Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại Công ty In Hàng không

lời mở đầu Sự đổi mới và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp Nhà nước luôn là mối quan tâm lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Trong hơn 10 năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện nhiều chủ trương biện pháp tích cực nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước, đã vừa làm vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm, có sự đổi mới đúng hướng với bước đi thích hợp. Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng,Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã có Nghị quyết 05-NQ

doc76 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1345 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại Công ty In Hàng không, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
/TW "Về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh nhà nước". Đây là lần đầu tiên ban chấp hành TW Đảng ra một nghị quyết toàn diện về doanh nghiệp Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp Nhà nước nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh góp phần quan trọng vào đẩy nhanh tốc độ phát triển, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế, đáp ứng tốt các nhu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước... Qua ba tháng thực tập tại Công ty In Hàng không, em nhận thấy rằng vấn đề "làm thế nào để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh" là vấn đề được Công ty rất quan tâm. Mặc dù Công ty đã thực hiện nhiều biện pháp, song do những nguyên nhân chủ quan và khách quan nên vấn đề nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở Công ty còn một số tồn tại cần khắc phục. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này em đã chọn đề tài:"Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại Công ty In Hàng không" làm luận văn tốt nghiệp của mình. Luận văn này được chia làm ba phần: Phần I: Một số vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Phần II: Phân tích tình hình hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty In Hàng không. Phần III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại Công ty In Hàng không. Với sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo, TS Trương Đoàn Thể cùng với sự giúp đỡ của các cô chú, anh chị trong Công ty In Hàng không, em đã hoàn thành bản luận văn của mình. Song với những kiến thức còn hạn hẹp, kinh nghiệm thực tế chưa có nhiều, bản luận văn này không tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô và Công ty để bản luận văn này thực sự có giá trị. Em xin chân thành cảm ơn. Hà nội, ngày 25 tháng 5 năm 2002. Sinh viên Đỗ Quỳnh Trang Phần I một số vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp I. Vai trò và chức năng của nâng cao hiệu quả kinh doanh trong nền kinh tế thị trường Các nhà kinh tế và thống kê có nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả do điều kiện lịch sử và giác độ nghiên cứu từ nhiều phía khác nhau. 1. Quan điểm thứ nhất Trước đây, người ta coi hiệu quả là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế, là doanh thu trong tiêu thụ hàng hoá. Trong bản dự thảo phương pháp tính hệ thống chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của Viện nghiên cứu khoa học thuộc Uỷ ban kế hoạch nhà nước Liên xô ( cũ ) đã xem hiệu quả kinh tế là tốc độ tăng thu nhập quốc dân và tổng sản phẩm xã hội. Như vậy, ở đây hiệu quả được đồng nhất với chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc nhịp độ tăng của các chỉ tiêu đó. Ngày nay, các quan điểm này không còn phù hợp. Kết quả sản xuất có thể tăng lên do tăng chi phí, mở rộng sản xuất các nguồn sản xuất. Nếu cùng một kết quả sản xuất mà có hai mức chi phí khác nhau thì theo quan điểm này chúng có cùng hiệu quả. 2. Theo quan điểm thứ hai. Hiệu quả là quan điểm được trình bày trong giáo trình kinh tế học của P. Samueleson và W. Nordhaus (Viện quan hệ quốc tế Bộ Ngoại giao xuất bản, bản dịch tiếng Việt năm 1991). Các tác giả viết “Hiệu quả là một mối quan tâm trung tâm của kinh tế học.Hiệu quả nghĩa là không có lãng phí. Trong ví dụ đơn giản súng chọi bơ, nền kinh tế hoạt động có hiệu quả khi nó không thể sản xuất một mặt Hàng không có số lượng nhiều hơn mad không sản xuất một mặt hàng khác với số lượng ít hơn, khi nó nằm trên giới hạn khả năng sản xuất”. “Hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng sản lượng một loại hàng hoá mà không cắt giảm sản lượng một loại hàng hoá khác. Một nền kinh tế có hiệu quả nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất của nó”. Giới hạn khả năng sản xuất được đặc trưng bằng chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc dân tiềm năng (Potetial Gross National Product), là mức tổng sản phẩm quốc dân cao nhất có thể đạt được trong một tình hình công nghệ và dân số ổn định, đôi khi còn gọi là “sản lượng trong tình hình có nhiều công ăn việc làm”. Ngày nay người ta thường cho là tình hình đó tương đương với mức sản lượng tương ứng với tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là tỷ lệ thất nghiệp mà xã hội không thể tránh khỏi, là mức tối thiểu cần có do nhiều nguyên nhân mang tính tự nhiên, khách quan. Ví dụ như thôi việc để chuyển chỗ ở đi nơi khác, thôi việc nhằm chờ đợi một chỗ làm việc với mức lương cao hơn... Kinh tế càng phát triển mức sống càng cao thì tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên càng cao do có nhiều người tự nguyện thất nghiệp. Tỷ lệ tổng sản phẩm quốc dân thực tế và tổng sản phẩm quốc dân tiềm năng là chỉ tiêu hiệu quả. Chỉ tiêu tuyệt đối chênh lệch giữa sản lượng tiềm năng và sản lượng thực tế là phần sản lượng tiềm năng mà xã hội không sử dụng được, bị lãng phí. Theo quan điểm này, hiệu quả thể hiện ở sự so sánh mức thực tế và mức “tối đa” về sản lượng, tỷ lệ so sánh đó càng gần 1, càng có hiệu quả. Tỷ lệ đó bằng 1 khi hai mức đó bằng nhau, sản xuất xã hội nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất của nó. Có những năm tỷ lệ đó lớn hơn 1, nền kinh tế quá nóng. Phương pháp tính trên cơ sở quan điểm này cho ta một cái nhìn ở tầm vĩ mô, tổng quát về trình độ sử dụng tiềm năng của xã hội. Phương pháp tính cũng đơn giản nếu xác định tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên và tỷ lệ thất nghiệp thực tế. Tuy nhiên, vẫn có thể đặt ra những câu hỏi. Khái niệm sản lượng tiềm năng, giới hạn khả năng sản xuất là khá rõ ràng. Khi đã ở giới hạn, xã hội muốn tăng bơ thì phải giảm súng và ngược lại. Nhưng bước tiếp theo là điều khó hiểu. Sản lượng tiềm năng chỉ phụ thuộc vào lao động tiềm năng, là lượng lao động ứng với tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Còn vốn cố định và tài nguyên thì sao. Mức độ khai thác chúng có thể ảnh hưởng tới sản lượng tiềm năng không, chúng cũng có vai trò nhất định trong kinh tế. Sản lượng tiềm năng phải ứng cả với một tỷ lệ huy động tài sản cố định nào đó thì mới hợp lý. Về thực tiễn tính toán thống kê ở nước ta, vẫn chưa thể tính chính xác được tỷ lệ thất nghiệp hiện nay và những năm tới. Và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên nước ta hiện nay bao nhiêu là hợp lý. Do vậy, điều kiện thực tế nước ta chưa cho phép vận dụng quan điểm này. Hơn nữa, có thể phương pháp này chỉ tính được ở phạm vi toàn nền kinh tế hoặc các vùng. Còn ngành thì tính sao. ở phạm vi ngành không thể có khái niệm thất nghiệp tự nhiên được. Sản lượng tiềm năng ở phạm vi ngành cũng có thể xác định được nhưng không phải tính trên cơ sở tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Như vậy, phương pháp này chỉ thuận lợi ở phạm vi toàn nền kinh tế mà không áp dụng được cho phạm vi ngành, không tạo ra được mối liên hệ giữa hiệu quả toàn bộ và hiệu quả bộ phận. Khi đó chúng ta sẽ không phân tích được vai trò của các bộ phận, các ngành trong hiệu quả chung nền kinh tế