Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nghiệp vụ giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu tại công ty TNHH Liên Vận Minh Tường

Tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nghiệp vụ giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu tại công ty TNHH Liên Vận Minh Tường: ... Ebook Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nghiệp vụ giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu tại công ty TNHH Liên Vận Minh Tường

doc87 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1483 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nghiệp vụ giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu tại công ty TNHH Liên Vận Minh Tường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT CÔNG NGHỆ TP.HCM KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH bb¶aa LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Đề Tài : MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ NGHIỆP VỤ GIAO NHẬN HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY TNHH LIÊN VẬN MINH TƯỜNG GVHD : Ths. LÊ ĐÌNH THÁI SVTH : VÕ ĐÌNH TUYẾT LAN LỚP : 05DQN MSSV : 105401120 TP.HCM 10/2009 LỜI CẢM ƠN Để có được kết quả như ngày hôm nay, con chân thành biết ơn cha mẹ người đã sinh thành, dưỡng dục, tạo điều kiện cho con có cơ hội được học tập. Cảm ơn quí thầy cô trường Đại Học Kỹ Thuật Công Nghệ TPHCM đã tận tâm truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm quý báu cho em trong suốt thời gian qua. Em chân thành cảm ơn Thầy Lê Đình Thái đã hướng dẫn em hoàn thành Luận Văn Tốt Nghiệp với tất cả tinh thần trách nhiệm và lòng nhiệt thành. Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám Đốc cùng các anh chị trong công ty TNHH Liên Vận Minh Tường đã nhiệt tình giúp đỡ, chỉ dẫn và tạo mọi điều kiện cho em có cơ hội tiếp xúc với thực tế để kiểm tra và nâng cao kiến thức đã học của mình với hoạt động thực tế, học hỏi kinh nghiệm và hoàn thành Luận Văn Tốt Nghiệp này. Qua bốn năm học ở trường kết hợp với quá trình thực tập trong hai tháng qua tại công ty TNHH Liên Vận Minh Tường đã giúp em rất nhiều trong việc tìm hiểu, đi sâu vào thực tế, củng cố những kiến thức đã học ở nhà trường. Việc được nhận thực tập ở công ty TNHH Liên Vận Minh Tường đã là một điều đáng quý và cũng là cơ hội học hỏi rất tốt cho bản thân em trong công việc sau này. Song với kiến thức và thời gian có hạn do đó bài luận văn này chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được những góp ý, nhận xét, đánh giá chân thành từ quý Thầy Cô cũng như từ quý Công Ty. Thành thật biết ơn Sinh viên Võ Đình Tuyết Lan LỜI MỞ ĐẦU ³ Lý do chọn đề tài: Trong thời đại ngày nay, với xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá đang diễn ra sôi động làm cho nền kinh tế các nước trên thế giới có điều kiện để phát triển nhanh chóng. Thị trường thế giới ngày càng trở nên thống nhất và ranh giới giữa các thị thường nội địa ngày càng trở nên mờ nhạt. Các nước có một thị trường rộng lớn để tiêu thụ hàng hoá của họ, làm cho nền sản xuất trong nước không ngừng được mở rộng. Việt Nam đang thực hiện chính sách mở cửa để hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Đây là chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta để thúc đẩy nền kinh tế của đất nước ta phát triển nhanh chóng. Hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới nghĩa là chấp nhận xu hướng hợp tác trong cạnh tranh, đồng thời từng bước học hỏi, nâng cao năng lực và trở thành một bộ phận của thế giới. Muốn việc hội nhập diễn ra thuận lợi, hàng hoá Việt Nam đựơc nhanh chóng đưa ra thế giới thì hoạt động kinh tế đối ngoại trong nước phải phát triển. Một trong những hoạt động của ngành kinh doanh xuất nhập khẩu giúp cho hàng hoá được thông quan dễ dàng từ nước này sang nước khác, làm cho hàng hoá của nước đó nhanh chóng đi đến thị trường nước ngoài để tiêu thụ, đó là hoạt động giao nhận vận tải. Hoạt động này ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của nước ta, một nước đang mở cửa để giao lưu, buôn bán hàng hoá với thế giới. Hàng hoá xuất nhập vào nước ta ngày càng tăng lên với khối lượng lớn thì vai trò của hoạt động giao nhận càng thể hiện rõ. Chính tầm quan trọng đó đã thúc đẩy em chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nghiệp vụ giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu tại công ty TNHH Liên Vận Minh Tường” cho Luận Văn Tốt Nghiệp của mình. ³ Mục tiêu nghiên cứu: Tìm hiểu và đánh giá tình hình kinh doanh, chúng ta có thể rút ra những tồn tại hiện nay tại công ty TNHH Liên vận Minh Tường. Từ đó, đề ra những giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty. ³ Phạm vi nghiên cứu: Chuyên đề đi sâu vào phân tích quy trình giao nhận hàng hoá xuất khẩu bằng container và nhập khẩu hàng lẻ kết hợp với phân tích tình hình hoạt động giao nhận của công ty. Từ đó, rút ra những tồn tại để khắc phục những hạn chế và nâng cao hiệu quả hoạt động giao nhận, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty. ³ Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp tổng hợp và phân tích: thống kê số liệu từ các phòng ban, tập hợp thông tin nghiên cứu từ sách báo, internet … Sau đó phân tích rút ra các kết luận. Phương pháp chuyên gia: tham khảo ý kiến của giáo viên hướng dẫn, và các anh chị trực tiếp thực hiện nghiệp vụ. Phương pháp liên kết: vận dụng các kiến thức đã học phân tích tình hình hoạt động kinh doanh của công ty nhằm đưa ra các giải pháp phù hợp với thực tế. ³ Kết cấu của đề tài: Lời mở đầu Chương 1 : Cơ sở lý luận cơ bản về nghệp vụ giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu. Chương 2 : Tổng quan về công ty TNHH Liên Vận Minh Tường. Chương 3 : Tình hình giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu của công ty TNHH Liên Vận Minh Tường Chương 4 : Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nghiệp vụ giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu tại công ty TNHH Liên Vận Minh Tường Kết luận Kiến nghị CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ GIAO NHẬN HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ GIAO NHẬN HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU 1.1 Tổng Quan Về Nghiệp Vụ Giao Nhận Hàng Hoá Xuất Nhập Khẩu Trên Thế Giới 1.1.1 Khái niệm về dịch vụ giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu Trong buôn bán quốc tế, sau khi hợp đồng được ký kết thì người bán thực hiện trách nhiệm giao hàng cho người mua. Tuỳ theo thoả thuận giữa hai bên mà nghĩa vụ tổ chức vận chuyển hàng được giới hạn mức độ khác nhau. Để thực hiện được trọn vẹn việc vận chuyển hàng từ tay người bán đến tay người mua phải trãi qua hàng loạt công việc như : bao bì, đóng gói, làm thủ tục hải quan, bốc hàng, vận chuyển, chuyển tải, dỡ hàng, giao cho người nhận,…thì những công việc đó gọi là dịch vụ giao nhận. Nhưng để có một khái niệm thống nhất về dịch vụ này, thì hầu như cho đến hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau. Theo Liên Đoàn Hiệp Hội Giao Nhận Quốc Tế FIATA “dịch vụ giao nhận là bất kỳ loại dịch vụ nào liên quan đến việc vận chuyển, gom hàng, lưu kho, bốc xếp, đóng gói hay phân phối hàng hoá cũng như các dịch vụ tư vấn hay có liên quan đến các dịch vụ trên, kể cả vấn đề hải quan tài chính, mua bảo hiểm, thanh toán, thu nhập chứng từ liên quan đến hàng hoá ”. Còn theo điều luật 163 Luật Thương Mại Việt Nam 1997 thì dịch vụ giao nhận hàng hoá là hành vi thương mại, theo đó người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá nhận hàng từ người gửi, tổ chức vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm các thủ tục giấy tờ và các dịch vụ khác có liên quan để giao hàng cho người nhận theo sự uỷ thác của chủ hàng, của người vận tải hoặc của người giao nhận khác (gọi chung là khách hàng). 1.1.2 Sự hình thành và phát triển của nghiệp vụ giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu Dịch vụ giao nhận hàng hoá đã có từ lâu đời trên thế giới và theo thời gian nó cũng phát triển tương xứng với vai trò và vị trí của nó đối với nền kinh tế thế giới nói chung và từng quốc gia nói riêng. Sự hình thành và phát triển của dịch vụ giao nhận trên thế giới gắn liền với sự ra đời và phát triển của quá trình phân công quốc tế. Cách đây gần 500 năm, năm 1552 hãng giao nhận đầu tiên trên thế giới đã xuất hiện ở Baliday, Thuỵ Sỹ với tên gọi là E.VANSAI. Hãng này kinh doanh cả vận tải, giao nhận và thu phí giao nhận rất cao khoảng 1/3 giá trị hàng hoá. Như vậy, giai đoạn đầu dịch vụ giao nhận nằm trong thể thống nhất chưa hình thành nên một đặc trưng chuyên biệt, cũng như chưa trở thành một ngành nghề chuyên nghiệp. Sau đó với sự phát triển của ngành vận tải quốc tế và thương mại thế giới, ngành giao nhận đã tách rời khỏi vận tải và bán buôn trở thành một ngành kinh doanh độc lập. Vì vậy, sự ra đời của dịch vụ giao nhận là một yêu cầu tất yếu khách quan, chính là sản phẩm của quá trình chuyên môn hoá và phân công lao động. Điều đó được chứng minh qua thực tiễn, nhà sản xuất hay nhà nhập khẩu họ tập trung vào lĩnh vực kinh doanh của chính mình là tổ chức việc sản xuất tạo ra sản phẩm và tìm đầu ra cho sản phẩm, cho nên đa phần họ ít chú trọng đảm nhiệm tổ chức cho quá trình lưu thông hàng hoá. Chính vì vậy, họ phải thông qua một người đảm nhiệm công việc tổ chức vận chuyển đưa hàng hoá vào quá trình lưu thông, đưa hàng hoá từ tay người người bán ở nước xuất khẩu đến tay người mua ở nước nhập khẩu. Song bản chất của nhu cầu về dịch vụ giao nhận còn có sự tác động mạnh mẽ của ngành vận tải hàng hoá ngoại thương, đặc biệt là vận tải biển. Ngành vận tải biển ra đời sớm nhất, nó thúc đẩy mạnh mẽ đến sự phát triển của nền thương mại trên thế giới và nó đòi hỏi phải có một lĩnh vực dịch vụ hỗ trợ nó phát triển trên mạng lưới toàn cầu mà bản thân các hãng vận tải không có khả năng về nguồn lực để phục vụ trọn gói quá trình lưu thông hàng hoá. Đồng thời các hãng vận tải cũng phải chịu những quy định giới hạn phạm vi kinh doanh của luật pháp từng quốc gia khác nhau trên thế giới. Trong mối quan hệ biện chứng gắn liền với sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng và phức tạp của mậu dịch trên thế giới và của sự tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ mà dịch vụ ngoại thương không ngừng phong phú về nội dung lẫn hình thức. Lúc ban đầu ra đời, ngành giao nhận chỉ làm một số công việc như : xếp dỡ, lưu kho hàng hoá, làm thủ tục giấy tờ, lo liệu vận chuyển nội địa, thủ tục thanh toán tiền hàng,… Và ngày nay, dịch vụ giao nhận quốc tế còn tổ chức trọn gói cả quá trình lưu thông hàng hoá, cung cấp và đảm bảo đầy đủ các dịch vụ làm gia tăng giá trị hàng hoá như : tư vấn về vận tải, tư vấn về thị trường, cung cấp các dịch vụ hậu mãi,… Đặc biệt trong cuộc cách mạng vận tải đường biển – Container hoá đã mở ra một bước ngoặc mới không chỉ cho ngành vận tải mà còn cho cả lĩnh vực giao nhận hàng hoá quốc tế. Đó chính là sự ra đời của vận tải đa phương thức (Multimodal Trasports Operation) mà ngành giao nhận đã có bước đi đột phá trong lĩnh vực mới - người kinh doanh vận tải đa phương thức đã mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao cho lĩnh vực giao nhận quốc tế nói riêng và nền kinh tế nói chung. Bên cạnh đó ngành giao nhận quốc tế còn phát triển về hình thức tổ chức và đi đến thống nhất, dần dần hình thành tiếng nói chung cho ngành này trên phạm vi toàn cầu. Việc ra đời Hiệp hội giao nhận như Bỉ, Hà Lan, Mỹ,…Đặc biệt là Liên Đoàn Quốc Tế Các Hiệp Hội Giao Nhận năm 1962, gọi tắt là FIATA đã đánh dấu vị trí và tầm cở, đồng thời đảm bảo tính cạnh tranh lành mạnh của nó. 1.1.3 Phân loại hoạt động giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu Tuỳ theo từng cách tiếp cận mà