Lời nói đầu
Việc chuyển sang nền kinh tế mở vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng với đó là sự phát triển của hàng loạt các loại hình doanh nghiệp mới: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần.. và kéo theo sự sôi động của một thị trường tràn ngập hàng hoá. Vì vậy,khó khăn của các doanh nghiệp Nhà nước là điều không tránh khỏi. Để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường mang đầy tính cạnh tranh thì
87 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1321 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty XNK và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc Bản đồ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
không có con đường nào khác là phải nâng cao khả năng cạnh tranh qua việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Điều này càng mang tầm quan trọng đặc biệt đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu.
Thông qua xuất nhập khẩu chúng ta có điều kiện nắm bắt và tiếp cận những thành tựu khoa học kỹ thuật trên thế giới, thúc đẩy sản xuất trong nước ngày càng hiện đại phát triển, kích thích và mở rộng nhu cầu trong nước, đưa cuộc sống con người ngày càng văn minh hiện đại, khai thác triệt để tiềm năng và thế mạnh của đất nước và thế giới trên cơ sở phân công lao động quốc tế và chuyên môn hoá quốc tế.
Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới và việc hội nhập vào các tổ chức tự do hoá mậu dịch AFTA, APEC đã đưa hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của nước ta sang một giai đoạn phát triển mới có nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn. Do đó đòi hỏi phải điều chỉnh lại hoạt động xuất nhập khẩu để hoạt độngxuất nhập khẩu thực sự mang lại hiệu quả to lớn cho việc phát triển kinh tế xã hội đất nước.
Nhận thức được sự phức tạp và tầm quan trọng của hoạt động xuất nhập khẩu, cũng như trước đòi hỏi thực tế của việc hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của công tác xuất nhập khẩu, cùng với kiến thức được trang bị tại nhà trường và những tìm hiểu thực tế trong đợt thực tập cuôí khoá tại Công ty Xuất nhập khẩu và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc Bản đồ, để đi sâu nghiên cứu vấn đề hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu tôi mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu "Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty Xuất nhập khẩu và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc Bản đồ ". Đề tài này nhằm mục đích trình bày những vấn đề cốt lõi của nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu, thực trạng của hoạt động xuất nhập khẩu ở Công ty Xuất nhập khẩu và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc Bản đồ, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu của Công ty Xuất nhập khẩu và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc Bản đồ.
Luận văn tốt nghiệp được chia làm ba chương chính:
Chương I : Lý luận chung về hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.
Chương II : Phân tích và đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở Công ty Xuất nhập khẩu và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc Bản đồ.
Chương III : Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở Công ty Xuất nhập khẩu và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc Bản đồ.
Đề tài này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của PGS.Tiến sỹ Nguyễn Kế Tuấn và với sự giúp đỡ của cô Trần thị Kim Dung- Kế toán trưởng - Công ty Xuất nhập khẩu và Tư vấn Dịch vụ Đo đạc Bản đồ.
Đây là một đề tài rộng và phức tạp, lại do những hạn chế về trình độ cũng như thời gian nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết.
Kính mong được sự góp ý, bổ sung của các thày cô để đề tài được hoàn thiện hơn.
Chương I: Lý luận chung về hiệu
quả hoạt động kinh doanh xuất
Nhập khẩu
I. Xuất nhập khẩu và vai trò trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
1. Bản chất và tính tất yếu khách quan của kinh doanh xuất nhập khẩu.
1.1 Khái niệm kinh doanh xuất nhập khẩu.
Kinh doanh xuất nhập khẩu là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các nước thông qua hành vi mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia.
Kinh doanh xuất nhập khẩu là sự mở rộng của các quan hệ mua bán trong nước và ngoài nước. Trước đây, khi chưa có quan hệ trao đổi hàng hoá, cá nhân mỗi con người cũng như mỗi quốc gia đều tự thoả mãn lấy các nhu cầu của mình, lúc đó mọi nhu cầu của con người cũng như của quốc gia bị hạn chế. Quan hệ mua bán trao đổi hàng hoá xuất hiện khi có sự ra đời cuả quá trình phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá, sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và tác động của những quy luật kinh tế khách quan, phạm vi chuyên môn hóa và phân công lao động xã hội ngày càng rộng, nó vượt ra khỏi một nước và hình thành nên các mối quan hệ giao dịch quốc tế. Chuyên môn hoá và phân công lao động quốc tế càng sâu sắc, các mối quan hệ quốc tế càng được mở rộng, các nước càng có sự phụ thuộc lẫn nhau và hình thành các mối quan hệ buôn bán với nhau.
Kinh doanh xuất nhập khẩu là quá trình buôn bán giữa các nước với nhau, là lĩnh vực phân phối, lưu thông hàng hoá với nước ngoài .
1.2 Tính tất yếu khách quan của kinh doanh xuất nhập khẩu.
Kinh doanh xuất nhập khẩu là quá trình trao đổi hàng hoá giữa các nước thông qua buôn bán nhằm mục đích kinh tế tối đa. Trao đổi hàng hoá là một hình thức của các mối quan hệ kinh tế xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất kinh doanh hàng hoá riêng biệt của các quốc gia. Kinh doanh xuất nhập khẩu là lĩnh vực quan trọng nhằm tạo điều kiện cho các nước tham gia vào phân công lao động quốc tế, phát triển kinh tế và làm giàu cho đất nước.
Ngày nay, khi quá trình phân công lao động quốc tế đang diễn ra hết sức sâu sắc, kinh doanh xuất nhập khẩu được xem như là một điều kiện tiền đề cho sự phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Thực tế cho thấy, không một quốc gia nào có thể tồn tại chứ chưa nói gì đến phát triển nếu tự cô lập mình không quan hệ kinh tế với thế giới. Kinh doanh xuất nhập khẩu đã trở thành vấn đề sống còn vì nó cho phép thay đổi cơ cấu sản xuất và nâng cao mức tiêu dùng cuả dân cư một quốc gia. Bí quyết thành công trong chiến lược phát triển kinh tế của nhiều nước là mở rộng thị trường quốc tế và tăng nhanh xuất khẩu sản phẩm hàng hoá qua chế biến có hàm lượng kỹ thuật cao.
Sự ra đời và phát triển của kinh doanh xuất nhập khẩu gắn liền với quá trình phân công lao động quốc tế. Xã hội càng phát triển, phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu sắc. Điều đó phản ánh mối quan hệ phụ thuộc kinh tế ngày càng tăng lên. Kinh doanh xuất nhập khẩu cũng vì thế mà ngày càng mở rộng và phức tạp.
Kinh doanh xuất nhập khẩu xuất hiện từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiên và xã hội giữa các quốc gia. Chính sự khác nhau đó nên đều có lợi là mỗi nước chuyên môn hoá sản xuất những mặt hàng cụ thể phù hợp với điều kiện sản xuất và xuất nhập khẩu hàng hoá của mình để xuất nhập khẩu những hàng hoá cần thiết khác. Điều quan trọng là mỗi nước phải xác định cho được những mặt hàng nào mà nước mình có lợi nhất trên thị trường cạnh tranh quốc tế. Sự gia tăng của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu xét về kim ngạch cũng như chủng loại hàng hoá đã làm cho vấn đề lợi ích của mỗi quốc gia được xem xét một cách đặc biệt chú trọng hơn. Nhiều câu hỏi đã được đặt ra: Tại sao Mỹ lại nhập cà phê và xuất lương thực? Tại sao Nhật lại xuất hàng công nghiệp và chỉ nhập nguyên liệu thô? Tại sao một nền kinh tế kém phát triển như Việt Nam lại có thể hy vọng đẩy mạnh kinh doanh xuất nhập khẩu? Lý thuyết lợi thế so sánh của nhà kinh tế học David Ricardo (1817 ) đã giải thích một cách căn bản và có hệ thống những câu hỏi này.
Theo thuyết lợi thế so sánh, nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong sản xuất hầu hết các loại sản phẩm, thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào kinh doanh xuất nhập khẩu để tạo ra lợi ích của mình. Nghĩa là, nếu quốc gia này tham gia vào kinh doanh xuất nhập khẩu thì nó có thể thu được lợi ích không nhỏ. Khi tham gia vào kinh doanh xuất nhập khẩu, quốc gia có hiệu quả thấp trong sản xuất tất cả các loại hàng hoá sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng có ít bất lợi nhất ( đó là những hàng hóa có lợi thế tương đối ) và nhập khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng bất lợi lớn nhất ( đó là các hàng hoá không có lợi thế tương đối ). Khi tham gia vào kinh doanh xuất nhập khẩu, các quốc gia này sẽ thu được lợi ích không nhỏ.
Lý thuyết lợi thế tương đối ( hay so sánh ) của David Ricardo đã giải thích được cơ chế lợi ích khi kinh doanh xuất nhập khẩu diễn ra giữa các quốc gia có điều kiện sản xuất khác nhau. Tuy nhiên, người ta cũng thấy rằng, kinh doanh xuất nhập khẩu vẫn diễn ra giữa các quốc gia khi giữa chúng có các điều kiện sản xuất khá giống nhau. Chẳng hạn, sự trao đổi buôn bán ô tô là khá phát triển giữa Mỹ và Nhật; điều tương tự cũng xảy ra đối với mặt hàng điện tử giữa các nước Tây Âu. Rõ ràng là, không có thế lực nào bắt buộc hai nước phải buôn bán với nhau nếu một nước không có lợi. Các quốc gia hoàn toàn tự do trong việc lựa chọn mặt hàng cũng như đối tác buôn bán có khả năng đem lại lợi ích cao cho họ.
Những lợi ích mà kinh doanh xuất nhập khẩu đem lại đã làm cho thương mại và thị trường thế giới trở thành nguồn lực của nền kinh tế quốc dân, là nguồn tiết kiệm nước ngoài, là nhân tố kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học công nghệ. Kinh doanh xuất nhập khẩu vừa là cầu nối kinh tế của mỗi quốc gia với các nước khác trên toàn thế giới, vừa là nguồn hậu cần cho sản xuất và đời sống của toàn xã hội văn minh hơn, thịnh vượng hơn. Chính vì vậy, nó được coi là bộ phận của đời sống hàng ngày.
Nhận thức rõ ràng những điều đó, Đảng và Nhà nước ta đã có những bước đi đúng đắn trong đường lối đối ngoại của mình. Với chính sách đa dạng hoá và đa phương hoá các quan hệ kinh tế quốc tế, mở cửa đã làm cho nền kinh tế nước ta sống dậy, hoạt động ngoại thương trong những năm qua đã thu hút được những thành tựu đáng kể. Chính vì vậy, tại Đại hội Đảng lần thứ VIII, Đảng ta đã khẳng định " Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Hợp tác nhiều mặt song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, giải quyết các vấn đề tồn tại và tranh chấp bằng thương lượng." ( Văn kiện Đại hội VIII Đảng Cộng sản Việt Nam ).
2.Các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu chủ yếu
2.1 Các hình thức nhập khẩu
- Nhập khẩu uỷ thác
- Nhập khẩu trực tiếp
- Nhập khẩu đổi hàng
- Nhập khẩu tái xuất
2.2 Các hình thức xuất khẩu
- Xuất khẩu hàng hoá dưới các hình thức trao đổi hàng hoá, hợp tác sản xuất và gia công quốc tế.
