Lời mở đầu
Hoạt động thương mại quốc tế với nội dung chủ yếu là xuất nhập khẩu chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.Xuất Nhập khẩu cho phép khai thác tiềm năng thế mạnh của các nước trên thế giới và thúc đẩy quá trình sản xuất trong nước phát triển kịp với trình độ chung của thế giới.
Nước ta đang trong quá trình đổi mới, nhiều nhà máy và công trình lớn được xây dựng. Song song với việc xây dựng ngày càng phát triển đã làm cho nhu cầu về máy móc thiết bị cũng tăng lên. Nhận thức
72 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1403 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh Nhập khẩu máy móc thiết bị tại Công ty XNK Lắp máy thuộc Tổng Công ty Lắp máy Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được vấn đề này, Nhà nước đã cho phép Công ty XNK lắp máy thuộc Tổng công ty lắp máy Việt Nam nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ cho ngành lắp máy nói riêng và cho đất nước nói chung. Có thể nói rằng nhập khẩu máy móc thiết bị đã kịp thời đáp ứng được phần nào nhu cầu về xây dựng và lắp máy trong nước, giữ cho ngành lắp máy kinh doanh ổn định và phát triển.
Qua thời gian thực tập tại Công ty XNK lắp máy, được sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo hướng dẫn và cơ quan thực tập, tôi đã tập trung nghiên cứu đề tài: “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu máy móc thiết bị tại Công ty XNK lắp máy thuộc Tổng công ty lắp máy Việt Nam”.
Do thời gian hạn hẹp và trình độ của người viết còn hạn chế nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự đóng góp, giúp đỡ của các thầy cô giáo và các bạn sinh viên để đề tài này được hoàn thiện.
Xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của tiến sĩ: Lê Công Hoa cùng các thầy cô khoa QTKDCN&XDCB, xin cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của Ban giám đốc và cán bộ Công ty XNK lắp máy đã giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài này.
Chương I
nội dung và yêu cầu đối với quản lý nhập khẩu của doanh nghiệp
I/ Sự cần thiết của việc nhập khẩu hàng hoá, máy móc thiết bị đối với nền kinh tế Việt Nam.
1./ Xuất phát từ sự cần thiết của việc nhập khẩu hàng hoá,máy móc thiết bị ở nước ta hiện nay
Bất cứ nơi nào có hoạt động thương mại mà đặc biệt là thương mại quốc tế hoạt động mạnh thì những nơi đó có nền kinh tế sản xuất hàng hoá phát triển, tuy nhiên vấn đề này không phải lúc nào cũng được quán triệt đầy đủ, áp dụng triệt để. Nước ta và một số nước khác trên thế giới cũng có lúc xem độc lập kinh tế, xây dựng một nền kinh tế tự cung tự cấp như là một yêu cầu khách quan để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Thực tế và lý luận đã chứng minh rằng không một quốc gia nào dù giàu có như Mỹ , Trung quốc hay Nhật … có đủ sức xây dựng một nền kinh
tế tự cung tự cấp vì nó vô cùng tốn kém cả về vật chất lẫn thời gian.
Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp đổi moứi nền kinh tế, xoá bỏ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Nhập khẩu là một trong hai hoạt động cấu thành của nghiệp vụ ngoại thương, xuất nhập khẩu là một mặt không tách rời của hoạt động thương mại quốc tế. Có thể hiểu đơn giản đó là sự mua hàng hoá và dịch vụ từ nước ngoài phục vụ cho nhu cầu trong nước hoặc tái sản xuất mở rộng nhằm mục đích kinh tế - lợi nhuận. Nhập khẩu thể hiện sự gắn bó với nhau giữa nền kinh tế của một nước với nền kinh tế thế giới, nó cũng quyết định sống còn đối với nền kinh tế. Vị trí này đã được khẳng định cùng với sự phát triển và đặc biệt trong tình hình thế giới hiện nay là xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá đang ngày càng được nhân rộng thì vai trò của nhập khẩu đã trở nên rất quan trọng và cụ thể:
- Nhập khẩu mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước, cho phép tiêu dùng một lượng hàng hoá nhiều hơn khả năng sản xuất trong nước làm tăng mức sống của nhân dân.
- Nhập khẩu làm đa dạng hoá mặt hàng về chủng loại, qui cách cho phép thoả mãn các nhu cầu trong nước.
- Nhập khẩu tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao công nghệ, do đó tạo ra sự phát triển vượt bậc của nền sản xuất xã hội, tiết kiệm chi phí và thời gian, tạo ra sự đồng đều về trình độ phát triển xã hội.
- Nhập khẩu tạo ra sự cạnh tranh của hàng hoá nội và ngoại tức là tạo ra động lực bắt buộc của các nhà sản xuất trong nước phải không ngừng vươn lên, tạo ra sự phát triển xã hội và sự thanh lọc các đơn vị sản xuất.
- Nhập khẩu xoá bỏ tình trạng độc quyền, phá vỡ triệt để nền kinh tế đóng, chế độ tự cung tự cấp đồng thời giải quyết được nhu cầu các loại hàng hoá trong nước không sản xuất được.
- Nhập khẩu là cầu nối thông suốt nền kinh tế, thị trường trong và ngoài nước với nhau, tạo điều kiện cho phân công lao động và hợp tác quốc tế, phát huy được lợi thế so sánh của đất nước trên cơ sở chuyên môn hoá.
Trong thời đại ngày nay, hoạt động kinh doanh đối với mặt hàng nhập khẩu đang giữ vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển nền kinh tế quốc dân. Nâng cao hiệu quả thương mại đối với lĩnh vực nhập khẩu là một việc làm cấp bách mang tính thời sự to lớn.
Đảng ta đã chỉ rõ nhiệm vụ ổn định và phát triển trong chặng đường đầu tiên cũng như sự phát triển khoa học kỹ thuật và công nghiệp hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta tiến hành nhanh hay chậm phụ thuộc vào phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Thông qua việc phát triển kinh doanh các mặt hàng nhập khẩu thì chúng ta mới có điều kiện mở mang dân trí, tiếp thu các tiến bộ khoa học mới đem ứng dụng vào trong sản xuất và đời sống. Có làm như vậy chúng ta mới kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trên cơ sở phân công lao động quốc tế, hợp tác và liên kết kinh tế quốc tế đẩy mạnh sự kết hợp giữa công nghiệp với cuộc sống văn minh của nhân loại, nhằm tạo đIều kiện khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng và thế mạnh của đất nước.
Nước ta khuyến khích nhập khẩu những mặt hàng trong nước không sản xuất được. Việc nhập khẩu hàng hoá đã tạo ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các mặt hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước. Do đó, các doanh nghiệp trong nước muốn tồn tại và phát triển thì phải có chiến lược phát triển cho phù hợp.
2./ Xuất phát từ yêu cầu hiện đại hoá cơ sở hạ tầng kỹ thuật của nền kinh tế
Việt Nam tiến lên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với cơ sở hạ tầng còn lạc hậu và yếu kém. Cơ sở hạ tầng của Việt Nam hầu hết được xây dựng từ trước năm 1980, các nhà máy sản xuất công nghiệp đã quá cũ và số lượng rất hạn chế, không còn đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước. Mặt khác, Việt nam muốn thu hút được các nguồn vốn đầu tư FDI và ODA, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đến làm ăn tại Việt Nam, không còn cách nào khác là phải xây dựng lại cơ sở hạ tầng cho thật tốt, hiện đại, xây dựng thêm các công trình lớn như đường Hồ Chí Minh (đã khởi công ngày 04/04/2000) và các nhà máy thuỷ điện để phục vụ cho việc phát triển kinh tế đất nước. Có như vậy chúng ta mới có khả năng nâng cao thu hút vốn đầu tư trên cơ sở lợi thế so sánh về nhân công. Hơn nữa, chỉ khi chúng ta có cơ sở hạ tầng tốt, hiện đại thì chúng ta mới có thể phát huy được hết mọi nguồn lực trong xã hội, nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
3./ Thực trạng phát triển công nghiệp chế tạo máy móc ở nước ta.
Bức tranh chung về tình hình chế tạo máy móc của nước ta là hết sức ảm đạm. Hàng loạt các nhà máy làm ăn thua lỗ bị đóng cửa, công nhân bị nghỉ việc hoặc chuyển sang ngành nghề kinh doanh khác. Số doanh nghiệp còn tồn tại chỉ sản xuất cầm chừng. Sản phẩm cơ khí làm ra thì hết sức đơn giản, chất lượng không bảo đảm. Cho đến nay chúng ta mới chỉ chế tạo được các máy móc công cụ nhỏ, hàm lượng chất xám trong sản phẩm ít.
Danh mục máy móc được sản xuất ở nước ta:
Tên máy
1998
1999
2000
Máy công cụ
1.235
844
1.288
Máy bơm thuỷ lợi
412
330
360
Máy kéo bông sen
2.279
770
2.500
Bơm thuốc trừ sâu
47
53
...
Máy tuốt lúa
39.461
30.153
30.250
Máy xay xát gạo
657
706
820
Máy nghiền thức ăn gia súc
483
624
...
(Nguồn: Tài liệu của Bộ công nghiệp)
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên:
- Các nhà máy cơ khí có trang thiết bị máy móc hết sức nghèo nàn, lạc hậu và không đồng bộ. Phần lớn các máy móc này đều được sản xuất cách đây 25 năm, công nghệ của Liên Xô cũ và các nước Đông Âu. Với trang thiết bị như vậy thì các nhà máy cơ khí không thể có khẳ năng sản xuất các máy móc và dây chuyền hiện đại phụcvụ cho nền kinh tế sản xuất hàng hoá nói chung và ngành lắp máy nói riêng.