ta có các hình thức giao nhận như : ³ Căn cứ vào phạm vi hoạt động giao nhận ta có : Giao nhận nội địa (giao nhận truyền thống) - Chủ yếu là các khâu nghiệp vụ do chủ hàng trực tiếp thực hiện theo nhiệm vụ của mình được chỉ định trong hợp đồng. - Tổ chức chuyên chở hàng hoá từ nơi này đến nơi khác, từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ, các điểm đầu mối và ngược lại. - Tổ chức xếp dỡ hàng hoá lên xuống các phương tiện vận tải tại các đầu mối vận tải. - Lập các chứng từ có liên quan đến giao nhận hàng hoá vận chuyển nhằm bảo vệ hàng hoá của chủ hàng. - Theo dõi và giải quyết những khiếu nại về hàng hoá trong quá trình giao nhận vận tải đồng thời thanh toán các chi phí có liên quan đến giao nhận hàng hoá. Giao nhận quốc tế : Trừ khi bản thân người giao hàng (Shipper) hoặc người nhận hàng (Consigner) muốn tự mình thực hiện bất cứ thủ tục và chứng từ nào đó. Còn thông thường thì người giao nhận thay mặt chủ hàng lo liệu quá trình vận tải qua các công đoạn. Người giao nhận có thể trực tiếp thực hiện các dịch vụ hay thông qua đại lý của họ hoặc thông qua những người ký hợp đồng phụ. ³ Căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh ta có : Giao nhận thuần tuý là hoạt động thuần tuý chỉ bao gồm việc gởi hàng đi hoặc nhận hàng đến. Giao nhận tổng hợp là hoạt động giao nhận bao gồm tất cả các hoạt động như : xếp dỡ, bảo quản, chuyển chở… ³ Căn cứ vào phương thức vận tải : Giao nhận hàng hoá bằng đường biển. Giao nhận hàng hoá bằng đường hàng không. Giao nhận hàng hoá bằng đường thuỷ. Giao nhận hàng hoá bằng đường sắt. Giao nhận hàng hoá bằng đường ôtô. Giao nhận hàng hoá bằng đường bưu điện. Giao nhận hàng hoá bằng đường ống. Giao nhận hàng hoá bằng đường liên hợp vận tải. ³ Căn cứ vào tính chất giao hàng : Giao nhận hàng riêng là hoạt động của người kinh doanh xuất nhập khẩu tự tổ chức, không sử dụng lao động của dịch vụ giao nhận (giao nhận hàng hoá truyền thống). Giao nhận chuyên nghiệp là hoạt động giao nhận của các tổ chức, công ty chuyên kinh doanh dịch vụ giao nhận theo sự uỷ thác của khách hàng (dịch vụ giao nhận). 1.1.4 Vai trò của dịch vụ giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu đối với nền kinh tế thế giới 1.1.4.1 Thúc đẩy mậu dịch thế giới phát triển Quá trình phân công lao động diễn ra ngày càng sâu sắc thì sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trong nền kinh tế thế giới ngày càng tăng. Thúc đẩy quan hệ mậu dịch quốc tế tăng trưởng và phát triển. Trong đó vai trò của giao nhận vận tải không những làm cầu nối cho mậu dịch quốc tế diễn ra, mà còn kích thích thương mại thế giới tăng trưởng và phát triển. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật trong hoạt động giao nhận vận tải đã tạo ra chiều hướng mậu dịch quốc tế ngày càng thuận lợi hơn. Đó là khoảng cách vận chuyển cũng như chi phí sẽ không còn làm trở ngại cho quá trình lưu thông hàng hoá. Đặc biệt với sự ra đời của vận tải đa phương thức, trong đó các tổ chức giao nhận là người điều hành hoạt động này đã mang lại hiệu quả to lớn cho hoạt động thương mại trên thế giới. Đơn giản hoá thủ tục hải quan cũng như thủ tục hành chính khác, không những làm giảm chi phí, tăng sức cạnh tranh cho hàng hoá ngoại thương mà còn rút ngắn thời gian, đảm bảo an toàn trong vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu. Với tác động tích cực trên, khẳng định sự phát triển của nghiệp vụ giao nhận sẽ trở thành động lực quan trọng thúc đẩy mậu dịch thế giới phát triển ngày càng đa dạng, phong phú hơn, đồng thời tạo lập môi trường thuận lợi cho tự do thương mại toàn cầu diễn ra nhanh chóng. 1.1.4.2 Góp phần rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển của các quốc gia trong nền kinh tế thế giới Giao nhận vận tải đã tạo lập môi trường thuận lợi và động lực phát triển mậu dịch toàn cầu. Giúp các nước có điều kiện khai thác, tận dụng được lợi thế so sánh của mình, cũng như tiếp nhận được nhiều nguồn lực từ bên ngoài. Từ đó, làm cơ sở phát triển lực lượng sản xuất trong nước. Do đó, giao nhận vận tải đã tác động gián tiếp đến trình độ phát triển của quốc gia. Khi lĩnh vực dịch vụ này phát triển đến trình độ cao thì lượng thời gian cần thiết trong lưu thông hàng hoá diễn ra nhanh chống hơn, tận dụng được thời cơ kinh doanh quốc tế. Đồng thời các quốc gia trong nền kinh tế thế giới có điều kiện thuận lợi tiếp thu, trao đổi kịp thời những tinh hoa của nhân loại phục vụ cho nền sản xuất trong nước phát triển. 1.2 Tổng Quan Về Nghiệp Vụ Giao Nhận Hàng Hoá Xuất Khẩu Ở Việt Nam 1.2.1 Sự hình thành và phát triển của nghiệp vụ giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu ở Việt Nam Nghiệp vụ giao nhận hàng hoá xuất nhập ở nước ta được hình thành chậm hơn nhiều so với các nưóc trên thế giới, bởi do những điều kiện kinh tế của nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, nền sản xuất nhỏ mang tính tự cung tự cấp và còn do ảnh hưởng bởi chiến tranh kéo dài. Ngoài ra, do cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, ngành ngoại thương do Nhà nước độc quyền cho nên kìm hãm quan hệ trao đổi mua bán với bên ngoài. Vì vậy, kéo theo sự chậm phát triển của ngành giao nhận vận tải nước ta. Với những lý do trên, nghiệp vụ giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu chỉ được hình thành trong những thập niên gần đây. Ban đầu hình thành, nó mang tính phân tán và hầu như hoạt động đều do chính bản thân các doanh nghiệp tự lo liệu, tự tổ chức vận chuyển chưa hình thành một ngành nghề hay một cơ quan, tổ chức chuyên nghiệp. Để tổ chức vận chuyển lưu thông hàng hoá xuất nhập khẩu, các công ty tự hình thành nên các phòng kho vận, các chi nhánh xuất nhập khẩu hay trạm giao nhận ở các các cảng hay các ga liên vận đường sắt. Khi lực lượng sản xuất trong nước phát triển, hoạt động kinh tế đối ngoại ngày càng tăng thì đòi hỏi Nhà nước phải tổ chức lại cơ cấu quản lý trong lĩnh vực giao nhận vận tải nhằm ngày một đáp ứng tốt hơn cho nền kinh tế nói chung và ngoại thương nói riêng. Với mục tiêu phát huy vai trò và tập trung lại một đầu mối dễ dàng cho việc quản lý, ngành giao nhận đã có sự chuyển biến tích cực, đó là có sự chuyên môn hoá trong lĩnh vực này. Năm 1970, bộ ngoại thương (nay là bộ Công thương) đã thành lập lập hai tổ chức giao nhận : Cục kho vận kiêm tổng công ty giao nhận ngoại thương. Công ty giao nhận đường bộ. Sau đó năm 1976 thì hai tổ chức này sáp nhập lại thành một, đó là Công ty Kho vận Ngoại thương (Vietrans). Với cơ chế tập trung bao cấp, đây là đơn vị duy nhất đảm nhận dịch vụ giao nhận hàng hoá ngoại thương từ sự uỷ thác của nhà xuất nhập khẩu. Vì vậy khẳng định ngành giao nhận chưa phát huy vai trò kích thích ngoại thương trong nước phát triển và còn mang tính độc quyền. Bước sang cơ chế thị trường dưới sự điều tiết của Nhà nước, ngành giao nhận có điều kiện phát triển về quy mô và số lượng. Tính độc quyền đối với ngành nghề này không còn nữa nhiều công ty, tổ chức ra đời hoặc tự bản thân chủ hàng đứng ra hoạt động giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu. Tổ chức kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hoá ngoại thương hiện nay tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau như doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty liên doanh liên kết,… Cho nên ngành giao nhận đã phát triển mạnh về số lượng lẫn chất lượng dịch vụ. Đó chính là quy luật của cạnh tranh mang lại. Ngoài ra, sự ra đời của Hiệp hội giao nhận Việt Nam (1994) (VIFAS) đã tạo điều kiện cho ngành này phát triển ổn định, hạn chế tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các công ty, đồng thời mở ra thời cơ mới cho các doanh nghiệp Việt Nam khi VIFAS hội nhập Hiệp hội giao nhận thế giới (FITAS). 1.2.2 Vai trò của dịch vụ giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu đối với nền kinh tế Việt Nam 1.2.2.1 Thúc đẩy ngoại thương Việt Nam phát triển : Trong xu thế từng nước hội nhập vào mậu dịch tự do khu vực AFTA, APEC và mậu dịch thế giới WTO, vai trò của nền kinh tế đối ngoại hết sức quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế nước ta. Hướng tới đẩy mạnh xuất khẩu tạo nguồn thu ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì vậy để mậu dịch thương mại nước ta phát triển, thì đòi hỏi ngành giao nhận vận tải đủ lớn mạnh để phục vụ cho hoạt động thương mại. Bên cạnh vai trò của ngành giao nhận vận tải là điều kiện cần cho hoạt động thương mại xảy ra mà ngành này còn tạo động lực và thời cơ cho hoạt động thương mại Việt Nam phát triển. Nó không những có chức năng làm di chuyển hàng hoá ngoại thương làm tăng thêm giá trị hàng hoá mà còn thiết lập mở rộng mối quan hệ trao đổi buôn bán ngoại thương. Vai trò của nghiệp vụ giao nhận không chỉ giới hạn trong khuôn khổ như người ta nói “kiến trúc sư vận tải” mà còn đóng vai trò khai thác tìm kiếm thị trường, mở rộng thị phần cho hàng hoá Việt Nam gia tăng xuất khẩu. Ngày nay, việc ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào hoạt động giao nhận ở nước ta đã mang lại hiệu quả thiết thực cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Như hàng hoá được chuyên chở bằng container đường biển, nhất là phương thức kinh doanh vận tải đa phương thức, thực hiện việc giao nhận từ “cửa đến cửa” (Door to Door) đã cắt giảm đi một phần chi phí không cần thiết cho hàng hoá xuất nhập khẩu. Vì vậy với sự ra đời của nhiều phương thức giao nhận mới đã trở thành nhân tố quan trọng thúc đẩy phát triển hoạt động ngoại thương nói riêng và kinh tế đối ngoại nước ta nói chung. 1.2.2.2 Thúc đẩy nền sản xuất trong nước phát triển : Ngành giao nhận vận tải quốc tế tác động rất lớn đến nền sản xuất trong nước. Kích thích năng lực sản xuất trong nước phát triển trong vai trò người thực hiện phân phối hàng hoá đến các thị trường tiêu dùng rộng lớn trên thế giới. Đồng thời là người thực hiện việc cung ứng các nguồn lực cho hoạt động sản xuất trong điều kiện phân công lao động quốc tế như hiện nay. Nó là nhân tố góp phần đảm bảo tính ổn định và tăng trưởng cho nền sản xuất trong nước, đó chính là bàn tay tiếp sức cho việc nắm bắt cơ hội buôn bán quốc tế. Thông qua đó nền kinh tế nước ta mới có thể giữ vững được tốc độ tăng trưởng và đảm bảo được tính ổn định và bền vững. Tạo được thuận lợi trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu. Bên cạnh đó tính ổn định phát triển nhịp nhàng của nền sản xuất trong nước là điều kiện cho ngành giao nhận vận tải phát triển. 1.2.2.3 Phát triển cơ sở hạ tầng : Ngành giao nhận vận tải phát triển tất yếu kéo theo sự phát triển của cơ sở hạ tầng và khoa học kỹ thuật, nhất là cơ sở hạ tầng phục vụ cho vận tải như : hệ thống cầu cảng, sân bay, đường xá… từng bước nâng cấp và xây dựng. Đồng thời phương tiện kỹ thuật phục vụ cho việc chuyên chở, bốc dỡ như : tàu biển, xe cẩu, xe nâng, xe chuyên dụng cũng được cơ giới hoá hiện đại hoá. Vì vậy đòi hỏi phải đẩy mạnh đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng mới có thể đáp ứng tốc độ ngày càng tăng của sản lượng giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu. Nếu không thì nó sẽ tác động ngược lại kìm hãm sự phát triển của hoạt động giao nhận, cũng như gây khó khăn không ít đối với hoạt động thương mại nước ta. 1.2.3 Tình hình giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu thị trường trong nước và xu hướng trong tương lai 1.2.3.1 Đánh giá chung ngành giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu – logistics ở nước ta ³ Về quy mô : Số lượng các công ty giao nhận Việt Nam đang phát triển với tốc độ chóng mặt. Từ một vài doanh nghiệp giao nhận quốc doanh đầu thập niên 1990, nay đã có hơn 2.000 công ty giao nhận hoạt động từ Bắc, Trung, Nam. Theo sở Kế hoạch và đầu tư, hiện nay cứ trung bình mỗi tuần có một công ty giao nhận được cấp phép hoạt động.  