- Xuất khẩu thiết bị toàn bộ, thiết bị lẻ, vật tư phụ tùng cho sản xuất.
- Chuyển khẩu- tạm nhập tái xuất.
- Các dịch vụ như làm đại lý, uỷ thác cho các tổ chức nước ngoài.
- Hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh tế Việt Nam ở nước ngoài.
3.Nội dung công tác xuất nhập khẩu hàng hoá ở các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu .
3.1 Nội dung hoạt động xuất nhập khẩu .
Thông thường nội dung hoạt động bao gồm các nội dung sau:
3.1.1. Nghiên cứu thị trường
Khác với mua bán trong nước, kinh doanh nhập khẩu diễn ra trên thị trường thế giới, người kinh doanh thường ở các nước khác nhau, hàng hoá buôn bán được chuyển qua biên giới của mỗi nước,mỗi nước lại có một chính sách, thể lệ và tập quán thương mại khác nhau. Người kinh doanh phải giải đáp nhiều câu hỏi như: Mua bán hàng hoá gì ? ở đâu ? với ai ? vào thời điểm nào ? giá cả và chất lượng ra sao ? thanh toán bằng hình thức gì, đồng tiền nào ? ... Công việc nghiên cứu thị trường bao gồm:
a1. Nghiên cứu thị trường trong nước
Trước hết doanh nghiệp phải nắm chắc tình hình trong nước về các mặt có liên quan đến việc xuất nhập khẩu
- Nhận biết hàng hoá xuất nhập khẩu
- Doanh nghiệp nắm chắc các chính sách, chế độ tập quán của nước liên quan đến việc xuất nhập khẩu hàng hoá.
a2. Nghiên cứu thị trường nước ngoài
Nghiên cứu thị trường nước ngoài theo các khía cạnh chủ yếu: đặc tính hàng hoá, thị hiếu của khách hàng, chính sách tập quán thương mại, tình hình tài chính, tín dụng, điều kiện chuyên chở và bốc xếp, nắm chắc các điều kiện về phẩm chất và chủng loại hàng, đặc tính thị trường như dung lượng thị trường, giá thị trường.
a3. Lựa chọn đối tượng giao dịch.
Trên cùng một thị trường, cùng một loại hàng có rất nhiều nhà kinh doanh khác nhau, vì vậy khi lựa chọn cần tìm hiểu về: thái độ chính trị của đối tượng giao dịch, khả năng kinh tế , loại hình doanh nghiệp, phạm vi kinh doanh, vốn và cơ sở vật chất kỹ thuật của đối tác , uy tín của đối tác trên thị trường đó. Lựa chọn đối tượng giao dịch nên dùng các phương pháp như qua sách báo, tài liệu, qua tư vấn của nhà nước , qua điều tra trực tiếp hoặc buôn bán thử để tìm hiểu dần.
3.1.2. Lập phương án giao dịch
Lập kế hoạch cụ thể để tiến hành hoạt động giao dịch gồm nhiều chi tiết trong đó có các vấn đề sau:
- Lựa chọn mặt hàng kinh doanh xuất hoặc nhập khẩu
- Xác định số lượng hàng xuất hoặc nhập khẩu
- Lựa chọn thị trường - khách hàng - phương thức giao dịch .
- Lựa chọn thời điểm, thời gian giao dịch.
- Các biện pháp để đạt mục tiêu lựa chọn trên như chiêu đãi, mời khách, quảng cáo, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất...
- Những tính toán để luận chứng cho các mục tiêu và các biện pháp trên dự báo kết quả công việc giao dịch phải xác định.
3.1.3. Giao dịch, đàm phán trước khi ký kết hợp đồng.
3.1.4. Ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá
Việc giao dịch đàm phán nếu có kết quả sẽ dẫn tới việc ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương. Hình thức văn bản của hợp đồng là bắt buộc đối với các đơn vị xuất nhập khẩu của nước ta trong quan hệ với nước ngoài3.1.5. Tổ chức thực hiện hợp đồngxuất nhập khẩu
Sau khi đã ký kết hợp đồng, các bên có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng.
3.2 Quy trình xuất nhập khẩu hàng hoá.
Quy trình xuất khẩu hàng hoá được biểu diễn qua sơ đồ sau:
Tạo nguồn hàng và khách hàng xuất khẩu
Đàm phán ký kết hợp đồng xuất khẩu
khâu
Những thủ tục cần thiết cho hợp đồng xuất khẩu
Buộc bên nhập khẩu mở L/C nếu thanh toán theo L/C
Xin giấy phép xuất khẩu
Chuẩn bị hàng xuất khẩu
Kiểm tra chất lượng hàng xuất khẩu
Thuê tàu lưu cước nếu giá CIF
Tkhẩu
Mua bảo hiểm
Làm thủ tục hải quan
Giao nhận hàng với tàu
Làm thủ tục thanh toán
Quy trình nhập khẩu hàng hoá được biểu diễn qua sơ đồ sau:
Lựa chọn đối tác
Ký kết hợp đồng
Những hướng dẫn cần thiết làm giấy tờ thủ tục
Mở tín dụng
Phái tàu đến tiếp nhận vận chuyển hàng hoá
Làm bảo hiểm vận chuyển hàng hoá
Hàng đến
Kiểm tra chứng từ và trả tiền
Thủ tục hải quan
Làm thủ tục hải quan
Khai báo hải quan
Nghiệm thu hàng hóa
Bồi thường nhập khẩu
Nếu nhập khẩu uỷ thác thỉ từ bước thủ tục hải quan ta thêm bước:
Thời gian quyêt toán
Tính ra tiền trong nước (theo nội tệ )
Quyết toán bằng ngoại tệ
Giao hàng cho khách hàng
Khách hàng nhận, kiểm tra, xử lý
Nhận tiền hoa hồng ( tiền mặt hoặc chứng từ)
Thời kỳ thanh toán chứng từ
4. Vai trò xuất nhập khẩu trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở nước ta.
Xuất nhập khẩu hàng hoá là một hoạt động nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá của một quá trình tái sản xuất mở rộng nhằm mục đích liên kết sản xuất với tiêu dùng của nước này với nước khác. Hoạt động đó không chỉ diễn ra giữa các cá thể riêng biệt mà là có sự tham gia của toàn bộ hệ thống kinh tế với sự điều hành của Nhà nước.
Chính vì vậy, xuất nhập khẩu có vai trò to lớn trong sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Nền sản xuất xã hội một nước phát triển như thế nào phụ thuộc rất lớn vào lĩnh vực hoạt động kinh doanh này. Thông qua xuất nhập khẩu có thể làm tăng ngoại tệ thu được, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu cho ngân sách nhà nước, kích thích đổi mới công nghệ, tiếp cận được phương thức quản lý và kinh doanh mới, cải biến cơ cấu kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm, tạo sự cạnh tranh của hàng hoá nội và ngoại, nâng cao mức sống của người dân.
Đối với những nước mà trình độ phát triển kinh tế còn thấp như nước ta, những nhân tố tiềm năng : tài nguyên thiên nhiên, lao động. Những yếu tố thiếu hụt : vốn, kỹ thuật, thị trường và khả năng quản lý. Chiến lược xuất nhập khẩu có vai trò quan trọng đối với nước ta, đặc biệt trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá hiện nay. Về thực chất chiến lược này là giải pháp mở cửa nền kinh tế nhằm tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, kết hợp chúng với tiềm năng trong nước về lao động và tài nguyên thiên nhiên để tạo ra sự tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế góp phần rút ngắn khoảng cách chênh lệch với các nước giàu.
Với định hướng phát triển kinh tế xã hội của Đảng, chính sách kinh tế đối ngoại nói chung và thương mại nói riêng phải được coi là một chính sách cơ cấu có tầm quan trọng chiến lược nhằm phục vụ quá trình phát triển của nền kinh tế quốc dân. Chính sách xuất nhập khẩu phải tranh thủ được tới mức cao nhất nguồn vốn kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của nước ngoài nhằm thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, giải quyết việc làm cho người lao động.
I. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu.
1. Quan điểm về hiệu quả.
1.1. Hiệu quả kinh doanh
Khi đề cập đến vấn đề hiệu quả có thể đứng trên nhiều góc độ khác nhau để xem xét. Nếu xét theo hiệu quả cuối cùng thì hiệu quả kinh tế là hiệu số giữa kết quả thu về và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó, trong đó kết quả chỉ phản ánh kết quả kinh tế thu được như doanh thu bán hàng. Đứng trên góc độ này thì phạm trù hiệu quả đồng nhất với phạm trù lợi nhuận. Hiệu quả kinh doanh cao hay thấp tuỳ thuộc vào trình độ tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh và tổ chức quản lý trong các doanh nghiệp.
Nếu đứng trên góc độ yếu tố riêng lẻ để xem xét thì hiệu quả thể hiện trình độ và khả năng sử dụng các yếu tố đó trong quá trình sản xuất và kinh doanh, nó phản ảnh kết quả kinh tế thu được từ việc sử dụng các yếu tố tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Chỉ tiêu hiệu quả là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố tham gia quá trình sản xuất, kinh doanh đồng thời là phạm trù kinh tế gắn liền với sản xuất hàng hoá, phản ánh trình độ của nền sản xuất hàng hoá, sản xuất hàng hoá có phát triển hay không là do hiệu quả đạt được cao hay thấp, chỉ tiêu hiệu quả phản ánh cả về mặt định lượng và cả về mặt định tính. Về mặt định lượng, hiệu quả kinh tế của sản xuất kinh doanh phản ánh mối tương quan giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra. Về mặt định tính, nó phản ánh ảnh hưởng của hoạt động sản xuất kinh doanh đối với việc giải quyết những yêu cầu và mục tiêu kinh tế, những mục tiêu và yêu cầu chính trị - xã hội.
Khi đứng trên phạm vi khác nhau để xem xét vấn đề hiệu quả thì có thể chia hiệu quả ra nhiều loại khác nhau:
- Nếu đứng trên phạm vi toàn xã hội và nền kinh tế quốc dân để xem xét thì phạm vi hiệu quả sẽ là hiệu quả kinh tế xã hội và hiệu quả chính trị. Cả hai hiệu quả này đều có vị trí quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội đất nước. Trong thời kỳ bao cấp nước ta quá coi trọng hai hiệu quả này trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong điều kiện hiện nay thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước bên cạnh việc bảo đảm hiệu quả kinh tế, hiệu quả kinh doanh cần phải chú ý đến hiệu quả kinh tế xã hội và hiệu quả chính trị. Đối với các nước tư bản chủ nghĩa, các doanh nghiệp hoạt động đều nhằm mục đích hiệu quả kinh tế và hiệu quả kinh doanh, còn một số doanh nghiệp nhà nước nhằm thực hiện một số chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế xã hội.
- Nếu đứng trên phạm vi từng yếu tố, từng doanh nghiệp riêng lẻ thì có phạm trù hiệu quả kinh tế và phạm trù hiệu quả kinh doanh.
Hiệu quả kinh tế là những lợi ích kinh tế đạt được sau khi bù đắp các khoản chi về lao động xã hội. Hiệu quả kinh tế được xác định thông qua so sánh giữa các chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh với chi phí bỏ ra.