- Thiếu vốn để hoạt động sản xuất là vấn đề rất khó khăn đối với các nhà máy này. Trước kia, làm ăn bao cấp thì vốn kinh doanh do ngân sách Nhà nước cấp. Nay, hoạt động theo cơ chế thị trường, tự hạch toán kinh doanh lỗ lãi, sản xuất lại không hiệu quả nên các nhà máy cơ khí không được hoặc khó khăn trong việc vay vốn Ngân hàng.
- Đội ngũ công nhân kỹ thuật vừa thừa vừa thiếu. Thiếu các công nhân kỹ thuật có tay nghề cao, thừa các công nhân kỹ thuật có tay nghề kém nên năng suất lao động không cao, lương thấp.
Do ngành chế tạo máy móc trong nước không sản xuất được nên phần lớn các trang thiết bị máy móc phục vụ cho ngành lắp máy đều phải nhập khẩu. Trước kia, các loại máy móc nhập khẩu chủ yếu từ Liên Xô cũ và các nước Đông Âu. Qua thời gian sử dụng dài nên các máy móc thiết bị đều đa hỏng hóc, tính năng kỹ thuật không đảm bảo. Hơn nữa, nhiều máy đã lạc hậu. Vì vậy, không thể đáp ứng được cho ngành lắp máy ở Việt Nam hiện nay.
4./ ý nghĩa kinh tế – xã hội của nhập khẩu máy móc thiết bị
Như đã phân tích ở trên, nhu cầu xây dựngcơ sở hạ tầng để phát triển kinh tế ở Việt Nam là hết sức cấp bách. Trong khi đó các máy móc trang thiết bị ở Việt Nam lại cũ kỹ và lạc hậu không đáp ứng được nhu cầu. Đứng trước thực trạng như vậy, việc nhập khẩu máy móc thiết bị là hết sức cần thiết.
Việc nhập khẩu máy móc thiết bị là hoàn toàn phù hợp với đường lối phát triển kinh tế của đất nước: Nhập khẩu phải đi trước một bước, phục vụ cho ngành sản xuất vật chất ... Nhập khẩu phải giúp thay đổi cơ cấu sản xuất với phương châm đón đầu các công nghệ hiện đại.
Xét trên tổng thể hai mặt kinh tế - xã hội thì nhập khẩu máy móc thiết bị đều mang lại lợi ích cho nền kinh tế quốc dân.
* Về mặt kinh tế: Nhanh chóng tiếp thu được máy móc, công nghệ hiện đại từ nước ngoài vào sản xuất trong nước, tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng được các nhu cầu tiêu dùng trong nước.
* Về mặt xã hội: Đã tao được công ăn việc làm cho hàng ngàn người trong ngành lắp máy Việt nam nói riêng và cho toàn xã hội nói chung. Đây là việc làm hết sức thiết thực, có ý nghĩa xã hội to lớn, nó đã làm giảm tỷ lệ thất nghiệp của nước ta và phần nào làm ổn định được đời sống xã hội.
II. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động nhập khẩu máy móc thiết bị trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
1./ Các chế độ, chính sách, luật pháp quốc tế.
Đây là yếu tố mà các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu buộc phải nắm rõ và tuân thủ một cách vô điều kiện, bởi vì nó là sự thống nhất chung của quốc tế trong đó có Việt Nam. Hoạt động nhập khẩu được tiến hành giữa các chủ thể ở các quốc gia khác nhau bởi vậy nó chịu sự điều chỉnh của các quốc gia đó. Do đó, luật pháp quốc tế buộc các nước vì lợi ích chung phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong nhập khẩu, vì thế tạo nên được sự thống nhất mang lại hiệu quả cao trong công tác nhập khẩu.
2./ ảnh hưởng tỷ giá hối đoái của đồng tiền và tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu.
Nhân tố này quyết định việc xác định mặt hàng, phương án kinh doanh, quan hệ kinh doanh của không chỉ doanh nghiệp kinh doanh mà tất cả các doanh nghiệp nhập khẩu nói chung. Sự biến đổi của nhân tốnày sẽ gây ra sự biến động lớn trong tỷ trọng giữa xuất khẩu và nhập khẩu, chẳng hạn tỷ giá hối đoái của đồng tiền bản tệ của một nước thuận lợi cho xuất khẩu thì lại bất lợi cho công tác nhập khẩu.
Trong nhập khẩu, tỷ suất ngoại tệ là tổng số tiền bản tệ có thể thu được khi chi ra một đơn vị ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá hoặc dịch vụ. Nếu tỷ suất ngoại tệ mặt hàng đó lớn hơn tỷ giá hối đoái công bố chính thức ở Ngân hàng TW thì việc chọn mặt hàng đó nhập khẩu là có hiệu quả. Nên khi tỷ suất ngoại tệ thay đổi giữa các mặt hàng thì doanh nghiệp xuất nhập khẩu sẽ chuyển hướng mặt hàng cũng như phương án kinh doanh của mình.
3./ ảnh hưởng của sự biến động thị trường trong cũng như ngoài nước.
Có thể hình dung hoạt động nhập khẩu như một cầu nối thông thường giữa hai thị trường tạo ra sự phù hợp gắn bó cũng như phản ánh sự tác động qua lại giữa chúng, phản ánh sự biến động của một thị trường. Cụ thể như sự tồn động hàng hoá, giảm nhu cầu về một mặt hàng trong nước sẽ làm giảm ngay lập tức lượng hàng đó thông qua nhập khẩu và ngược lại. Cũng như vậy, thị trường nước ngoài quyết định sự thoả mãn các nhu cầu trên thị trường trong nước, sự biến đổi của nó về khả năng cung cấp, về sản phẩm mới, về sự đa dạng của hàng hoá dịch vụ cũng được phản ánh qua chiếc cầu nhập khẩu để tác động trên thị trường nội địa.
4./ ảnh hưởng của nền sản xuất cũng như của các doanh nghiệp kinh doanh thương mại trong và ngoài nước.
Sự phát triển của nền sản xuất, của các doanh nghiệp sản xuất trong nước tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ với sản phẩm nhập khẩu, tạo ra sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu, do vậy làm giảm nhu cầu nhập khẩu và nếu như sản xuất kém phát triển không đáp ứng được nhu cầu trong nước thì nhu cầu nhập khẩu hàng hoá đó lại tăng lên để bù đắp sự thiếu hụt của hàng hoá.
Ngược lại, sự phát triển của nền sản xuất ở các nước xuất khẩu làm tăng khả năng cung ứng cũng như cạnh tranh của hàng hoá. Do đó làm tăng cường hoạt động xuất khẩu. Tuy nhiên, không phải lúc nào sản xuất trong nước phát triển thì hoạt động nhập khẩu bị thu hẹp mà nhiều nước để tránh độc quyền gây thiệt hại cho người tiêu dùng đã khuyến khích nhập khẩu tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường.
Cũng như sản xuất, sự phát triển của hoạt động thương mại trong và ngoài nước, của các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu quyết định tới sự chu chuyển, lưu thông hàng hoá trong nền kinh tế hay giữa các nền kinh tế, bởi vậy tạo điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy nhập khẩu. Mặt khác, do chủ thể của các hoạt động nhập khẩu chính là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, sự phát triển của các doanh nghiệp này đồng nghĩa với sự thực hiện có hiểu quả các hoạt động nhập khẩu. Trong một nước mà các doanh nghiệp không tự chủ được sự phát triển, bị sự can thiệp quá sâu của Nhà nước thì hoạt động nhập khẩu không thể phát huy hết hiệu quả của nó.
5./ ảnh hưởng của hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc.
Việc thực hiện hoạt động nhập khẩu không thể thành công và có hiệu quả nếu không cần có sự trợ giúp của hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc. Nhờ có sự thông tin liên lạc hiện đại mà các bên có thể tiến hành giao dịch với nhau một cách dễ dàng, các bên có thể tiến hành thu thập các thông tin cần thiết như nhu cầu của thị trường, tình hình cạnh tranh ... để tiến hành xử lý và đưa ra các phương án kinh doanh có hiệu quả nhất.
Thực tế đã cho thấy rằng, sự phát triển của hệ thống thông tin liên lạc như Fax, Telex, EMS, DHL, E-mail, Internet ... đã làm đơn giản hoá các công tác kinh doanh nói chung và công tác nhập khẩu nói riêng đi rất nhiều, giảm đi hàng loạt các chi phí, thu thập kịp thời các thông tin. Việc hiện đại hoá các công việc vận chuyển, bốc dỡ, bảo quản ... cũng đã góp phần làm nhanh chóng, an toàn hàng hoá nhập khẩu.
Cho nên có thể nói rằng, sự phát triển của hệ thống thông tin liên lạc và giao thông vận tải là nhân tố không thể thiếu được cho sự phát triển của hoạt động xuất nhập khẩu.
6./ảnh hưởng của hệ thống tài chính ngân hàng.
Hiện nay, hệ thống tài chính Ngân hàng phát triển hết sức mạnh mẽ, các nghiệp vụ của nó đã tác động rất lớn tới mọi hoạt động của doanh nghiệp. Vai trò to lớn của Ngân hàng thể hiện trong việc quản lý, cung cấp vốn, đảm bảo cho việc thanh toán an toàn, thuận lợi và nhanh chóng cho các doanh nghiệp. Hoạt động kinh doanh sẽ kém hiệu quả nếu không có sự trợ giúp của Ngân hàng. Các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu khi có trợ giúp của Ngân hàng sẽ có được rất nhiều lợi ích. Nhiều trường hợp do có uy tín lớn đối với Ngân hàng mà các doanh nghiệp tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu được Ngân hàng đứng ra bảo lãnh cho vay vốn, kịp thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nắm bắt được cơ hội kinh doanh, kinh doanh có hiệu quả và mang lại lợi ích kinh tế cao.
