tiêu
Số đầu năm
Số cuối kỳ
I – Tài sản
A.TSLĐ và đầu tư ngắn hạn.
1.Tiền
3.Các khoản phải thu
4.Hàng tồn kho
5.Tài sản lưu động khác
B.Tài sản cố định và đầu tư dài hạn
1.Tài sản cố định huu hinh`
- Nguyên giá
- Hao mòn luỹ kế
2.Các khoản đầu tư tài chính dài hạn
3.Chi phí xây dựng cơ bản dở dang
Tổng tài sản
II – Nguồn vốn
Nợ phải trả
1.Nợ ngắn hạn.
- Vay ngắn hạn
- Phải trả người bán
- Thuế và các khoản phải nộp nhà nước
- Phải trả công nhân viên
B. Nguồn vốn chủ sở hữu
1. Nguồn vốn, quỹ
- Nguồn vốn kinh doanh
- lãi chưa phân phối
- Quỹ khen thưởng
Cộng nguồn vốn
76.870.838.915
84.217.749
58.345.486.072
15.808.400.282
2.632.734.812
23.033.065.791
19.961.406.412
29.089.379.991
(9.127.973.579)
428.897.936
2.642.761.443
99.903.904.706
62.695.598.186
62.695.598.186
23.740.750.412
26.995.591.793
936.215.651
11.023.040.330
37.208.306.520
37.208.306.520
37.196.732.260
11.574.260
99.903.904.706
70.917.531.921
529.268.810
51.713.697.322
17.026.997.799
1.647.567.990
27.387.671.446
25.526.583.552
36.554.053.954
(11.027.470.402)
445.576.435
1.415.511.459
98.305.203.367
57.406.484.778
57.406.484.778
20.891.022.234
26.399.051.696
20.358.022
10.084.601.125
40.898.718.589
40.898.718.589
40.866.732.260
30.551.229
1.435.100
9._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36371.doc