Phát triển ồ ạt về số lượng như thế nhưng quy mô phần lớn các công ty giao nhận Việt Nam nhỏ và manh mún.   Vốn nhỏ, trang thiết bị lạc hậu và nhân lực thì đa số chỉ có 10 – 20 người/công ty. Nghiệp vụ chủ yếu của các công ty trong nước chỉ là mua bán cước đường biển, hàng không, khai thuế hải quan, dịch vụ xe tải. Không nhiều công ty đủ năng lực đảm nhận toàn bộ chuỗi cung ứng bao gồm vận chuyển đường bộ, kho bãi, đóng gói, thuê tàu... Trong khi đó các công ty Việt Nam chưa có hệ thống đại lý ở nước ngoài nên thường gặp khó khăn khi khách hàng cần dịch vụ tích hợp từ đường biển, hàng không cho tới đường bộ ở nước ngoài.  Các doanh nghiệp trong nước cho biết, phương thức “bán FOB, mua CIF” của doanh nghiệp xuất, nhập khẩu trong nước khiến cho phần lớn hợp đồng vận chuyển giao nhận rơi vào tay các tập đoàn nước ngoài.   Bên cạnh đó, hàng hoá xuất nhập khẩu phục vụ khối doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng khá, và các công ty này thường sử dụng công ty giao nhận của nước họ. Các công ty Nhật sử dụng Yusen Logistic, Nippon Express… Các công ty Đức trung thành với Kuehne Nagel, Schenker… Doanh nghiệp Việt yếu về áp dụng công nghệ thông tin, trình độ quản lý, tiềm lực về vốn. Vấn đề chia sẻ thông tin giữa doanh nghiệp với nhau thông qua một hiệp hội đủ mạnh. Các công ty logistics của Nhật hoặc Hàn Quốc khi có ý định hoạt động ở Việt Nam đều được các tổ chức như Jetro, Kotra hỗ trợ thông tin thương mại, tiềm năng thị trường… Nếu với Việt Nam, logistics còn là ngành mới mẻ thì đối với nước ngoài, đây đã là ngành dịch vụ có lịch sử lâu đời với nhiều tập đoàn quy mô có bề dày hơn 100 năm.  Với chiến lược phát triển dựa vào xuất khẩu như Việt Nam, đa số các công ty logistics lớn của thế giới có mặt tại Việt Nam từ đầu thập niên 1990. Bắt đầu bằng văn phòng đại diện, các công ty này chuyển sang góp vốn liên doanh rồi là 100% vốn nước ngoài. Một vài công ty logistics lớn trên danh nghĩa vẫn nhờ một công ty Việt Nam làm đại lý. Tuy nhiên mọi hoạt động đều do phía nước ngoài quản lý, các doanh nghiệp Việt Nam thường không can thiệp được nhiều ngoài việc ăn phí đại lý trên mỗi hợp đồng dịch vụ.  Các hợp đồng vận chuyển hoặc cung cấp dịch vụ chuỗi cung ứng tại Việt Nam của các công ty lớn như Nike, Adidas, Nortel, Carrefour… thường về tay các công ty logistics toàn cầu như Kuehne Nagel, Schenker, Panalpina, DHL… Các công ty Việt Nam khó chen chân phần vì chưa có tên tuổi trên thị trường logistics quốc tế, phần vì các cuộc đấu thầu (Tender) hàng năm của các tập đoàn lớn thường diễn ra ở nước ngoài. Các hãng tàu lớn hiện nay có các công ty logistics riêng: APL có APL Logistics, NYK có NYK Logistics, OOCL có OOCL Logistics… Riêng tập đoàn AP Moller ngoài sở hữu hãng tàu Maersk Line ra, họ còn có ba công ty giao nhận đang hoạt động tại Việt Nam là Maersk Logistics, DSL Star Express, Damco. Các công ty logistics của các hãng tàu này thường cung cấp luôn dịch vụ trọn gói cho các khách hàng thuê tàu. Các công ty giao nhận Việt Nam chỉ hoạt động ở phạm vi nội địa là chủ yếu, hoạt động ở phạm vi quốc tế còn rất hạn chế. Chẳng hạn các dịch vụ khai thuế hải quan, dịch vụ gom hàng lẻ, đại lý cho các hãng giao nhận nước ngoài. Vì thế phạm vi hoạt động chủ yếu chỉ có thể diễn ra trên phạm vi lãnh thổ quốc gia như từ CY (Container Yard) to Door (hàng nhập) hợac từ Door to CY (hàng xuất). Trong khi đó xu thế ngày nay trên thế giới, các hãng giao nhận vươn rộng ra phạm vi quốc tế, thiết lập mạng lưới chi nhánh toàn cầu đảm nhận giao nhận Door to Door. Hầu như các công ty giao nhận lớn ở nước ta phần lớn doanh thu đạt được là từ hoạt động đại lý cho các hãng giao nhận nước ngoài. Tức là hoạt động dưới sự chỉ định của các hãng giao nhận nước ngoài, mất quyền chủ động nhận vận chuyển hàng từ phía các nhà xuất khẩu ở Việt Nam. Vì thế các công ty giao nhận nước ta phụ thuộc rất lớn vào họ. Nghiệp vụ giao nhận theo phương thức Door to Door chưa phát triển mạnh. Bởi các công ty giao nhận ở nước ta chưa có chi nhánh ở nước ngoài nhằm thực hiện các công đoạn còn lại là giao hàng đến tận nhà hoặc kho của người nhận ở nước ngoài. Để thực hiện nghiệp vụ giao nhận Door to Door thì phải ký kết hợp đồng đại lý với các hãng giao nhận nước ngoài. Vì vậy mất đi thế chủ động tìm kiếm khách hàng hay giành quyền vận chuyển từ những lô hàng nhập vào Việt Nam. Ngoài ra ta cũng mất đi khoảng ngoại tệ chi trả cho hoạt động đại lý ở nước ngoài. ³ Về cơ sở hạ tầng : Hạ tầng cơ sở logistics tại VN nói chung còn nghèo nàn. Hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông của VN bao gồm trên 17.000 km đường nhựa, hơn 3.200 km đường sắt, 42.000 km đường thuỷ, 266 cảng biển và 20 sân bay. Tuy nhiên chất lượng của hệ thống này là không đồng đều, có những chỗ chưa đảm bảo về mặt kỹ thuật. Hiện tại, chỉ có khoảng 20 cảng biển có thể tham gia việc vận tải hàng hoá quốc tế, các cảng đang trong quá trình container hóa nhưng chỉ có thể tiếp nhận các đội tàu nhỏ và chưa được trang bị các thiết bị xếp dỡ container hiện đại, còn thiếu kinh nghiệm trong điều hành xếp dỡ container. Cảng Việt Nam trong tình trạng quá tải Điểm qua các cảng đóng vai trò chủ lực trong hệ thống cảng biển Việt Nam, có thể thấy rằng ngay các cảng lớn cũng chỉ xếp dỡ hàng hoá là chính, ít cảng đạt tiêu chí của một cảng hiện đại. Chúng ta chưa có quy hoạch đột phá vươn ra biển. Nói về hệ thống cảng biển Việt Nam, các nhà kinh tế cho rằng, vai trò cơ bản của cảng hiện chỉ đáp ứng nhiệm vụ xếp dỡ hàng hoá, hỗ trợ cho công tác xuất nhập khẩu với tư cách là một bộ phận cơ sở hạ tầng quan trọng, song hậu phương của cảng còn rất hạn chế. Theo quan điểm hiện đại, ngoài vai trò cơ bản trên, toàn bộ hệ thống của cảng còn phải thực hiện hoạt động trung chuyển đơn giản và logistics tạo giá trị gia tăng với khu hậu phương cảng tương đối rộng lớn đủ để phục vụ cho tất cả các hoạt động kinh tế thương mại hội nhập. Với vị trí địa lý hết sức thuận lợi và mặc dù đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2010 (theo Quyết định số 202/1999/TTg ngày 12/10/1999) nhưng hơn 6 năm qua, quy hoạch mang tính đột phá này vẫn còn mang nặng tính chắp vá. Xin đơn cử, ở Cảng Hải Phòng, với 4 khu: Hoàng Diệu, Vật Cách, Đoạn Xá và Chùa Vẽ, do hạn chế độ sâu của luồng, tàu có trọng tải lớn hơn 1 vạn tấn đầy tải không thể vào cảng, nên hiện nay vẫn phải tồn tại các điểm chuyển tải trên Vịnh Hạ Long để thực hiện bốc xếp hàng hoá bằng phương thức sang mạn. Ngay cả bến container như Cảng Đình Vũ cũng chỉ cho phép tàu 2 vạn tấn neo đậu làm hàng, tàu trên 3 vạn tấn đều phải chuyển tải từ xa. Cảng Hải Phòng Đường hàng không hiện nay cũng không đủ phương tiện chở hàng (máy bay) cho việc vận chuyển vào mùa cao điểm. Chỉ có sân bay Tân Sơn Nhất là đón được các máy bay chở hàng quốc tế. Các sân bay quốc tế như Tân Sơn Nhất, Nội Bài, Đà Nẵng vẫn chưa có nhà ga hàng hóa, khu vực họat động cho đại lý logistics thực hiện gom hàng và khai quan như các nước trong khu vực đang làm. Khả năng bảo trì và phát triển đường bộ còn thấp, đường không được thiết kế để vận chuyển container, các đội xe tải chuyên dùng hiện đang cũ kỹ, năng lực vận tải đường sắt không đựơc vận dụng hiệu quả do chưa được hiện đại hóa. ³ Về nguồn nhân lực: Hiện nay có khoảng 6000 nhân viên hiện đang làm việc trong lĩnh vực logistics tuy nhiên những người có kinh nghiệm và hiểu biết về luật pháp quốc tế lại không nhiều. Hiện nguồn nhân lực chính cho ngành này đều được lấy từ các đại lý hãng tàu, các công ty giao nhận vận tải biển và sử dụng theo khả năng hiện có. Trong khi đó, đây là lĩnh vực đòi hỏi chuyên gia không những am hiểu hệ thống pháp luật, thông lệ của nước sở tại mà còn phải am hiểu pháp luật và có mối quan hệ rộng khắp trên thế giới. 1.2.3.2 Những cơ hội phát triển ngành giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu ở Việt Nam và xu hướng trong tương lai Trong bối cảnh hội nhập kinh tế, nền kinh tế Việt Nam ngày càng rộng mở, vươn xa tới các nước trên thế giới. Cũng vì thế, Việt Nam đang đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế thông qua những cải cách về cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính, xây dựng hệ thống pháp luật kinh tế và tài chính phù hợp với thông lệ quốc tế. Việc trở thành thành viên chính thức của WTO sẽ đưa Việt Nam thành một quốc gia mở cửa về thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư. Việt Nam có vị trí địa lý rất thuận lợi cho vận tải quốc tế, nằm ở khu vực chiến lược trong vùng Đông Nam Á. Bờ biển trải dài trên 2.000 km, có nhiều cảng nước sâu, các sân bay quốc tế, hệ thống đường sắt xuyên quốc gia và mạng lưới giao thông, đây là quả là một lợi thế tốt cho nghành logistic Việt Nam phát triển. Nếu có định hướng đầu tư đúng đắn thì nghành nghề này sẽ đem lại những lợi ích vô cùng to lớn cho nền kinh tế nước nhà. Kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của T._.ổ Chức Thương Mại Thế Giới WTO thì lượng vốn đầu tư nước ngoài đổ vào Việt Nam ngày càng nhiều, cụ thể là các nguồn vốn ODA nhằm phát triển cơ sở hạ tầng và các nguồn vốn từ các tổ chức phi chính phủ hỗ trợ cho VN ngày càng tăng. Cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động giao nhận – vận tải hàng hóa xuất nhập khẩu ngày càng được cải thiện tốt hơn, tạo hiệu quả cho sự phát triển ngành logistics trong tương lai. Lĩnh vực dịch vụ đang được quan tâm phát triển, hoạt động giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu cũng như logistics đã bắt đầu thu hút sự chú ý của các cấp quản lý Nhà nước cũng như của các DN trong và ngoài nước. Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, biểu hiện rõ nhất là từ tháng 7- 2005 chúng ta đã bắt đầu thực hiện thông quan điện tử thí điểm ở một số địa phương, đến năm 2007 sẽ áp dụng trên toàn quốc. Đây chính là một trong những điều kiện tiên quyết để ngành công nghiệp logistics VN phát triển, đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Theo dự báo, trong tương lai không xa, dịch vụ giao nhận kho vận sẽ trở thành một ngành kinh tế quan trọng tại Việt Nam, đóng góp tới 15% GDP cả nước. Đặc biệt, trong 10 năm tới, khi kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam có thể đạt mức 200 tỉ USD/năm thì nhu cầu sử dụng dịch vụ logistics lại càng lớn. Dự báo, đến năm 2010, hàng container qua cảng biển Việt Nam sẽ đạt từ 3,6 - 4,2 triệu TEU (viết tắt của Twenty - foot Equivalent Units trong tiếng Anh, tức "đơn vị tương đương 20 foot". TEU là đơn vị đo của hàng hóa được container hóa tương đương với một container tiêu chuẩn 20 ft (dài) × 8 ft (rộng) × 8,5 ft (cao), khoảng 39 m³ thể tích). Con số này đến năm 2020 chắc chắn sẽ lên đến 7,7 triệu TEU. Song hành cùng sự phát triển kinh tế là tăng trưởng trong hoạt động xuất nhập khẩu. Do đó, ngành logistics lại thêm nhiều cơ hội phát triển. Theo dự báo của Bộ Thương Mại, trong 10 năm tới kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước sẽ đạt tới 200 tỷ USD. Điều đó cho thấy tiềm năng phát triển dịch vụ logistics Việt Nam còn khá lớn. Những năm gần đây, vận tải biển VN đang có những bước phát triển vượt đáng kể. Hiện 90% hàng hóa XNK được vận chuyển bằng đường biển. Đặc biệt, lĩnh vực vận chuyển container luôn đạt tốc độ tăng trưởng 2 chữ số trong những năm gần đây. Tuy vậy, điều này lại dẫn đến hệ luỵ là VN đang rất cần các cảng nước sâu để có thể thoả mãn được nhu cầu xuất nhập khẩu ngày càng tăng. Tổng khối lượng hàng qua các cảng biển VN hiện nay vào khoảng 140 triệu tấn/năm (năm 2006: 153 triệu tấn), tốc độ tăng trưởng hàng năm trong vòng 10 năm tới theo dự đoán là 20 - 25%. Hiện chính phủ VN và các nhà đầu tư quốc