quốc dân. Tóm lại, quan điểm này rất độc đáo và có ý nghĩa về mặt nhận thức phạm trù hiệu quả, nhưng về lý luận và thực tiễn còn phải tìm hiểu thêm và thục tế chưa thể áp dụng ở nước ta. 3. Quan điểm thứ ba. Coi hiệu quả là mức độ thoả mãn yêu cầu của quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội, cho rằng quỹ tiêu dùng với tính cách là chỉ tiêu đại diện cho mức sống nhân dân, là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của nền sản xuất xã hội. Quan điểm này có ưu điểm là đã bám sát mục tiêu của nền sản xuất XHCN là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Song, khó khăn ở đây lại là phương tiện đo lường thể hiện tư tưởng định hướng đó. Đời sống nhân dân nói chung và mức sống nói riêng, rất đa dạng, rất phong phú, nhiều hình nhiều vẻ, phản ánh trong các chỉ tiêu thống kê mức độ thoả mãn nhu cầu hay mức độ nâng cao mức sống là điều kiện khó khăn. Quỹ tiêu dùng là một bộ phận thu nhập quốc gia, bộ phận quốc gia còn lại là quỹ tích luỹ. Chọn quỹ tiêu dùng để phản ánh hiệu quả là chưa thấy đầy đủ vai trò của quỹ tích luỹ là nhằm phats triển sản xuất, là để có tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai. Không thể đưa quỹ tiêu dùng lên tối đa mà lại không tuân theo một tỷ lệ thích hợp giữa quỹ tích luỹ và quỹ tiêu dùng, kết hợp một cách tốt nhất lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. ở đây, cần phân biệt hiệu quả và vai trò tác dụng của nó. Hiệu quả nói chung hay hiệu quả nền kinh tế nói riêng có ý nghĩa lớn trong việc nâng cao mức sống nhân dân. Nó là phương tiện để đi đến thoả mãn mục tiêu cao hơn là không ngừng thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng và sự phát triển của mọi thành viên trong xã hội. Bản thân hiệu quả không phải là mục tiêu mà chỉ là phương tiện, phải xác định nó ở dạng công cụ chứ không phải ở tác dụng của nó. Nói theo ngôn ngữ của lý thuyết mục tiêu, mỗi hệ thống đều có một mục tiêu ngoài (mục tiêu cuối cùng) cần đạt tới nhưng việc đạt tới nó phải thông qua mục tiêu trong là mục tiêu trực tiếp của hệ thống. Mục tiêu nâng cao đời sống nhân dân của hệ thống kinh tế chỉ có thể thực hiện được khi đạt tới mục tiêu trong sản xuất thu nhập quốc gia với chi phí hợp lý tốt nhất và sự thực hiện mục tiêu trong trực tiếp đó mới phản ánh hiệu quả... Vì vậy, hiệu quả của hệ thống kinh tế phải đo lường một cách trực tiếp bởi sự đáp ứng mục tiêu trong cuả hệ thống. 4.Quan điểm thứ tư. Cho rằng hiệu quả kinh tế nền sản xuất xã hội là mức độ hữu ích của sản phẩm được sản xuất ra, tức là giá trị sử dụng của nó chứ không phải giá trị. Theo quan điểm này, mức độ thoả mãn nhu cầu xã hội phụ thuộc vào các tác dụng vật chất cụ thể chứ không phải giá trị trừu tượng nào đó. Tạp chí kinh tế và phương pháp toán của Viện toán kinh tế Viện hàn lâm Khoa học Liên Xô (cũ) đã đăng nhiều bài ủng hộ quan điểm này. Họ tiếp cận tính hữu ích của sản phẩm bằng các hàm số và các đại lượng do tốc độ tiêu dùng của các dạng của cải. Yếu tố thời gian cũng được xét tới, so với những của cải mới làm ra thì những của cải lâu năm bị giảm tính hữu ích đi nhiều. Nhược điểm của cách tiếp cận này là không thể xác định được tính hữu ích ở dạng tổng thể gộp lớn. Loanh quanh thế nào rồi họ cũng đi đến thước đo giá trị, không ở dạng trực tiếp thì cũng ở dạng trung gian đo lường mức hữu ích của sản phẩm. Hầu hết các nhà kinh tế ở các nước đều công nhận rằng cùng lắm chỉ có thể đặt vấn đề về sự ưu việt của rạng của cải này hơn dạng của cải khác chứ không thể đo lường tính hữu ích của chúng bằng một đơn vị đo nào cả. 5. Quan điểm thứ năm. Cho rằng hiệu quả kinh tế là một chỉ tiêu so sánh biểu hiện mức độ tiết kiệm chi phí trong một đơn vị kết quả hữu ích và mức tăng khối lượng kết quả hữu ích của hoạt động sản xuất vật chất trong một thời kỳ, góp phần làm tăng thêm lợi ích của xã hội, của nền kinh tế quốc dân. Ưu điểm của quan điểm này là đã gắn kết quả với chi phí, coi hiệu quả là sự phản ánh trình độ sử dụng chi phí. Nhược điểm của quan điểm này là chưa rõ ràng và thiếu tính khả thi ở phương diện xác định và tính toán. Cụ thể là, “chỉ tiêu so sánh biểu hiện mức độ tiết kiệm chi phí trong một đơn vị kết quả hữu ích” vì rằng muốn biết mức độtiết kiệm thì phải có hai phương án để so sánh. Điều đó chỉ có trong lĩnh vực kế hoạch chọn các phương án sản xuất hoặc dự án đầu tư. Trong thống kê, mỗi đối tượng trong một phạm vi thời gian và không gian cụ thể, chỉ có một kết quả và một chi phí tương ứng, làm sao biết được mức độ tiết kiệm. Chố không rõ ràng ở đây là không phân biệt giữa kế hoạch và thống kê, giữa tương lai và quá khứ, khi đưa ra các yêu cầu “lớn nhất” “bé nhất” max và min trong khi chỉ có một trị số của chỉ tiêu được xét. Từ các quan điểm trên ta có thể xem vai trò và chức năng của hiệu quả kinh tế nền sản xuất xã hội trong phát triển sản xuất, thể hiện ở tỷ lệ tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu. Toàn bộ mức tăng trưởng kinh tế có thể chia làm hai phần: phần tăng trưởng theo chiều rộng, tức là dựa vào sự thu hút thêm vào sản xuất các nguồn lực; phần tăng trưởng theo chiều sâu là phần tăng trưởng dựa vào nâng cao hiệu quả kinh tế nền sản xuất xã hội. Để đảm bảo kết quả đúng đắn, khách quan, phân tích và dự đoán hiệu quả kinh tế nền sản xuất xã hội cũng giống như các lĩnh vực khác, phải tuân theo những yêu cầu sau: Một là, phân tích và dự đoán phải tiến hành trên cơ sở phân tích lý luận kinh tế xã hội. Phân tích lý luận giúp ta hiểu tính chất xu hướng chung của hiện tượng trên cơ sở đó dùng số liêụ và phương pháp phân tích khẳng định tính chất cụ thể của nó. Thí dụ, trong lý luận kinh tế chính trị học, có quy luật năng suất lao động tăng lên không ngừng. Phân tích và dự đoán cụ thể về năng suất lao động tăng lên thực sự là hợp quy luật, ngược lại, năng suất lao động giảm xuống, trái với quy luật, phải tìm hiểu nguyên nhân vì sao, số liệu không đúng hay thực tế khách quan của đối tượng nghiên cứ như vậy. Hai là, phân tích và dự đoán thống kê hiệu quả kinh tế của nền sản xuất xã hội phải căn cứ vào tính tổng thể thống nhất của đối tượng được nghiên cứu và đặt các chỉ tiêu trong mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau. Phân tích và dự đoán phải sử dụng nhiều chỉ tiêu, mỗi chỉ tiêu phản ánh một khía cạnh của hiện tượng. Nếu đặt cô lập chỉ tiêu này với chỉ tiêu khác chúng ta không thể thấy thực chất của hiện tượng, vì sự tồn tại của hiện tượng không phải là kết quả tổng cộng đơn giản các mặt của nó mà là các mặt liên kết với nhau, mặt này làm cơ sở cho mặt kia, đồng thời chịu tác động lẫn nhau. II. Khái niệm và bản chất của hiệu quả kinh doanh. 1. Khái niệm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nói đến doanh nghiệp là người ta nhắc ngay tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đó là một quá trình bao gồm nhiều khâu trong lĩnh vực sản xuất lưu thông. Giữa chúng có mối quan hệ mật thiết, hữu cơ với nhau. Vì vậy, nâng cao hiệu quả kinh doanh chính là nâng cao hiệu quả của tất cả các hoạt động của quá trình kinh doanh ở doanh nghiệp. Trong bất kỳ quốc gia nào, cơ chế nào, thì kinh doanh đều phải luôn lấy hiệu quả làm mục tiêu phấn đấu. Sản xuất kinh doanh có hiệu quả là điều kiện cần thiết để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển. Trong thực tế, khi đề cập đến vấn đề hiệu quả thì có thể đứng trên nhiều góc độ khác nhau để xem xét. Hiệu quả là một phạm trù kinh tế, hiệu quả kinh doanh thể hiện trình độ sử dụng các yếu tố cần thiết tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh theo mục đích nhất định. Trong xã hội tư bản thì giai cấp tư bản nắm quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, việc phấn đấu tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh thực chất là đem lại lợi nhuận nhiều hơn nữa cho nhà tư bản. Trong xã hội, xã hội chủ nghĩa, nền sản xuất vẫn là nền sản