Hiệu quả kinh doanh là phạm trù kinh tế phản ánh những lợi ích đạt được từ các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, hiệu quả kinh doanh chính là hiệu quả lao động xã hội được xác định bằng việc so sánh giữa lượng lao động hữu ích cuối cùng thu được với hao phí lao động xã hội.
Như vậy đứng trên các khía cạnh khác nhau người ta có thể có quan điểm về hiệu quả khác nhau. Tuy nhiên trong lĩnh vực quản lý khi giải quyết vấn đề hiệu quả cần phải kết hợp hài hoà giữa lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài, giữa lợi ích trung ương với lợi ích địa phương, giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể với lợi ích quốc gia.
1.2. Hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu.
Hiện nay ở nước ta kinh doanh thương mại quốc tế có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, Nghị Quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII nhấn mạnh:" Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, tăng khả năng xuất khẩu các mặt hàng đã qua chế biến sâu, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ..."( Văn kiện Đại hội Đảng VIII- Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - 1996)
Vì vậy, nâng cao hiệu quả kinh doanh thương mại quốc tế là một nhân tố quyết định để tham gia phân công lao động quốc tế, thâm nhập thị trường nước ngoài. Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh thương mạI quốc tế còn là yêu cầu tất yếu của việc thực hiện quy luật tiết kiệm.
Kinh doanh thương mại quốc tế chiếm một vị trí quan trọng trong tái sản xuất xã hội.
Khi sản xuất các hàng hoá để xuất khẩu, các quốc gia bỏ ra những chi phí nhất định. Các tỷ lệ trao đổi ( mua bán ) được hình thành trên cơ sở giá cả quốc tế. Mức giá và tương quan của nó khác với giá trong nội bộ của nước xuất khẩu. Mặt khác, sản phẩm nhập khẩu tham gia vào lưu thông hàng hoá trong nước và tham gia vào quá trình tái sản xuất xã hội, thực tế không tái sản xuất tại nước đó.
Kinh doanh thương mại quốc tế thông qua hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu đem lại cho nền kinh tế quốc dân nói chung bằng cách làm đa dạng hoá hoặc làm tăng khối lượng giá trị sử dụng cho nền kinh tế quốc dân và mặt khác làm tăng thu nhập quốc dân nhờ tranh thủ được lợi thế so sánh trong trao đổi đối với nước ngoài, tạo thêm tích luỹ cho quá trình tái sản xuất trong nước, góp phần cải thiện đời sống nhân dân trong nước.
Với đặc thù của kinh doanh xuất nhập khẩu, hoạt động kinh doanh này phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường văn hoá của các tác nhân nước ngoài. Vì vậy, khi thực hiện hoạt động kinh doanh này cần phải xem xét tổng quan các tác nhân ảnh hưởng đến nó để có các phương pháp làm việc và giải quyết công việc tối ưu, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh này ngày càng phát triển phù hợp với xu thế chung của thời đại và định hướng của Đảng và Nhà nước ta.
Xét về mặt lý luận, nội dung cơ bản của hiệu quả kinh tế trong kinh doanh thương mại quốc tế là góp phần đắc lực thúc đẩy nhanh năng suất lao động xã hội và tăng thu nhập quốc dân có thể sử dụng, qua đó tạo thêm nguồn tích lũy cho sản xuất và nâng cao mức sống trong nước.
2. Phương pháp đánh giá hiệu quả
2.1 Các quan điểm cơ bản trong việc đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp có liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau, do đó khi đánh giá hiệu quả cần quán triệt những quan điểm sau:
- Bảo đảm thống nhất giữa nhiệm vụ chính trị và nhiệm vụ kinh doanh trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Do đặc điểm của nước ta là phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa cho nên đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả kinh doanh phải xuất phát từ mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước. Nó thể hiện trước hết các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước phải thực hiện các chỉ tiêu pháp lệnh hoặc các đơn hàng nhà nước giao hoặc các hợp đồng kinh tế nhà nước ký kết với các doanh nghiệp vì đó là nhu cầu, là điều kiện để phát triển cân đối nền kinh tế quốc dân, nền kinh tế hàng hoá. Những nhiệm vụ kinh tế và chính trị nhà nước giao cho doanh nghiệp đòi hỏi doanh nghiệp trước hết việc sản xuất kinh doanh cần phải hướng tới đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế, của thị trường trong nước, lợi ích quốc gia.
- Bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể với lợi ích xã hội
Quan điểm này đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. trước hết nhằm đáp ứng bảo đảm lợi ích cá nhân, tập thể người lao động nhưng cũng không phải vì thế mà gây tổn thương đến lợi ích quốc gia mà cần phải gắn chặt lợi ích quốc gia khi nâng cao lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể. Đồng thời cũng không vì lợi ích xã hội mà làm tổn thương đến lợi ích tập thể, lợi ích cá nhân người lao động.
- Bảo đảm tính toàn diện và hệ thống trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh
Quan điểm này đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả kinh doanh cần phải xuất phát và bảo đảm yêu cầu nâng cao hiệu quả của nền sản xuất của ngành, của địa phương và cơ sở. Trong từng đơn vị cơ sở khi đánh giá hiệu quả kinh doanh cần phải xem xét đầy đủ các mối quan hệ qua lại, tác động của các tổ chức , lĩnh vực trong một hệ thống theo những mục tiêu nhất định.
- Bảo đảm tính thực tiễn trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Quan điểm này đòi hỏi khi đánh giá và xác định các mục tiêu, biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh cần phải xuất phát từ đặc điểm kinh tế xã hội của ngành, của địa phương và những khả năng thực tế của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Có như vậy các chỉ tiêu nâng cao hiệu quả kinh doanh mà doanh nghiệp đề ra mới có cơ sở khoa học và thực tiễn để thực hiện.
- Phải căn cứ vào kết quả cuối cùng cả về giá trị và hiện vật để đánh giá hiệu quả kinh doanh.
Quan điểm này đòi hỏi khi đánh giá hiệu quả kinh doanh một mặt cần phải căn cứ vào số lượng sản phẩm đã tiêu thụ, mặt khác phải căn cứ vào số lượng sản phẩm đã sản xuất ra, số lượng sản phẩm dở dang, bán thành phẩm để xác định chỉ tiêu hiệu quả về mặt hiện vật.
2.2 Các mối quan hệ kinh tế chủ yếu cần phải giải quyết khi nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp.
Hiệu quả kinh tế là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp, có liên quan đến tất cả các lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp do đó chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau. Để nâng cao hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp cần phải thực hiện các mối quan hệ kinh tế chủ yếu sau đây:
- Mối quan hệ giữa các hàng hoá tiêu thụ trên thị trường với hàng hoá sản xuất ra và tổng sản lượng.Trong đó phải tăng tốc độ tiêu thụ hàng hoá trên thị trường, giảm hàng hoá tồn kho, bán thành phẩm, sản phẩm dở dang.
- Mối quan hệ giữa tốc độ tăng kết quả lao động sống và chi phí chi ra đểduy trì và phát triển sức lao động.Trong đó tốc độ tăng năng xuất lao động phải nhanh hơn tốc độ tăng lương bình quân và tăng tiền công lao động.
- Mối quan hệ giữa tốc độ tăng kết quả sản xuất kinh doanh và tăng các nguồn chi phí để đạt kết quả đó. Trong đó tăng kết quả phải nhanh hơn tăng chi phí.
- Mối quan hệ giữa kết quả sản xuất kinh doanh và tăng chi phí sử dụng tài sản lưu động để đạt kết quả đó. Trong đó tốc độ tăng kết quả nhanh hơn chi phí tài sản cố định để đạt kết quả đó.
- Mối quan hệ giữa tăng vốn đầu tư và tăng năng lực sản xuất mới.Trong đó tốc độ tăng năng lực sản xuất mới nhanh hơn tốc độ tăng vốn đầu tư để đạt tăng năng lực mới.
3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Khi xem xét hiệu quả sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp cần phải dựa vào hệ thống tiêu chuẩn sau:
- Doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường nhưng phải tuân thủ sự quản lý vĩ mô của nhà nước.
- Phải kết hợp hài hoà ba lợi ích kinh tế: cá nhân, tập thể, nhà nước. Tuyệt đối không vì lợi ích cá nhân làm tổn hại lợi ích tập thể.
- Lợi nhuận doanh nghiệp kiếm được phải dựa trên cơ sở vận dụng linh hoạt, sáng tạo các quy luật của nền sản xuất hàng hoá.
- Mức thu nhập thuần tuý của doanh nghiệp trên lao động phải thường xuyên tăng lên.
Để đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp xuất nhập khẩu người ta thường dựa vào nhóm chỉ tiêu sau:
Chỉ tiêu
Công thức xác định
*Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động
- Năng xuất lao động
Kim ngạch xuất nhập khẩu trong kỳ
Tổng số lao động bình quân trong kỳ
- Kết quả sản xuất trên một đồng chi phí tiền lương
Kim ngạch xuất nhập khẩu trong kỳ
Tổng số lao động bình quân trong kỳ
- Lợi nhuận bình quân tính cho một lao động
Lợi nhuận trong kỳ
Tổng số lao động bình quân trong kỳ
*Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định
- Sức sản xuất của vốn cố định
Kim ngạch xuất nhập khẩu trong kỳ
Số dư bình quân vốn cố định trong kỳ
- Sức sinh lợi của vốn cố định
Lợi nhuận trong kỳ
Vốn cố định bình quân trong kỳ
Hiệu suất sử dụng thời gian làm việc của máy móc thiết bị
Thời gian làm việc thực tế của MMTB
Thời gian làm việc theo thiết kế
* Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốnlưu động
- Sức sản xuất của vốn lưu động
Kim ngạch xuất nhập khẩu trong kỳ
Vốn lưu động bình quân trong kỳ
- Sức sinh lợi của vốn lưu động
Lợi nhuận trong kỳ
Vốn lưu động bình quân trong kỳ
- Số ngày luân chuyển bình quân 1 vòng quay
365 ngày
Số vòng quay vốn lưu động
- Hệ số đảm nhiệm của vốn lưu động
Vốn lưu động bình quân trong kỳ
Doanh thu tiêu thụ ( trừ thuế )
* Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế tổng hợp
- Kim ngạch xuất nhập khẩu trên tổng chi phí sản xuất và tiêu thụ
Kim ngạch xuất nhập khẩu trong kỳ
Tổng chi phí sản xuất và tiêu thụ trong kỳ
- Kim ngạch xuất nhập khẩu trên một đồng vốn sản xuất
Kim ngạch xuất nhập khẩu trong kỳ
Vốn kinh doanh bình quân trong kỳ
- Doanh lợi theo chi phí
Lợi nhuận trong kỳ
Tổng chi phí tiêu thụ và sản xuất trong kỳ
- Doanh lợi theo vốn sản xuất
Lợi nhuận trong kỳ
Vốn kinh doanh bình quân trong kỳ
- Doanh lợi kim ngạch xuất nhập khẩu thuần
Lợi nhuận trong kỳ
Kim ngạch xuất nhập khẩu thuần
Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng các yếu tố riêng lẻ phản ánh hiệu quả sử dụng từng yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, các chỉ tiêu này càng lớn phản ánh hiệu quả sử dụng các yếu tố càng cao, đồng thời nó cũng phản ánh một khía cạnh nào đó hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả xuất nhập khẩu .
A. Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp.