7./ Các nhân tố thuộc về môi trường của doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu.
Sự biến động của môi trương kinh tế, chính trị, pháp luật, văn hoá xã hội, điều kiện tự nhiên, khoa học kỹ thuật ... đều buộc các doanh nghiệp phải nắm rõ và tuân thủ. Những nhân tố này là khách quan mà bản thân doanh nghiệp chỉ có thể nhận thức và có phương hướng kinh doanh cho phù hợp chứ không tự mình tác dộng lên chúng làm thay đổi chúng.
III/ Các hình thức nhập khẩu thông dụng trong kinh doanh nhập khẩu máy móc thiết bị.
Trước đây, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu chỉ được tiến hành ở các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp. Ngày nay, trong thực tế do tác động của điều kiện khách quan Nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc xuất nhập khẩu. Cụ thể là Nghị định 57/CP của Chính Phủ ra đời cho phép tất cả các doang nghiệp đều được quyền xuất nhập khẩu những mặt hàng có trong đăng ký kinh doanh của mình (trừ những mặt hàng cấm và các mặt hàng được quản lý bởi giấy phép, hạn ngạch) với một điều kiện duy nhất là doanh nghiệp phải đăng ký mã số hải quan ở Tổng cục Hải quan. Nhà nước đã tạo ra nhiều hình thức nhập khẩu khác nhau. Sau đây là một vài hình thức nhập khẩu đang được áp dụng trong kinh doanh nhập khẩu máy móc thiết bị.
1/ Nhập khẩu tự doanh.
Khái niệm:
Hoạt động nhập khẩu tự doanh là hình thức nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trên cơ sở nghiên cứu kỹ thị trường trong và ngoài nước, tính toán đầy đủ chi phí, đảm bảo kinh doanh có lãi, đúng phương hướng chính sách pháp luật của Nhà nước cũng như quốc tế.
Đặc điểm:
- Trong hoạt động nhập khẩu tự doanh thì doanh nghiệp phải đứng mũi chịu sào tất cả. Đây là hoạt động inh doanh cần phải xem xét kỹ lưỡng từ bước nghiên cứu thông tin thị trường cho đến việc ký kết và thực hiện hợp đồng, bởi doanh nghiệp phải tự bỏ vốn của mình đồng thời chịu mọi chi phí phí tổn cho hoạt động kinh doanh của mình : Chi phí giao dịch, nghiên cứu thị trường, giao nhận, lưu kho, chi phí tiêu thụ hàng hoá, các loại thuế ...
- Khi nhập khẩu tự doanh thì doanh nghiệp được trích kim ngạch nhập khẩu và khi tiêu thụ hàng nhập khẩu doanh nghiệp phải chịu thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp
- Thông thường doanh nghiệp chỉ cần lập một hợp đồng ngoại với nước ngoài còn hợp đồng tiêu thụ hàng hoá trong nước sau khi hàng về sẽ lập sau.
2/ Nhập uỷ thác.
Khái niệm:
Nhập uỷ thác là một hoạt động hình thành giữa một doanh nghiệp trong nước có vốn ngoại tệ riêng và có nhu cầu nhập khẩu một số hàng hoá nhưng lại không có quyền tham gia quan hệ xuất nhập khẩu trực tiếp đã uỷ thác cho một doanh nghiệp kinh doanh ngoại thương có chức năng giao dịch tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác phải đàm phán với nước ngoài để tiến hành thương vụ mình được uỷ thác và được huưởng thù lao gọi là phí uỷ thác.
Đặc điểm:
- Trong hoạt động nhập khẩu này doang nghiệp nhận uỷ thác không phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch (nếu cần), không phải nghiên cứu thị trường tiêu thụ, không phải tiêu thụ hàng nhập khẩu mà chỉ đứng ra làm đại diện bên uỷ thác để tìm và giao dịch với khách hàng nước ngoài ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu uỷ thác cũng như thay cho bên uỷ thác khiếu nại, đòi bồi thường nếu có tổn thất xẩy ra.
- Khi tiến hành nhập uỷ thác thì doanh nghiệp chỉ được tính chi phí uỷ thác chứ không được tính vào doanh thu, không phải chịu thuế VAT.
- Khi nhập uỷ thác thì các doanh nghiệp nhận uỷ thác phải lập hai hợp đồng: Một hợp đồng ngoại mua bán với nước ngoài; một hợp đồng nội uỷ thác nhập khẩu với bên uỷ thác.
3/ Nhập liên doanh.
Khái niệm:
Là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết kinh tế một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó ít nhất phải có một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp kỹ năng để cùng thực hiện giao dịch, thúc đẩy hoạt động ngoại thương phát triển theo hướng có lợi cho cả hai bên, lỗ lãi cùng chịu.
Đặc điểm:
- So với nhập tự doanh, doanh nghiệp chịu bớt rủi ro hơn bởi vì mỗi doanh nghiệp liên doanh nhập khẩu chỉ phải đóng góp một phần vốn nhất định, quyền hạn và trách nhiệm của mỗi bên cũng tăng theo vốn góp. Việc phân chia chi phí theo tỷ lệ vốn góp, lãi và lỗ hai bên phân chia tuỳ theo thoả thuận dựa trên vốn góp cộng với phần trách nhiệm mà môĩ bên đóng góp.
- Trong nhập liên doanh, doanh nghiệp đứng ra nhập hàng sẽ được tính kim ngạch nhập khẩu nhưng khi đưa hàng về tiêu thụ thì chỉ được tính doanh số trên số hàng tính theo tỷ lệ vốn góp và chỉ chịu thếu VAT trên doanh số đó.
- Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp phải làm hai hợp đồng: Một hợp đồng mua hàng với nước ngoài; một hợp đồng liên doanh với doanh nghiệp khác.
Phân chia như trên là dựa trên chủ thể của hoạt động nhập khẩu, nếu quan tâm đến hình thức thanh toán trong hoạt động này thì có thể thấy hai hình thức mua bán chính là mua bán thanh toán bằng tiền và thanh toán bằng hàng hay gọi là buôn bán đối lưu.
4/ Nhập đổi hàng.
Khái niệm:
Nhập đổi hàng và trao đổi bù trừ là hai nghiệp vụ chủ yếu của buôn bán đối lưu, nó là hình thức nhập khẩu gắn liền với xuất khẩu, thanh toán trong hợp đồng này không phải là tiền mà bằng hàng hoá. ở đây, mục đích của việc nhập hàng không chỉ là thu lãi từ hoạt động nhập mà nhằm còn để được xuất được hàng, thu cả lãi từ hoạt động sản xuất.
Đặc điểm:
- Hoạt động này rất có lợi bởi cùng một hợp đồng mà có thể tiến hành cùng một lúc hoạt động xuất và nhập do đó có thể thu lãi từ hai hoạt động.
- Hàng nhập xuất tương đương với nhau về giá trị, tính quí hiếm, cân bằng về giá.
- Bạn bán hàng cũng chính là bạn mua.
- Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính cả kim ngạch nhập và kim ngach xuất, doanh số cả trên hai mặt hàng nhập và xuất.
Biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng:
+ Dùng thư tín dụng đối ứng (Reciprocal Letter of Credit), đây là một loại L/C mà trong nội dung của nó có các điều khoản qui định: L/C này chỉ có hiệu lực khi người hưởng mở một L/C khác có kim ngạch tương ứng.
+ Dùng người thứ ba khống chế chứng từ sở hữu hàng hoá, người thứ ba chỉ giao chứng từ cho người nhận hàng khi người này đổi lại một chứng từ sở hữu hàng hoá có giá trị tương đương.
+ Phạt về việc giao thiếu hay giao chậm.
Ngoài ra chia theo mục đích hàng nhập khẩu có thể phân ra nhập hàng tiêu thụ trong nước và hàng nhập tái xuất.
5/ Nhập khẩu tái xuất.
Khái niệm:
Là hoạt động nhập hàng hoá vào trong nước, nhưng không phải tiêu thụ trong nước mà để xuất sang một nước thứ ba nào đó nhằm thu lợi nhuận, những hàng này không được qua chế biến ở nước tái xuất. Như vậy hàng nhập khẩu tái xuất luôn luôn thu hút ba nước tham gia: Nước xuất khẩu, nước tái xuất, nước nhập khẩu.
Đặc điểm:
- Doanh nghiệp nước tái xuất phải tính toán chi phí ghép nối bạn hàng xuất và nhập đảm bảo cho có thu được số tiền lớn hơn tổng chi phí bỏ ra để tiến hành hoạt động.
- Doanh nghiệp nước tái xuất phải lập hai hợp đồng: Một hợp đồng nhập khẩu và một hợp đồng xuất khẩu và không phải chịu thuế xuất nhập khẩu với mặt hàng kinh doanh.
- Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính kim ngạch cả xuất và nhập doanh số tính trên giá trị hàng xuất khẩu nên doanh nghiệp vẫn phải chịu thuế VAT.
- Để đảm bảo tính thực hiện hợp đồng, doanh nghiệp thường sử dụng thư tín dụng giáp lưng (Back to back L/C).
- Hàng hoá không nhất thiết phải chuyển về nước tái xuất mà có thể chuyển thẳng qua nước thứ ba, nhưng trả tiền thì luôn luôn phải do người tái xuất thu của người nhập khẩu và trả cho người xuất khẩu. Nhiều khi người tái xuất còn thu được lợi tức về tiền hàng do thu được nhanh và được trả chậm.