xuất hàng hoá do đó phạm trù hiệu quả vẫn tồn tại. Do các tài sản thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, toàn dân, tập thể và cá nhân, nên hiệu quả luôn phải đảm bảo kết hợp hài hoà các loại lợi ích này. Mục đích nâng cao hiệu quả không chỉ vì lợi nhuận mà còn đáp ứng đầy đủ nhu cầu ngày càng tăng của mọi thành viên trong xã hội, tức là lợi nhuận tăng đồng thời phải đảm bảo nâng cao đời sống người lao động. Hiệu quả kinh doanh theo khái niệm rộng là một phạm trù kinh tế phản ánh những lợi ích đạt được từ các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh chính là hiệu quả của lao động xã hội được xác định bằng cách so sánh giữa lượng kết quả hữu ích cuối cùng thu được với hao phí lao động xã hội. Hiệu quả kinh tế là những lợi ích kinh tế đạt được sau khi đã bù đắp các khoản hao phí về lao động xã hội. Hiệu quả kinh tế được xác định thông qua việc so sánh giữa các chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Việc so sánh có thể là giá trị tuyệt đối, có thể là giá trị tương đối và được biểu diễn bằng công thức tổng quát sau: H = K – C (giá trị tuyệt đối ) (giá trị tương đối ) Trong đó: H là hiệu quả kinh tế của một quá trình kinh tế nào đó. K là kết quả thu được từ nó. C là toàn bộ chi phí để đạt được kết quả đó. 2 Bản chất của hiệu quả kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế rất rộng phản ánh những lợi ích đạt được từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Để có thể hiểu được bản chất của nó cần phải phân biệt rõ hiệu quả và kết quả. Có thể hiểu kết quả là chỉ tiêu kinh tế phản ánh lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp thu được trong hoạt động kinh doanh của mình. Bất cứ một hành động nào của con người đều đạt tới một kết quả nào đó, cho dù là kết quả tốt hay xấu. Trong kinh doanh thì kết quả cần đạt bao giờ cũng là mục tiêu cần thiết của doanh nghiệp. Kết quả đó có thể cân đo đong đếm như số sản phẩm tiêu thụ, doanh thu, lợi nhuận... và cũng có thể là các đại lượng chỉ phản ánh mặt chất lượng, hoàn toàn có tính chất định tính như: uy tín, chất lượng sản phẩm... Nhưng đối với doanh nghiệp thì các kết quả đó không cho thấy được trình độ quản lý, trình độ sử dụng các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp mà phải thông qua khái niệm “hiệu quả”. Trong công thức (1) ta thấy, trong khái niệm hiệu quả kinh doanh bao gồm tất cả kết quả và chi phí đều được tính bằng cả hai đơn vị hiện vật và giá trị. Nhưng khi đo bằng đơn vị hiện vật thì khó xác định do tính không đồng nhất về đơn vị đo lường nên người ta thường tính hiệu quả theo đơn vị giá trị mà biểu hiện ra là tiền tệ. Như vậy, hiệu quả là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố trong quá trình sản xuất kinh doanh, đồng thời là một phạm trù kinh tế gắn liền với nền sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá có phát triển hay không là nhờ đạt được hiệu quả cao hay thấp. Biểu hiện của hiệu quả là lợi ích mà thước đo quan trọng là “đồng tiền”. Từ đó ta thấy bản chất của hiệu quả kinh doanh chính là hiệu quả của lao động xã hội, nó phản ánh mặt chất lượng của hoạt động kinh doanh, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực đầu vào của quá trình kinh doanh để đạt được mục tiêu cuối cùng của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp- mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Nó cũng là thước đo trình độ tiết kiệm yếu tố đầu vào, nguồn lực xã hội. Hiệu quả kinh doanh là một khái niệm phức tạp, vừa là một khái niệm cụ thể, vừa là một khái niệm trừu tượng khó đánh giá chính xác. Vì ngay ở khái niệm cho thấy hiệu quả kinh doanh được xác định bởi mối tương quan giữa hai đại lượng là kết quả đạt được và chi phí bỏ ra. Mà cả hai đại lượng này đều khó đánh giá chính xác. 3. Phân loại hiệu quả kinh tế. Trong quản lý sản xuất kinh doanh, phạm trù hiệu quả kinh tế được biểu hiện ở những dạng thức khác nhau. Việc phân loại hiệu quả kinh tế tạo nền tảng để xây dựng các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế, chỉ ra các nhân tố tác động và đưa ra những biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế một cách thích hợp. 3.1. Hiệu quả tương đối và hiệu quả tuyệt đối. + Hiệu quả tương đối: Hiệu quả tương đối được xác định bằng cách so sánh các chỉ tiêu hiệu quả tuyệt đối, cụ thể là hiệu quả tương đối được tính bằng tỷ lệ giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra. Hiệu quả tương đối càng lớn hơn 1 càng tốt. Đây là một đại lượng có tính chất so sánh cho nên hiệu quả tương đối là căn cứ để đánh gái mức độ hiệu quả của các phương án kinh doanh để lựa chọn phương án có lợi nhất về kinh tế. + Hiệu quả tuyệt đối: Hiệu quả tuyệt đối được tính toán cho từng phương án kinh doanh bằng cách xác định mối quan hệ giữa kết quả thu được của phương án đó với chi phí bỏ ra khi thực hiện những nhiệm vụ kinh tế cụ thể. Trong trường hợp này, hiệu quả kinh tế là hiệu số giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra. 3.2. Hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội. + Hiệu quả kinh doanh: Hiệu quả kinh doanh hay hiệu quả tài chính là hiệu quả thu được từ hoạt động của từng doanh nghiệp. Biểu hiện trực tiếp của hiệu quả kinh doanh là số lợi nhuận mà mỗi doanh nghiệp thu được so với chi phí bỏ ra. Hiệu quả kinh doanh được tính bằng quan hệ giữa doanh thu và chi phí. Hiệu quả kinh doanh đựoc xác định trong mối quan hệ giữa chi phí bỏ ra với thu nhập mang lại trong quá trình kinh doanh dưới hình thái tiền tệ đối với một dịch vụ kinh doanh hoặc tổng thể các dịch vụ kinh doanh trong một thời gian nhất định. Hiệu quả kinh doanh có tính chất trực tiếp nên có thể định lượng được đễ dàng. + Hiệu quả kinh tế xã hội: Hiệu quả kinh tế xã hội của một hoạt động kinh tế được xác định trong mối quan hệ giữa hoạt động đó với tư cách là tổng thể các hoạt động kinh tế hoặc là một hoạt động kinh tế cụ thể, với nền kinh tế quốc dân và đời sống xã hội. Hiệu quả kinh tế xã hội là lợi ích kinh tế xã hội mà hoạt động kinh tế đã mang lại cho nền kinh tế quốc dân và đời sống xã hội, được thể hiện ở mức đóng góp vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội nhất định như: phát triển sản xuất, đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao động xã hội, tích luỹ ngoại tệ, tăng thu cho ngân sách nhà nước, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống của nhân dân. Xem xét hiệu quả xã hội, người ta xem xét mức tương quan giữa các kết quả (mục tiêu) đạt được về mặt xã hội (cải thiện điều kiện lao động, nâng cao đời sống tinh thần, tạo ra các mối quan hệ lành mạnh,... ) và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Hiệu quả kinh tế xã hội có tính chất gián tiếp nên khó định lượng nhưng có thể định tính: “Hiệu quả kinh tế xã hội là tiêu chuẩn quan trọng nhất của sự phát triển” (Chiến lược phát triển kinh tế năm 2000). Hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội có quan hệ mật thiết với nhau. Trong nhiều trường hợp, hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội vận động cùng chiều, nhưng trong một số trường hợp hai mặt đó lại mâu thuẫn với nhau. Có những hoạt động kinh doanh không mang lại lợi nhuận, thậm chí có thể bị thua thiệt, nhưng doanh nghiệp vẫn phải thực hiện vì lợi ích chung đẻ đạt tới các mục tiêu kinh tế xã hội nhất định. 3.3. Hiệu quả bộ phận và hiệu quả tổng hợp. Chi phí bỏ ra là yếu tố cần thiết để đánh giá, tính toán mức hiệu quả kinh tế. Xét trên góc độ tính toán, có chi phí tổng hợp (mọi chi phí bỏ ra để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh) và chi phí bộ phận (những yếu tố hao phí cần thiết để thực hiện nhiệm vụ đó). + Hiệu quả bộ phận: Hiệu quả bộ phận thể hiện mối tương quan giữa kết quả thu được với lượng hao phí từng yếu tố cần thiết để thực hiện nhiệm vụ ấy. + Hiệu quả tổng hợp: Hiệu quả tổng hợp thể hiện mối tương quan giữa kết quả thu được và tổng chi phí bỏ ra để thực hiện nhiệm vụ sản xuất hay kinh doanh. Việc tính toán hiệu quả chi phí tổng hợp cho thấy hiệu quả hoạt động chung của doanh nghiệp hay nền kinh tế quốc dân. Còn việc tính toán và phân tích hiệu quả của các chi phí bộ phận cho thấy sự tác động của các yếu tố nội bộ sản xuất kinh doanh đến hiệu quả kinh tế chung. Về nguyên tắc, hiệu quả chi phí tổng hợp phụ thuộc vào hiệu quả của chi phí thành phần. Nhưng trong thực tế, không phải các yếu tố chi phí thành phần đều được sử dụng có hiệu qủa, tức là có trường hợp sử dụng yếu tố này nhưng lại lãng phí yếu tố khác. Nói chung muốn thu được hiệu quả kinh tế, hiệu quả do sử dụng tốt các yếu tố thành phần nhất thiết phải lớn hơn tổn thất do lãng phí các yếu tố khác gây ra. III. Phương pháp đánh giá và các chỉ tiêu về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. 