Mỗi một chủ thể hoạt động trong xã hội đều chịu sự chi phối nhất định các môi trường bao quanh nó. Đó là tổng hợp các yếu tố có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp qua lại lẫn nhau. Chính những nhân tố này quy định xu hướng và trạng thái hành động của chủ thể. Trong kinh doanh thương mại quốc tế, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải chịu sự chi phối c._.ủa các nhân tố bên trong lẫn bên ngoài nước. Các nhân tố này thường xuyên biến đổi, và vì vậy làm cho hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu ngày càng phức tạp hơn. Để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh đòi hỏi các nhà kinh doanh phải nắm bắt và phân tích được ảnh hưởng của từng nhân tố cá biệt tác động tới hoạt động của doanh nghiệp trong từng thời kỳ cụ thể.
1. Nhân tố kinh tế - xã hội trong nước.
Nhân tố kinh tế - xã hội trong nước có ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu ở đây bao gồm trạng thái của nền kinh tế trong nước và các chính sách của nhà nước.
1.1 Trạng thái của nền kinh tế trong nước.
a. Dung lượng sản xuất
Dung lượng sản xuất thể hiện số lượng đầu mối tham gia vào sản xuất hàng hoá xuất nhập khẩu và với số lượng sản xuất lớn thì nó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu trong công tác tạo nguồn hàng, song cũng trong thuận lợi đó,doanh nghiệp có thể phải đương đầu với tính cạnh tranh cao hơn trong việc tìm bạn hàng xuất khẩu và nguy cơ phá giá hàng hoá bán ra thị trường thế giới.
b.Tình hình nhân lực.
Một nước có nguồn nhân lực dồi dào là điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp trong nước xúc tiến xuất nhập khẩu các mặt hàng có sử dụng sức lao động. Về mặt ngắn hạn, nguồn nhân lực được xem như là không biến đổi, vì vậy chúng ít tác động tới sự biến động của hoạt động xuất nhập khẩu. Nước ta nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công rẻ là điều kiện thuận lợi để xuất khẩu các sản phẩm sử dụng nhiều lao động như hàng thủ công mỹ nghệ, may mặc ... và nhập khẩu thiết bị, máy móc kỹ thuật, công nghệ tiên tiến...
c. Nhân tố công nghệ.
Ngày nay, khoa học công nghệ tác động đến tất cả các lĩnh vực kinh tế xã hội và mang lại nhiều lợi ích, trong xuất nhập khẩu nó cũng mang lại hiệu quả cao. Nhờ sự phát triển của hệ thống bưu chính viễn thông,các doanh nghiệp ngoại thương có thể đàm thoại trực tiếp với khách hàng qua telex, fax, điện tín... giảm bớt những chi phí đi lại, xúc tiến hoạt động xuất nhập khẩu. Giúp các nhà kinh doanh nắm bắt các thông tin về diễn biến thị trường một cách chính xác, kịp thời. Bên cạnh đó, nhờ có xuất nhập khẩu mà các doanh nghiệp Việt Nam được tiếp xúc với các thành tựu công nghệ tiên tiến trên thế giới, thay thế, đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp sản xuất. Khoa học công nghệ còn tác động tới các lĩnh vực như vận tải hàng hoá, các kỹ nghệ nghiệp vụ trong ngân hàng... Đó cũng chính là các yếu tố tác động tới hoạt động xuất nhập khẩu.
d. Cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng tốt là một yếu tố không thể thiếu nhằm góp phần thúcđẩy hoạt động xuất nhập khẩu. Cơ sở hạ tầng bao gồm: đường xá, bến bãi, hệ thống vận tải, hệ thống thông tin, hệ thống ngân hàng... có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất nhập khẩu. Nếu các hoạt động này là hiện đại sẽ thúc đẩy hiệu quả xuất nhập khẩu, ngược lại nó sẽ kìm hãm tiến trình xuất nhập khẩu.
1.2 Các chính sách và quy định của Nhà nước.
Thông qua việc đề ra các chính sách và quy định, Nhà nước thiết lập môi trường pháp lý nhằm điều chỉnh các hoạt động của các doanh nghiệp nên nó có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất nhập khẩu. Chúng ta có thể xem xét tác động của các chính sách đó dưới các khía cạnh sau.
a. Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh tỷ lệ giữa giá trị của hai đồng tiền của hai nước với nhau.
Tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái là nhân tố quan trọng thực hiện chiến lược hướng ngoại, đẩy mạnh xuất nhập khẩu. Một tỷ giá hối đoái chính thức được điều chỉnh theo quá trình lạm phát có liên quan gọi là tỷ giá hối đoái được điều chỉnh theo quá trình lạm phát có liên quan hay là tỷ giá hối đoái được điều chỉnh theo quá trình lạm phát có liên quan hay là tỷ giá hối đoái thực tế. Trong quan hệ buôn bán ngoại thương, tỷ giá hối đoái có vai trò quan trọng, tác động lớn tới hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu. Tỷ giá hối đoái tăng hay giảm sẽ làm thay đổi giá trị hàng hoá xuất nhập khẩu, ảnh hưởng tới khả năng sinh lời của doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Có thể đưa ra ví dụ trong xuất khẩu như: Nếu tỷ giá hối đoái chính thức là không đổi và tỷ giá hối đoái thực tế tăng lên thì các nhà xuất khẩu các sản phẩm sơ chế, là người bán theo mức giá cả quốc tế nằm ngoài tầm kiểm soát của họ sẽ bị thiệt. Họ phải chịu chi phí cao hơn do lạm phát trong nước. Hàng xuất khẩu trở nên kém sinh lợi do ngoại tệ thu được phải bán với tỷ giá hối đoái chính thức cố định không được tăng lên để bù lại chi phí sản xuất cao hơn. Các nhà xuât khẩu các sản phẩm chế tạo có thể làm tăng giá cả xuất khẩu của họ để bù đắp lại chi phí nội địa cao hơn, nhưng kết quả khả năng chiếm lĩnh thị trường sẽ giảm. Họ chỉ có thể giữ nguyên mức giá tính theo ngoại hối và lợi nhuận thấp. Nếu tình trạng ngược lại là tỷ giá hối đoái thực tế giảm so với tỷ giá hối đoái chính thức, khi đó sẽ có lợi cho các nhà xuất khẩu nhưng lại bất lợi cho các nhà nhập khẩu.
b. Thuế quan và quota.
Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu chịu ảnh hưởng trực tiếp của thuế xuất nhập khẩu và quota.
Thuế xuất khẩu có xu thế làm giảm xuất khẩu và do đó làm giảm nguồn thu ngoại tệ của đất nước. Tuy nhiên, đối với nước ta hiện nay, thực hiện chủ trương khuyến khích xuất khẩu nên hầu hết các mặt hàng xuất khẩu, đặc biệt các mặt hàng nông sản, không phải chịu thuế xuất khẩu.
Thuế nhập khẩu có xu thế làm giảm nhập khẩu và do đó làm tăng nguồn thu ngoại tệ của đất nước. Hiện nay ở nước ta, rất nhiều mặt hàng phải chịu thuế nhập khẩu để hạn chế nhập khẩu nhằm bảo vệ các ngành sản xuất các mặt hàng đồng nhất ở trong nước. Nhưng bắt đầu giai đoạn này, thực hiện chủ trương hội nhập với thế giới, tham gia vào AFTA,nước ta đang tiến dần tới việc xoá bỏ dần một số hình thức bảo hộ bằng thuế nhập khẩu.
Còn quota là hình thức hạn chế về số lượng xuất nhập khẩu, có tác động một mặt làm giảm số đầu mối tham gia xuất nhập khẩu trực tiếp, mặt khác tạo cơ hội thuận lợi cho những người xin được quota xuất nhập khẩu.
c. Các chính sách khác của Nhà nước.
Các chính sách khác của Nhà nước như xây dựng các mặt hàng chủ lực, trực tiếp gia công xuất khẩu, đầu tư cho xuất nhập khẩu, lập các khu chế xuất, các chính sách tín dụng xuất nhập khẩu ... cũng góp phần to lớn tác động tới tình hình xuất nhập khẩu của một quốc gia. Tuỳ theo mức độ can thiệp, tính chất và phương pháp sử dụng các chính sách trên mà hiệu quả và mức độ ảnh hưởng của nó tới lĩnh vực xuất nhập khẩu sẽ như thế nào. Bên cạnh các chính sách trên, nhóm các chính sách hỗ trợ mang tính thể chế - tổ chức, các khung pháp lý và hệ thống hành chính cũng là một trong các nhân tố tác động trực tiếp tới hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp.
Những thay đổi cơ bản trong quản lý quá trình xuất nhập khẩu của Nhà nước cũng ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu. Đặc biệt là từ khi ra đời Nghị định 57/1998NĐ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn thi hành thì quyền tự do kinh doanh của thương nhân được mở rộng tạo ra một bước tiến mới, họ được quyền kinh doanh tất cả những gì mà pháp luật cho phép, tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh cho các doanh nghiệp. Thủ tục xin phép đăng ký kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp với những điều kiện ràng buộc về vốn, tiêu chuẩn, nghiệp vụ ... đối với doanh nghiệp đã được dỡ bỏ. Từ khi thi hành nghị định này ( 1/9/1998 ) nước ta đã có hơn 30.000 doanh nghiệp được quyền tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu, sự tăng lên về con số này khó tránh khỏi tình trạng tranh mua, tranh bán, giá cả cạnh tranh, ép giá, dìm giá , làm cho nhiều doanh nghiệp bước đầu chưa tìm được lối thoát nên hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu còn thấp.
Những thay đổi về thủ tục thông quan xuất nhập khẩu hàng hóa tại các cửa khẩu, việc áp dụng các luật thuế mới đối với hàng hóa xuất nhập khẩu cũng ảnh hưởng đến quá trình xuất nhập khẩu. Nhà nước luôn luôn tạo điều kiện để xúc tiến nhanh quá trình xuất nhập khẩu nhưng việc áp dụng các văn bản đã được ban hành xem ra vẫn còn tồn tại một khoảng cách khá xa giưã văn bản và thực tế, giữa nói và làm, nhiều khi vẫn còn xảy ra " cuộc chiến " giữa " luật và lệ ".
2. Nhân tố tài nguyên thiên nhiên và địa lý.
Nguồn tài nguyên thiên nhiên là một trong những nhân tố quan trọng làm cơ sở cho quốc gia xây dựng cơ cấu ngành và vùng để xuất nhập khẩu. Nó góp phần ảnh hưởng đến loại hàng, quy mô hàng xuất nhập khẩu của quốc gia.
Vị trí địa lý có vai trò như là nhân tố tích cực hoặc tiêu cực đối với sự phát triển kinh tế cũng như xuất nhập khẩu của một quốc gia. Vị trí địa lý thuận lợi là điều kiện cho phép một quốc gia tranh thủ được phân công lao động quốc tế, hoặc thúc đẩy xuất nhập khẩu dịch vụ như du lịch, vận tải, ngân hàng...
3. ảnh hưởng của tình hình kinh tế - xã hội thế giới.