IV/ Nội dung công tác nhập khẩu của doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu máy móc thiết bị.
Hoạt động nhập khẩu được tổ chức thực hiện với nhiều nghiệp vụ từ nhiều khâu nghiên cứu tiếp cận thị trường cho đến khâu tiếp nhận và bảo quản hàng hoá. Mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ cần phải nghiên cứu một cách đầy đủ và kỹ lưỡng và đặt trong mối quan hệ hữu cơ vơí nhau, tranh thủ nắm bắt thời cơ nhằm đảm bảo cho hoạt động ngoại thương đạt hiệu quả cao nhất, phục vụ đầy đủ kịp thời cho tái xuát mở rộng, phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước.
1/ Nghiên cứu thị trường nhập khẩu.
Thị trường và một phạm trù khách quan gắn liền sản xuất với lưu thông hàng hoá, ở đâu có sản xuất và lưu thông hàng hoá ở đấy có thị trường.
Thị trường theo nghĩa “cổ điển” được hiểu là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi buôn bán hàng hoá. Đặc trưng của nó gồm ba yếu tố hoà quện với nhau đó là: Người mua, người bán và trung gian.
Thị trường theo “hiện đại” được hiểu theo hai góc độ:
+ Đó là tổng thể các quan hệ lưu thông hàng hoá tiền tệ. Theo khái niệm này thị trường được mở rộng nhiều.
+ Đó là tổng số lượng cầu có khả năng thanh toán và cũng có khả năng cung ứng. Theo cách hiểu này, thị trường không chỉ gồm người mua, người bán, địa điểm ... các quan hệ mua bán hàng hoá dịch vụ mà còn bao gồm cả dung lượng thị trường tức là các tiền đề của các quan hệ mua bán.
Ngày nay, nghiên cứu thị trường là việc làm cần thiết đầu tiên đối với bất cứ một doanh nghiệp nào muốn tham gia vào thương mại quốc tế.
Thị trường quốc tế là thị trường nằm ngoài biên giới quốc gia và có ảnh hưởng mạnh mẽ tới các thị trường quốc gia thông qua các biến động cung cầu và giá cả.
1.1/ Nghiên cứu thị trường trong nước.
Nhận biết sản phẩm nhập khẩu.
Sản phẩm nhập khẩu của Công ty chủ yếu là máy móc thiết bị, do vậy phải nghiên cứu thị trường trong nước đang có nhu cầu về loại máy móc thiết bị nào? và cần xem xét đến việc ở Việt Nam quen dùng sản phẩm của nước nào? để từ đó lựa chọn sản phẩm nhập khẩu thích hợp để Công ty kinh doanh có lợi nhất. Muốn vậy, phải làm rõ các vấn đề sau:
- Thị trường trong nước cần loại máy móc thiết bị đó với số lượng là bao nhiêu? và với một mức giá như thế nào thì thị trường có thể chấp nhận được?
- Có bao nhiêu doanh nghiệp bao nhiêu hãng đã tham gia vào việc cung cấp các loại máy móc thiết bị đó? Và hiện tại hoặc trong tương lai gần các hãng này có tiếp tục nhập về không?
1.2/ Nghiên cứu thị trường mua ( thị trường hàng hoá quốc tế)
Để đảm bảo cho việc kinh doanh của Công ty có hiệu quả, trước khi có ý định nhập khẩu một loại máy móc thiết bị nào đó, Công ty cần nghiên cứu kỹ thị trường mua tức là thị trường hàng hoá quốc tế. Cần phải nghiên cứu xem có bao nhiêu hãng có thể cung cấp loại máy móc thiết bị đó? giá cả của mỗi hãng là như thế nào? các dịch vụ đi kèm của họ ra sao?
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và đặc biệt là sự phát triển của Internet, do đó việc nghiên cứu các vấn đề nêu trên Công ty không cần phải trực tiếp sang tận nơi cung cấp để nghiên cứu mà thông qua Internet Công ty có thể ngồi tại văn phòng để tìm hiểu về đối tác của mình, hoặc có thể gửi thư hỏi hàng bằng e-mail. Các hãng sản xuất máy móc thiết bị lớn trên thế giới hầu hết họ đều có Webside riêng của họ ở trên mạng do đó mà việc tìm hiểu thông tin về họ rất thuận tiện. Việc nghiên cứu các thông tin về phía nhà cung cấp sẽ giúp cho Công ty cân nhắc và chọn cho mình một giá cả hợp lý nhất, chất lượng tốt nhất và dịch vụ hoàn hảo nhất.
1.3/ Dung lượng thị trường và các yếu tố ảnh hưởng.
Đối với người nhập khẩu, việc tìm hiểu về dung lượng thị trường hàng hoá cần nhập là rất quan trọng.
Có thể hiểu dung lượng thị trường của một hàng hoá là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên phạm vi thị trường nhất định (khu vực, quốc gia) trong một thời kỳ nhất định thường là một năm.
Dung lượng thị trường của loại hàng hoá là máy móc thiết bị cũng không nằm ngoài qui luật của hàng hoá nói chung, dung lượng thị trường không cố định mà thay đổi tuỳ theo diễn biến của tình hình do tác động tổng hợp của nhiều nhân tố trong những giai đoạn nhất định.
Các nhân tố ảnh hưởng đến dung lượng thị trường hàng hoá:
Các nhân tố làm dung lượng thị trường biến đổi có tính chu kỳ:
Trong các nhân tố thuộc loại này phải kể đến những nhân tố quan trọng như: Sự vận động của tình hình kinh tế tư bản chủ nghĩa, tính chất thời vụ của sản xuất lưu thông và phân phối hàng hoá.
Sự vận động của tình hình kinh tế tư bản chủ nghĩa là nhân tố quan trọng nhất có ảnh hưởng đến tất cả thị trường hàng hoá. Do vậy, khi phân tích ảnh hưởng các nhân tố đối với những biến đổi của dung lượng thị trường không thể bỏ qua ảnh hưởng của nhân tố này. Phân tích sự vận động của tình hình kinh tế tư bản chủ nghĩa đối với các biến đổi của dung lượng thị trường trên phạm vi thế giới và đặc biệt lưu ý phân tích sự biến động ấy trên phạm vi trong các nước giữ vai trò chủ yếu trên thị trường các nước xuất nhập khẩu. Nắm vững ảnh hưởng tình hình kinh tế tư bản chủ nghĩa đối với thị trường hàng hoá có ý nghĩa quan trọng trong việc vận dụng các kết quả nghiên cứu thị trường và giá cả để chọn lựa thời gian giao dịch nhằm đạt hiệu quả kinh doanh cao nhất.
Một nhân tố khác cũng làm cho dung lượng thị trường mang tính chất biến đổi có tính chu kỳ là yếu tố thời vụ. Nhân tố thời vụ ảnh hưởng đến thị trường hàng hoá trong khâu sản xuất và lưu thông, tiêu dùng, do đặc điểm sản xuất, lưu thông các loại hàng hoá khác nhau nên sự tác động của nhân tố này rất đa dạng với các mức độ khác nhau.
Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài tới sự biến đổi dung lượng thị trường:
Các nhân tố thuộc loại này có rất nhiều, chúng ảnh hưởng tới dung lượng thị trường trong thời gian khá dài. Một số nhân tố chủ yếu đó là: tiến bộ khoa học kỹ thuật, các biện pháp chính sách của Nhà nước và các tập đoàn tư bản lũng đoạn, thị hiếu và tập quán người tiêu thụ, ảnh hưởng của hàng hoá thay thế.
Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đến dung lượng thị trường:
Trong công tác nghiên cứu thị trường hàng hoá, việc dự đoán về sự phát triển của tình hình thị trường, giá cả trong thời gian ngắn nhằm phục vụ trực tiếp cho công tác kinh doanh, phải hết sức chú ý đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố tác động tạm thời đến sự biến đổi của dung lượng thị trường.
Các nhân tố này có thể kể ra như: Các yếu tố về tự nhiên, thiên tai bão lụt, hạn hán gây ra những biến đổi về cung cầu một số hàng hoá nhất định, ví dụ: Một quốc gia hàng năm chỉ phải nhập 1,5 triệu tấn lương thực, nhưng do hạn hán gây ra mất mùa nên nhu cầu nhập khẩu lương thực tăng lên, do đó đây cũng là nhân tố ảnh hưởng tạm thời tới sự biến đổi của dung lượng thị trường.
Trên đây là một số nhân tố ảnh hưởng tới sự biến đổi của dung lượng thị trường. Khi nghiên cứu tình hình thị trường của các loại hàng hoá khác nhau phải căn cứ vào đặc điểm của chúng để đánh giá đúng đắn ảnh hưởng của các nhân tố. Điều quan trọng là phải phát hiện ra nhân tố nào có ảnh hưởng quyết định xu hướng phát triển t._.hị trường vào thời kỳ nghiên cứu, những nhân tố nào còn tồn tại và không tồn tại, những nhân tố nào mới xuất hiện và ảnh hưởng của chúng trong tương lai.
1.4/ Nghiên cứu về giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới.
Trên thị trường hàng hoá thế giới, giá cả chẳng những phản ánh mà còn điều tiết cung cầu. Việc xác định đúng đắn giá cả hàng hoá trong xuất và nhập khẩu có ý nghĩa rất lớn đối với hiệu qủa thương mại quốc tế. Cụ thể sẽ làm tăng thu ngoại tệ trong xuất khẩu và giảm chi ngoại tệ trong nhập khẩu.