tế đang triển khai một loạt dự án xây dựng các cụm cảng nước sâu như ở khu vực Cái Mép - Thị Vải ở phía Nam cũng như Hải Phòng ở phía Bắc. Các dự án này đang phấn đấu hoàn thành vào năm 2009. Việc dịch chuyển cơ sở sản xuất của nhiều DN nước ngoài từ nơi khác đến VN đã tạo ra cơ hội rất lớn trong việc xây dựng một mạng lưới giao nhận kho vận hoạt động hiệu quả. 1.3 Khái Niệm Người Giao Nhận - Quyền, Nghĩa Vụ, Trách Nhiệm Và Vai Trò Của Người Giao Nhận 1.3.1 Khái niệm người giao nhận Người giao nhận là người kinh doanh dịch vụ giao nhận. Trước đây, người giao nhận (A Frieght Forwarder) chỉ là đại hoa hồng (Commission Agent) thay mặt cho người nhập khẩu thực hiện các công việc thông thường như : bốc dỡ hàng, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục giấy, sắp xếp vận chuyển trong nước, nhận thanh toán tiền hàng cho khách hàng của họ. Người giao nhận có thể là chủ hàng, chủ tàu, công ty bốc dỡ hay kho hàng người giao nhận chuyên nghiệp hoặc bất kỳ người nào khác có đăng ký kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hoá. Vì vậy, theo luật Thương mại Việt Nam người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá phải là một thương nhân có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hoá. Cùng với sự phát triển thương mại quốc tế và tiến bộ kỹ thuật trong ngành vận tải thì dịch vụ giao nhận vận tải cũng được mở rộng hơn. Ngày nay, người giao nhận đóng vai trò rất quan trọng trong thương mại vận tải quốc tế. Người giao nhận không chỉ làm thủ tục hải quan hoặc thuê tàu mà còn cung cấp dịch vụ trọn gói về toàn bộ quá trình vận tải và phân phối hàng hoá. Mặc dù với nhiều tên gọi khác nhau (Đại lý hải quan, Đại lý thanh toán, Đại lý gởi hàng và giao nhận hàng, Người chuyên chở,…) nhưng người giao nhận vẫn là người bán dịch vụ. Người giao nhận uỷ thác giao nhận vận tải trong và ngoài nước bằng các phương tiện vận tải khác nhau với các loại hàng hoá xuất nhập khẩu khác nhau như : hàng nội trợ, hàng triển lãm, hàng ngoại giao, hàng quá cảnh, hàng viện trợ,… Họ làm đầu mối vận tải đa phương thức kết hợp sử dụng nhiều phương tiện vận tải để đưa hàng đi bất cứ nơi nào theo yêu cầu của chủ hàng. Thực hiện mọi dịch vụ có liên quan đến giao nhận vận tải như : lưu cước tàu chợ, thuê tàu chuyến, thuê các phương tiện vận tải khác, mua bảo hiểm, nhận uỷ thác và thu gom hàng hoá xuất nhập khẩu. 1.3.2 Quyền và nghĩa vụ của người giao nhận Điều 167 luật Thương mại Việt Nam quy định người giao nhận có những quyền và nghĩa vụ sau đây : - Người giao nhận được hưởng tiền công và các khoản thu nhập hợp lý. - Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình theo hợp đồng. - Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu có lý do chính đáng vì lợi ích của khách hàng thì có thể thực hiện khác với chỉ dẫn của khách hàng nhưng phải thông báo ngay cho khách hàng. - Sau khi ký hợp đồng, nếu thấy không thể thực hiện được những chỉ định của khách hàng thì phải thông báo cho khách hàng để nhận chỉ dẫn thêm. - Phải thực hiện nghĩa vụ của mình trong thời gian hợp lý nếu trong hợp đồng không thoả thuận về thời gian thực hiện nghĩa vụ với khách hàng. 1.3.3 Trách nhiệm của người giao nhận 1.3.3.1 Khi người giao nhận là đại lý : Phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình theo hợp đồng và phải chịu trách nhiệm về những sơ xuất, lỗi lầm và thiếu sót như : - Giao hàng không đúng chỉ dẫn. - Thiếu sót trong việc mua bảo hiểm cho hàng hoá mặc dù đã có hướng dẫn. - Thiếu sót trong khi làm thủ tục hải quan. - Chở hàng sai nơi đến quy định. - Tái xuất không theo những thủ tục cần thiết hoặc không hoàn lại thuế. - Giao hàng mà không thu tiền từ người nhận hàng. Người giao nhận còn phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại về người hoặc tài sản đã gây ra cho người thứ ba trong hoạt động của mình. Tuy nhiên, người giao nhận không chịu trách nhiệm về hành vi hoặc lỗi lầm của người thứ ba như người chuyên chở hay người giao nhận khác,…mà họ đã thuê để thực hiện hợp đồng vận tải như thể đó là hành vi và thiếu sót của mình. Người giao nhận đóng vai trò là người chuyên chở không chỉ trong trường hợp họ tự vận chuyển hàng hoá bằng các phương tiện vận tải của chính mình mà còn trong trường hợp họ phát hành chứng từ vận tải hay cam kết đảm nhận trách nhiệm người chuyên chở. Khi người giao nhận cung cấp các dịch vụ liên quan đến vận tải như đóng gói, lưu kho, bốc xếp hay phân phối… thì người giao nhận sẽ chịu trách nhiệm như người chuyên chở nếu người giao nhận thực hiện các dịch vụ trên bằng phương tiện và người của mình hoặc người giao nhận đã cam kết một cách rõ ràng hay ngụ ý là : họ chịu trách nhiệm như một người chuyên chở. Tuy nhiên người giao nhận sẽ không chịu trách nhiệm về những mất mát, hư hỏng của hàng hoá phát sinh từ những trường hợp sau đây : - Khách hàng đóng gói và ghi ký mã hiệu không phù hợp. - Do lỗi của khách hàng hay của người được khách hàng uỷ thác. - Do bản chất của hàng hoá. - Do chiến tranh, đình công. - Do các trường hợp bất khả kháng. Ngoài ra người giao nhận không chịu trách nhiệm về mất khoản lợi mà đáng lẽ ra khách hàng được hưởng, về sự chậm trễ hoặc giao nhận sai địa chỉ mà không phải do lỗi của mình. 1.3.3.2 Người kinh doanh vận tải đa phương thức (Multimodal Transport Operator – MTO) Trong trường hợp người giao nhận cung cấp dịch vụ vận tải đi suốt còn gọi là vận tải từ cửa đến cửa (Door to Door) thì người giao nhận đã đóng vai trò là người kinh doanh vận tải đa phương thức (MTO). MTO cũng là người chuyên chở và phải chịu trách nhiệm đối với hàng hoá. Người giao nhận còn được coi là “ kiến trúc sư của vận tải ” vì người giao nhận có khả năng tổ chức quá trình vận tải một cách tốt nhất, an toàn nhất và tiết kiệm nhất. Những lợi ích mà người giao nhận mang lại : ³ Đối với người xuất khẩu : Giảm được nhân sự trong công ty khi việc giao nhận hàng không thường xuyên và không có giá trị lớn. Giảm thiểu được rủi ro đối với hàng hoá và tiết kiệm được thời gian trong lúc thực hiện giao nhận hàng với tàu do không có kiến thức chuyên ngành và kinh nghiệm so với người chuyên nghiệp giao nhận. Thực hiện giao nhận hàng đúng ngày tháng do hợp đồng đã quy định, tránh việc gây chậm trễ làm người nhập khẩu có lý do yêu cầu giảm giá hàng hoặc không thanh toán tiền hàng. Nếu hàng phải chuyển tải ở một nước thứ ba, người giao nhận đảm trách việc nhận hàng từ tàu thứ nhất và tìm cách gửi hàng lên tàu thứ hai để đi dến cảng cuối cùng của người nhập khẩu, mà người xuất khẩu khỏi phải có đại diện ở một nước thứ ba lo việc trên nên đỡ tốn phí. Người giao nhận do thường xuyên tiếp xúc với các hãng tàu nên biết rõ hãng tàu nào có uy tín, cước phí hợp lý, tuổi của tàu, lịch trình đi và đến đảm bảo đúng nhằm hạn chế rủi ro đới với hàng hoá so với người xuất khẩu không chuyên môn về lĩnh vực này. ³ Đối với người nhập khẩu Tương tự như người xuất khẩu, người nhập khẩu cũng giảm bớt được nhân sự và giảm chi phí. Tránh được nhiều rủi ro khi nhận hàng từ tàu, nhất là đối với hàng rời như phân bón, bột mì, xi măng,… vì thủ tục nhận hàng phức tạp. Nếu không nắm vững các thủ tục này, trong trường hợp giao hàng thiếu hoặc hư do tàu bảo quản không tốt, người nhập khẩu sẽ không biết lập các chứng từ liên hệ như : giấy chứng nhận hàng giao thiếu, biên bản hàng đỗ vỡ và hư hỏng, mời bảo hiểm giám định và lập biên bản giám định,… sẽ khó khiếu nại đòi tàu bồi thường hoặc đòi công ty bảo hiểm bồi thường nếu hàng được bảo hiểm. Nhận hàng nhanh để giải toả khỏi kho bãi cảng tránh bị phạt vì lưu kho quá hạn… giúp đưa hàng hoá ra thị trường nhanh chóng. Thay mặt người nhập khậu để bảo vệ quyền lợi của họ bằng cách lập các chứng từ liên hệ để khiếu nại tàu, cảng gây tổn thất đối với hàng. 1.4 Phương Thức Và Nguyên Tắc Giao Nhận 1.4.1 Phương thức giao nhận Là giao nhận hàng hoá giữa người vận chuyển với người nhận hàng. Lúc này người nhận hàng có thể là chủ hàng hay một đại lý giao nhận hàng nào đó. Các phương thức giao nhận hàng hoá là : Giao nhận nguyên bao, nguyên kiện, nguyên bó. Giao nhận nguyên hầm, giao nhận còn cặp chì. Giao nhận theo số lượng, trọng lượng hoặc thể tích. Giao nhận theo mớn nước. Giao nhận nguyên container. 1.4.2 Nguyên tắc giao nhận Người nhận hàng có thể là chủ hàng hay đại diện, đại lý giao nhận. Ở phương thức này có 4 nguyên tắc xảy ra : - Có chứng từ hợp lệ để nhận hàng, thanh toán mọi chi phí cho cảng. - Phải nhận hàng liên tục trong một thời gian ấn định (do thoả thuận giữa cảng và người nhận hàng). - Hàng phải có ký mã hiệu, trừ trường hợp hàng trần, hàng rời, giao nhận theo tập quán thương mại quốc tế. Nếu ký mã hiệu sai sót gây sự nhầm lẫn, chậm trễ cho việc giao nhận hàng hoá giữa cảng và người nhận hàng thì cảng không chịu trách nhiệm. - Nếu bao kiện còn nguyên vẹn, còn seal, chì thì cảng không chịu trách nhiệm về hàng hoá chứa bên trong có hư hỏng hay không hư hỏng, có thiếu hay không thiếu. 1.5 Phương Thức Vận Chuyển Hàng Hoá Vận tải là một hoạt động kinh tế có mục đích của con người nhằm đáp ứng nhu cầu di chuyển vị trí của đối tượng vận chuyển. Đối tượng vận chuyển gồm con người vật phẩm. Ngày nay, do việc phát triển và bành trướng của mậu dịch quốc tế đã làm xuất hiện các phương thức vận chuyển khác nhau làm cho dịch vụ giao nhận trở nên quan trọng, không thể thiếu trong mậu dịch và vận tải quốc tế. Hiện nay Việt Nam cũng như trên toàn thế giới có các phương thức vận chuyển sau : 1.5.1 Phương thức vận chuyển bằng đường thuỷ 1.5.1.1 Phương thức vận chuyển đường biển Vận tải đường biển là một phương thức vận chuyển ra đời sớm nhất. Khi mà khoa học kỹ thuật chưa phát triển ở trình độ cao, khi con người chưa có khả năng sáng tạo ra những chiếc tàu biển hiện đại có trọng tải lớn và tốc độ nhanh như những chiếc tàu biển đang sử dụng để chuyên chở hàng hoá trong buôn bán quốc tế như ngày nay. Thì những ưu thế của đại dương cũng đã được con người tận dụng để thực hiện việc chuyên chở hàng hoá và hành khách giữa các quốc gia trên thế giới với nhau bằng các phương tiện vận tải thô sơ như : tàu thuyền buồm, tàu biển nhỏ chạy bằng động cơ hơi nước. Chỉ từ khi phương thức sản xuất Tư bản chủ nghĩa ra đời, quan hệ buôn bán giữa các quốc gia trên thế giới tăng lên, dung lượng hàng hoá lưu chuyển giữa các nước tăng lên và tất yếu nhu cầu chuyên chở hàng hoá và hành khách tăng lên thì phương thức vận chuyển này có khá nhiều thuận lợi cho người mua lẫn người vận chuyển, người bán nên đã có hơn 90% hàng hoá xuất nhập khẩu được vận chuyển bằng đường biển. Về đặc điểm kinh tế kỹ thuật, phương thức vận tải đường biển có những ưu thế nổi bật sau : - Nổi bật nhất là cước phí vận chuyển đường biển thấp hơn rất nhiều so với các phương thức vận chuyển khác (bằng 1/6 giá cước vận chuyển bằng đường hàng không, 1/3 so với vận chuyển bằng đường sắt…). Đây là đặc điểm mà khiến cho phương thức vận tải bằng đường biển được chú trọng nhất trong buôn bán giữa các quốc gia và trở thành chủ đạo trong buôn bán quốc tế. - Vận chuyển bằng đường biển có thể vận chuyển một lượng hàng lớn, khổng lồ mà các phương tiện vận chuyển khác không thể nào vận chuyển được như vậy. Vả lại việc tổ chức chuyên chở không bị hạn chế, có thể chuyên chở nhiều lần, nhiều chuyến trong cùng một lúc cho cả lượt đi lẫn lượt về. - Trong phương thức vận tải bằng đường biển các tuyến đường hàng hải được hình thành một cách tự nhiên nên không đòi hỏi vốn, nguyên vật liệu, sức lao động để duy trì, bảo quản trừ việc xây dựng các kênh đào và hải cảng. - Thích hợp vận chuyển hầu hết các loại hàng hoá trong thương mại quốc tế. Đặc biệt thích hợp và có hiệu quả là các loại hàng rời có giá trị thấp. - Với phương thức vận tải bằng container ngày càng trở nên thuận lợi, an