Trong xu thế toàn cầu hoá thì phụ thuộc giữa các nước ngày càng tăng, vì vậy mà mỗi sự biến động của tình hình kinh tế - xã hội ở nước ngoài đều có những ảnh hưởng nhất định đến hoạt động kinh tế trong nước. Lĩnh vực hoạt động xuất nhập khẩu là lĩnh vực trực tiếp quan hệ với các chủ thể ở nước ngoài, chịu sự chi phối và tác động của các nhân tố ở nước ngoài nên nó lại càng rất nhạy cảm. Bất kỳ một sự thay đổi nào về chính sách xuất nhập khẩu, tình hình lạm phát, thất nghiệp hay tăng trưởng và suy thoái kinh tế... của các nước đều ảnh hưởng tới hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu ở nước ta.
B. Nhóm nhân tố thuộc bản thân doanh nghiệp.
1. Nhân tố bộ máy quản lý hay tổ chức hành chính.
Là sự tác động trực tiếp của các cấp lãnh đạo xuống cán bộ công nhân viên nhằm mục đích buộc phải thực hiện một hoạt động. Để quản lý tập trung thống nhất phải sử dụng phương pháp hành chính. Việc thiết lập cơ cấu tổ chức của bộ máy doanh nghiệp cũng như cách thức điều hành của các cấp lãnh đạo là nhân tố quyết định tính hiệu quả trong kinh doanh. Nếu một doanh nghiệp có cơ cấu tổ chức hợp lý, cách điều hành sáng suốt sẽ góp phần thúc đẩy hiệu quả hoạt động kinh doanh, ngược lại nếu cơ cấu tổ chức xệch xoạc, cách điều hành kém cỏi sẽ dẫn đến hiệu quả thấp trong hoạt động kinh doanh.
2. Nhân tố con người.
Con người luôn được đặt ở vị trí trung tâm của mọi hoạt động. Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá đặc biệt phải nhấn mạnh đến yếu tố con người bởi vì nó là chủ thể sáng tạo và trực tiếp điều hành các hoạt động ảnh hưởng của nhân tố này thể hiện qua hai chỉ tiêu chủ yếu nhất. Đó là tinh thần làm việc và năng lực công tác. Tinh thần làm việc được biểu hiện bởi bầu không khí trong doanh nghiệp, tình đoàn kết và ý chí phấn đấu cho mục tiêu chung. Năng lực của nhân viên lại biểu hiện qua kỹ năng điều hành, công tác nghiệp vụ cụ thể và qua kết quả của hoạt động. Để nâng cao vai trò của nhân tố con người, các doanh nghiệp một mặt phải chú trọng đào tạo cán bộ, công nhân viên, bồi dưỡng và nâng cao nghiệp vụ của họ, mặt khác, phải quan tâm thích đáng đến lợi ích cá nhân, bao gồm cả lợi ích vật chất lẫn lợi ích tinh thần.
3. Mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp.
Kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp ngoại thương phụ thuộc rất lớn vào hệ thống mạng lươí kinh doanh của nó. Một mạng lưới kinh doanh rộng lớn, với các điểm kinh doanh được bố trí hợp lý là điều kiện để doanh nghiệp thực hiện các hoạt động kinh doanh như tạo nguồn hàng, vận chuyển, làm đại lý xuất nhập khẩu ... một cách thuận tiện hơn và do đó góp phần nâng cao hơn hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu. Nếu mạng lưới kinh doanh là quá thiếu, hoặc bố trí ở các điểm không hợp lý sẽ gây cản trở cho hoạt động kinh doanh làm triệt tiêu tính năng động và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường.
4. Khả năng cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp.
Cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp như vốn cố định bao gồm các máy móc, thiết bị chế biến, hệ thống kho hàng, hệ thống phương tiện vận tải, các điểm thu mua hàng, các đại lý, chi nhánh và trang thiết bị của nó cùng với vốn lưu động là cơ sở cho hoạt động kinh doanh. Các khả năng này quy định quy mô, tính chất của lĩnh vực hoạt động xuất nhập khẩu, và vì vậy cũng góp phần quyết định đến hiệu quả kinh doanh.
Chương II. Phân tích và đánh giá hiệu
quả hoạt động kinh doanh xuất nhập
khẩu ở Công ty Xuất nhập khẩu và Tư
vấn - Dịch vụ Đo đạc Bản đồ.
I. Khái quát về Công ty Xuất nhập khẩu và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc Bản đồ.
1.Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Xuất nhập khẩu và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc Bản đồ
1.1. Quá trình hình thành và phát triển.
Công ty XNK và tư vấn- dịch vụ Đo đạc - Bản đồ là doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Tổng cục Địa chính hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu và tư vấn dịch vụ đo đạc - bản đồ. Công ty được thành lập theo quyết định số 109/1999/QC- ĐC ngày 18 tháng 03 năm 1999 của Tổng cục trưởng Tổng cục Địa chính căn cứ theo Quyết định số 1254/ĐMDM ngày 23 tháng 10 năm 1998 và Quyết định số 637/1998/QĐ-ĐC ngày 30 tháng 10 năm 1998, Quyết định số 715/1998/QĐ- ĐC ngày 24 tháng 11 năm 1998 của Tổng cục trưởng Tổng cục Địa chính về việc sáp nhập Trung tâm Tư vấn - Dịch vụ thuộc Công ty Địa chính vào Công ty Xuất nhập khẩu Trắc địa - Bản đồ và đổi tên Công ty Xuất nhập khẩu Trắc địa - Bản đồ thành Công ty Xuất nhập khẩu và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc - Bản đồ.
Tiền thân của Công ty là Công ty Kỹ thuật Trắc địa - Bản đồ được thành lập năm 1989 theo quyết định của Cục trưởng Cục Đo đạc và Bản đồ Nhà nước với chức năng nhập khẩu công nghệ mới, phát triển công nghệ để hiện đại hoá ngành đo đạc - bản đồ. Công ty là đơn vị duy nhất của ngành đã được Bộ Thương mại xét duyệt và cấp giấy phép xuất nhập khẩu trực tiếp. Năm 1992 Cục Đo đạc Bản đồ Nhà nước đẵ quyết định thành lập Liên hiệp Khoa học Sản xuất Trắc địa - Bản đồ dựa trên cơ sở hợp nhất và tổ chức lại Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Trắc địa- Bản đồ và Công ty Kỹ thuật Trắc địa - Bản đồ, trong đó Công ty Kỹ thuật Trắc địa - Bản đồ được chuyển thành Công ty Xuất Nhập Khẩu Trắc địa - Bản đồ, một doanh nghiệp Nhà nước đăng ký hoạt động theo 388, thuộc Cục Đo đạc Bản đồ. Năm 1994 khi Tổng cục Địa chính được thành lập, Công ty Xuất Nhập Khẩu Trắc địa Bản đồ đẵ được tổ chức lại trên cơ sở sáp nhập thêm Công ty Thiết bị và Dụng cụ Đo đạc - Bản đồ và là đơn vị trực thuộc Tổng cục.
Năm 1999 là năm đầu tiên công ty thực hiện nhiệm vụ theo quyết định số 715/1998/QC-ĐC ngày 24 tháng 11 năm 1998 của Tổng cục Trưởng Tổng cục Địa chính về việc chuyển bộ phận kinh doanh vật tư - Trung tâm Dịch vụ Tư vấn thuộc công ty Địa Chính vào công ty XNK Trắc địa Bản đồ và đổi tên thành công ty XNK và Tư vấn Dịch vụ Đo đạc Bản đồ.
Công ty XNK và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc Bản đồ là doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Tổng cục Địa chính, hoạt động trong phạm vi cả nước và nước ngoài về xuất nhập khẩu và tư vấn dịch vụ Đo đạc - Bản đồ có tên giao dịch đối ngoại là Import - Export and Consultancy - Service Company for Survice and Mapping. Viết tắt là IMECOSUM
Ngay từ khi còn là Công ty Kỹ thuật Trắc địa - Bản đồ cho tới nay Công ty đẵ thành công trong việc nhập khẩu, phát triển, chuyển giao công nghệ, kiểm định và bảo dưỡng hầu hết các thể loại công nghệ mới của ngành đo đạc - bản đồ như công nghệ GPS, đo đạc điện tử tự động và bản đồ số, GIS, bay chụp và xử lý ảnh máy bay, đo vẽ ảnh công nghệ số, đo đạc biển tự động. Hiện nay Công ty đang là đại lý cung cấp hàng cho hầu hết các nhà sản xuất thiết bị đo đạc - bản đồ trên thế giới. Đây là một lợi thế quan trọng đối với một công ty để bảo đảm quyền lợi bảo hành, sửa chữa và đào tạo sau cung cấp hàng, có lợi về giá cả và luôn được cập nhập thông tin về công nghệ mới nhất cho ngành.
1.2.Chức năng, nhiệm vụ sản xuất của công ty
- Xuất nhập khẩu trực tiếp công nghệ, thiết bị, vật tư và sản phẩm của ngành đo đạc- bản đồ.
- Dịch vụ chuyển giao công nghệ sử dụng các loại thiết bị và vật tư kỹ thuật của ngành địa chính.
- Dịch vụ kiểm định, bảo hành, sửa chữa, bảo dưỡng các thiết bị đo đạc - bản đồ.
- Sản xuất và lắp ráp các thiết bị đo đạc - bản đồ.
2. Một số đặc điểm kinh tế - kỹ thuật chủ yếu.
2.1. Đặc điểm về nhiệm vụ sản xuất kinh doanh.
2.1.1 Chức năng
- Xuất nhập khẩu trực tiếp công nghệ, thiết bị, vật tư và sản phẩm trong lĩnh vực đo đạc - bản đồ.
- Cung cấp các loại máy móc thiết bị, vật tư kỹ thuật, công nghệ và dịch vụ kỹ thuật thuộc lĩnh vực đo đạc - bản đồ.
- Cung cấp dịch vụ tư vấn kỹ thuật, kinh tế và quản lý trong lĩnh vực đo đạc - bản đồ.
- Đảm bảo các dịch vụ kiểm định, bảo hành, bảo dưỡng, sửa chữa, lắp ráp các thiết bị, vật tư kỹ thuật đo đạc - bản đồ.
- Phát hành các loại sổ sách, biểu mẫu, giấy chứng nhận phục vụ công tác quản lý đất đai và đo đạc - bản đồ.
- Tổ chức sản xuất các thiết bị, dụng cụ, phụ tùng thay thế chuyên ngành đo đạc - bản đồ. Sản xuất thử nghiệm công nghệ và thiết bị mới, hướng dẫn và chuyển giao công nghệ phục vụ cho ngành địa chính và thị trường.
- Tư vấn và thực hiện các dịch vụ liên quan đến ngành địa chính.
2.1.2 Nhiệm vụ
-Tổ chức giao dịch nhập khẩu trực tiếp, làm đại lý bán hàng và cung cấp cho thị trường trong nước các loại công nghệ, thiết bị ,vật tư và sản phẩm đo đạc - bản đồ, bao gồm các nhóm hàng:
Dây chuyền công nghệ đồng bộ phục vụ sản xuất trong lĩnh vực đo đạc - bản đồ.
Các thiết bị đo đạc mặt đất, đo đạc hàng không - vũ trụ, đo đạc biển, phần cứng và phần mềm xử lý số liệu, xử lý phim ảnh và bản đồ, chế bản và in bản đồ.
Vật tư kỹ thuật phục vụ đo đạc, biên tập bản đồ, bay chụp ảnh địa hình, xử lý phim ảnh hàng không - vũ trụ, chế bản và in bản đồ.