Giá cả trong hoạt động nhập khẩu là giá cả quốc tế. Giá cả quốc tế có tính chất đại diện cho mỗi loại hàng hoá nhất định trên thị trường thế giới. Giá cả đó là phải giá của các giao dịch thông thường không kèm theo hoạt động đặc biệt nào và thanh toán bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi được.
1.4.1/ Dự đoán xu hướng biến động của giá cả và các nhân tố ảnh hưởng đến xu hướng ấy.
Xu hướng biến động của giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới rất phức tạp, biến động liên tục. Để có thể dự đoán được sự biến động của giá cả mỗi loại hàng hoá trên thị trường thế giới trước hết phải dựa vào kết quả nghiên cứu và dự báo thị trường loại mặt hàng đó, đánh giá đúng các nhân tố ảnh hưởng đến xu hướng vận động của giá cả hàng hoá ấy.
Tuỳ theo mục đích nghiên cứu mà dự báo xu hướng biến động trong thời gian dài hay ngắn. Kết quả ngiên cứu, dự báo giá cả trong thời gian dài thường được sử dụng vào mục đích lập kế hoạch nhập khẩu hàng hoá hàng năm. Dự đoán xu hướng giá trong thời gian ngắn nhằm phục vụ trực tiếp cho hoạt động kinh doanh hiện tại.
Các nhân tố tác động lên giá cả hàng hoá trên thế giới có rất nhiều và có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau tuỳ theo mục đích nghiên cứu. Khi dự đoán giá trong thời gian dài cần phải chú ý tới các nhân tố tác động lâu dài lên sự biến ddộng của nó: chu kỳ, giá trị, lũng đoạn.
Dự đoán xu hướng biến động giá cả trong thời gian ngắn cần phân tích, đánh giá trực tiếp các nhân tố tác động lên cung cầu hàng hoá trên thị trường. Đặc biệt cần phân tích rõ tác động của các nhân tố mang tính tạm thời như: thời vụ, đầu cơ, nhân tố tự nhiên ...
1.4.2/ Các nhân tố ảnh hưởng tới xu hướng biến động của giá cả:
Nhân tố chu kỳ:
Tức là sự vận động có tính chất qui luật của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, qua các giai đoạn của chu kỳ sẽ làm thay đổi quan hệ cung cầu về các loại hàng hóa đó trên thị trường do đó làm biến đổi dung lượng thị trường và thay đổi giá cả hàng hoá.
Nhân tố lũng đoạn về giá cả:
thị trường hàng hoá thế giới trong thời đại ngày nay.
Lũng đoạn làm xuất hiện nhiều mức giá đối với cùng một loại hàng hoá, thậm chí ngay trên cùng một thị trường tuỳ theo mối quan hệ giữa người mua và người bán, trên thị trường thế giới có giá lũng đoạn cao và giá lũng đoạn thấp.
Giá lũng đoạn cao là giá bán hàng thành phẩm công nghiệp, máy móc thiết bị mà người bán là các nhà tư bản công nghiệp ở các nước tư bản chủ nghĩa.
Giá lũng đoạn thấp là giá bán các loại hàng nguyên liệu, lương thực của những người sản xuất nhỏ mà người mua là các nước tư bản phát triển.
Nhân tố cạnh tranh:
Cạnh tranh có thể làm cho giá biến động theo xu hướng khác nhau. Cạnh tranh giữa người bán xẩy ra khi trên thị trường cung có xu hướng lớn hơn cầu. Nhiều người cùng bán một loại hàng hoá, cùng một chất lượng, kiểu dáng thì ai có chính sách bán hàng thích hợp thì người đó sẽ chiến thắng, giá cả có xu hướng giảm xuống.
Cạnh tranh giữa những người mua trên thị trường diễn ra khi trên thị trường xuất hiện xu hướng cung theo không kịp cầu. Người mua này cạnh tranh với người mua khác bằng cách nâng giá mua, làm giá hàng lên cao.
Cung cầu và giá cả:
Mối quan hệ cung cầu thay đổi sẽ thúc đẩy xu hướng giảm giá nếu cung lớn hơn cầu. Và ngược lại, nếu cung không theo kịp cầu thì xuất hiện xu hướng giá tăng.
Nhân tố lạm phát:
Giá cả của hàng hoá không những được quyết định bởi giá trị của nó mà còn phụ thuộc vào giá trị tiền tệ – vàng. Trên thị trường thế giới, giá cả hàng hoá thường được biểu hiện bằng đồng tiền mạnh như: Đô la Mỹ, Mác Đức, Bảng Anh ... Do đặc điểm của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa nên giá trị của những đồng tiền này cũng luôn luôn thay đổi, việc thay đổi ấy thường gắn liền với lạm phát làm cho giá cả hàng hoá biểu hiện bằng tiền ấy tăng lên.
Trên đây là những phân tích của một số nhân tố chủ yếu đối với xu hướng biến động của giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới. Tuy vậy, cần chú ý rằng số lượng các nhân tố và mức độ ảnh hưởng của chúng đối với xu thế biến động của gía cả không phải là cố định mà thay đổi tuỳ theo tình hình thị trường trong từng hoàn cảnh cụ thể.
Xác định mức giá xuất nhập đối với thị trường có quan hệ giao dịch
Trên cơ sở phân tích đúng đắn ảnh hưởng của nhân tố đối với biến động của giá cả ta sẽ phần nào nắm được xu thế biến động của chúng. Dựa trên xu hướng biến động đó tiến hành mức giá cho từng loại hàng mà ta có kế hoạch nhập khẩu đối với thị trường mà ta có giao dịch.
Nếu loại hàng hoá đó thuộc về đối tượng giao dịch phổ biến hoặc có những trung tâm giao dịch trên thế giới thì nhất thiết phải tham khảo giá thị trường thế giới về loại hàng hoá đó. Đồng thời, có thể tham khảo các giá khác có ý nghĩa tương đối thực tế hơn như khi định giá nhập khẩu cho loại hàng hoá định nhập từ thị trường giao dịch, cần tham khảo giá xuất khẩu loại hàng hoá đó từ thị trường đó đi nơi khác. Cần chú ý đến yếu tố cước phí vận tải, các chế độ ưu đãi thuế quan để định mức giá được chính xác.
Đối với các mặt hàng nhập khẩu có thể dựa vào giá chào hàng của hãng, dựa vào giá nhập khẩu của các năm trước đó có tính đến các thay đổi của sản phẩm ... để đưa ra một giá nhập khẩu hợp lý, mang lại lợi nhuận cao cho công ty.
2./ Lựa chọn phương thức giao dịch nhập khẩu.
Sau khi tiến hành nghiên cứu thị trường quốc tế cần lựa chọn hình thức giao dịch thích hợp trước khi ký kết hợp đồng kinh tế.
Trên thị trường thế giới những giao dịch ngoại thương (tức là các hoạt động xuất nhập khẩu) đều tiến hành theo các cách thức nhất định bao gồm các thủ tục chứng từ cần thiết. Những cách thức đó chính là phương thức giao dịch buôn bán.
2.1/ Giao dịch thông thường.
Là giao dịch được thực hiện ở mọi nơi, người bán và người mua trực tiếp liên lạc với nhau bằng cách gặp mặt trực tiếp hoặc qua thư từ, điện thoại, e-maill ... để bàn bạc và thoả thuận với nhau về các điều kiện giao dịch. Những nội dung này được thoả thuận một cách tự nguyện, không có sự ràng buộc nào với giao dịch lần trước, việc mua không nhất thiết phải gắn với việc bán.
Hoạt động buôn bán này khác với hoạt động nội thương ở chỗ: Bên mua và bên bán là những người có quốc tịch khác nhau, đồng tiền thanh toán chủ yếu là ngoại tệ, hàng hoá được di chuyển qua khỏi biên giới.
Trong giao dịch này hai bên tiếp cận thị trường rồi hỏi giá, hoàn giá và đi đến chấp nhận giá hàng hoá hay dịch vụ. Cuối cùng, một hợp đồng được ký kết bằng văn bản hay thư từ điện tín.
2.2/ Giao dịch qua trung gian.
Trong hình thức giao dịch này, có người thứ ba làm trung gian giữa người bán và người mua trong việc quan hệ và qui định các đieèu kiện mua bán hàng hoá hay dịch vụ. Người trung gian phổ biến trên thị trường là các đai lý và môi giới.
2.3/ Đại lý.
Là các tự nhiên nhân hoặc pháp nhân tiến hành một hay nhiều hành vi theo sự uỷ thác của người uỷ thác (Principal). Quan hệ giữa người uỷ thác và đại lý là quan hệ được điều chỉnh bằng hợp đồng đại lý.
2.4/ Môi giới.
Là loại thương nhân trung gian giữa người bán và người mua, được người bán và người mua uỷ thác, những người này khi thực hiện nghiệp vụ không đứng tên mình, không chiếm hữu hàng hoá và không chịu trách nhiệm cá nhân trước người uỷ thác về việc khách hàng có thực hiện hợp đồng hay không. Quan hệ giữa người uỷ thác và người môi giới dựa trên sự uỷ thác từng lần chứ không dựa vào hợp đồng dài hạn.
Sử dụng đại lý và môi giới có nhiều thuận lợi, họ hiểu biết kỹ về thị trường, pháp luật, tập quán của địa phương, tận dụng được các cơ sở vật chất kỹ thuật, giảm chi phí vận tải, đóng gói, lưu kho ... Tuy nhiên, hình thức này cũng có nhược điểm là mất quan hệ trực tiếp với khách hàng, không chủ động được trong quá trình sản xuất kinh doanh, lợi nhuận bị chia sẻ.