1. Phương pháp đánh giá. Để thực hiện nhiệm vụ nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp đòi hỏi phải nghiên cứu và nhận thức một cách đầy đủ các phương pháp đánh giá hiệu quả kinh doanh. Việc đánh giá đúng hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp cho phép phát hiện khả năng và tìm đúng biện pháp để nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. *Các quan điểm cơ bản trong việc đánh giá hiệu quả kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp liên quan tới nhiều yếu tố và nó phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố đó. Do đó khi đánh giá hiệu quả kinh doanh cần quán triệt những quan điểm cơ bản sau: Quan điểm thứ nhất: Đảm bảo sự thống nhất giữa nhiệm vụ chính trị và kinh doanh trong việc nâng cao hiệu quả. Quan điểm này đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh doanh phải xuất phát từ mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng và nhà nước. Trước hết ở việc thực hiện các chỉ tiêu pháp lệnh hoặc đơn hàng của nhà nước giao cho doanh nghiệp hoặc các hợp đồng kinh tế mà nhà nước đã ký kết với doanh nghiệp, bởi vì đó là nhu cầu và là điều kiện bảo đảm sự phát triển cân đối của nền kinh tế quốc dân, của nền kinh tế hàng hoá. Những nhiệm vụ kinh tế và chính trị mà nhà nước giao cho doanh nghiệp trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hoá đòi hỏi doanh nghệp phải quyết định việc kinh doanh những loại hàng hoá và dịch vụ mà thị trường cần, nền kinh tế cần. Quan điểm thứ 2: Bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa các lợi ích: lợi ích xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích của người lao động. Quan điểm này đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh doanh phải xuất phát và thoả mãn những mối quan hệ của các lợi ích nói trên, trong đó lợi ích của người lao động (những người trực tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất- kinh doanh) được coi là động lực trực tiếp. Bởi vì người lao động là nhân tố quyết định việc nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh doanh một cách trực tiếp. Kết quả đem lại thoả mãn những nhu cầu của cá nhân người lao động, cho tập thể, cho nhà nước trên cơ sở căn cứ vào chi phí đầu tư để đạt tới mức hiệu quả đó. Quan điểm thứ 3: Đảm bảo tính toàn diện và hệ thống trong việc nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh doanh. Quan điểm này đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh doanh phải xuất phát và đảm bảo yêu cầu nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế nói chung, của ngành, của địa phương và các đơn vị cơ sở. Hơn nữa trong từng đơn vị cơ sở, khi đánh giá xem xét hiệu quả hoạt động kinh doanh phải coi trọng tất cả các mặt, các lĩnh vực, các khâu của quá trình kinh doanh. Quan điểm thứ 4: Đảm bảo tính thực tiễn trong việc nâng cao hoạt động kinh doanh. Quan điểm này đòi hỏi khi đánh giá và xác định mục tiêu, biện pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh doanh phải xuất phát từ đặc điểm kinh tế, điều kiện kinh tế xã hội của ngành, của địa phương và của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Chỉ có như vậy mới có thể nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và phương án kinh doanh của doanh nghiệp mới xây dựng được và từ đó mới có đủ cơ sở thực tiễn chắc chắn để đảm bảo lòng tin cho người lao động, hạn chế được những rủi ro, tổn thất trong kinh doanh. Quan điểm thứ 5: Phải căn cứ vào kết quả cuối cùng cả về mặt hiện vật và giá trị để đánh giá hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Quan điểm này đòi hỏi khi tính toán và đánh giá hiệu quả, một mặt phải căn cứ vào kết quả sản lượng hàng hoá đã thực hiện, mặt khác phải tính đúng, tính đủ các chi phí đã bỏ ra để thực hiện kinh doanh những hàng hoá đó. Căn cứ vào kết quả cuối cùng cả về mặt hiện vật và giá trị là đòi hỏi tất yếu của kinh tế hàng hoá và buộc các nhà kinh tế phải tính đúng đắn, hợp lý các yếu tố cần thiết cho quá trình kinh doanh tiếp theo. Ngoài ra, nó còn cho phép đánh giá đúng khả năng thoả mãn nhu cầu của thị trường và hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp theo cả 2 mặt: Giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá mà thị trường cần. 2. Các chỉ tiêu đánh giá về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. 2.1 Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế tổng hợp + Nếu so sánh kết quả đầu ra với chi phí đầu vào: Hiệu quả kinh doanh = Kết quả kinh doanh Chi phí đầu vao Nếu kết quả lớn hơn một thì doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Nếu kết quả nhỏ hơn một thìdoanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả. Tỉ suất lợi nhuận theo chi phí = Lợi nhuận Tổng chi phí bỏ ra -> Chỉ tiêu này phản ánh: Cứ một đồng chi phí bỏ ra thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả kinh doanh càng lớn. + Nếu so sánh doanh thu với lợi nhuận Tỉ suất lợi nhuận = Lợi nhuận Doanh thu bán hàng -> Chỉ tiêu này cho biết: Một đồng doanh thu bán ra có bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. 2.2 Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế bộ phận 2.2.1 Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động +Năng suất lao động bình quân = Doanh thu bán hàng Tổng số lao động bình quân trong kỳ Năng suất lao động bình quân càng cao chứng tỏ doanh nghiệp tổ chức lao động một cách hợp lý, hiệu quả kinh doanh càng cao. +Lợi nhuận bình quân đầu người = Lợi nhuân trong kỳ Tổng số lao động bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh: Bình quân một lao động tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận trong kỳ. 2.2.2. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động (VLĐ). + Sức sản xuất của VLĐ = Tổng doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ VLĐ bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh gián tiếp hiệu quả sử dụng VLĐ, một đồng VLĐ tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ nhất định sẽ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. + Sức sinh lợi của VLĐ = Lợi nhuận trong kỳ VLĐ bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết: Một đồng vốn lưu động bỏ ra sẽ tạo được bao nhiêu đồng lợi nhuận trong kỳ. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng VLĐ càng cao và hiệu quả kinh doanh càng lớn. Số vòng quay của VLĐ = Doanh thu thuần VLĐ bình quân trong kỳ -> Cho biết số vòng quay của VLĐ. Số vòng quay càng lớn thì hiệu quả sử dụng VLĐ càng cao và ngược lại. + Số ngày luân chuyển bình quân 1 vòng quay = 365 Số vòng quay VLĐ 2.2.3 Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu qủa sử dụng vốn cố định + Sức sản xuất của vốn cố định = Doanh thu bán hàng Vốn cố định trong kỳ Phản ánh một đồng vốn cố định bình quân trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. + Sức sinh lời của vốn cố định = Lợi nhuận trong kỳ Vốn cố định bình quân trong kỳ Cho biết mức lợi nhuận tạo ra bởi một đồng vốn cố định bình quân trong kỳ. 2.3 Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội 2.3.1 Tăng thu ngân sách Mọi doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải có nhiệm vụ nộp ngân sách Nhà nước dưới hình thức là các loại thuế như: Thuế doanh thu, thuế đất, thuế lợi tức,thuế xuất khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt ... Nhà nước sẽ sử dụng những khoản thu này để cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và ở các lĩnh vực phi sản xuất, góp phần phân phối lại thu nhập quốc dân. 2.3.2 Tăng thu nhập bình quân của người lao động Trong cơ chế thị trường, lương của người lao động được trả theo sản phẩm, theo khối lượng công việc hoặc theo thời gian. Nếu doanh nghiệp kinh doanh có hiệu qủa thì thu nhập của người lao động sẽ tăng lên, đời sống nhân dân được cải thiện. 2.3.2 Tạo thêm việc làm, giảm thất nghiệp Doanh nghiệp tham gia sản xuất ki._.nh doanh sẽ thu hút số lượng lớn người lao động vào làm việc. Khi doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, quy mô sản xuất sẽ mở rộng, tao công ăn việc làm cho người lao động. Qua đó doanh nghiệp đã góp phần giúp xã hội giảm tỉ lệ thất nghiệp, nhanh chóng đưa xã hội thoát khỏi nghèo đói, lạc hậu, góp phần ổn định chính trị và an ninh. IV. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó có thể là các nhân tố thuộc bản thân doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể kiểm soát được (nhân tố bên trong), nó cũng có thể là nhân tố khách quan, nhân tố thuộc về môi trường mà doanh nghiệp hoạt động, những nhân tố này nằm ngoài sự kiểm soát của doanh nghiệp (nhân tố bên ngoài). 1. Các nhân tố bên trong 1.1 Con người và cách thức tổ chức lao động Con người là nhân tố trung tâm, có ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nói đến con người là nói tới: năng lực, phẩm chất, trình độ chuyên môn, khả năng sáng tạo. Tuy nhiên đó mới chỉ là điều kiện cần, vấn đề là phải tổ chức lao động như thế nào là hợp lý, phát huy khả năng năng lực sở trường của người lao động mới là điều kiện đủ.Vì vậy khâu tổ chức lao động là tối cần thiết đối với mọi doanh nghiệp. Nó tuỳ thuộc vào lĩnh vực kinh doanh, quy mô, đặc điểm của doanh nghiệp. Các đơn vị cơ sở trực thuộc, các phòng ban, các cửa hàng... cần được bố trí đủ người theo đúng yêu cầu và nhiệm vụ. Đối với từng cá nhân, được sắp xếp theo đúng chuyên môn, sở trường. Nếu công việc của mỗi nhân viên có tính chuyên môn hoá cao sẽ gây nhàm chán, làm việc thiếu tích cực, gây căng thẳng. Ngược lại, nếu sắp xếp những công việc có tính chất quá khác nhau sẽ làm giảm năng suất và hiệu quả. Do vậy, tổ chức lao động phải đảm bảo đúng người đúng việc. Tạo lập được một cơ cấu tổ chức đơn giản nhưng hiệu quả sẽ giúp doanh nghiệp giảm chi phí, áp dụng đòn bẩy kinh tế thưởng phạt rõ ràng tạo động lực thúc đẩy người lao động hơn, có tinh thần trách nhiệm với công việc. Luôn gắn trách nhiệm với quyền lợi người lao động, khuyến khích động viên về vật chất và tinh thần là phương thức tốt nhất để mỗi cá nhân trong doanh nghiệp hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Điều đó đồng nghĩa với hiệu quả kinh doanh sẽ tăng lên. 1.2 Cơ sở vật chất kỹ thuật Đó là các tài sản hữu hình, có vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại tạo ra khả năng cạnh treanh cho doanh nghiệp. Nhiều khi nó tạo ra các tài sản vô hình rất quan trọng như các cửa hàng, kho tàng bến bãi ở vị trí thuận lợi tạo thế cạnh tranh, từ đó thúc đẩy tiêu thụ, mở rộng thị trường... đưa tới hiệu quả kinh doanh tăng lên nhanh chóng. Ngược lại, cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu làm năng suất lao động, chất lượng sản phẩm giảm, chi phí tăng, doanh nghiệp ngày càng tụt hậu so với đối thủ cạnh tranh. 1.3 Nguyên vật liệu, hàng hoá. Chất lượng nguyên vật liệu là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng, giá thành của sản phẩm cuối cùng, trực tiếp ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh. Do vậy cần phải giám sát chặt chẽ chất lượng nguyên vật liệu, góp phần tăng tỉ lệ sản phẩm đạt yêu cầu đáp ứng nhu cầu thị trường. Nguyên vật liệu cũng cần phải được dự trữ để đảm bảo cho quá trình kinh doanh được liên tục. Hàng hoá dự trữ để đáp ứng trong những lúc thiếu nguyên vật liệu hhhoặc khi thị trường biến động, tất yếu sẽ phát sinh chi phí. Do đó, lượng dự trữ nguyên vật liệu, hàng hoá phải phù hợp với tốc độ tiêu thụ, cơ cấu vốn lưu động. Làm tốt nhiệm vụ này sẽ nâng cao được hiệu quả kinh doanh. 1.4 Trình độ quản lý và sử dụng vốn Vốn là một trong yếu tố quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp, nó trực tiếp ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh, với tư cách là chi phí bỏ ra cho hoạt động kinh doanh. Hoạch định nhu cầu về vốn, phân bố hợp lý, tăng nhanh vòng quay vốn là nhân tố nâng cao hiệu quả kinh doanh. 1.5 Nâng cao chất lượng dịch vụ Chất lượng dịch vụ có vai trò quyết định tới tốc độ tiêu thụ sản phẩm. Chất lượng dịch vụ cao thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng sẽ làm tăng uy tín, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, làm cho doanh nghiệp ngày càng hoạt động có hiệu quả hơn trên thị trường. 2. Các nhân tố bên ngoài 2.1 Nhân tố môi trường nền kinh tế quốc dân 2.1.1 Các chính sách kinh tế của Nhà nước Hệ thống chính sách kinh tế của Nhà nước có ảnh lớn tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế của thị trường, nhu cầu vốn của các doanh nghiệp rất lớn, trong khi khả năng của doanh nghiệp bị hạn chế, họ phải huy động từ các nguồn bên ngoài. Chính sách kinh tế của Nhà nước có tác động tới các nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Nhu cầu về vốn thường lớn hơn vốn tự có, do vậy sự hỗ trợ của Nhà nước và của ngân hàng là rất cần thiết. + Chính sách về thuế: Thuế là nguồn thu của Nhà nước, nhưng nó có thể tác động hạn chế hay tạo ra động lực tác động tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. + Chính sách về lãi suất tín dụng: Mục tiêu của chính sách này là tạo ra động lực phát triển kinh tế. Lãi suất tín dụng phụ thuộc vào quan hệ cung- cầu tiền tệ. Nhà nước có thể can thiệp vào để điều tiết thị trường bằng việc ban hành các qui định trong việc thực hiện chính sách lãi suất tín dụng. Chính sách này thông thoáng sẽ tạo điều kện tốt cho các doanh nghiệp huy động vốn từ nhiều nguồn. + Chính sách tỷ giá: Chính sách này đặc biệt quan trọng với các doanh nghiệp thường xuyên có hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá. Nhà nước cần có các biện pháp để tránh những đột biến quá lớn của tỷ giá hối đoái để các doanh nghiệp yên tâm kinh doanh. +Chính sách bù giá, hỗ trợ của Nhà nước: Đối với các mặt hàng được Nhà nước khuyến khích sản xuất hoặc những mặt hàng Nhà nước quản lý về giá cả, khi có những biến động sẽ được trợ cấp hoặc bù giá. 2.1.2 Chính sách pháp luật Nhà nước xây dựng hệ thống luật, bộ luật để ngăn chặn các hoạt động kinh doanh không lành mạnh, bảo vệ những cá nhân, doanh nghiệp kinh doanh chân chính, tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng, công bằng. 2.1.3 Tốc độ phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ Việc ứng dụng khoa học kỹ thuật công nghệ vào sản xuất kinh doanh và đời sống ngày ngày càng nhiều đã đem lại những kết quả to lớn cho xã hội. Khoa học kỹ thuật càng cao, chi phí lao động xã hội giảm, chất lượng sản phẩm và năng suất lao động tăng. 2.2 Môi trường ngành 2.2.1 Đối thủ cạnh tranh. Đối thủ cạnh tranh có thể là các doanh nghiệp cùng sản xuất và dịch vụ tiêu thụ trên thị trường hoặc các sản phẩm thay thế. Trong môi trường có sự cạnh tranh quyết liệt buộc các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả kinh doanh bằng cách giảm giá thành, nâng cao chất lượng dịch vụ, tổ chức lại bộ máy quản lý ... 