Các sản phẩm đo đạc - bản đồ bao gồm tài liệu và sách báo kỹ thuật chuyên ngành, các số liệu đo đạc, các thể loại bản đồ, phim ảnh hàng không - vũ trụ.
- Tổ chức xuất khẩu các thể loại hàng hoá sau:
Thiết bị phần cứng, phần mềm và phụ tùng thay thế của ngành sản xuất tại Việt Nam.
Tài liệu và sách báo kỹ thuật chuyên ngành.
Các thể loại thông tin địa lý, bản đồ trong phạm vi được phép.
- Tổ chức xuất nhập khẩu trực tiếp hoặc uỷ thác một số ngành hàng khác được các cơ quan quản lý Nhà nước cho phép nhằm cân đối ngoại tệ giữa xuất khẩu và nhập khẩu.
- Tổ chức sản xuất thử nghiệm công nghệ và thiết bị mới, hướng dẫn và chuyển giao công nghệ phục vụ ngành địa chính và nhu cầu thị trường.
- Thực hiện dịch vụ tư vấn kỹ thuật, kinh tế và quản lý trong lĩnh vực đo đạc - bản đồ bao gồm:
Lập các dự án đầu tư phát triển thuộc lĩnh vực đo đạc - bản đồ.
Khảo sát, thiết kế, lập luận chứng kinh tế - kỹ thuật cho các công trình đo đạc - bản đồ và hồ sơ địa chính.
Tư vấn về giải pháp công nghệ, giải pháp kinh tế - kỹ thuật, các biện pháp áp dụng tiến bộ kỹ thuật và thiết bị mới.
Tư vấn về quản lý dự án, quản lý tài chính, quản lý sản xuất trong thực hiện các dự án trong nước và nước ngoài.
Thực hiện và chứng nhận kiểm định định kỳ các loại thiết bị đang sử dụng theo quy định kỹ thuật.
Tư vấn về nghiệm thu kết quả thực hiện các dự án đầu tư phát triển, các công trình lắp đặt dây chuyền công nghệ và các thiết bị lẻ.
- Tư vấn và thực hiện dịch vụ về giao đất, các chuyển dịch có liên quan đến quyền sử dụng đất và tài sản trên đất; về khai thác các thể loại thông tin, tư liệu đất đai và đo đạc bản đồ.
- Phát hành các loại sổ sách, biểu mẫu, giấy chứng nhận phục vụ công tác quản lý đất đai và đo đạc bản đồ.
- Tổ chức các dịch vụ chuyên gia, triển lãm, hội thảo công nghệ cho các ngành Địa chính bao gồm:
Giới thiệu và cung cấp dịch vụ chuyên gia trong và ngoài nước, tổ chức hoạt động cho các chuyên gia.
Tổ chức triển lãm, giới thiệu sản phẩm công nghệ mới.
Tổ chức các hội thảo, hội nghị giới thiệu công nghệ.
- Tổ chức bảo hành sau cung cấp hàng, bảo dưỡng định kỳ, sửa chữa các loại thiết bị trong lĩnh vực đo đạc - bản đồ.
- Tổ chức sản xuất các mặt hàng sau:
Dụng cụ đo đạc và các phụ tùng thay thế.
Lắp ráp các thiết bị đo đạc - bản đồ theo linh kiện của nước ngoài.
Các sản phẩm phần mềm.
- Tổ chức thực hiện các dịch vụ về đo đạc - bản đồ.
2.1.3 Đánh giá chung
Nhìn chung, với số lao động chính thức Công ty có một mạng lưới cộng tác viên đông đảo, có khả năng cung cấp tất cả các loại công nghệ, thiết bị, vật tư kỹ thuật cho đo đạc bản đồ;chuyển giao công nghệ mới; đào tạo cán bộ kỹ thuật; kiểm định bảo dưỡng và sửa chữa thiết bị sau cung cấp. Khách hàng trong nước của Công ty là các đơn vị của Tổng cục, các sở địa chính và hầu hết các đơn vị đo đạc - bản đồ thuộc các Bộ Quốc phòng, Giao thông, Xây dựng, Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn v. v. Do đặc điểm khách hàng như vậy nên nhiệm vụ kinh doanh cuả Công ty ổn định, thị trường trong nước hầu như là thị trường độc quyền. Vì vậy, tầm hoạt động của Công ty rộng, doanh số tăng hàng năm ở mức ổn định, hiệu quả kinh doanh rất cao, thu nhập của cán bộ công nhân viên đảm bảo ở mức độ cao trong khu vực sản xuất - kinh doanh.
2.2. Đặc điểm về cơ sở vật chất và trang thiết bị
Vốn cố định : 326832187 VNĐ.
Vốn lưu động : 6016478663 VNĐ.
Giá trị nhà xưởng : 4076309089 VNĐ.
Thiết bị nhà xưởng : 3562329169 VNĐ.
Thiết bị quản lý : 513979920 VNĐ.
Giá trị trang thiết bị của công ty ở mức độ hiện đại, về máy tính phục vụ quản lý được nâng cấp và trang bị những máy hiện đại, các phần mềm ứng dụng được nâng cấp kịp thời phục vụ cho các nghiệp vụ của Công ty.Vì vậy, các trang thiết bị tương đối đồng bộ với nhau và phục vụ hiệu quả cho công tác sản xuất kinh doanh của công ty. Tuy vậy không thể khẳng định rằng trang thiết bị của công ty là hoàn toàn phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh vì trong thời kỳ này Công tyđang gặp nhiều vấn đề trong kinh doanh. Kinh doanh giảm sút nên Công tyquyết định tập trung vào Trung tâm kinh doanh xuất nhập khẩu, nhưng ở đây máy móc thiết bị mua về lạI để cho Trung tâm Sửa chữa, Bảo dưỡng máy. Bên cạnh những thuận lợi công ty còn gặp không ít khó khăn về một số máy đo đạc còn lạc hậu không đáp ứng tốt nhu cầu.Từ một số nét trên cho thấy sự cần thiết của việc hoàn thiện cơ cấu trang thiết bị của công ty nhằm đảm bảo việc phục vụ tốt nhất cho nhu cầu của thị trường.
2.3. Đặc điểm về lao động.
Công ty gồm có 82 người trong đó có 5 người làm việc tại Chi nhánh của công ty ở TP.Hồ Chí Minh và 77 người làm việc tại Hà Nội. Toàn bộ nhân sự của công ty được phân công làm việc tại 5 bộ phận cụ thể:
Bảng 01 Cơ cấu lao động Công ty Xuất nhập khẩu và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc Bản đồ
Đơn vị tính: người
STT
Đơn vị
Trình độ
Trên
ĐH
Đại học
Trung cấp
Công
nhân Nhân viên
Lái xe
Tổng
Cộng
1
Lãnh đạo Công ty
1
2
3
2
Phòng Tổ chức-Hành chính
3
3
8
1
15
3
Phòng kế hoạch-Tài vụ
2
3
2
7
4
Trung tâm Kinh doanh XNK
' Phòng KD Thiết bị và Sản phẩm
' Phòng KD Vật tư
8
4
2
2
3
4
1
1
25
5
Trung tâm Tư vấn- Dịch vụ
' Phòng Tư vấn ĐĐ-BĐ
' Phòng Phát triển Côngnghệ
1
4
3
2
1
5
2
18
6
Trung tâm Sửa chữa, Bảo dưỡng và Sản xuất thiết bị
'XưởngKiểm định, Sửa chữa, Bảo dưỡng Thiết bị
' Xưởng Sản xuất Thiết bị
2
2
4
3
3
14
7
Tổng cộng
2
30
17
30
3
82
Việc lập cơ cấu lao động theo tiêu thức trình độ cho thấy trình độ lao động trong công ty tương đối đồng đều, số cán bộ có trình độ đại học và trên đại học là 34 trên tổng số 82 người, chiếm 39% tổng số lao động trong toàn doanh nghiệp. Số cán bộ có trình độ trung cấp là 18 người trên tổng số 82 lao động, chiếm 22% tổng số lao động trong doanh nghiệp, còn lại số công nhân viên trong doanh nghiệp chiếm 39%. Với trình độ như vậy, việc khai thác khả năng làm việc tối ưu của mọi thành viên trong doanh nghiệp nhằm đem lại hiệu qủa cao trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Nếu lập cơ cấu lao động theo lứa tuổi
Lứa tuổi từ 22 đến 30 tuổi có 14 người trên tổng số 82 người chiếm 17% tổng số lao động.
Lứa tuổi từ 31 đến 40 tuổi có 23 người trên tổng số 82 người chiếm 28% tổng số lao động.
Lứa tuổi từ 41 đến 50 tuổi có 42 người trên tổng số 82 người chiếm 52% tổng số lao động.
Lứa tuổi trên 51 tuổi có 3 người chiếm 3% tổng số lao động.
Theo cơ cấu lứa tuổi trên, số lao động của công ty có độ tuổi trung bình cao; vì vậy tương đối ổn định về gia đình, về năng lực làm việc, có nhiều kinh nghiệm trong kinh doanh, trong công tác.Tuy nhiên, do đặc điểm lứa tuổi, số nhân viên này lại thiếu sự năng động, sáng tạo trong công việc, làm viêc chủ yếu dựa vào kinh nghiệm. Điều này đòi hỏi phải có một lớp trẻ kế cận để tiếp thu và học hỏi kinh nghiệm, do vậy công ty cần tuyển thêm một số cán bộ trẻ, có trình độ, phù hợp với yêu cầu của công việc.
2.4 Đặc điểm về cơ cấu tổ chức.
2.4.1.Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Công ty XNK và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc - Bản đồ.
Đứng đầu Công ty là Giám đốc. Giám đốc công ty do Tổng cục trưởng Tổng cục Địa chính bổ nhiệm. Giám đốc Công ty chịu trách nhiệm toàn diện về mọi mặt hoạt động của đơn vị trước Tổng cục trưởng Tổng cục Địa chính , trước pháp luật và trước tập thể cán bộ công nhân viên Công ty. Để thực hiện trách nhiệm trên, Giám đốc có trách nhiệm và quyền hạn theo quy định của Nhà nước.
Giúp việc Giám đốc có 2 Phó giám đốc và một Kế toán trưởng. Phó giám đốc, Kế toán trưởng do Tổng cục trưởng bổ nhiệm và miễn nhiệm theo đề nghị của Giám đốc. Phó giám đốc được Giám đốc phân công phụ trách theo từng lĩnh vực công tác và chịu trách nhiệm về lĩnh vực được phân công trước Giám đốc Công ty và trước pháp luật Nhà nước.
* Tổ chức bộ máy của Công ty như sau:
- Đứng đầu là Ban giám đốc gồm Giám đốc và 2 Phó giám đốc. Trong đó
+ Giám đốc phụ trách chung, phụ trách về Tổ chức- cán bộ, phụ trách kinh doanh.
+ Phó giám đốc thứ nhất phụ trách về sản xuất
+ Phó giám đốc thứ hai phụ trách chi nhánh phía nam.
- Giúp việc cho Ban giám đốc là các phòng ban chức năng, gồm:
+ Phòng Tổ chức - Hành chính.
+Phòng Kế hoạch - Tài vụ.
+ Trung tâm Kinh doanh Xuất nhập khẩu bao gồm:
Phòng Kinh doanh Thiết bị và Sản phẩm.
Phòng Kinh doanh Vật tư.