2.5/ Giao dịch tại sở giao dịch hàng hoá.
Sở giao dịch là một thị trường đặc biệt tại đó thông qua những người môi giới do sở giao dịch chỉ định, người ta mua bán các loại hàng hoá có khối lượng lớn, có tính chất đồng loạt, phẩm chất có thể thay đổi được với nhau.
Giá công bố ở sở giao dịch có thể được coi là một tài liệu tham khảo trong việc xác định giá quốc tế.
2.6/ Giao dịch tại hội chợ triển lãm.
Hội chợ là một thị trường hoạt động định kỳ tổ chức vào một thời hạn nhất định, tại đó người bán giới thiệu trưng bày các sản phẩm của mình. Thông qua hội chợ, triển lãm, người bán tiếp xúc với khách hàng tiến tới ký kết và thực hiện hợp đồng ngoại thương.
3./ Hợp đồng nhập khẩu.
Trong hoạt động xuất nhập khẩu, sau khi các bên tiến hành giao dịch đàm phán có kết quả thì phải tiến hành ký kết hợp đồng ngoại thương.
3.1/ Khái niệm hợp đồng kinh tế ngoại thương.
Hợp đồng nói chung là sự thoả thuận giữa các bên nhằm mục đích tạo lập, chuyển dịch, biến đổi hay chấm dứt một nghĩa vụ.
Hợp đồng kinh tế ngoại thương là sự thoả thuận của các đương sự có quốc tịch khác nhau trong đó một bên là bên bán (bên xuất khẩu) có nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho bên mua (bên nhập khẩu) một khối lượng hàng hoá xác định, bên mua có trách nhiệm nhận hàng, thanh toán tiền hàng cho bên bán một cách đầy đủ.
Hợp đồng kinh tế ngoại thương có nhiều điểm khác với hợp đồng kinh tế trong nước đó là:
Chủ thể của hợp đồng kinh tế ngoại thương là các pháp nhân có các quốc tịch khác nhau.
Hàng hoá được di chuyển từ nước này sang nước khác
Đồng tiền dùng trong thanh toán ngoại thương là ngoại tệ hay có nguồn gốc ngoại tệ đối với một hoạc cả hai bên ký kết hợp đồng.
3.2/ Những điều khoản căn bản của hợp đồng
Về nội dung của hợp đồng theo nguyen tắc tự do ký kết hợp đồng , hai bên được tuỳ ý quyết định nghĩa vụ của họ sao cho phù hợp với quyền lợi chung của cả hai bên. Tuy nhiên, do có sự khác biệt rất lớn về ngôn ngữ, phong tục tập quán, luật pháp … nên để tránh các tranh chấp có thể xẩy ra, đảm bảo cho hợp đồng được thực hiện suôn sẻ, nội dung của hợp đồng cần có những điều khoản mẫu, được đIều chỉnh theo luật pháp quốc tế … ngoài ra hai bên có thể ghi thêm các đIều khoản khác mà họ thấy cần thiết.
Các điều khoản về đối tượng hợp đồng :
Tên hàng: Cần ghi rõ tên thông dụng, tên thương mại, tên khoa học (nếu có) có thể ghi thêm tên nơi sản xuất hoặc tên xí nghiệp sản xuất ra mặt hàng đó.
Số lượng: hợp đồng cần phải ghi rõ đơn vị đo lường được hai bên lựa chọn, qui định cụ thể số hàng giao dịch. Nếu số lượng qui định phỏng chừng phải dự liệu sai số có thể chấp nhận được.
Trọng lượng hàng hoá có thể tính theo trọng lượng bao bì. Ngoài ra, người ta có thể tính theo trọng lượng thương mại tức là trọng lượng hàng hoá có độ ẩm tiêu chuẩn.
Chất lượng: Hợp đồng phải ghi rõ tiêu chuẩn qui định phẩm chất của hàng hoá . Có thể căn cứ vào mẫu hàng, vào các tàI liệu kỹ thuật, nhãn hiệu hàng hoá, hay căn cứ vào tiêu chuẩn được công nhận trong tập quán thương mại quốc tế.
Các điều khoản về giá cả:
Điều kiện giá cả trong buôn bán ngoại thương là điều kiện quan trọng. Điều kiện giá cả bao gồm các vấn đề:
Đông tiền tính giá: Có thể đồng thời của nước xuất khẩu hoăc nước nhập khẩu hoặc của nước thứ ba nhưng phảI là đồng tiền tự do chuyển đổi được và ổn định.
Mức giá: Do hai bên thoả thuận, thường là theo giá quốc tế
Phương pháp qui định giá:
Giá cố định: là giá được qui định vào lúc ký kết hợp đồng
Giá qui định sau: là giá được qui định trong quá trình thực hiện hợp đồng .
Giá có thể điều chỉnh lại
Giá di động
Việc giảm giá: giảm giá có thể do khối lượng hàng mua lớn, trả tiền trước hoặc khách quen.
Điều khoản về giao hàng
Nội dung cơ bản là việc xác định thời hạn, địa điểm, phương thức và việc thông báo giao hàng.
Trong hợp đồng cần ghi rõ thời hạn giao hàng. Giao hàng không đúng thời hạn sẽ gây thiệt hại lớn cho người nhập khẩu và sẽ bị phạt do chậm hợp đồng.
Địa điểm giao hàng: Trên thực tế, người nhập khẩu thường chỉ định rõ cho người vận tải bến đi, bến đến của hàng hoá. Nơi giao nhận có thể là đầu mối vận tải để có thể mang hàng đi nơi khác hoặc là nơi họ đã nắm vững tập quán giao hàng, khả năng bốc dỡ, trình độ trang thiết bị bảo quản hàng hoá .
Phương thức giao hàng: Trong hợp đồng phải qui định là hàng hoá được giao ngay trên phương tiện của người mua hay giao tại cầu cảng.
Thông báo giao hàng: qui định số lần thông báo và nội dung thông báo khi người bán giao hàng xong.
Điều khoản về thanh toán.
Thời hạn thanh toán: có thể trả ngay, trả trước, trả sau hoặc kết hợp các loại hình đó với nhau trong cùng một hợp đồng.
Đồng tiền thanh toán phải là đồng tiền tự do chuyển đổi trên thị trường tiền tệ quốc tế, có thể là đồng tiền nước nhập khẩu , hoặc của nước người xuất khẩu hay của nước thứ ba.
Thời hạn thanh toán: có rất nhiều phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu dùng hai phương pháp sau:
+ Phương thức nhờ thu: Là phương thức thanh toán trong đó người bán sau khi giao hàng hoá dịch vụ, uỷ thác cho Ngân hàng thu hộ tiền của người mua hàng hoá và dịch vụ đó.
Có hai phương thức nhờ thu kèm chứng từ:
Nhận chứng từ khi trả tiền ( Documént against payment) D/P.
Nhận chứng từ khi tiếp nhận trả tiền bằng cách ký vào hối phiếu do bên bán phát hành (Document against acceptance)
+ Phương pháp tín dụng chứng từ: theo phương pháp này, Ngân hàng theo yêu cầu của bên mua mở một tín dụng thư (L/C) với nội dung đã ghi trong hợp đồng mua bán đảm bảo trả tiền cho cho bên bán sau khi đã xuất trình đầy đủ chứng từ mà L/C đòi hỏi trong một thời hạn nhất định.
3.3/ Phương pháp ký kết hợp đồng
Trước khi ký kết hợp đồng cần lưu ý:
Cần có sự thoả thuận thống nhất với nhau tất cả các điều khoản trước khi ký kết. Khi đã ký rồi thì việc thay đổi điều khoản là rất khó khăn và bất lợi.
Văn bản hợp đồng thường do một bên dự thảo trên cơ sở thoả thuận của hai bên, trước khi ký kết cần phải xem xét kỹ lưỡng, đối chiếu cẩn thận những điều đã đạt được trong đàm phán.
Hợp đồng cần phải trình bày cẩn thận, rõ ràng, cách trình bày phải phản ánh đúng nội dung thoả thuận, câu cú phải dễ hiểu, phải có định nghĩa cho các từ mang nhiều nghĩa khác nhau để tránh xẩy ra tình trạng tranh chấp.
Những đIều khoản trong hợp đồng phải xuất phát từ những đặc điểm về hàng hoá cần mua. Mọi điều khoản của hợp đồng phải tuân thủ theo luật pháp và tập quán quốc tế.
Người đại diện ký kết hợp đồng phải là người có đầy đủ thẩm quyền.
Ngôn ngữ dùng trong hợp đồng là ngôn ngữ mà hai bên phải thông thạo.
Có nhiều cách ký kết hợp đồng, đó là:
Hai bên ký kết hợp đồng bằng văn bản
Bên mua xác nhân thư chào hàng của bên bán
Người bán xác nhận (bằng văn bản) đơn đặt hàng của người mua.
4./ Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
Sau khi hợp đồng đã được ký kết nghĩa là quyền lợi và nghĩa vụ của các bên đã được xác lập, các đơn vị kinh doanh nhập khẩu với tư cách là một bên ký kết phải tổ chức thực hiện hợp đồng.
Mỗi bên phải tiến hành sắp xếp những việc phải làm, ghi thành bảng biểu theo dõi tiến độ thực hiện hợp đồng, kịp thời ghi lại những diễn biến các văn bản phát đi và nhận được để tiến hành xử lý theo các tình huống cụ thể. Quá trình thực hiện hợp đồng ngoại thương là hết sức phức tạp, đòi hỏi các bên phải nắm vững và tuân thủ nghiêm ngặt luật pháp quốc gia và quốc tế, đồng thời phải đảm bảo lợi ích kinh tế cũng như uy tín của Công ty.