toàn, nhanh gọn. Bất cứ vấn đề nào cũng có tính hai mặt của nó, hình thức vận chuyển bằng đường biển cũng không ngoại lệ. Vì thế, phương thức vận tải bằng đường biển cũng có những bất lợi sau : - Tốc độ tàu rất chậm, chậm hơn rất nhiều so với các phương tiện vận tải khác. Vì vậy, trong nhiều trường hợp vận tải biển không đáp ứng được khi hàng hoá có nhu cầu vận chuyển nhanh. - Nó phụ thuộc nhiều vào điều kiện khí hậu, thời tiết, các loại tàu biển thường gặp rất nhiều rủi ro như : mắc cạn, đắm. cháy, mất tích… Do vậy trong thương mại quốc tế, để đảm bảo tính an toàn trong kinh doanh, song song với việc thuê tàu vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu là mua bảo hiểm cho lô hàng. 1.5.1.2 Phương thức vận chuyển bằng đường sông : Vận tải đường sông là một bộ phận cấu thành trong hệ thống vận tải thống nhất của nước ta. Với đặc điểm nước ta có nhiều sông, sông quanh sông không bị đóng băng, chạy từ lục địa ra biển nối liền với nhau nên rất thuận lợi cho việc chuyên chở hàng hoá và khách hàng. Hàng hoá vận chuyển bằng đường sông của nước ta rất nhiều : than, xăng, dầu, vật liệu xây dựng, lương thực thực phẩm,… ³ Ưu điểm của hình thức vận chuyển bằng đường sông : Vốn đầu tư xây dựng và phát triển ít tốn kém, các tuyến đường sông là tự nhiên, chi phí bảo dưỡng, vét lòng sông không nhiều. Các công trình cho phục vụ vận tải đường sông không đòi hỏi tốn nhiều nguyên vật liệu như xây dựng đường sắt, đường ôtô. Khả năng vận chuyển tương đối lớn, trên một tuyến đường có thể tổ chức nhiều chuyến tàu. Giá thành vận tải thấp so với các phương tiện vận tải khác. Đó là do vốn đầu tư thấp, tiêu hao nhiên liệu ít, năng suất lao động cao. ³ Nhược điểm của hình thức vận chuyển bằng đường sông Chịu ảnh hưởng lớn của các điều kiện tự nhiên và thời tiết, chuyên chở hàng hoá mang tính chất thời vụ, theo mùa rõ rệt. Tốc độ chuyên chở hàng hoá thấp. Vì những đặc điểm trên mà vận tải bằng đường sông xuất hiện rất sớm nhưng phát triển chậm so với các phương thức vận tải khác. Nó chỉ thích hợp với chuyên chở nội địa. Ngoài ra, nó còn thích hợp với chuyên chở xuất nhập khẩu qua hình thức liên hợp vận tải sông biển hay còn gọi là “điều vận hàng hoá xuất nhập khẩu ”. 1.5.2 Phương thức vận chuyển bằng đường bộ 1.5.2.1 Phương thức vận chuyển bằng đường ôtô Vận tải ôtô là một bộ phận quan trọng của hệ thống vận tải ở nước ta. Vận tải ôtô có nhiệm vụ chuyên chở hàng hoá giữa các trung tâm kinh tế, giữa các xí nghiệp, đưa sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ. Ngoài ra nó còn có nhiệm vụ chuyên chở hỗ trợ cho các phương thức vận tải khác như : vận tải biển, vận tải sắt, vận tải hàng không. ³ Ưu điểm Tính cơ động và tính linh hoạt cao, có thể đáp ứng nhanh chóng nhu cầu chuyên chở hàng hoá bất cứ lúc nào, ít phụ thuộc vào đường xá, bến bãi. ³ Nhược điểm Giá thành cao do tải trọng nhỏ, giá vận tải bằng ôtô cao gấp 10 lần so với tàu hoả. Chi phí đầu tư xây dựng đường xá khá cao. Trọng tải nhỏ nên năng suất lao động trong vận tải ôtô rất thấp. Qua đó ta thấy rằng vận tải ôtô chỉ thích hợp với việc chuyên chở hàng hoá có tải trọng nhỏ, cự ly vận chuyển thấp. 1.5.3 Phương thức vận chuyển bằng đường sắt Đây là phương thức vận tải tương đối hiện đại và rất phổ biến ở tất cả các nước trên thế giới. ³ Ưu điểm Sức chở lớn. Tốc độ tương đối chậm hơn máy bay nhưng hơn tàu biển và đôi khi hơn cả ôtô Có thể chuyên chở hàng hoá quanh năm, bất cứ lúc nào, ít phụ thuộc vào thời tiết khí hậu, có thể chuyên chở liên tục, điều đặn, giờ giấc không giới hạn, có kế hoạch an toàn. Giá thành vận chuyển tương đối thấp, khối lượng hàng hoá càng lớn, vận chuyển càng xa thì càng rẻ. ³ Nhược điểm Chi phí đầu tư xây dựng đướng xá rất cao. Tính chất linh hoạt, cơ động thấp. Nó không có khả năng chuyên chở trực tiếp từ kho đến kho, khó khăn trong việc thay đổi tuyến đường vận chuyển, thời gian chuyên chở. Qua đó ta thấy vận tải đường sắt phù hợp chuyên chở hàng hoá trong phạm vi một nước. 1.5.4 Phương thức vận chuyển bằng đường hàng không Vận tải đường hàng không là một ngành vận tải còn non trẻ. Trước đây nó chủ yếu phục vụ chuyên chở hành khách. Nhưng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, vận tải hàng không mới bất đầu phát triển một cách nhanh chóng, được sử dụng rộng rãi trong phạm vi nội địa cũng như quốc tế. ³ Ưu điểm Tốc độ nhanh, tốc độ khai thác lớn nhất so với các ngành vận tải khác. Nó phục vụ rất tốt cho việc chuyên chở hành khách và hàng hoá, đặc biệt là đối với hàng hoá có giá trị cao, có yêu cầu vận chuyển nhanh. Tuyến đường hoàn toàn tự nhiên, khoảng cách vận chuyển được tính theo đường chim bay, vốn đầu tư không cao, khả năng thông quan không bị hạn chế. ³ Nhược điểm Cước phí vận chuyển cao hơn gấp nhiều lần so với tàu biển (5 – 6 lần), cũng như so với các phương thức vận chuyển khác còn lại. Nguyên nhân giá cước đắc là do chi phí máy bay cao, chi phí khấu hao lớn, trọng tải nhỏ. Phụ thuộc nhiều vào điều kiện khí hậu nên ảnh hưởng nhiều đến lịch trình và tính điều đặn của vận tải hàng không. Sức chở hạn chế, có thể gặp rủi ro, tai nạn gây thiệt hại lớn. Đòi hỏi nhân viên, kỹ sư, phi công có trình độ kỹ thuật cao và giàu kinh nghiệm. Qua đó ta thấy vận tải hàng không thích hợp với việc chuyên chở hàng hoá trên những khoảng cách xa, đến những nơi mà các phương thức vận tải khác không có khả năng thực hiện hoặc có thể thực hiện nhưng gặp nhiều khó khăn. Nó thích hợp chuyên chở hàng lẻ, có giá trị cao, hàng mau hỏng và có nhu cầu vận chuyển gấp. 1.6 Trình Tự Giao Nhận Hàng Hoá Xuất Nhập Khẩu Tại Cảng 1.6.1 Trình tự giao nhận hàng hoá xuất khẩu tại cảng 1.6.1.1 Giao hàng xuất khẩu hàng rời ³ Đối với hàng xuất khẩu cho tàu chợ - hàng rời không nguyên container phải lưu kho bãi tại cảng : có 2 công đoạn chính Người xuất khẩu giao hàng cho cảng bao gồm các công đoạn sau : - Người xuất khẩu giao Bảng danh mục hàng hóa xuất khẩu (Cargo list) và đăng ký với phòng điều độ để bố trí kho bãi và lên phương án xếp dỡ. - Liên hệ với phòng thương vụ để ký hợp đồng lưu kho, bốc xếp hàng hóa với cảng. - Lấy lệ nhập kho và báo với hải quan và kho hàng. - Giao hàng vào kho bãi, cảng. - Làm các thủ tục kiểm nghiệm, kiểm dịch (nếu có), thủ tục hải quan. - Báo cho cảng ngày giờ dự kiến tàu đến ETA (Estimated time of Arrival, tàu đi Estimated of Departure), chấp nhận NOR (Thông đạt sẵn sàng xếp hàng – Notice of Readiness). - Ký hợp đồng xếp dỡ với cảng. Cảng tổ chức xếp hàng và giao hàng cho tàu : - Trước khi xếp phải tổ chức vận chuyển hàng từ kho ra cầu cảng, lấy lệnh xếp hàng, ấn định số máng xếp hàng, bố trí xe công nhân và người áp tải (nếu cần). - Tiến hàng bốc và giao hàng cho tàu. Việc xếp hàng lên tàu do công nhân cảng làm. Hàng sẽ được giao cho tàu dưới sự giám sát của đại diện hải quan. Trong quá trình giao hàng, nhân viên kiểm đếm (Tally man) của cảng sẽ ghi số lượng hàng giao vào bảng Tally report (Bảng kiểm đếm), cuối ngày sẽ ghi vào Daily report (Bảng kiểm đếm hàng ngày) và khi xếp xong một tàu sẽ ghi vào Final report (Bảng kiểm đếm sau cùng). Phía tàu cũng có nhân viên kiểm đếm và ghi kết quả vào Tally sheet (Bảng kiểm đếm). + Khi giao nhận xong một lô hoặc toàn tàu, cảng phải lấy biên lai thuyền phó (Master Receipt) trên cơ sở đó giao cho người xuất khẩu để tiến hành lập vận đơn đường biển (Bill of lading – B/L). + Căn cứ vào số lượng hàng đã xếp ghi trong Tally sheet, cảng và tàu sẽ lập bảng tổng kết xếp hàng lên tàu (General loading report) và hai bên sẽ ký xác nhận vào bảng này kết thúc việc giao nhận hàng với tàu. ³ Đối với hàng xuất khẩu cho tàu chợ - hàng rời không phải lưu kho bãi tại cảng Đây là các loại hàng hóa được để tại kho riêng của người xuất khẩu được vận chuyển đến cảng giao hàng chi tàu không qua các kho của cảng. Các bước tiến hành giao cũng giống như giao hàng qua cảng, chỉ khác là không phải ký hợp đồng thuê kho bãi của cảng (giao tay ba). ³ Đối với hàng xuất khẩu hàng rời theo tàu chuyến Chủ hàng chở thẳng hàng hóa từ kho của mình tới cảng và giao cho tàu theo nguyên tác tay ba : Tàu – cảng – chủ hàng. Chủ hàng khai hải quan và hải quan giám sát trực tiếp việc bốc hàng lên tàu. Đối với hàng có thể kiểm đếm ví dụ gạo đóng bao 50kg, mỗi mã bốc lên là 20 bao - 1 tấn thì tàu và cảng sẽ thực hiện kiểm đếm, chi phí kiểm đếm của tàu thì tàu chịu, chi phí kiểm đếm do cảng thì do chủ hàng (nhà xuất khẩu) chịu. Trong cách giao hàng này thì cuối mỗi ngày nhân viên kiểm đếm của tàu và cảng sẽ thống nhất số lượng thực xếp để là Master Receipt. Việc làm Master Receipt còn là cần thiết khi chủ hàng có thể thuê tàu chở hàng mà có nhiều loại khác nhau, ví dụ chở bắp và chở gạo. Trong thực tế là do việc bốc xếp hàng rời rất dễ giám sát, mặt khác hải quan không thể theo dõi số lượng xếp lên tàu do là hàng rời nên trong thực tế hải quan sử dụng kết quả của cơ quan giám định (giám định mớn nước) để ghi nhận kết quả kiểm hóa (xem chứng thư giám định mớn nước do Bureau Veritas cấp theo yêu cầu của hải quan). ³ Xuất khẩu theo tàu chuyến Tương tự tàu chợ hàng rời, áp dụng giao hàng tay ba : Tàu – Cảng – Chủ hàng. Khi tàu tới thì người xuất khẩu mở tờ khai và chở hàng đến cảng giao cho tàu, lưu ý chi phí xếp dỡ ai chịu. Hải quan xác định số lượng hàng thực xuất trên cơ sở biên bảng giám định. Tàu chuyến bao giờ cũng áp dụng giám định hầm tàu lúc xuất khẩu cũng như lúc nhập khẩu. Người ta thực hiện giám định chủ yếu theo mớn nước. 1.6.1.2 Đối với hàng xuất khẩu đóng trong container ³ Nếu gửi hàng nguyên container (FCL/FCL – Full container load) Quy trình cơ bản bao gồm các công việc : - Người xuất khẩu liên lạc với hãng tàu, thông báo các thông tin về hàng hóa, nơi đi, nơi đến… Hãng tàu sẽ fax cho chủ hàng bảng lịch tàu để chủ hàng chọn chuyến tàu. Sau khi đã thống nhất hàng sẽ đi chuyến tàu nào thì hãng tàu sẽ fax cho chủ hàng Booking note (Bảng đăng ký lưu khoang/lưu cước) để chủ hàng điền vào và đưa cho đại diện hãng tàu hoặc đại lý tàu. - Sau đó hãng tàu sẽ cấp Lệnh giao cont rỗng để chủ hàng mượn và seal (kẹp chì). Chủ hàng hoặc người vận tải thay mặt chủ hàng nhận container phải ký vào phiếu EIR (một dạng của biên bản giao container để quy trách nhiệm khi làm hư hỏng hoặc mất mát container). - Chủ hàng (nhà xuất khẩu) lấy container rỗng về địa điểm đóng hàng của mình. - Chủ hàng (nhà xuất khẩu) vận chuyển và giao container cho tàu tại bãi CY (Container yard – bãi container). - Chủ hàng khai hải quan và đại diện hải quan đến kiểm tra và giám sát việc đóng hàng vào container. Sau khi đóng xong, nhân viên hải quan sẽ niêm phong, kẹp chì container. - Chủ hàng lập Packing list và trao cho hãng tàu để lập B/L. ³ Nếu gửi hàng lẻ không đủ một container (LCL/LCL – less than a container load) có 2 trường hợp : - Gửi hàng thông qua công ty giao nhận với tư cách là người gom hàng (Consolidator) - Gửi hàng trực tiếp cho hãng tàu thông qua bộ phận cung cấp dịch vụ logistics của hãng tàu ví dụ Mearsk logistics (lưu ý rằng trước đây hãng tàu không làm nhiệm vụ gom hàng lẻ, song do sự phát triển của dịch vụ logistics nên hiện nay các hãng tàu đảm đương luôn công việc này). Quy trình cơ bản : Người xuất khẩu gửi Booking note cho hãng tàu hoặc đại lý của hãng tàu, cung cấp cho họ những thông tin cần thiết về hàng xuất khẩu. Sau khi Booking note được chấp nhận, chủ hàng sẽ thỏa thuận với hãng tàu về ngày giờ giao nhận hàng. Người xuất khẩu mang hàng đến giao cho người chuyên chở hoặc đại lý của họ tại trạm CFS (Container frieght station – tram đóng hàng lẻ) của hãng tàu hoặc của người gom hàng (Consolidator/Forwarder) Người xuất khẩu mời đại diện hải quan kiểm tra, kiểm soát và giám sát việc đóng hàng vào container của người chuyên chở hoặc người gom hàng. Sau khi hải