2.2.2 Thị trường: Bao gồm cả thị trường đầu ra và thị trường đầu vào. Trên thị trường đầu vào, doanh nghiệp lựa chọn hàng hoá mình cần. Sự lựa chọn này quyết định tới chất lượng sản phẩm, giá thành sản phẩm. Muốn nâng cao hiệu quả kinh doanh, doanh nghiệp cần quan tâm tới thị trường này để lựa chọn nhà cung cấp có khả năng đáp ứng các yêu cầu mà doanh nghiệp đặt ra. Với thị trường đầu ra: doanh nghiệp cần hiểu rõ những sản phẩm phù hợp với nhu cầu của người của người tiêu dùng. Thị trường này lại quyết định tới kết quả đạt được của doanh nghiệp. Muốn có hiệu quả kinh doanh cao, doanh nghiệp phải có các biện pháp để mở rộng thị trường đầu ra, tăng các chỉ tiêu kết quả đạt được như: doanh thu, lợi nhuận..... Phần II thực trạng hiệu quả sản xuất kinh doanh ở Công ty in Hàng không I. Quá trình hình thành và phát triển của công ty in Hàng không. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật công nghệ, nhu cầu của xã hội ngày càng nâng cao. Nhằm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế quốc dân và chuyên môn hoá ngành in, Công ty in Hàng không đã ra đời. Tiền thân của Công ty in Hàng không là Xưởng in Hàng không thuộc binh đoàn 919, được thành lập theo quyết định số 427-QĐ ngày 19/3/1985 của Bộ trưởng Bộ quốc phòng. Ngày 1/4/1985 : Xí nghiệp in Hàng không chính thức đi vào hoạt động. Ngày 03/3/1990: Theo quyết đình số 174/TCHK của Tổng Cục Hàng không dân dụng Việt Nam xác đình xưởng in Hàng không thuộc cục chính trị trước đây thành Xí Nghiệp in Hàng không trực thuộc tổng cục Hàng không dân dụng Việt Nam. Tài sản và vốn pháp đình của Xí nghiệp in Hàng không được tổng cục Hàng không xác đình và giao cho. Nhiệm vụ chủ yếu của Xí nghiệp in Hàng không là: In về máy bay chứng từ cao cấp, nhãn, sách báo, các ấn phẩm văn hoá khác thuộc chuyên ngành Hàng không cho các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước. sản xuất in gia công các sản phẩm Plexso và bao bì các loại. các ấn phẩm cho ngành Hàng không theo yêu cầu của khách hàng. Liên kết, sản xuất, kinh doanh các mặt hàng giấy Plexso, vật tư chuyên ngành in với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước Để đáp ứng được nhu cầu của nganh Hàng không dân dụng, các chứng từ ấn phẩm ban đầu của ngành phải đạt tiêu chuẩn quốc tế. Năm 1994, Xí nghiệp in Hàng không được cục Hàng không dân dụng Việt Nam quyết đình đầu tư thêm thiết bị, đổi mới công nghệ in Typo là chủ yếu in Offset, nâng công suất từ 30 triệu lên 150 triệu trang in mỗi năm và đã in được các chứng từ cao cấp của ngành Hàng không. Cùng với sự hội nhập của nền kinh tế thế giới, mỗi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì cần phải nắm bắt được xu thế thay đổi, tìm ra những nhân tố then chốt đảm bảo sự thành công trên cạnh tranh trên thị trường. Mặt khác cũng cần phải hiểu rõ điêm mạnh yếu của đối thủ cạch tranh, biết được những mong muốn của khách hàng để từ đó đưa ra được những chiến lược phát triển phù hợp cho doanh nghiệp. Hoạt động thương mại nói chung và dịch vụ in ấn nói riêng cũng đang đứng trước sự thách đố của thị trường, sự đòi hỏi của hội nhập, phát triển dịch vụ đã trở thành phổ biến đa dạng và là nhu cầu không thể thiếu được của các tầng lớp dân cư trong xã hội. Ngày nay, khách hàng được coi là nhân tố tồn tại đối với mỗi doanh nghiệp. Sự đòi hỏi của khách hàng về một chất lượng "Quốc tế", phục vụ một số lượng lớn khách hàng trong và ngoài nước buộc Xí nghiệp in Hàng không phải tăng quy mô sản xuất, đầu tư cả về chiều rộng lẫn chiều sâu cơ sở vật chất kỹ thuật. Chính vì vây, ngày 14/9/1994 Xí nghiệp in Hàng không chính thức được đổi tên thành Công ty in Hàng không với tên giao dịch quốc tế Aviation Printing Company với chức năng hoạt động đa dạng hơn và phù hợp với tình hình mới. Công ty in Hàng không được thành lập theo quyết định số 1022/HĐQT ngày 30/6/1997 của hội đồng quản trị Tổng công ty Hàng không Việt Nam và đăng ký kinh doanh số 100497 ngày 27/9/1994 của Uỷ ban kế hoạch thành phố Hà Nội. Là một doanh nghiệp Nhà nước thuộc Tổng công ty Hàng không Việt Nam, công ty đã thực hiện hạch toán độc lập, có tài khoản riêng có con dấu riêng, công ty đã giữ cân đối tài chính, coi trọng hiệu quả kinh tế, lấy thu bù chi, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn được Nhà nước giao, đồng thời thực hiện đầy đủ đối với Nhà nước. Công ty in Hàng không thuộc Tổng công ty Hàng không Việt Nam có trụ sở chính đặt tại sân bay Gia Lâm- Hà Nội. Công ty có chi nhánh phía Nam tại 85-Nguyễn Thái Bình-TP.Hồ Chí Minh, là đơn vị hạch toán kinh tế nội bộ của Công ty. Kết quả kinh doanh của chi nhánh được hợp cộng vào kết quả kinh doanh chung của toàn công ty. Cho tới nay, qua 18 năm xây dựng và phát triển Công ty đã lớn mạnh về mọi mặt, từ cơ sở vật chất kỹ thuật đến trình độ tổ chức sản xuất, trình độ quản lý, có đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn và tay nghề cao. Sản phẩm của Công ty đã nhiều lần được đánh giá đạt chất lượng cao. Từ năm 1996 đến 1999 Công ty liên tục được ngành, Tổng công ty Hàng không công nhận đạt danh hiệu “lao động xuất sắc hàng năm”, 2 bằng khen của chính phủ và cá nhân năm 1998, cờ thưởng thi đua của Chính phủ năm 1999, 2 huân chương lao động hạng 3 cho tập thể và cá nhân 5 năm (1995-1999), 46 cờ và bằng khen của Cục Hàng không, Tổng công ty Hàng không Việt Nam và các cấp công đoàn cho tập thể và cá nhân (1996-1999), 3 cá nhân được Tổng liên đoàn tặng bằng khen sáng tạo (1996-1998), hàng năm tập thể và cá nhân được tặng giấy khen và tặng phẩm. Đặc biệt ngày 25/3/2002 vừa qua công ty đã vinh dự đươc đánh giá là đạt “hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9001: 2000”. II. Những đặc điểm cơ bản có ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty 1. Cơ cấu tổ chức quản lý Công ty in Hàng không có quy mô vừa, đầu tư máy móc thiết bị theo chiều sâu. Vì vậy, để sản xuất có hiệu quả và quản lý sản xuất một cách tốt nhất, bộ máy quản lý của công ty được tổ chức theo mô hình trực tuyến tham mưu. Đây là mô hình bộ máy quản lý gọn nhẹ. quản lý theo chế độ một thủ trưởng. Đứng đầu công ty là Giám đốc người có quyền lãnh đạo cao nhất chịu trách nhiệm với Nhà nước cũng như tập thể cán bộ công nhân viên về hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Giúp cho Giám đốc có một phó Giám đốc, một kế toán trưởng, một trợ lý kế hoạch, một trợ lý kỹ thuật và một số chuyên viên khác. Dưới đó là một hệ thống các phong ban và các phân xưởng sản xuất có chức năng nhiệm vụ được quy định rõ ràng . Công ty có 5 phòng: Phòng tổ chức hành chính, Phòng tài chính kế toán, Phòng kế hoạch sản xuất, Phòng kinh doanh, Phòng quản lý chất lượng (QM) đứng đầu các phòng là Trưởng phòng và có các Phó phòng giúp việc cho Trưởng phòng. sơ đồ tổ chức bộ máy và tổ chức sản xuất Ban giám đốc ở công ty in Hàng không Phòng kinh doanh Phòng kế hoạch sản xuất Phòng tài chính kế toán Phòng tổ chức hành chính Văn phòng đại diện phía Nam Phòng QM Phân xưởng chế bản Phân xưởng bao bì Flexo Phân xưởng giấy Phân xưởng sách Phân xưởng in Phòng tổ chức hành chính: Làm tham mưu và giúp việc cho giám đốc về các vấn đề quản lý hồ sơ của Công ty, văn thư lưu trữ, quản lý các vấn đề lao động, xắp xếp nhân sự, bảo vệ, tiếp khách hội nghị của Công ty. Phòng kế hoạch sản xuất : Có nhiệm vụ sản xuất có nhiệm vụ giao dịch tìm việc làm cho Công ty, kí kết các hợp đồng kinh tế, theo dõi tình hình sản xuất và cung ứng vật tư cho Công ty. Đồng thời kết hợp với phòng tài chính đề xuất phương án giá và xác định chi phí sản xuất gia Công sản phẩm. Đây là phòng tham mưu cho giám đốc về Công tác kế hoạch ngắn hạn, dài hạn, trực tiếp điều hành sản xuất của Công ty. Phòng tài chính kế toán: Làm Công tác tham mưu giúp cho giám đốc về các mặt tài chính kế toán, thực hiện hạch toán sản xuất kinh doanh, thanh quyết toán với Nhà nước. Phòng kinh doanh: Nhiệm vụ chính xuất nhập khẩu, quản lý nguyên vật liệu, theo dõi sử dụng nguyên vật liệu của các phân xưởng, cân đối cấp phát nguyên