+ Trung tâm Tư vấn và Dịch vụ Đo đạc - Bản đồ bao gồm:
Phòng Tư vấn - Dịch vụ.
Phòng Tư vấn Công nghệ.
+ Trung tâm Sửa chữa, Bảo dưỡng và Sản xuất Thiết bị Đo đạc - Bản đồ bao gồm:
Xưởng Kiểm định và Sửa chữa Thiết bị.
Xưởng Sản xuất và Lắp ráp Thiết bị.
+ Chi nhánh Công ty XNK và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc - Bản đồ tại TP. Hồ Chí Minh.
+ Chi nhánh Công ty XNK và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc - Bản đồ tại TP.Đà Nẵng.
II.Phân tích thực trạng hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty.
1. Kết quả kinh doanh của Công ty những năm qua
Với những đặc điểm về cơ cấu tổ chức bộ máy, ngành nghề kinh doanh và quá trình hình thành phát triển của Công ty Xuất nhập khẩu và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc Bản đồ như đã trình bày ở trên, trong thời gian qua hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty cũng như hoạt động xuất nhập khẩu đã liên tục thu được những thắng lợi đáng kể, cả về mặt hiệu quả kinh tế lẫn hiệu quả xã hội. Chúng ta cũng biết rằng do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ và hậu quả của sự phát triển quá nhanh, " quá nóng" nên những nền kinh tế " bong bóng " của các nước trong khu vực Đông Nam á đã phải chịu những tổn thất nặng nề. Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam nói riêng và của các quốc gia trong khu vực nói chung đã bị chững lại, đặc biệt ở Việt Nam thì trong lĩnh vực xuất nhập khẩu và đầu tư nước ngoài tốc độ giảm xuống rõ rệt, nhiều doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn, thua lỗ nặng. Trước bối cảnh chung đó đòi hỏi các doanh nghiệp quốc doanh cũng như tư doanh phải cải tổ lại cơ cấu tổ chức, định hướng lại ngành nghề và chiến lược kinh doanh, vấn đề hiệu quả kinh doanh phải được đặt lên hàng đầu. Công ty Xuất nhập khẩu và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc Bản đồ cũng không nằm ngoài bối cảnh đó.
Có thể đưa ra kết quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty qua một số chỉ tiêu sau:
Bảng 02 Kim ngạch xuất nhập khẩu
Đơn vị : triệu đồng
Chỉ tiêu
1994
1995
1996
1997
1998
1999
Kim ngạch XK
105
247
279
266
262
161
Kim ngạch NK
2895
4500
17810
45193
44123
29740
Tổng kim ngạch XNK
3.000
4740
18.089
45459
44385
29903
Bảng 03
Chỉ tiêu
1994
1995
1996
1997
1998
1999
Vốn được cấp(triệu đồng)
Vốn cố định
137
0
0
2.511
0
0
Vốn lưu động
50
640
1054
3540
3543
0
Doanh số
3.000
4740
18.089
45459
44385
29903
Nộp ngân sách NN (triệu đồng)
122
318
1.000
1.800
2.000
1.700
Thu nhập bình quân (đồng)
250.000
600.000
1.200.000
1.500.000
1.800.000
1.200.000
Từ bảng trên ta thấy: công ty đã có nhiều cố gắng nhằm phát triển công ty; điều này được thể hiện qua các số liệu về vốn, doanh số, nộp ngân sách, thu nhập bình quân từ năm 1994 đến năm 1999. Tuy trong năm 1999 các chỉ tiêu trên có giảm nhưng nguyên nhân chủ yếu là do việc sáp nhập và tổ chức lại công ty; do đó cả quý I năm 1999 mọi hoạt động của công ty chỉ xoay quanh việc bàn giao, tiếp nhận và tổ chức lại các đơn vị trực thuộc. Mặc dù vậy, trong năm 1999 hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty vẫn đạt nhiều kết quả khả quan; điều này được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 04
Đơn vị tính: 1.000 đ
STT
Chỉ tiêu
Kếhoạch 1999
Thực hiện 1999
% TH/KH
I
Cấp giấy CNQSD đất
2.200.000 tờ
2.788.000 tờ
126,7%
II
Doanh thu
Máy móc thiết bị
Vật tư các sản phẩm về giấy
Sửa chữa bảo dưỡng
Tư vấn- dịch vụ
22.000.000
14.300.000
7.000.000
500.000
200.000
29.903.000
23.800.000
5.830.000
373.000
-
125%
152,44%
75,14%
75,4%
-
III
Nộp ngân sách
Thuế VAT
Thuế Nhập khẩu
1.527.470
2.246.066
1.524.000
722.066
147%
IV
Lợi nhuận
260.400
400.000
153%
V
Quỹ lương
1.428.707
1.350.000
94%
Có thể nói rằng, từ khi sáp nhập thành công ty XNK và tư vấn dịch vụ Đo đạc - Bản đồ, hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty đã đạt được những thành tựu đáng kể. Trước đây, các mặt hàng kinh doanh chủ yếu của công ty thường là các thiết bị đơn giản, rẻ tiền phù hợp với các công trình nhỏ. Hoạt động tư vấn và dịch vụ chưa triển khai do nhiều nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan. Tổ chức tư vấn và dịch vụ trong ngành Địa chính còn mới mẻ và còn nhiều ý kiến khác nhau nên việc tuyên truyền quảng cáo cũng gặp phải không ít những khó khăn. Tuy nhiên, năm 1999, năm sáp nhập, là năm công ty sản xuất kinh doanh thắng lợi. Doanh thu đạt gần 28 tỷ đồng. Đó là doanh thu không có kế hoạch Nhà nước giao. Doanh thu hoàn toàn tự khai thác. Đặc biệt trong công tác tư vấn công nghệ: tuy nhiệm vụ được giao hoàn toàn mới nhưng phòng đẵ hoàn thành vượt mức kế hoạch được giao. Doanh thu ._.u cầu về máy móc thiết bị trong ngành với chất lượng cao, giá cả hợp lý và có uy tín. Để làm được điều này Công ty cần phải nghiên cứu kỹ đặc điểm sản xuất kinh doanh trong ngành về các loại máy móc thiết bị, phụ tùng thay thế chuyên dụng với chất lượng nào là hợp lý và với giá cả như thế nào là có thể chấp nhận được. Trên cơ sở đó Công ty sẽ rà soát tìm kiếm xem trong tất cả các nhà cung cấp trên thế giới nhà cung cấp nào đáp ứng tốt nhất nhu cầu về chất lượng, giá cả cho các doanh nghiệp. Công ty thu các khoản chênh lệch, phí uỷ thác sao cho các đơn vị có nhu cầu xuất nhập khẩu thông qua Công ty có được hàng hoá chất lượng cao, giá thấp hơn so với các doanh nghiệp khác.
Thị trường ngành Địa chính Việt Nam là thị trường trong ngành của Công ty cho nên Công ty cần thiết thắt chặt các mối quan hệ với các đơn vị trong ngành, Công ty nên thường xuyên thăm hỏi, chúc mừng các đơn vị trong ngành vào những dịp trọng đại để tạo thêm sự thân mật giữa Công ty với các đơn vị trong ngành. Thường xuyên tham gia tư vấn cho các đơn vị trong ngành sử dụng các loại thiết bị máy móc nào là hợp lý, giới thiệu các máy móc thiết bị hiện đại để các đơn vị xem xét việc chuyển giao công nghệ thay thế các thiết bị phụ tùng. Sẵn sàng hỗ trợ các đơn vị gặp khó khăn trong kinh doanh, sẵn sàng bán chịu, trả chậm nếu các đơn vị chưa có khả năng thanh toán ngay. Có như vậy mới tạo ra được mối quan hệ thân mật, gắn bó giữa Công ty với các đơn vị trong ngành, do đó các đơn vị trong ngành sẵn sàng làm ăn với Công ty khi họ có nhu cầu xuất nhập khẩu.
Để tăng cường được vị trí độc quyền của Công ty trong thị trường ngành Địa chính Việt Nam, Công ty cần phải tranh thủ sự hỗ trợ từ phía Tổng cục Địa chính. Vì lợi ích của ngành nói chung và vì lợi ích của Công ty nói riêng nhất định Công ty sẽ nhận được sự hỗ trợ từ phía Tổng cục Địa chính trong quan hệ làm ăn buôn bán với các đơn vị trong ngành. Trước hết, Công ty cần nắm được kế hoạch đầu tư cơ bản, mở rộng sản xuất của Tổng cục Địa chính đối với các đơn vị trong ngành để nhận được các hợp đồng kinh tế lớn của Tổng cục Địa chính, qua Tổng cục Địa chính để biết được kế hoạch đầu tư cơ bản, mở rộng sản xuất của các đơn vị thành viên được Tổng cục Địa chính duyệt từ đó tiến hành giới thiệu sản phẩm, đàm phán, ký kết hợp đồng cung cấp các loại hàng hoá máy móc thiết bị cho xây dựng cơ bản và mở rộng sản xuất của các đơn vị sản xuất trong ngành. Trong trường hợp cần thiết hoặc trong trường hợp Công ty có khó khăn trong việc đạt được các hợp đồng với các đơn vị trong ngành, Công ty có thể tranh thủ sự hỗ trợ, can thiệp nhất định của Tổng cục Địa chính để Công ty có thể giành được hợp đồng.
Như vậy Công ty không thể trở thành độc quyền trong cung cấp các loại hàng hoá cho sản xuất trong ngành do Công ty là người duy nhất cung cấp hàng hoá đó mà Công ty trở thành độc quyền trong thị trường này bằng chính sức mạnh, khả năng cạnh tranh của mình và bằng lợi thế là đơn vị trong ngành có quan hệ mật thiết gắn bó và được sự hỗ trợ, giúp đỡ từ phía Tổng cục Địa chính.
Kết quả có thể đạt được
- Công ty thiết lập được các mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó, làm ăn lâu dài với các đơn vị trong ngành, cung cấp phần lớn thị trường trong ngành và có vai trò không thể thiếu được đối với thị trường trong ngành.
- Ngày càng giành thắng lợi trong cạnh tranh, đoạt được nhiều hợp đồng từ các đối thủ cạnh tranh khác, tiến tới chi phối toàn bộ thị trường trong ngành, cung cấp đầy đủ mọi thiết bị, phụ tùng thay thế, máy móc chuyên dụng đáp ứng nhu cầu sản xuất, mở rộng sản xuất của các đơn vị trong ngành, khống chế được thị trường mua và thị trường bán.
- Nhận được sự bao cấp, hỗ trợ của Tổng cục Địa chính, gắn chặt lợi ích của Công ty, của Tổng cục , các đơn vị trong ngành với nhau trong quá trình kinh doanh, buôn bán.
- Dần dần đưa Công ty có vai trò như một Công ty thương mại tổng hợp trong mô hình tập đoàn, mọi quan hệ giữa các công ty trong tập đoàn với bên ngoài đều thông qua Công ty.
III. Phát triển hoạt động xuất khẩu ở Công ty Xuất nhập khẩu và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc Bản đồ.
Thực chất của hoạt động xuất khẩu là công tác thu mua tạo nguồn hàng. Trong nền kinh tế, công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu, tạo ra một nhu cầu mới về lao động, về vật tư, tiền vốn. Và như vậy tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động, thúc đẩy sản xuất kinh tế phát triển, góp phần thay đổi cơ cấu nền kinh tế theo hướng tham gia vào phân công lao động quốc tế, tiết kiệm các nguồn nhân lực trong nước trên cơ sở kinh doanh có hiệu quả cao.