quan niêm phong, kẹp chì container, chủ hàng hoàn thành thủ tục giao hàng và yêu cầu cấp vận đơn và chứng từ vận tải. Người chuyên chở xếp container lên tàu và vận chuyển tới nơi đến. 1.6.2 Trình tự giao nhận hàng hoá nhập khẩu tại cảng ³ Đối với hàng hóa dạng hàng rời phải lưu kho, lưu bãi tại cảng có 2 bước : Cảng nhận hàng từ tàu bao gồm các công việc : - Trước khi dỡ hàng tàu hoặc đại lý phải cung cấp cho cảng Manifest (bảng lược khai hàng hóa), sơ đồ hầm tàu để cảng tiến hành các thủ tục cần thiết và bố trí phương tiên dỡ hàng. - Cảng và địa diện tàu tiến hành kiểm tra tình trạng hầm tàu. Nếu phát hiện thấy hầm tàu ẩm ướt, hàng hóa bên trong hầm tàu lộn xộn hoặc bị hư hỏng, mất mát thì phải lập biên bản hai bên củng ký. Nếu tàu không chịu ký vào biên bản thì mời cơ quan giám định lập biên bản mới tiến hành dỡ hàng. - Dỡ hàng bằng cần cẩu của tàu hoặc của cảng và xếp lên phương tiện vận tải để đưa về kho, bãi. Trong quá trình chở hàng, đại diện của tàu cùng cán bộ giao nhận cảng kiểm đếm và phân loại hàng hóa cũng như kiểm tra về tình trạng hàng hóa và ghi vào Tally sheet. - Hàng sẽ được xếp lên xe để vận chuyển về kho theo phiếu vận chuyển có ghi rõ số lượng, loại hàng, số B/L. - Cuối mỗi ca và xếp xong hàng, cảng và đại diện tàu phải đối chiếu số lượng hàng hóa giao nhận và cùng ký vào Tally sheet. - Cảng và tàu ký bào bảng kết toán nhận hàng với tàu (ROROC – Report on receipt of cargo) xác nhận số lượng hàng hoá thực giao so với Manifest và B/L. Lập các giấy tờ cần thiết hoặc biên bản trong quá trình giao nhận như : - Biên bản đỗ vỡ hàng (COR – Cargo outturn report) nếu hàng bị hư hỏng. - Xác nhận hàng thiếu (CSC – Certificate of shortlanded cargo) nếu tàu giao thiếu. Cảng giao hàng cho người nhập khẩu : Khi nhận được thông báo tàu đến, người nhập khẩu phải mang vận đơn gốc, giấy giới thiệu của cơ quan đến hãng tàu để nhận lệnh giao hàng (D/O – Delivery order). Hãng tàu hoặc đại lý giữ lại vận đơn gốc và trao 3 bản D/O cho người nhập khẩu. - Người nhập khẩu đóng phí lưu kho phí xếp dỡ và lấy biên lai. - Người nhập khẩu mang biên lai nộp phí, 3 bản D/O cùng Invoice và Packing list đến văn phòng quản lý tàu để ký xác nhận D/O và tìm vị trí hàng, tại đây lưu 1 bản D/O. - Người nhập khẩu mang 2 bản D/O còn lại đến bộ phận kho vận để làm phiếu xuất kho. Bộ phận này giữ 1 D/O và lưu 2 phiếu xuất kho cho chủ hàng. - Người nhập khẩu tiến hành làm thủ tục hải quan (nộp 1 D/O). - Sau khi hải quan xác nhận “Hoàn thành thủ tục hải quan” người nhập khẩu có thể mang hàng ra khỏi cảng và chở hàng về kho riêng. ³ Đối với hàng không lưu kho, bãi tại cảng Khi người nhập khẩu có khối lượng hàng lớn chiếm toàn bộ hầm tàu hoặc hàng rời, thì người nhập khẩu có thể đứng ra giao nhận trực tiếp với tàu. Trước khi nhận hàng, trước khi nhận hàng người nhập khẩu phải hoàn tất các thủ tục hải quan và trao cho cảng B/L, D/O. Sau khi đối chiếu Manifest cảng sẽ lên hóa đơn cước phí dỡ hàng và cấp lệnh giao thẳng để chủ hàng trình cán bộ giao nhận tại tàu để nhận hàng. Sau khi nhận hàng, người nhập khẩu và người giao nhận ở cảng cùng ký bản tổng kết giao nhận và xác nhận số lượng hàng hóa đã giao nhận bằng phiếu giao hàng trên phiếu xuất kho. Đối với tàu người nhập khẩu vẫn phải lập Tally sheet và ROROC (Bản kết toán nhận hàng với tàu) như trên. ³Đối với hàng nhập bằng container. Nếu là hàng nguyên container (FCL/FCL) - Khi nhận được thông báo tàu đến (Notice of arrival) người nhập khẩu mang B/L gốc và giấy giới thiệu của cơ quan đến hãng tàu để lấy D/O. - Người nhập khẩu mang D/O làm thủ tục đăng ký kiểm hóa, người nhập khẩu có thể đề nghị đưa cả container về kho riêng hoặc trạm thông quan nội địa ICD (Inland clearance deport) kiểm tra hải quan nhưng phải trả vỏ container đúng hạn nếu không sẽ bị xử phạt. - Sau khi hoàn thành thủ tục hải quan, chủ hàng phải mang toàn bộ chứng từ nhận hàng cùng D/O đến văn phòng quản lý tàu tại cảng để xác nhận D/O - Lấy phiếu xuất kho và nhận hàng. Nếu là hàng lẻ (LCL/ LCL) không đủ container (Less than a container load ). Người nhập khẩu mang vận đơn gốc hoặc vận đơn gôm hàng để lấy D/O, sau đó nhận hàng tại CFS và làm các thủ tục như trên. CHƯƠNG 2 TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY TNHH LIÊN VẬN MINH TƯỜNG CHƯƠNG 2 : ._. không và cũng để doanh nghiệp báo cáo đóng thuế, đồng thời cho biết hàng đã thông quan nghĩa là nhập khẩu hợp pháp. Công ty Vietubes sẽ là người nhận lô hàng và người đại diện nhận là nhân viên Master Lines nhận lô hàng có tên bộ chuyển nguồn điện, CS: 08KVA, mã hàng 8504331990, số lượng 1 cái, đơn giá MYR 1,000.00 (xem phụ lục số 13) Sau đó gửi bộ chứng từ khai cho công ty Vietubes ký tên và đóng dấu vào tờ khai và các chứng từ liên quan để khai nhận hàng và gửi lại cho Master Lines kèm theo Invoice, Packing List. Tiếp đến Master Lines sẽ đi khai hải quan hàng nhập khẩu phi mậu dịch. Bộ chứng từ khai hải quan hàng nhập bao gồm: – 2 tờ khai hải quan (1 bản lưu hải quan, 1 bản lưu người khai) (có bảng phụ lục kèm theo nếu số lượng hàng hoá nhập nhiều hơn 7). – Hợp đồng (bản sao) – Invoice (bản chính, bản sao) – Packing List (bản chính, bản sao) – Bill of lading (copy) – Giấy phép (nếu có) ví dụ: hàng miễn thuế, hàng ưu đãi… – 2 phiếu tiếp nhận bàn giao hồ sơ hải quan. Sau khi nộp bộ tờ khai hàng nhập khẩu phi mậu dịch vào cửa khai hàng nhập ở cảng Cát Lái chờ để lấy số thứ tự tờ khai, có số thứ tự tờ khai nhân viên Master Lines điền mã tờ khai 93/NNN vào tờ khai, đánh số thứ tự và ghi số lượng bộ chứng từ vào phiếu tiếp nhận tờ khai, sau đó nộp lại bộ tờ khai cho cửa hải quan hàng nhập và đợi, hải quan sẽ nộp lên cấp trên trong khâu hải quan, nhân viên cấp trên xem xét và phê duyệt vào lệnh hình thức là hàng thuộc mức nào, thông thường có 3 mức trong lệnh hình thức: – Mức 1: hàng miễn kiểm không tính thuế. – Mức 2: hàng miễn kiểm có tính thuế. – Mức 3: hàng kiểm và có tính thuế. Máy tính điện tử sẽ mặc định cho lô hàng thuộc mức nào và lãnh đạo sẽ duyệt lô hàng ở mức nào, kết quả lấy theo lãnh đạo. Nếu lô hàng nhập khẩu thuộc mức 1 thì sẽ lấy tờ khai trực tiếp và đến kho trình manifest, tiếp đến làm phiếu xuất kho và nhận hàng. Nếu lô hàng thuộc mức 2 thì sẽ phân công cho nhân viên tính thuế và báo cho Master Lines đến xác nhận trị giá tính thuế trên tờ khai, Master Lines sẽ nhận lại tờ GATT tính thuế (để đưa lại cho công ty Vietubes đi nộp thuế ở cơ quan thuế) và tờ khai hải quan hàng nhập (bản dành cho người khai) và sau đó cũng đến kho và nhận hàng. Trong lô hàng nhập khẩu phi mậu dịch thì hàng luôn bị đánh ở mức 3 nghĩa là hàng chắc chắn bị kiểm. Ở cửa hải quan hàng nhập có các bảng điện tử , khi cấp trên phê duyệt xong thì mã tờ khai của lô hàng sẽ hiện lên màng hình điện tử và cho biết hàng thuộc mức nào, ai sẽ là người tính thuế và kiểm hàng. Bảng điện tử sẽ hiện mã tờ khai 99/NNN là hàng kiểm, cán bộ kiểm Tú Hoa, cán bộ tính thuế Hữu Trên. Master Lines lấy tờ khai đóng phí khai hải quan hàng nhập là 30.000đ, lệ phí kiểm 12.000đ. Tiếp đến Master Lines qua thương vụ cảng đánh mã số cont/seal MSKU3616042/MLMY0637600-20GP, hệ thống máy tính sẽ hiện lên số cont/seal, consignee Master Lines, hàng đóng ở kho 2, trình house bill và master bill cho nhân viên kho, nhân viên kho tiến hành kiểm tra chứng từ chỉ vị trí hàng và nhân viên kiểm Hữu Trên kiểm tra tình trạng bên ngoài hàng hóa, hàng đóng đúng quy cách, tình trạng bao bì thích hợp, mã hàng hóa, tên hàng hóa đúng với tờ khai và lưu thông tin đó trên tờ khai, ký xác nhận là hàng đã kiểm vào lúc 10h20 ngày 12/3/09. Sau đó Master Lines đến cửa khẩu khai hải quan hàng nhập chuyển đến cho nhân viên tính thuế Tú Hoa, nhân viên tính thuế lô hàng bộ nguồn điện với mức thuế là 26% theo mã tra được có trị giá nộp thuế là 1.208.200đ và thuế giá trị gia tăng 5% có trị giá nộp thuế là 292.761đ, cho ra tổng thuế phải nộp 1.509.981đ và ký nhận đã tính thuế. Master Lines lên kho bạc trong cửa hải quan viết giấy báo nộp tiền, đóng tiền và nhận lại tờ khai. (xem phụ lục số 14) Tiếp đến xuống hải quan giám sát kho 2 nộp 1 tờ khai cộng với 2 lệnh D/O của House bill (xem phụ lục số 15) của Master Lines và 1 lệnh D/O của Master bill của hãng tàu Pacificlink Vietnam để trình Manifest, nhân viên giám sát sẽ đối chiếu các lệnh với tờ khai và ký nhận đã khớp, trả lại cho Master Lines 1 lệnh House, 1 lệnh Master và tờ khai hải quan. Sau đó đến cửa hải quan cấp phiếu xuất kho cũng nộp 1 lệnh House, 1 lệnh Master, giấy đóng thuế, nhân viên sẽ kiểm tra và làm phiếu xuất kho, Master Lines nhận phiếu xuất kho và tờ đơn đóng thuế đến kho và xuất trình phiếu xuất kho và nhân viên kho sẽ kéo hàng cho Master Lines. Master Lines cho đội xe của mình đến kho 2 cảng Cát Lái để vận chuyển hàng cho công ty Vietubes. Xe đến kho cẩu hàng lên xe và chở đi. Khi ra cổng hải quan giám sát Master Lines phải làm thủ tục thanh lý kho xuất trình một lệnh House bill và tờ khai, nhân viên hải quan kiểm tra đối chiếu, gữi lại lệnh và trả tờ khai cho Master Lines, lúc này hàng đã được thông quan và ra khỏi cảng. Cuối cùng Master Lines lập một Delivery Report (xem phụ lục số 16), sau khi đội xe giao hàng tại công ty Vietubes, người đại diện nhận hàng sẽ ký nhận là đã nhận hàng. Master Lines lập hóa đơn tính chi phí dịch vụ cho lô hàng và gửi cho công ty Vietubes, công ty Vietubes có thể thanh toán bằng chuyển khoản hay trả tiền trực tiếp. Đây là toàn bộ quy trình cho một lô hàng nhập. Lưu ý: đối với việc khai hải quan hàng nhập phi mậu dịch hay mậu dịch thì quy trình cũng như bộ chứng từ cần để đi khai và thủ tục nhận hàng là như nhau. Nhưng đối với hàng mậu dịch thì việc đóng thuế sẽ do doanh nghiêp nhập khẩu trực tiếp đóng trên cơ quan thuế dựa theo giá trị tờ GATT mà hải quan tính thuế cho lô hàng nhập đó, còn đối với hàng nhập phi mậu dịch thì việc đóng thuế sẽ đóng tại cảng Cát Lái ở kho bạc đặt tại cảng và trị giá nộp thuế sẽ được tính và in ở mặt sau của tờ khai hải quan trước khi nhận hàng. 3.4 Một Số Thuận Lợi Và Khó Khăn Của Công Ty 3.4.1 Những Thuận Lợi Hoạt động kinh doanh thương mại dịch vụ phát triển mạnh do các nhà đầu tư trực tiếp vào Việt Nam ngày càng nhiều. Trong quá trình kinh doanh, công ty luôn đảm bảo được phương châm “Nhanh chóng – An toàn – Chính xác”. Ngoài ra, công ty cũng đưa ra giá cả cạnh tranh, bảo quản hàng hoá tốt, phục vụ tận tình. Công ty cũng đã có được một lượng khách hàng quen và làm ăn lâu dài với công ty. Bên cạnh đó, công ty xúc tiến tìm kiếm các khách hàng mới, nâng cao chất lượng quá trình đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng giao nhận vận tải. Trong vấn đề thanh toán công ty luôn được các ngân hàng cũng như các hãng tàu tín nhiệm vì tính chính xác và đúng hạn trong thanh toán. Ngoài ra, việc kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu của công ty thuận lợi còn nhờ các nhân tố sau: ¾ Nhờ đội ngũ nhân viên có trình độ nghiệp vụ cao mà công ty đã thực hiện tốt công tác giao nhận hàng hóa bằng container tốt mặc dù đây là phương thức vận triển khá mới mẻ ở Việt Nam. ¾ Sự năng nổ, nhiệt tình của tập thể nhân viên đã giúp cho việc giao nhận hàng hóa của công ty diễn ra nhanh chóng. ¾ Được giám đốc giao quyền linh động giải quyết mọi tình huống phát sinh trong khâu giao nhận khi không có mặt của giám đốc. ¾ Tinh thần trách nhiệm của các nhân viên khi có sai phạm, điều này góp phần làm giảm bớt rủi ro trong quy trình giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu. ¾ Sự phối hợp hài hòa và thống nhất của các nhân viên trong công ty đã giúp cho quy trình giao nhận từ lúc chuẩn bị chứng từ cho đến lúc nhập hàng hay xuất hàng được thực hiện nhanh chóng. ¾ Sự thiếu đoàn kết trong một tập thể sẽ gây ảnh hưởng cho quá