vật liệu sao cho hợp lý với nhu cầu sản xuất ở các phân xưởng,dự kiến kế hoạch thu mua vật liệu sao cho lượng dự trữ trong kho đảm bảo tiến độ sản xuất. Phòng quản lý chất lượng (QM): Xây dựng, thiết kế hệ thống quản lý chất lượng cho toàn Công ty. Theo dõi, điều chỉnh các định hướng về chất lượng trong quá trình thực hiện hệ thống. Văn phòng đại diện phía Nam : được đặt tại Thành phố Hồ Chí Minh để giao dịch tìm khách hàng cho Công ty. Phân xưởng chế bản : thực hiện nhiệm vụ sao chép bản vi tính, bình bản, phối bản để tạo ra khuôn in phục vụ cho quy trình in. Phân xưởng in OFFSET : có nhiệm vụ khuôn in, giấy in để tạo ra những sản phẩm in theo yêu cầu kỹ thuật Công nghệ. Phân xưởng sách có nhiệm vụ gia Công các ấn phẩm đã được thự c hiện theo quy trình Công nghệ. Phân xưởng FLEXO : in và gia Công bao bì màng mỏng PP, PE, bao bì giấy trằng màng trên máy in Flexo. Phân xưởng giấy có nhiệm vụ sản xuất giấy khăn thơm và giấy vệ sinh theo đơn đặt hàng. Các phân xưởng này đều chịu sự quản lý trực tiếp của giám đốc Công ty thông qua quản đốc phân xưởng. Như vậy, với cơ cấu bộ máy quản lý của Công ty gọn nhẹ- mô hình trực tuyến tham mưu, quản lý theo chế độ một thủ trưởng, Công ty In Hàng không đã quán triệt việc thực hiện nhiệm vụ kế hoạch của Tổng cục Hàng không, hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch đặt ra , đáp ứng được các yêu cầu phát triển sản xuất- kinh doanh mà nền kinh tế đặt ra. Đây là mô hình bộ máy quản lý phù hợp trong giai đoạn hiện nay. 2. Đặc điểm sản phẩm- thị trường: 2.1 Đặc điểm sản phẩm của Công ty: Mặt hàng chính của Công ty là in sách, tạp chí, hoá đơn chứng từ với số lượng khoảng 250 triệu trang mỗi năm. Với số lượng lớn như vậy, Công ty luôn đưa chất lượng lên hàng đầu, mặt hàng nhiều loại, mẫu mã luôn thay đổi đòi hỏi về độ chính xác, phối màu, chất lượng vật tư, mẫu thiết kế hợp lý … đã đáp ứng nhu cầu của khách hàng dù đó là khách hàng khó tính. Sản phẩm về bao bì màng mỏng PP, PE, tráng màng mỏng trên dây chuyền in cuốn nhiều với số lượng lớn, với máy thổi màng mỏng và gia Công sản phẩm sau khi in tạo ra sản phẩm bao bì có chất lượng tốt, có uy tín trên thị trường và được khách hàng tìm đến. Sau sản phẩm in là sản phẩm giấy. Sản phẩm giấy thơm vệ sinh và khăn ướt của Công ty với số lượng 1,2 triệu sản phẩm trong năm đã đáp ứng được nhu cầu thị hiếu của khách hàng đặc biệt khăn giấy ướt cao cấp chiếm một tỉ trọng lớn trong tổng sản phẩm sản xuất của Công ty. Đây là mặt hàng cao cấp , sản phẩm sản xuất ra cung cấp cho nhiều thị trường: Thị trường trọng điểm: Viet Nam-Airlines chiếm 60% sản lượng bán . Thị trường khác đó là: các nhà hàng, khách sạn, siêu thị chủ yếu tại địa bàn Hà Nội. Các phương tiện giao thông Công cộng như xe chất lượng cao, taù cánh ngầm. Với đặc điểm như vậy Công ty ngày càng được khách hàng biết đến và hợp tác đặt hàng trong kinh doanh , sản xuất cũng như liên doanh, liên kết mua bán cung cấp nguyên vật liệu ngành in. 2.2 Đặc điểm về thị trường: 2.2.1 Thị trường tiêu thụ trong ngành của Công ty: Công việc sản xuất sản phẩm của Công ty là in tạp chí, thẻ hàng, vé máy bay, chứng từ cao cấp sử dụng trong ngành. Các loại giấy thơm , khăn thơm cao cấp , túi nôn theo kế hoạch của Tổng Công ty và các cơ quan trong ngành Hàng không. Trong đó tạp chí Hàng không 1 tháng/1 số với số lượng 5000 cuốn phục vụ trên các chuyến bay. Để phục vụ cho ngành Hàng không và cho các chuyến bay, Công ty còn in tạp chí "thông tin giải trí " phát hành 2 tháng/1 số với số lượng 7000 cuốn. Ngoài ra Công ty còn đảm bảo kịp thời việc in vé máy bay, hoá đơn chứng từ phục vụ cho các hãng : Cảng Hàng không Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng, Huế với số lượng theo kế hoạch của Tổng Công ty phục vụ hàng triệu hành khách trong năm. Công ty còn in các bao bì màng mỏng PP, PE, túi nôn, túi xách tay phục vụ cho khách hàng. Sản phẩm giấy thơm được khách hàng ưa thích. Thị trường của Công ty trong ngành Hàng không có ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất kinh doanh của Công ty. Nguồn hàng trong ngành đem lại doanh thu chính cho Công ty và tạo việc làm thường xuyên, thu nhập ổn định cho cán bộ Công nhân viên. 2.2.2 Thị trường tiêu thụ ngoài ngành của Công ty: Ngoài việc phục vụ trong ngành của Công ty in Hàng không Công ty còn nhận in theo hợp đồng và đơn đặt hàng của khách nên mặt hàng của Công ty rất đa dạng về chủng loại. Việc khai thác nguồn hàng ở bên ngoài rất quan trọng. Bởi vậy Công ty thường xuyên tổ chức hội nghị khách hàng vào những dịp đầu năm để được nghe đánh gía về sản phẩm của Công ty và đặc biệt là tạo mối quan hệ để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao đối với những mặt hàng chủ yếu là sách báo, tạp chí, catalog, hoá đơn Carbon phục vụ cho dịch vụ du lịch của các doanh nghiệp tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh khác. Khăn thơm của Công ty là sản phẩm được thị trường ưa chuộng. Khách hàng chính của Công ty là các nhà hàng, khách sạn, siêu thị chủ yếu tại địa bàn Hà Nội. Ngoài ra , các điểm du lịch, vận tải biển, các doanh nghiệp chế biến thực phẩm, các phương tiện giao thông Công cộng như xe chất lượng cao, tàu cánh ngầm cũng là khách hàng của Công ty. Bên cạnh đó Công ty còn in bao bì như túi chè cho Công ty chè Kim Anh, vỏ bọc bóng đèn Rạng Đông. Cũng như đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, với phương hướng phát triển mở rộng sản xuất cũng như phương châm của Công ty in Hàng không, Công ty luôn tìm cách mở rộng thị trường tiêu thụ, khai thác hết Công suất để đáp ứng nhu cầu thị trường và đem lại nguồn thu nhập cho Công ty ngày càng cao đặc biệt là nâng cao thu nhập cho cán bộ Công nhân viên. 3. Đặc điểm về lao động: Cùng với sự phát triển và mở rộng của thị trường quy mô sản xuất của Công ty cũng ngày càng mở rộng và đã thu hút, giải quyết Công ăn việc làm cho nhiều người lao động. Năm 1999 : tổng số lao động của Công ty in Hàng không là 183 người trong đó nhân viên quản lý là 5 người. Năm 2000: tổng số Công nhân viên của Công ty lên tới 226 người trong đó nhân viên quản lý là 3 người. Năm 2001: tổng số Công nhân viên của Công ty là 243 người. Cơ cấu lao động của Công ty Loại lao động Năm 2000 Năm 2001 Số lượng Tỷ trọng Số lượng Tỷ trọng Tổng số CBCNV 226 100 243 100 1. Công nhân sản xuất, trong đó: 188 83,18 201 82,7 + Bặc 2/7 35 40 + Bậc 3/7 42 44 + Bậc 4/7 60 63 + Thợ khác 51 54 2. Lao động gián tiếp, trong đó : 38 16,82 42 17,3 + Đại học 21 23 + Cao đẳng, trung cấp 17 19 Qua bảng trên ta thấy, lực lượng lao động trực tiếp chiếm tỷ trọng lớn của Công ty, năm 2000 chiếm 83,18%; năm 2001 chiếm 82,7% điều này hoàn toàn phù hợp với đặc điểm, tính chất cũng như nhiệm vụ sản xuất của Công ty. Trình độ bậc thợ tăng dần qua các năm, bậc cao chiếm số lượng lớn, điều đó chứng tỏ chất lượng lao dộng tăng lên. Đăc biệt đối với lao động gián tiếp, đó là đội ngũ lãnh đạo chuyên môn nghiệp vụ, thừa hành, phục vụ hành chính, năm 2000 có 38 người, đến năm 2001 lên tới 42 người trong đó 23 ngừơi có trình độ đại học. Như vậy Công ty có đội ngũ quản lý có trình độ cao, đây là một thuận lợi rất lớn giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh mang lại hiệu quả cao. Như vậy với đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, giàu kinh nghiệm, Công ty in Hàng không đã đáp ứng được các yêu cầu sản xuất kinh doanh mà Tổng Công ty Hàng không giao cho cũng như thoả mãn tốt nhất nhu cầu đa dạng phong phú của khách hàng. Công ty in Hàng không nổi lên như điểm sáng về sản xuất kinh doanh của Tổng Công ty Hàng không Việt Nam. Những năm gần đây, sự quan tâm của Công ty đối với người lao động không chỉ là Công ăn việc làm thường xuyên ổn định mà từ Ban giám đốc đến cán bộ Công nhân viên đều được bình đẳng về chính sách đãi ngộ, chế độ bảo hiểm y tế xã hội đã kích thích tinh thần làm việc của Công nhân viên trong Công ty. Công ty đã và đang thực hiện các hình thức đào tạo nhằm nâng cao kiến thức chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ Công nhân viên. Điều đó càng khẳng định rằng Công ty đang vững vàng đi lên cùng với những bước tiến của thời đại. 4.