Trong quá trình thực hiện, cố gắng không xẩy ra sai sót khiếu nại, đồng thời phải tiết kiệm mọi chi phí, nâng cao doanh lợi và hiệu quả của toàn bộ thương vụ.
Nếu trong quá trình thực hiện có các mâu thuẫn phát sinh thì hai bên phải kịp thời đàm phán, trao đổi để có phương hướng giải quyết.
Sau khi ký kết hợp đồng nhập khẩu và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình, bên nhập khẩu hàng hoá phải làm thủ tục nhận hàng về cảng.
Theo nghị định của Nhà nước (NĐ 200/CP ngày 31/12/1973) “Các cơ quan vận tải (ga cảng) có trách nhiệm tiếp nhận hàng hoá nhập khẩu trên các phương tiện vận tải từ nước ngoài vào, bảo quản hàng hoá trong quá trình xếp dỡ, lưu kho, lưu bãi và giao cho các đơn vị đặt hàng theo lệnh giao hàng của đơn vị ngoại thương đã nhập khẩu hàng đó”.
Bởi vậy, đơn vị kinh doanh nhập khẩu phải:
Ký kết hợp đồng vận tảI với các đơn vị vận tải (ga, cảng) về việc giao nhận hàng.
Xác nhận với cơ quan vận tải kế hoạch tiếp nhận hàng nhập khẩu hàng năm, hàng quí, lịch tầu, cơ cấu mặt hàng, đIều kiện kỹ thuật khi bốc dỡ, vận chuyển.
Thông báo cho các đơn vị trong nước dự kiến ngày hàng về.
Thanh toán các khoản chi phí cho cơ quan vận tải: giao nhận, bốc xếp, bảo quản và vận chuyển hàng nhập khẩu.
Theo dõi việc giao nhận, đôn đốc cơ quan vận tải lập biên bản về hàng hoá (nếu cần) và giải quyết trong phạm vi của mình về những vấn đề xẩy ra trong việc giao nhận.
5/ Tổ chức tiếp nhận, kiểm tra,khiếu nại
Sau khi hàng đã về đến Cảng hay Sân bay, bên nhập khẩu phải đệ trình các thủ tục cần thiết cho cơ quan Hải quan: Giấy phép nhập khẩu (nếu cần), hợp đồng nhập khẩu, mã số hải quan …Cơ quan Hải quan sẽ xem xét giấy tờ chứng từ cần thiết đó, nếu thấy hợp lệ, bên nhập khẩu sẽ được quyền tiếp nhân hàng hoá của mình.
Kiểm tra hàng hoá về số lượng và chất lượng:
Kiểm tra về số lượng là xác định số lượng thực tế của hàng hoá được giao bằng các phương tiện cân, đong, đo, đếm.
Kiểm tra về chất lượng là việc kiểm tra hàng hoá về tính năng, công dụng, hiệu suất, kích thước, hình dáng …để xác định sự phù hợp giữa chúng với qui định của hợp đồng.
Bên nhập khẩu sẽ mời cơ quan giám định và cơ quan bảo hiểm đến để kiểm tra hàng hoá về chất lượng và số lượng. Việc giám định này có thể là do cơ quan giám định quốc tế (SGS) hay cơ quan giám định của Việt Nam (Vinacontrol) tiến hành giám định.
Sau khi xác định được người kiểm tra, công việc kiểm tra hàng hoá sẽ được tiến hành. Có hai trường hợp:
+Đối với hàng hoá có thể hoán đổi được, người mua chỉ cần xem xét một cách sơ sài tức là chỉ xem xét bên ngoài chứ không kiểm tra kỹ. Các hàng hoá này có tính đồng bộ về cơ cấu, người mua không sợ bị gian lận vì có thể nhận thấy các khuyết tật, hàng không đủ tiêu chuẩn sẽ được thay thế ngay.
+Đối với sản phẩm không thể hoán đổi được thì việc kiểm tra cần chặt chẽ. Đối với hàng hoá có số lượng lớn, người mua có thể tiến hành kiểm tra bằng phương pháp điều tra chọn mẫu. Việc kiểm tra cần có sự giúp đỡ của các chuyên viên.
Khiếu nại
Sau khi tiến hành kiểm tra xong, kết quả kiểm tra được kết luận thì đã có đầy đủ cơ sở pháp lý để đánh giá tính phù hợp của hàng hoá nhập khẩu.
Nếu hàng hoá nhập khẩu có tổn thất hoặc có vấn đề cần khiếu nại thì bên nhập khẩu cần nhanh chóng lập bộ chứng từ khieéu nại gửi cho bên xuất khẩu, cơ quan bảo hiểm.
Những chứng từ như chứng từ hàng hoá , chứng từ vận tải, chứng từ giao nhận, chứng từ về bảo hiểm, chứng từ về thủ tục hải quan …những chứng từ này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giải quyết khiếu nại. Việc khiếu nại phải kịp thời, chính xác và phải đúng luật.
Chương II
Phân tích tình hình nhập khẩu máy móc thiết bị ở Công ty XNK lắp máy
I/ Sự hình thành và phát triển của Công ty xuất nhập khẩu lắp máy
1/ Quá trình thành lập Công ty XNK lắp máy
Năm 1995, theo chủ trương của Bộ xây dựng về mô hình Tổng công ty, Liên hiệp các xí nghiệp lắp máy (LILAMA) được cơ cấu lại theo mô hình Tổng công ty và thực hiện từng bước các mục tiêu chiến lược phát triển do Hội đồng quản trị và lãnh đạo Tổng công ty đề ra. Tổng công ty lắp máy Việt nam là một trong những tổng công ty lớn của Nhà nước, chuyên nhận thầu xây lắp và chế tạo thiết bị công trình công nghiệp và dân dụng trong và ngoài nước. Tổng công ty lắp máy Việt Nam là đơn vị đầu ngành của ngành lắp máy 20 Công ty thành viên, 02 Công ty liên doanh,02 trường đào tạo công nhân kỹ thuật. Tổng công ty đã lắp đặt hàng trăm công trình lớn nhỏ trên qui mô toàn quốc và một số công trình hợp tác với nước ngoài với doanh thu hàng ngàn tỷ đồng. Đứng trước tình hình cần phát triển theo mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đảng, Nhà nước và Bộ xây dựng, theo xu thế hội nhập và phát triển, phát huy trình độ và năng lực sản xuất của ngành lắp máy, nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật từ công nghệ của nước ngoài, Tổng công ty lắp máy Việt nam nhận thấy cần phải có một đơn vị thành viên có chức năng nhập khẩu công nghệ mới từ nước ngoài phục vụ cho các công trình được xây dựng trong nước và nâng cao từng bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xuất khẩu những thiết bị, máy móc mà Việt nam tự sản xuất đã có tiêu chuẩn theo kịp với trình độ quốc tế. Để đáp ứng yêu cầu đó, Bộ xây dựng, theo đề nghị của Tổng công ty lắp máy Việt nam đã cho phép thành lập Công ty xuất nhập khẩu lắp máy theo quyết định 331/BXD-TCLĐ. Trong đó, Công ty là một thành viên hạch toán phụ thuộc của Tổng công ty, thực hiện nhiệm vụ kinh doanh lĩnh vực xuất nhập khẩu mua sắm, cung cấp được nguồn vật tư từ nước ngoài phục vụ nhu cầu chế tạo, sản xuất theo sự quản lý chỉ đạo trực tiếp của Tổng công ty lắp máy Việt nam. Tên gọi và địa chỉ như sau:
Tên giao dịch: Công ty XNK lắp máy
Tên viết tắt : MEIMEX
Trụ sở : 124 Minh Khai, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.
Điên thoại : 84.04.8634825
Fax : 84.04.8638104
2/ Sự phát triển của Công ty XNK lắp máy
Năm 1997 là năm được Đảng và Chính phủ xác định là năm bản lề của quá trình thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhận thức được chủ trương đó, Tổng công ty lắp máy Việt nam nói chung và Công ty xuất nhập khẩu lắp máy nói riêng đã chủ động tìm tòi hướng đi của mình trong cơ chế thị trường với một thách thức là cạnh tranh gay gắt trên thị trường xây lắp Việt nam, giảm sút sản xuất công nghiệp tiếp đó là các biến động và khủng hoảng tài chính ở các nước trong khu vực và thế giới đã ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư của nước ta.
Những định hướng chiến lược phát triển chủ yếu của Công ty XNK lắp máy trong giai đoạn tới:
- Xây dựng cơ sở vật chất, tăng cường năng lực xuất nhập khẩu về mọi mặt, khẳng định ưu thế tuyệt đối của ngành lắp máy Việt nam trên thị trường trong nước và khu vực đưa Công ty vào thế ổn định và phát triển.
- Cơ cấu lại tổ chức, đào tạo và phát triển năng lực cán bộ lãnh đạo, phát huy cơ chế điều hành trong thị trường hiện nay để phát huy năng lực cạnh tranh về mọi mặt.
- Hiện đại hoá trang thiết bị làm việc để thích ứng với công việc hiện tại.
- Chiến lược về đào tạo, củng cố kiến thức cho cán bộ nhằm thích ứng với nhiệm vụ được giao như nâng cao ngoại ngữ, nghiệp vụ chuyên môn…
- Nâng cao trình độ chuyên nghiệp của toàn ngành lắp máy thông qua các thiết bị dây chuyền hiện đại của nước ngoài và xuất khẩu những thành tựu khoa học của ngành lắp máy thu ngoại tệ đẩy mạnh sản xuất trong nước. Đây là chiến lược quan trọng nhất của Tổng công ty đề ra cho Công ty XNK lắp máy trong thời gian tới.