trình hoạt động kinh doanh của công ty. Ý thức được điều đó, công ty đã xây dựng cho mình một tổ chức đoàn kết gắn bó, giúp đỡ nhau trong công việc, phối hợp các công việc một cách có trình tự góp phần thúc đẩy công việc được hoàn thành nhanh chóng và góp phần tăng doanh thu cho công ty. ¾ Lãnh đạo luôn lắng nghe ý kiến đóng góp cũng như khuyến khích sáng kiến của cấp dưới, sự quan tâm giúp đỡ và đôn đốc của lãnh đạo giúp cho bộ phận giao nhận luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ và hạn chế rủi ro. 3.4.2 Những Khó Khăn Các chính sách Nhà nước thay đổi liên tục nhất là biểu thuế xuất nhập khẩu nên gây khó khăn cho công ty về cách tính giá dịch vụ và cạnh tranh trên thị trường. Một số chính sách thể chế trong cơ chế quản lý của Nhà nước còn thiếu, chưa cụ thể và chưa nhất quán trong một số lĩnh vực như: tài chính, thuế, hải quan… Thủ tục hải quan có cải cách nhưng chưa thông thoáng để rút ngắn thời gian thông quan hàng xuất nhập khẩu - một số chi phí bồi dưỡng ngoài giờ trong các khâu cung ứng dịch vụ không có chứng từ là điều không thể không có trong quá trình giao nhận hàng hoá của công ty. Về nguồn vốn: nếu so với các công ty quốc doanh, các công ty có vốn đầu tư nước ngoài thì quy mô của công ty không lớn, tiềm lực tài chính chưa thực sự mạnh. Vì thế công tác giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu của công ty có nhiều hạn chế về vốn khi thực hiện các thương vụ lớn. Nguồn vốn kinh doanh còn thiếu so với nhu cầu. Lãi suất ngân hàng còn cao. Nguồn vốn vay chủ yếu là vốn ngắn hạn nên công ty còn gặp nhiều khó khăn trong việc đầu tư dài hạn. Nguồn khách hàng chủ yếu là khách hàng cũ nên khi khách hàng gặp khó khăn trong việc thanh toán thì công ty cũng bị ảnh hưởng. Công ty chưa tìm được nhiều thị trường mới vì chưa có đủ kinh phí. Đối với khách hàng trong nước, sau khi Nhà nước cho phép các doanh nghiệp được xuất khẩu trực tiếp thì lượng khách hàng của công ty cũng đã giảm đi đáng kể làm ảnh hưởng đến doanh thu của công ty. Khách hàng của công ty chủ yếu là khách hàng truyền thống đã giao dịch làm ăn với công ty từ khi mới thành lập mang lại lợi nhuận ổn định cho công ty. Tuy nhiên, do tình hình khủng hoảng tài chính toàn cầu, lạm phát… nên số lượng giảm đi. Công ty cần có biện pháp để lôi kéo và tìm thêm khách hàng mới. Công ty phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh gay gắt với nhiều công ty kinh doanh cùng chức năng do phải đối mặt với hiện tượng giảm giá cước, giành giật khách hàng, chiêu dụ lao động giỏi. Trong lĩnh vực giao nhận đã có nhiều hãng vận tải hàng đầu trên thế giới tham gia vào thị trường Việt Nam, với ưu thế tài chính hùng mạnh, nhiều kinh nghiệm như: NOL, APM, APL, NYK, YML… Các hãng tàu này có điều kiện hoạt động, ưu thế cạnh tranh rất lớn. Đội ngũ nhân viên giao nhận của công ty ít người, do đó khi có nhiều lô hàng thì vô cùng khó khăn, bản thân nghiệp vụ giao nhận của nhân viên vẫn còn nhiều hạn chế. Giá cả nhiên liệu tăng cao cũng ảnh hưởng đến giá thành dịch vụ và khả năng cạnh tranh của công ty. Mặc dù, vẫn còn tồn tại những hạn chế nói trên song công tác giao nhận tại công ty so với tình hình giao nhận vẫn đạt hiệu quả cao về thời gian - chi phí - hiệu quả công việc. CHƯƠNG 4 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ NGHIỆP VỤ GIAO NHẬN HÀNG HOÁ XNK TẠI CÔNG TY TNHH LIÊN VẬN MINH TƯỜNG CHƯƠNG 4 : MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ NGHIỆP VỤ GIAO NHẬN HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY TNHH LIÊN VẬN MINH TƯỜNG 4.1 Một Số Giải Pháp Nhằm Nâng Cao Nghiệp Vụ Giao Nhận Hàng Hoá Xuất Nhập Khẩu 4.1.1 Thiết Lập Quy Trình Giải Quyết Công Việc Khi có nhiều yêu cầu của khách hàng thì công ty cần thiết lập một qui trình thực hiện công việc từ khâu tư vấn khách hàng cho đến khi giải quyết xong những yêu cầu đó. Qua đó công ty có thể hạn chế được việc ứ đọng công việc do nhiều hợp đồng sử dụng dịch vụ. Công ty có thể chia nhỏ qui trình giao nhận hàng hóa nhập khẩu ra nhiều khâu theo sơ đồ sau: Sơ đồ 2 : QUY TRÌNH GIẢI QUYẾT CÔNG VIỆC Tư vấn, tiếp nhận thông tin khách hàng Lên chứng từ Thủ tục hải quan Sắp xếp phương tiện vận chuyển Giao hàng Lập chứng từ thanh toán Ở mỗi khâu công ty cần giao trách nhiệm cho một nhân viên nào đó hiểu rõ về công việc của khâu mình đảm nhận. Việc làm này giúp cho công việc của từng khâu sẽ được tiến hành nhanh chóng mà không bị chồng chéo công việc của từng khâu lên nhau và đạt hiệu quả cao. Đồng thời công ty có thể kiểm sóat được quá trình thực hiên công việc của nhân viên. Công ty cũng cần thiết lập bảng kế họach thực hiện công việc trong từng ngày để biết được những yêu cầu của khách hàng nào cần được hòan thành trước và những yêu cầu nào có thể hoàn thành sau. Việc làm này sẽ làm cho khách hàng cảm thấy mình được đối xử công bằng (ai có yêu cầu trước thì công việc của họ sẽ được ưu tiên giải quyết trước), qua đó tạo thêm thiện cảm của khách hàng. 4.1.2 Chương Trình Đào Tạo Nhân Viên Nguồn nhân lực đối với bất cứ doanh nghiệp dịch vụ nào cũng đều là yếu tố quyết định sự thành công của doanh nghiệp đó trên thương trường, đặc biệt là trong lĩnh vực giao nhận hàng hóa. Do đó, công ty cần thực hiện các chương trình đào tạo nhân viên mới cũng như thường xuyên có những lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho những nhân viên đang làm việc tại công ty. Để công ty luôn có những nhân viên có khả năng hoàn thành công việc tốt nhất theo yêu cầu của khách hàng. Đào tạo lúc mới bắt đầu nhận việc: ¾ Nhân viên mới vào làm việc có thể chưa nắm được những công việc cụ thể mà mình phải thực hiện. Do đó, việc áp dụng đào tạo kèm cặp, hướng dẫn tại chỗ là phù hợp nhất. ¾ Cách thức tổ chức đơn giản nhất là trong quá trình thực hiện công việc nhân viên sẽ quan sát, ghi nhớ, học tập và thực hiện công việc theo cách mà người hướng dẫn đã chỉ bảo. Đối với công việc giao nhận thường thì nhân viên phải làm việc với nhiều hồ sơ xuất nhập khẩu, quy trình thủ tục hải quan khác nhau nên việc chỉ dẫn một cách cặn kẽ và cụ thể cách khai hồ sơ và những quy trình thủ tục hải quan sẽ giúp cho nhân viên mới nhanh chóng tiếp cận cách thức làm việc khi phải thực hiện công việc một mình sau này. Đào tạo nhân viên đang làm việc: ¾ Hình thức đào tạo vừa làm vừa học, công ty sẽ để cho nhân viên được luân chuyển qua nhiều chức danh công việc khác nhau trong một khoảng thời gian để nhằm hiểu biết tổng quát về các công việc của các nhân viên ở các khâu sau, nên họ sẽ có điều kiện tạo nhiều thuận lợi cho các nhân viên khâu sau hoàn thành công việc một cách tốt nhất. Ngược lại nhân viên khâu sau sẽ hiểu được công việc của nhân viên ở khâu trước tạo nên một sự phối hợp nhịp nhàng ăn ý giữa các nhân viên, gắn kết các công việc của nhân viên trở thành một chuỗi mắc xích hỗ trợ tích cực cho nhau nhằm mang lại giá trị cao nhất cho khách hàng, làm tăng khả năng cạnh tranh của công ty. Mặt khác, việc tạo ra các nhóm làm việc luân chuyển một cách hợp lý sẽ giúp cho nhân viên tránh được tình trạng đơn điệu, nhàm chán trong công việc. Đồng thời phương pháp này cũng giúp cho công ty tránh được tình trạng người thì có quá nhiều công việc để làm, người thì lại không có việc dễ gây nên lãng phí nguồn nhân lực. Nó còn giúp cho công ty chủ động trong việc bố trí nhân viên thay thế khi có sự nghỉ việc của các nhân viên khác. 4.1.3 Thực Hiện Chính Sách Động Viên Kịp Thời Và Hợp Lý Công ty cần có những chính sách động viên nhân viên của mình để họ thấy rằng công sức họ bỏ ra đóng góp cho hoạt động của công ty không phải là vô ích. Công ty cần khen thưởng kịp thời những nhân viên có biểu hiện tốt trong công việc của tháng đó. Những món quà, tiền thưởng cùng những lời biểu dương của lãnh đạo sẽ là một nguồn động viên rất lớn đối với nhân viên. Qua đó, tạo cho nhân viên niềm tin và sức mạnh để hoàn thành tốt hơn công việc của tháng kế tiếp. Bên cạnh việc khen thưởng công ty cũng cần có những biệp pháp nhắc nhở hay khiển trách đối với những nhân viên không hoàn thành tốt công việc. Nhưng khi nhắc nhở hay khiển trách, lãnh đạo phải thực hiện với thái độ xây dựng, đóng góp, giúp đỡ nhân viên chứ không phải là thái độ ghét bỏ. Nâng bậc lương hàng năm mặc dù phải tùy thuộc vào tình hình kinh doanh lãi lỗ hằng năm của công ty. Tuy nhiên, để khuyến khích những nhân viên làm việc có hiệu quả, trong một số trường hợp được tăng lương và đề bạc trước hạn là để khuyến khích họ tham gia tích cực hơn vào công việc của mình. 4.1.4 Tăng Cường Việc Ứng Dụng Khoa Học Công Nghệ Và Trang Thiết Bị Hiện Đại Vào Phục Vụ Giao Nhận Và Vận Chuyển Quốc Tế Công ty cần sử dụng phần mềm công nghệ thông tin vào công việc giao nhận và vận chuyển hàng hóa. Hiện nay, trên thị trường có một loại phần mềm phục vụ cho nhu cầu này là “Phần mềm phục vụ giao nhận và vận chuyển hàng hóa quốc tế” đây là sản phẩm của Trung tâm Tin học thuộc ĐH Khoa học Tự nhiên TP HCM. Ưu điểm của phần mềm này là xây dựng được một hệ thống quản lý kế toán tài chính đến nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu quản lý đặc thù của ngành vận tải Việt Nam hiện nay. Chương trình cũng trợ giúp tối đa việc nhập liệu cho kế toán, đặc biệt là kế toán công nợ, lập nhanh các chứng từ, tránh được tình trạng trùng lặp và cung cấp đầy đủ báo cáo tài chính. Trung tâm Tin học cho biết phần mềm giúp người sử dụng theo dõi chi tiết mỗi lô hàng và các phát sinh công nợ theo từng loại nghiệp vụ một cách linh hoạt, thống kê nhanh, cung cấp nhiều tiện ích về tra cứu và kiểm tra dữ liệu, giúp phát hiện các sai sót trong khâu nhập liệu. Chương trình chạy trên môi trường Visual Basic và SQL Server với đầy đủ chức năng bảo mật và an toàn dữ liệu. Hiện công ty vận tải Vinatrans đang vận hành tốt phần mềm này. Hiện nay công ty đang sử dụng một loại phần mềm của công ty INTTRA (như hình bên dưới). Phần mềm giúp công ty booking tàu, xem lịch trình tàu chạy, làm vận đơn…. một cách nhanh chóng. Hiện nay công ty chưa áp dụng hình thức khai hải quan điện tử nhưng cũng đã có kế hoạch sử dụng hình thức này đang chờ cấp trên xem xét và duyệt. Nâng cấp mạng Internet để các bộ phận có thể nhận và trả lời email với khách hàng, xử lý thông tin nhanh chóng và hiệu quả hơn. Nâng cấp các thiết bị văn phòng để hỗ trợ tốt hơn cho các nhân viên khi thực hiện công việc. Công ty cần trang bị phương tiện vận chuyển trong quá trình giao nhận như đội xe chở hàng của công ty. Điều này đòi hỏi tốn kém nhưng bù lại nếu hàng hóa nhiều công ty sẽ tiết kiệm được chi phí thuê xe và giúp cho công tác giao nhận mang tính cơ động và linh hoạt. 4.2 Một Số Giải Pháp Nhằm Nâng Cao Hiệu Quả Hoạt Động Kinh Doanh Của Công Ty ³ Hoàn thiện chính sách chiêu thị Hoạt động kinh doanh của công ty là một loại hình kinh doanh dịch vụ. Sản phẩm của loại hình kinh doanh này thường không cụ thể. Vì vậy, công ty thường rất khó có thể thuyết phục được khách hàng, nhất là những khách hàng lần đầu tiên biết về chất lượng dịch vụ mà công ty cung cấp để họ có thể quyết định sử dụng dịch vụ giao nhận của công ty. Do dó, để thực hiện tốt việc trên công ty cần phải có những chính sách chiêu thị thích hợp. Trong lĩnh vực dịch vụ nơi mà đường ranh giới giữa tiếp thị và hoạt động kinh doanh gần như không bao giờ có thì việc phân tách các trách nhiệm này là rất mơ hồ. Các nhân viên cung cấp các dịch vụ giao nhận của công ty chính là những người thường xuyên tiếp xúc với khách hàng. Do đó, họ đóng vai trò rất quan trọng trong việc tiếp thị dịch vụ giao nhận của công ty. ³ Thiết lập marketing theo nhiều cách tiếp cận khách hàng: ¾ Chủ động hơn trong việc tiếp cận khách hàng bằng cách tổ chức nhân viên sales của công ty theo các cách sau : – Tổ chức tiếp cận theo ngành hay theo