Đặc điểm về máy móc thiết bị và Công nghệ. 4.1.Máy móc thiết bị Là một Công ty chuyên sản xuất các loại sản phẩm in, hệ thống dây chuyền máy móc thiết bị và Công nghệ cho Công ty rất đa dạng. Điều này thể hiện qua bảng sau: Cơ cấu máy móc thiết bị của Công ty Tên thiết bị Xuất xứ Năm đưa vào sử dụng Giá trị còn lại (1000đ) Máy in Moe Đức 1991 0 Máy in Flexo Đức 1993 119.233 Máy in offset SOS Đức 1996 717.454 Máy cắt dán Trung Quốc 1995 13.372 Dây chuyền khăn thơm Đài Loan 1996 810.912 Dây chuyền sản xuất giấy vệ sinh Đài Loan 1993 40.346 Thiết bị chế bản Trung Quốc 1994 79.538 Máy phơi bản Đức 1996 101.014 Máy in offset GTO Đức 1997 819.944 Máy xén giấy Pháp 1997 145.357 Máy nén khí Đài Loan 1994 4.800 Máy in SOZ Đức 1995 1.076.181 Máy phơi bản chân không Pháp 1997 119.203 Máy ghim Đài Loan 1994 4.388 Máy in Typo Trung Quốc 1985 0 Qua bảng máy móc thiết bị của Công ty ta thấy, hệ thống máy móc thiết bị nhìn chung còn tốt nhưng do yêu cầu của sản xuất cũng như tiến bộ khoa học Công nghệ, trong mấy năm gần đây Công ty đã đầu tư nhiều máy móc thiết bị nhưng tình hình thay thế máy mới chưa đồng bộ Công ty chưa thay thế được vì muốn thay thế hệ thống máy móc đòi hỏi vốn quá lớn. Máy móc thiết bị là phương tiện để sản xuất, là điều kiện để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm cũng như đảm bảo hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Do vậy, Công ty phải nghiên cứu kỹ trước khi đầu tư. Kế hoạch sửa chữa, bảo dưỡng cũng phải được thực hiện một cách chu đáo nhằm đảm bảo chất lượng máy móc từ đó góp phần vào việc làm tăng chất lượng sản phẩm, tăng hiệu qủa sản xuất kinh doanh. Hiện nay Công ty in Hàng không có 3 dây chuyền sản xuất chính là dây chuyền in OFFSET, dây chuyền in Flexo, dây chuyền sản xuất giấy. Sản phẩm của 3 dây chuyền này đã và đang đáp ứng được các yêu cầu của thị trường trong và ngoài ngành Hàng không. Cùng với tăng trưởng của ngành Hàng không dân dụng Việt Nam, Công ty in Hàng không từng bước hoàn thiện Công nghệ và nâng cao năng lực sản xuất. Hiện nay Công ty đang thực hiện đầu tư đổi mới dây chuyền in Flexo và mở rộng dây chuyền sản xuất giấy. Đối với dây chuyền in OFFSET, tuy đã hoàn thiện song quy mô còn nhỏ , phần lớn các máy đã khấu hao hết, xuống cấp , thời gian ngừng máy để sửa chữa, bảo dưỡng tăng nên ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất của Công ty. Trong dây chuyền in OFFSET chỉ còn có máy GTO-52.1 đưa vào sử dụng năm 1996 là chưa khấu hao hết và đang khai thác có hiệu quả. Dây chuyền in OFFSET có các loại máy sau: TT Loại máy Nguyên giá (đồng ) Giá trị còn lại 31/12/00 1 Máy in offset 8 trang 800.000.000 - 2 Máy in Offset 4 trang 500.000.000 - 3 Máy in Offset MOE 1.053.475.102 - 4 Máy in Offset SOM 2.181.101.279 - 5 Máy in Offset GTO 1.043.565.158 491.966.433 Nền kinh tế quốc dân nói chung và ngành Hàng không dân dụng Việt Nam nói riêng đang tiến những bước nhảy vọt trong việc hiện đại hoá và tiêu chuẩn hoá các sản phẩm, dịch vụ. Đối với Công ty in Hàng không, là một đơn vị in chuyên ngành của Tổng Công ty Hàng không Việt Nam thực hiện nhiệm vụ sản xuất cung ứng các sản phẩm in và các loại giấy bao bì phục vụ hành khách đi máy bay, các loại sản phẩm này đòi hỏi kỹ thuật in và chất lượng cao, giá rẻ. Mặc dù vốn ít, mặt bằng sản xuất hạn chế nhưng bằng sự phát huy nội lực và được sự hỗ trợ rất lớn của lãnh đạo và các ban ngành của Tổng Công ty Hàng không, năm 2001 vừa qua Công ty in Hàng không đã thực hiện việc đầu tư bổ sung thiết bị mới – thiết bị in OFFSET bốn màu với mục tiêu cụ thể , có hiệu quả đem lại lợi nhuận cho Công ty. Do vậy trong mấy năm qua Công ty luôn đảm bảo sản xuất ổn định, liên tục làm ăn có lãi, giữ vững và từng bứoc mở rộng thị trường , đảm bảo Công ăn việc làm và thu nhập của người lao động. Nhờ có đầu tư vào máy móc thiết bị và ứng dụng Công nghệ in OFFSET, quy định mọi chế độ sửa chữa mà Công ty đã đẩy mạnh sản lượng trang in, sản lượng in loại A tăng nhanh và số lượng sản phẩm không đạt chất lượng giảm xuống. 4.2.Đặc điểm về công nghệ. sơ đồ quy trình Công nghệ sản xuất sản phẩm tài liệu gốc Tách màu điện tử lập Market bình bản chế bản in thành phẩm Loại hình sản xuất sản phẩm của Công ty là kiểu chế biến liên tục, sản xuất hàng loạt và theo đơn đặt hàng. Quy mô sản xuất vừa, sản phẩm có thể taọ ra trên cùng một quy trình Công nghệ, theo cùng một phương pháp song song giữa các loại sản phẩm có các đặc tính khác nhau về thiết kế, kích cỡ, yêu cầu kỹ thuật và về mặt kinh tế. Do đặc điểm cũng như tính chất sản xuất của ngành in, khi hợp đồng được ký kết, khách hàng sẽ giao cho Công ty các tàI liệu gốc ban đầu như: Bản thảo, bản đánh máy, tranh ảnh…Để tạo ra sản phẩm in hoàn chỉnh,quá trình sản xuất phảI trảI qua các bước Công nghệ chủ yuế như sơ đồ quy trình Công nghệ sản xuất sản phẩm. Lập Market: Khi nhận được tài liệu gốc, trên cơ sở nội dung in, bộ phận lập Market sẽ tiến hành bố trí các trang in như tranh ảnh, dòng cột, kiểu chữ, màu sắc, độ đậm nhạt... Tách màu địên tử : Đối với những bản in cần màu sắc (Trừ màu đen) như tranh ảnh mĩ thật, chữ màu phải được đem chụp tách màu điện tử, mỗi màu phải được chụp ra một bản riêng thành 4 màu chủ yếu là xanh, đen , đỏ, vàng. Việc tách màu điện tử và lập Market được tiến hành đồng thời, sau đó cả hai được chuyển sang bước Bình bản. Trên cơ sở Market tài liệu và phim tách màu điện tử Bình bản sẽ làm nhiệm vụ bố trí tất cả các loại chữ, hình ảnh có cùng màu do các tấm mica theo từng trang in. Chế bản khuôn in : Trên cơ sở các tấm Mica do bộ phận Bình bản chuyển sang, chế bản có nhiệm vụ chế bản vào khuôn in nhôm hoặc kẽm sau đó đem phơi bản và sửa bản để in không bị nhoè hoặc lỗi. In : Khi nhận được các chế bản khuôn nhôm hoặc kẽm do bộ phận chế bản chuyển sang, lúc nàycác bộ phận như in Offset, in Laser sẽ tiến hành hàng loạt theo các chế bản khuôn in đó. Thành phẩm: Khi nhận được các trang in của bộ phận in chuyển sang, bộ phần thành phẩm sẽ tiến hành xén, đóng quyển, kiểm tra thành phẩm và đóng gói nhập kho hoặc giao ngang cho khách hàng. Với quy trình Công nghệ sản xuất của mình, Công ty in Hàng không đã sản xuất ra được những sản phẩm đáp ứng các yêu cầu của thị trường trong và ngoài ngành Hàng không đặc biệt là đáp ứng được các yuê cầu về chất lượng sản phẩm, tạo điều kiện cho Công ty ngàng càng có uy tín trên thị trường. 5. Đặc điểm về nguyên vật liệu của Công ty: 5.1. Các loại nguyên vật liệu sử dụng. Công ty in Hàng không sản xuất sản phẩm vừa theo chỉ tiêu kế hoạch vừa theo đơn đặt hàng nên sản phẩm rất đa dạng. Hơn nữa, là sản phẩm của ngành in thì bên cạch yêu cầu về chất lượng giấy tốt, mực tốt, sản phẩn còn phải đáp ứng cả yêu cầu về thẩm mĩ. Chính vì vậy nguyên vật liệu để sản xuất ra sản phẩm có rất nhiều loại bao gồm các loại giấy in, mực in, các loại kẽm, hồ , keo dán, băng dính, dầu mỡ... *Mực in : các loại mực của Nhật như Neuchanpion Apex là các loại mực tốt cho in Offset chất lượng cao, dùng để in những sản phẩn cao cấp như mỹ thuật, tạo màu sắc, rõ net, nhanh khô, có độ liên kết tốt. Loại mực in của Singapor, Mĩ, các liên doanh trong nước cũng đảm bảo giá thành vừa phải, có thể in đa dạng các sản phẩm. Hiện nay Công ty in Hàng không thường xuyên sử dụng các loại mực này *Giấy in : Công ty sử dụng rất nhiều các loại giấy khác nhau để phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Song do tính đặc thù và phục vụ 70% sản lượng cho ngành Hàng không về chứng từ hoá đơn nên nguồn vật liệu gịấy ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33917.doc
Tài liệu liên quan