- Đẩy mạnh công tác tiếp thị ra thị trường nước ngoài, tham gia vào các công trình mang tính đấu thầu quốc tế để thông qua đó xuất khẩu dây chuyền và người lao động ra nước ngoài. Một nhiệm vụ quan trọng của Công ty XNK lắp máy là mở rộng khả năng thương mại, xuất khẩu của mình trên thị trường trong và ngoài nước.
3/ Chức năng, nhiệm vụ của Công ty.
Công ty XNK lắp máy là một đơn vị hạch toán phụ thuộc của Tổng công ty lắp máy Việt nam; có con dấu, có tài khoản phù hợp với phương thức hạch toán; được tổ chức hoạt động theo điều lệ của Tổng công ty Việt nam và theo điều lệ riêng của Công ty do Hội đồng quản trị của Tổng công ty phê chuẩn. Nhiệm vụ chính của Công ty XNK lắp máy là thực hiện nhiệm vụ kinh doanh lĩnh vực xuất nhập khẩu theo qui định của Nhà nước và theo sự quản lý chỉ đạo trực tiếp của Tổng công ty lắp máy Việt nam.
Công ty XNK lắp máy được giao những nhiệm vụ sau:
- Nhập khẩu vật tư, thiết bị, vật liệu, máy móc, dụng cụ thi công cần thiết cho Tổng công ty lắp máy và các Công ty lắp máy và xây dựng.
- Xuất nhập khẩu những vật tư, thiết bị, máy móc mà Tổng công ty được Nhà nước cho phép.
- Ký hợp đồng lao động đưa công nhân và kỹ sư có trình độ kỹ thuật đi làm việc ở nước ngoài, hoặc liên doanh liên kết với các cơ quan trong nước, hợp đồng qua nước trung gian đưa lao động đi làm việc tại nước thứ ba. Thuê các chuyên gia nước ngoài vào làm việc trong nước hoặc cho các tổ chức trong và ngoài nước thuê chuyên gia lắp máy của Tổng công ty.
- Kinh doanh và giới thiệu sản phẩm của các Công ty lắp máy và xây dựng trong nước sản xuất được, kể cả những sản phẩm do Tổng công ty liên doanh với nước ngoài sản xuất được.
- Đặt và quản lý các văn phòng đại diện ở trong nước và nước ngoài.
Ngoài các chức năng kể trên Công ty còn có trách nhiệm nắm giá cả hàng ngày của các thiết bị trong nước và nước ngoài thông tin cho các đơn vị trực thuộc có liên quan.
4/ Cơ cấu tổ chức của Công ty XNK lắp máy.
Giám đốc
Phó giám đốc Phó giám đốc
phụ trách nhân sự phụ trách kinh doanh
Phòng tổng hợp Phòng KD XNK Phòng KD nội địa
Chi nhánh HảI Phòng Chi nhánh Đà Nẵng Chi nhánh TP HCM
Công ty XNK lắp máy được tổ chức theo các phòng ban như sau:
Lãnh đạo Công ty gồm giám đốc và các phó giám đốc được phân công quản lý theo từng bộ phận chức năng. Ngoài ra Công ty còn phân công các phòng ban chuyên môn.
Giám đốc Công ty có nhiệm vụ lãnh đạo chung và phân công công việc cho nhân viên của mình, ký các hợp đồng được cấp trên giao, được tổ chức và điều hành toàn bộ các mặt hoạt động của Công ty, bố trí lao động trong Công ty nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong các mặt công tác. Giám đốc chủ động hoàn toàn về mặt công tác Tổng công ty giao cho dựa trên hiệu quả từng công tác phù hợp với qui định chung, được phép đề xuất giá cả xuất nhập khẩu hàng hoá của từng thời kỳ, từng mặt hàng, lô hàng để Tổng công ty quyết định giá cả. Giám đốc phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về chữ ký và quyết định của mình trước Tổng công ty và pháp luật, đồng thời chịu trách nhiệm hoàn toàn về các mặt hoạt động của Công ty, có trách nhiệm chính về hoạt động kinh doanh, tạo việc làm cho cán bộ công nhân viên và đảm bảo quyền lợi cho họ.
Phó giám đốc có trách nhiệm quản lý theo từng bộ phận được giao, trực tiếp làm công tác nghiệp vụ đối với những hợp đồng lớn và phức tạp, thay mặt giám đốc điều hành khi giám đốc đi vắng, chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc và giám đốc Công ty về những hợp đồng với các đối tác trong và ngoài nước, trực tiếp điều hành khối kinh doanh nội địa, các kho và cửa hàng đại lý.
Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu có các chức năng quản lý các đại diện Công ty tại nước ngoài, xuất nhập khẩu thiết bị máy móc vật tư.
Phòng tổng hợp có chức năng tài chính tổng hợp, marketing, tổ chức cán bộ, tuyển chọn lao động làm hợp đồng thủ tục đi lao động, đào tạo chuyên môn, bảo đảm chế độ quyền lợi cho người đi lao động ở nước ngoài, lưu trữ hồ sơ, hợp đồng lao động.
Phòng kinh doanh nội địa phụ trách kinh doanh và giới thiệu sản phẩm thiết bị, vật tư lưu thông trong nước.
Ngoài ra còn có các chi nhánh của Công ty tại các Thành phố Hải Phòng, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh và nước ngoài như Liên Bang nga, Hàn quốc, Đài Loan theo chức năng giới thiệu sản phẩm, mở rộng thị trường, xúc tiến ký các hợp đồng với các đối tác trong nước và nước ngoài.
II/ Phân tích tình hình kinh doanh nhập khẩu máy móc thiết bị tạI công ty XNK lắp máy
1/ Đặc điểm kinh doanh nhập khẩu tại Công ty XNK lắp máy
Công ty XNK lắp máy là đơn vị trực thuộc Tổng công ty lắp máy Việt Nam, được thành lập trên cơ sở là phòng xuất nhập khẩu của Tổng công ty trước đây và do Tổng công ty ra quyết định thành lập sau khi đã được sự đồng ý của Bộ xây dựng, Công ty XNK lắp máy hạch toán phụ thuộc Tổng công ty lắp máy Việt Nam. Chức năng chính của Công ty XNK lắp máy là kinh doanh nhập khẩu các loại máy móc thiết bị phục vụ cho ngành lắp máy và xuất khẩu lao động ra nước ngoài. Ngoài việc phải đáp ứng đầy đủ các nhu cầu về máy móc thiết bị cho các đơn vị thành viên của Tổng công ty lắp máy, Công ty XNK lắp máy còn có nhiệm vụ phải nghiên cứu, theo dõi về thị trường cũng như nhu cầu máy móc thiết bị ở Việt nam và khả năng cung ứng của các nhà cung cấp nước ngoài từ đó đề ra các phương án kinh doanh trình lên Tổng công ty.
Trong hoạt động kinh doanh của Công ty XNK lắp máy mọi hợp đồng kinh tế và thao tác nghiệp vụ ngoại thương đều phải tuân thủ theo các qui định hiện hành của Nhà nước và tập quán quốc tế. Bên cạnh đó, vì Công ty XNK lắp máy hạch toán phụ thuộc Tổng công ty nên khi ký kết các hợp đồng kinh tế phải được sự đồng ý của Tổng công ty.
Các hình thức của hợp đồng bao gồm: Hợp đồng mua bán; Hợp đồng uỷ thác; Hợp đồng liên doanh liên kết; Hợp đồng hợp tác kinh doanh. Các hợp đồng ngoại thương có giá trị lớn trước khi ký kết bắt buộc phải có phương án kinh doanh. Các hợp đồng sau khi ký kết được đăng ký với phòng giấy phép Bộ thương mại. Trường hợp những hàng hoá quản lý bằng hạn ngạch (quota) đơn vị phải xin phép Bộ thương mại và chỉ sau khi Bộ cấp hạn ngạch mới tiến hành giao dịch ký kết hợp đồng ngoại thương. Tránh trường hợp hàng về trước rồi mới xin hạn ngạch hoặc mua bán hạn ngạch.
Đối với hợp đồng thiết bị lẻ có giá trị trên 100.000USD bắt buộc phải có sự chấp thuận của Bộ chủ quản và vụ đầu tư Bộ thương mại. Mỗi đơn vị mua máy đều phải có 3 đơn hàng cạnh tranh. Trong mỗi đơn hàng đều phải chỉ rõ tính năng kỹ thuật, giá cả hợp lý và các điều kiện khác để so sánh, lựa chọn. Chỉ sau khi các đơn hàng được nghiên cứu kỹ và được Bộ thuơng mại đồng ý đơn vị mới ký hợp đồng ngoại. Các hợp đồng nhập khẩu uỷ thác sau khi thực hiện đều có thanh lý hợp đồng.
Hình thức thanh toán hợp đồng ngoại thương thì tuỳ theo trị giá hàng hoá, đối tác nước ngoài hoặc các yếu tố khác mà đơn vị sẽ chọn các hình thức thanh toán khác nhau như: mở tín dụng thư; điện chuyển tiền hay hình thức mở tài khoản
2/ Cơ chế điều hành nhập khẩu của Công ty XNK Lắp máy
Tổng công ty lập dự toán các công trình tham gia đấu thầu, công trình đang thi công ở trong nước và nước ngoài và giao cho Công ty XNK cân đối giá để nhập khẩu phục vụ cho kế hoạch của Tổng công ty phân phối theo nhu cầu của các đơn vị thành viên. Sau khi tham gia vào tính toán thực tế ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0497.doc