hướng vận tải. Mỗi nhân viên sẽ phụ trách một ngành sản xuất hay một tuyến vận tải. Thường xuyên liên hệ với khách hàng nên sẽ hiểu rõ về nhu cầu của khách hàng cũng như nắm bắt được thị trường mà mình phụ trách. – Tổ chức tiếp cận thị trường theo phạm vi lãnh thổ. Mỗi nhân viên sales được phân công phụ trách một số địa bàn nhất định, như vậy sẽ tạo được tính chủ động và trách nhiệm công việc. – Tổ chức tiếp cận khách hàng theo danh mục cụ thể. Mỗi nhân viên sales được giao danh sách một số khách hàng, mục tiêu và nhiệm vụ của nhân viên là phải thường xuyên liên hệ với khách hàng sao cho nhận được sự ủng hộ tối đa từ họ. ¾ Chính sách xúc tiến : – Tăng cường quảng cáo sao cho xây dựng được hình ảnh của một công ty dịch vụ giao nhận vận tải có chất lượng cao, an toàn cho hàng hóa, có tầm hoạt động rộng. Công ty cần đầu tư vào khâu quảng cáo xúc tiến nhằm tạo ấn tượng trong lòng khách hàng về công ty và dịch vụ của công ty. – Công ty có thể đăng quảng cáo trên các trang báo ngoại thương, tạp chí thương mại, Sài Gòn Tiếp Thị, in ấn các Cataloges, Brochue để giới thiệu đến khách hàng. Gia tăng hiệu quả hoạt động quảng cáo trên các trang web thương mại. Chào giá thấp cho những thương vụ lớn, chiết khấu cho các khách quen thuộc. Các biện pháp trên góp phần thông tin đến các doanh nghiệp nước ngoài để họ quyết định thuê dịch vụ của công ty. Từ đó, công ty sẽ gia tăng dịch vụ nhằm tăng doanh thu. – Nhưng công ty cần tránh nâng cao những kỳ vọng của khách hàng ra ngoài tầm với của tổ chức mình. Thu hút nhiều khách hàng mới bằng việc quảng cáo là rất tốt, nhưng nếu quảng cáo bằng những hứa hẹn sai lệch thì khách hàng tất nhiên sẽ bị thất vọng cho sự cách biệt giữa những gì công ty đang cung cấp cho khách hàng và những gì được quảng cáo. – Thiết nghĩ nếu thực hiện được những vấn đề trên thì việc khách hàng lựa chọn dịch vụ của công ty cho những hoạt động kinh doanh của mình là điều rất dễ xảy ra. Qua đó sẽ đem lại hiệu quả kinh doanh ngày càng cao đối với dịch vụ giao nhận của công ty. Tạo mối quan hệ tốt với hãng tàu để tìm được giá cước ưu đãi phù hợp với nhiều tuyến đường thì công ty nên thường xuyên theo dõi lịch trình tàu như thế nào. Công ty sẽ liên hệ trực tiếp với hãng tàu để xin lịch tàu (Shipping Schedule). Nhân viên sales cần phải năng động tìm kiếm, gọi điện để biết rõ lịch trình tàu có phù hợp với tuyến đường và giá cả của khách hàng hay không. Nếu hãng tàu đó cung cấp phù hợp tuyến đường nhưng giá cả hơi cao hơn so với khách hàng đưa ra thì phải nhạy bén liên hệ với các hãng tàu còn lại để tìm ra một giá hài lòng với khách hàng. Tất nhiên là giá hãng tàu đưa ra phải thấp so với công ty chào giá khách hàng. Ngoài việc công ty mua giá cước từ hãng tàu và bán lại cho dịch vụ chuyên chở cho khách hàng, công ty phải tính thêm một số chi phí khác như: thuê phương tiện vận tải, phí làm thủ tục hải quan… mới có thể đạt được doanh thu và mang lại lợi nhuận. Song song với việc tìm giá cước tốt nhất thì nhân viên sales của công ty cần nổ lực, nhanh nhẹn, thể hiện khả năng chuyên nghiệp của mình tìm kiếm được những khách hàng trực tiếp. Vì công ty kí hợp đồng giao nhận với khách hàng trực tiếp thì mới kiếm được lợi nhuận cao, còn khách hàng không phải là khách hàng trực tiếp mà công ty phải mua lại giá cước của một công ty vận tải khác rồi bán lại cho một số khách hàng. Qua nhiều trung gian như vậy giá sẽ không còn nhiều lời, thậm chí gần bằng với giá vốn. KẾT LUẬN Công ty TNHH Liên Vận Minh Tường là một công ty có bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực dịch vụ giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu. Và có thể nói, tình hình giao nhận vận tải hàng hoá tại công ty trong thời gian qua là tương đối hợp lý. Tuy không phải là không có những khó khăn vướng mắc nhưng với sự nhiệt tình của đội ngũ cán bộ nhân viên của công ty, hiệu quả của quá trình giao nhận từng bước được cải thiện và đã góp phần vào hiệu quả hoạt đông kinh doanh chung của công ty. Trong giai đoạn hiện nay, với sự toàn cầu hoá của nền kinh tế thế giới đã đặt công ty đứng trước những cơ hội cũng như những thách thức mới. Cơ hội đó là thị trường rộng lớn với sự cạnh tranh bình đẳng. Thách thức là môi trường kinh doanh ngày càng gay gắt, sự tụt hậu sẽ diễn ra nhanh chóng nếu như không có sự đổi mới kịp thời. Cũng như những doanh nghiệp khác, vấn đề then chốt của công ty hiện nay là làm sao trụ vững, mở rộng và phát triển hơn nữa. Do đó, công ty nên khắc phục những mặt còn tồn tại, có chiến lược tận dụng triệt để những tiềm năng của mình để nâng cao nâng lực cạnh tranh của công ty. Đồng thời tranh thủ nắm bắt những cơ hội của thời đại để thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của công ty. KIẾN NGHỊ ³ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC Hoàn thiện cơ sở pháp lý: hiện nay nhà nước ta chưa có một cơ sở lý luận chung thống nhất cho ngành giao nhận ngoại thương nên công tác giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu chủ yếu thực hiện theo kinh nghiệm, vì thế hiệu quả hoạt động không cao. Các cấp, các ngành, viện nghiên cứu kinh tế, các trường đại học cần phối hợp để đưa ra một cơ sở lý luận chung thống nhất từ quy chế, giảng giải, thực hiện… để tất cả mọi người tham gia hoạt động trong lĩnh vực này tuân theo. Cần cải thiện lại hệ thống giao thông giúp cho hoạt động vận chuyển hàng hoá được nhanh chóng hơn. Trong công tác giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu, cơ quan hải quan là một bộ phận rất quan trọng, mang tính ảnh hưởng quyết định đến tiến độ thực hiện công tác giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp. Thực tế, thủ tục hải quan Việt Nam còn rườm rà, phức tạp gây nhiều trở ngại, khó khăn làm mất nhiều thời gian của các doanh nghiệp, mặt khác còn nhiều kẻ hở tạo điều kiện cho tiêu cực phát sinh. Do đó, để phục vụ các doanh nghiệp tốt hơn cũng như nhanh chóng hội nhập với Thế Giới bên ngoài cần gấp rút cải tiến triệt để quy trình thủ tục này. Hay nói cách khác phải xây dựng hải quan thành lực lượng chuyên nghiệp, có chuyên môn sâu và hiện đại, hoạt động minh bạch, liêm chính và có hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ phát triển kinh tế đất nước. Khối lượng hàng hóa cần thông quan ngày càng nhiều nhưng lực lượng Hải quan còn ít nên nhiều lúc là mất thời gian của doanh nghiệp trong quá trình khai báo làm thủ tục Hải quan vì vậy các cơ quan chức năng Hải quan cần bổ xung thêm lực lượng cán bộ Hải quan, phân công công việc hợp lý tránh ùn tắc hồ sơ. Chống các cán bộ Hải quan hạch sách, phiền nhiễu cho doanh nghiệp. Cần bỏ bớt thủ tục rườm rà để quy trình đươc thực hiện nhanh chóng, tiết kiệm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp. Nên áp dụng công nghệ thông tin hiện đại vào việc đăng ký làm thủ tục Hải quan xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp bởi thông quan. Hiện nay mạng luới của Hải quan còn yếu kém dễ bị rớt mạng do đó cũng là nguyên nhân gây ùn tắc hồ sơ. Hải quan điện tử sẽ giúp mở tờ khai nhanh hơn, hiện nay về mặt này Hải quan còn nhiều yếu kém. Công khai và cung cấp cho doanh nghiệp các văn bản thông tư thay đổi thủ tục Hải quan và lập đường dây nóng để giải quyết kịp thời các phát sinh, vướng mắc. Có biện pháp mạnh để bài trừ tệ nạn nhũng nhiễu tiêu cực tại một số bộ phận trong đội ngũ nhân viên Hải quan. Công tác giao nhận có liên quan đến nhiều ngành nghề khác nhau, cụ thể là ngành vận tải, bảo hiểm, ngân hàng, giám định… Do đó, để tạo điều kiện thuận lợi tốt nhất cho công tác giao nhận hay giúp cho ngành giao nhận phát triển thì không thể không có sự phát triển đồng bộ từ các lĩnh vực khác. ³ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI CÔNG TY Hoàn thiện hơn nữa khả năng kinh doanh qua mạng: Thương mại điện tử là một xu hướng phát triển thương mại trên Thế Giới do đặc tính ưu việt của nó. Thương mại điện tử cho phép công ty nhận biết những thông tin, những văn bản mới, những yêu cầu của khách hàng về tiêu chuẩn dịch vụ giá cả, từ đó công ty có thể điều chỉnh phương án kinh doanh tốt hơn. Tăng cường quảng cáo trên các trang web thương mại vì đây là thị trường lớn có nhiều tiềm năng. Tham gia vào tổ chức hiệp hội kinh doanh chuyên ngành: Việc này giúp cho công ty kịp thời nắm bắt thông tin, cập nhật quy chế, chính sách nhà nước cũng như hưởng các ưu đãi dành riêng cho thành viên hiệp hội. Tham gia vào tổ chức cũng giúp cho công ty giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh, tiếng nói của doanh nghiệp cũng là tiếng nói của hiệp hội. Ngoài ra, môi trường thân mật và sôi nổi của hiệp hội cũng giúp cho doanh nghiệp mạnh dạn đề ra những ý kiến, vướng mắc khó khăn để nhận được những đóng góp chân thành và có ích từ các thành viên khác. Đây còn là dịp các doanh nghiệp giao lưu trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau về chuyên ngành kinh doanh và hợp tác làm ăn. Trong nội bộ công ty: Hoạt động giao nhận tuy không phức tạp về mặt nghiệp vụ nhưng thực tế nó đòi hỏi cán bộ giao nhận phải có nhiều nổ lực vượt qua những thiệt thòi nhất định khi đảm trách công việc này. Trong nhiều trường hợp mỗi khi có lô hàng xuất đi hay nhập về nhân viên giao nhận khi tiến hành thủ tục xuất nhập khẩu thường phải mất rất nhiều thời gian cho việc lo các thủ tục, các loại chứng từ và không kể cả việc chờ đợi qua ngày. Nhiều lúc do yêu cầu công việc mà người giao nhận phải chấp nhận làm việc theo những giờ giấc bất thường. Chính vì điều đó mà nhân viên giao nhận trở nên ít có cơ hội để trao dồi, nâng cao trình độ nghiệp vụ và cơ hội thăng tiến. Công ty nên có chính sách đãi ngộ thích đáng đối với nhân viên giao nhận. Chẳng hạn như: tuỳ theo khối lượng công việc và tính chất phức tạp của từng lô hàng mà công ty có thể trích thưởng phù hợp với những đóng góp của nhân viên giao nhận. TÀI LIỆU THAM KHẢO ³ Sách tham khảo : GS.TS VÕ THANH THU- KỸ THUẬT KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU – NXB THỐNG KÊ 01/2005 TS LÊ VĂN BẢY – GIÁO TRÌNH BÀI GIẢNG – NĂM 2008 TS HÀ THỊ NGỌC OANH – GIÁO TRÌNH KỸ THUẬT KINH DOANH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ - NXB THỐNG KÊ – NĂM 2004 ³ Luận văn tốt nghiệp : NGUYỄN THỊ THU NGA – NĂM 2005 - TRƯỜNG ĐH KỸ THUẬT CÔNG NGHỆ TP.HCM CAO THỊ HỒNG THƠ – NĂM 2002 - TRƯỜNG ĐH KỸ THUẬT CÔNG NGHỆ TP.HCM NGUYỄN PHÚ CƯỜNG – NĂM 2004 - TRƯỜNG ĐH KINH TẾ TP.HCM ³ Trang web : www.mot.gov.vn ( BỘ THƯƠNG MẠI ) www.customs.gov.vn ( TỔNG CỤC HẢI QUAN ) www.vneconomy.com.vn ( THỜI BÁO KINH TẾ VIỆT NAM ) www.mof.gov.vn ( BỘ TÀI CHÍNH VIỆT NAM ) www.vienkinhte.hochiminhcity.gov.vn www.vnexpress.net ³ Tài liệu từ công ty : Hồ sơ thành lập công ty Bảng báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của công ty năm 2007- 2008 Các tài liệu và chứng từ khác PHỤ LỤC PHỤ LỤC SỐ TÊN PHỤ LỤC 1 SHIPPING NOTE 2 LỆNH CẤP CONTAINER RỖNG 3 TỜ KHAI HẢI QUAN HÀNG XUẤT 4 PHỤ LỤC TỜ KHAI HẢI QUAN HÀNG XUẤT 5 COMMERCIAL INVOICE 6 PACKING LIST 7 BILL DETAIL 8 BILL OF LADING ( CIFF ) 9 BILL OF LADING ( MERCURY – HOUSE BILL ) 10 BILL OF LADING ( MASTER BILL ) 11 GIẤY BÁO NHẬN HÀNG 12 LỆNH GIAO HÀNG 13 TỜ KHAI HQ XUẤT KHẨU/NHẬP KHẨU PHI MẬU DỊCH 14 GIẤY NỘP TIỀN VÀO NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC BẰNG TIỀN MẶT 15 LỆNH GIAO HÀNG 16 DELIVERY REPORT SƠ ĐỒ 1 SƠ ĐỒ TỔ CHỨC SƠ ĐỒ 2 QUY TRÌNH GIẢI QUYẾT CÔNG VIỆC BIỂU ĐỒ 1 BIỂU ĐỒ CƠ CẤU DOANH THU NĂM 2007 BIỂU ĐỒ 2 BIỂU ĐỒ CƠ CẤU DOANH THU NĂM 2008 BIỂU ĐỒ 3 BIỂU ĐỒ CƠ CẤU CHI PHÍ NĂM 2007 BIỂU ĐỒ 4 BIỂU ĐỒ CƠ CẤU CHI PHÍ NĂM 2008 BẢNG 1 MỘT SỐ CHỈ TIÊU KẾT QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÔNG TY TRONG 2 NĂM 2007 VÀ 2008 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVODINHTUYETLAN.doc