Đối với các doanh nghiệp, thông qua hệ thống các đại lý thu mua hàng xuất khẩu mà chủ động và ổn định được nguồn hàng. Nguồn hàng xuất khẩu ổn định là tiền đề cho việc phát triển kinh doanh của các doanh nghiệp. Công tác thu mua tạo nguồn hàng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của hàng xuất khẩu, uy tín của doanh nghiệp và hiệu quả kinh doanh. Kinh nghiệm cho thấy, các doanh nghiệp mạnh kinh doanh hàng xuất khẩu không chỉ có nhiều vốn, mà chủ yếu phải có hệ thống chân hàng mạnh, hệ thống đại lý thu mua rộng khắp, hoạt động thường xuyên, theo sát thị trường. Đẩy mạnh công tác thu mua tạo nguồn hàng là một trong những chiến lược của doanh nghiệp nhất là trong tình hình cạnh tranh đang diễn ra gay gắt như hiện nay.
Đối với Công ty Xuất nhập khẩu và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc Bản đồ cũng vậy.
Trong giai đoạn này, nghiệp vụ xuất khẩu của Công ty vẫn ở trong trạng thái tiềm năng, chưa khai thác hết khả năng của Công ty trong lĩnh vực này. Hoạt động xuất khẩu của Công ty hiện nay chủ yếu tập trung vào việc nhận xuất khẩu uỷ thác cho các công ty trong và ngoài ngành có nhu cầu, có hàng hoá, có thị trường xuất khẩu nhưng không được quyền xuất khẩu trực tiếp và tự xuất khẩu một số mặt hàng truyền thống của Công ty như bản đồ Atlat. Do vậy hoạt động xuất khẩu của Công ty vẫn còn yếu kém, tỷ trọng hàng xuất khẩu trong tổng doanh thu hàng xuất nhập khẩu chỉ chiếm khoảng 0,5% đến 0,6% tổng doanh thu hàng xuất nhập khẩu. Có điều này là một mặt do trong chiến lược kinh doanh của Công ty chưa chú trọng đến việc xuất khẩu, chỉ thực hiện theo các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao, mặt khác do Công ty chưa khai thác được thị trường xuất khẩu, chưa đáp ứng được các yêu cầu khắt khe của thị trường này.
Để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu Công ty nên chú trọng vào một số lĩnh vực sau:
- Hoạt động thị trường: Thị trường xuất khẩu là nhân tố hết sức quan trọng quyết định kết quả kinh doanh; đặc biệt trong thị trường đầy tính cạnh tranh hiện nay đòi hỏi Công ty phải có phương án và kế hoạch hết sức rõ ràng, nhất quán.
Để tăng cường và mở rộng thị trường tiêu thụ , Công ty Xuất nhập khẩu và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc Bản đồ cần xúc tiến các hoạt động tiếp thị, giao tiếp với nhiều hình thức phong phú, đa dạng. Công ty cần đặc biệt quan tâm đến các buổi hội chợ triển lãm, các hội nghị kinh tế và cần thiết gửi cán bộ trực tiếp ra nước ngoài để nghiên cứu và lựa chọn thị trường.
Để thành công trong công tác nghiên cứu thị trường, Công ty cần chú ý vấn đề sau:
+ Phân loại thị trường nhằm hiểu biết quy luật hoạt động của từng thị trường trên các mặt : loại sản phẩm họ có và họ đang cần, yêu cầu đặt ra đối với sản phẩm về chất lượng, mẫu mã, dung lượng của thị trường, điều kiện chính trị, thương mại, tập quán buôn bán, hệ thống pháp luật...Mục tiêu của việc phân loại để nắm rõ thị trường và có kế hoạch giới thiệu sản phẩm thông qua chào hàng.
+ "Gạn lọc sơ bộ" những thị trường không thích hợp. Đó là các thị trường có chế độ bảo hộ mậu dịch quá khắt khe, yêu cầu quá cao đối với chất lượng sản phẩm, thị trường quá xa, chi phí xuất khẩu cao.
Theo như điều kiện kinh doanh và mặt hàng của Công ty, trong những năm trước mắt, Công ty cần tập trung khai thác các thị trường sau:
+ Thị trường ASEAN và Đông Nam á. Đây là thị trường chính của Công ty, tiêu thụ hơn 80% kim ngạch xuất khẩu. Công ty đã có mối quan hệ lâu dài với các bạn hàng ở các nước này. Trong những năm tới, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế nên Công ty có thể gặp nhiều khó khăn, vì vậy phương châm kinh doanh là tiếp tục củng cố và duy trì các mối quan hệ truyền thống này.
+ Thị trường Trung Quốc: Đây là thị trường gần gũi của Công. Tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu của Công ty sang thị trường này chưa lớn và cũng chưa ổn định, giá cả ở thị trường này biến động thất thường, phương thức giao dịch và thực hiện hợp đồng rất đa dạng, uy tín của các bạn hàng không được đảm bảo. Vì thế, phương châm kinh doanh ở thị trường này nên thực hiện theo kiểu cuốn gói trong đó vấn đề đảm bảo an toàn thanh toán cho Công ty phải được xem xét thật thận trọng.
+ Thị trường EU:Đây là thị trường mạnh, dân số đông, sức tiêu thụ lớn. Nhìn chung quan điểm của thị trường này khá cởi mở, thông thoáng. Trong những năm qua, quan hệ giữa Công ty và thị trường này đã có những bước tiến tích cực. Vấn đề quan trọng nhất ở thị trường này là Công ty phải đảm bảo được uy tín về chất lượng hàng hoá và các yêu cầu về kỹ thuật.
- Mở rộng danh mục hàng xuất khẩu: Như phân tích ở trên, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Công ty là các mặt hàng liên quan đến giấy ( bản đồ, giấy A4), và một số loại hàng nhận xuất khẩu uỷ thác từ các công ty trong nước. Do vậy danh mục hàng còn quá yếu so với nhu cầu xuất khẩu cũng như tiềm năng xuất khẩu của Công ty. Vì vậy trong những năm tới, Công ty cần mở rộng danh mục mặt hàng xuất khẩu, có thể trong những bước đầu Công ty chỉ cần nhận xuất khẩu uỷ thác cho các công ty khác nhằm huy động hết khả năng kinh doanh của Công ty. Còn trong tương lai xa hơn, với ưu thế vừa mở rộng cơ cấu Công ty thêm hai trung tâm Công ty có thể tạo thêm cho mình những sản phẩm hàng hoá là đặc trưng của mình để xuất khẩu ra nước ngoài.
Kết quả có thể đạt được
- Công ty sẽ có thể nhận được nhiều hợp đồng xuất khẩu uỷ thác tạo thêm doanh thu cho Công ty. Đây cũng là một thuận lợi nhằm tăng thêm lợi nhuận cho Công ty.
- Trên cơ sở xuất khẩu hàng hóa Công ty có điều kiện quan hệ rộng rãi với nhiều bạn hàng, biết được nhiều thị trường mới. Tạo khả năng khai thác các thị trường này cho cả hoạt động xuất khẩu lẫn nhập khẩu.
- Giảm được chi phí tìm kiếm nguồn hàng do đã đảm bảo được công tác thu mua tạo nguồn hàng; tạo khả năng tăng lợi nhuận của Công ty trên cơ sở đó tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty.
IV.Sử dụng chi phí kinh doanh có hiệu quả.
Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải được tính toán xác định trong từng thời kỳ nhất định. Trên thực tế chi phí sản xuất kinh doanh được tính theo từng tháng, quý, năm. Trong điều kiện sản xuất hàng hoá, chi phí sản xuất kinh doanh phải được tính bằng tiền.
Trong sản xuất kinh doanh, chi phí là một mặt, thể hiện sự hao phí hay chi ra. Để đánh giá chất lượng kinh doanh của doanh nghiệp, chi phí chi ra phải được xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ với mặt thứ hai cũng là mặt cơ bản của quá trình sản xuất kinh doanh- đó là kết quả kinh doanh thu được.
Có rất nhiều cách phân loại chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng thông thường ở các doanh nghiệp thường chia chi phí làm 2 loại: chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. Trong đó chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp thuộc chi phí gián tiếp.
Để xác định giá thành sản phẩm, chi phí đóng vai trò rất quan trọng. Phấn đấu hạ giá thành sản phẩm là biện pháp chủ yếu để tăng lợi nhuận doanh nghiệp, là cơ sở nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc hạ giá thành sản phẩm dựa trên cơ sở giảm chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp công nghiệp, việc phấn đấu hạ giá thành dựa trên việc giảm chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp, còn đối với doanh nghiệp thương mại, việc phấn đấu hạ giá bán sản phẩm ngoài việc giảm giá mua sản phẩm hàng hóa còn phụ thuộc vào việc phấn đấu giảm chi phí gián tiếp như chi phí vận chuyển, kho tàng bến bãi...
Trong những năm qua, trong hoạt động kinh doanh, Công ty đã thực hiện chưa tốt việc sử dụng chi phí kinh doanh dẫn đến việc chi phí kinh doanh tăng lên quá cao so với mức doanh thu đạt được. Điều này do một phần chi phí cho quản lý bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp đã tăng quá cao. Như trong phần phân tích ( Bảng 08 ) ta nhận thấy chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp chiếm từ 81 đến 91 % so với lãi gộp.
Năm 1997 tỷ lệ này là 81,68%
Năm 1998 tỷ lệ này là 88,66%
Năm 1999 tỷ lệ này là 91%
Tỷ lệ chi phí bán hàng trong tổng lãi gộp quá lớn đã tạo ra một gánh nặng cho Công ty. Hơn nữa, khi lãi gộp giảm đi: năm 1999 là 2.707.425.559 đồng so với năm 1998 là 3.509.615.594 đồng và năm 1997 là 4.134.952.173 đồng thì chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp lại tăng lên. Tuy nhiên chi phí tăng lên lại do phần chi phí dịch vụ mua ngoài tăng lên đáng kể:
Bảng 13
Đơn vị tính: đồng
Chỉ tiêu
Chi phí dịch vụ mua ngoài
Tổng chi phí
Tỷ lệ CP dịch vụ mua ngoài/ Lãi gộp
1997
950.808.674
3.377.250.898
29%
1998
376.400.929
3.111.603.613
12,1%
1999
606739376
2465239522
24%
Ngoài ra còn khoản chi phí khác cũng chiếm tỷ lệ cao so với tổng chi phí
Bảng 14
Đơn vị tính: đồng
Chỉ tiêu
Chi phí khác
Tổng chi phí
Chi phí khác/ Tổng chi phí
1997
619.005.779
377.250.898
18,4%
1998
943.176.888
3.111.603.613
31%
1999
924.656.177
2.465.239.522
38%
Hai khoản chi phí này đã chiếm từ 45 đến trên 60% tổng chi phí, tạo nên sự lãng phí trong đIều hành quản lý chi phí của doanh nghiệp. Đặc biệt trong khoản mục chi phí khác thì chi phí về tàu xe công tác tăng lên nhiều, còn trong chi phí bán hàng, chi phí cho vận chuyển, lưu kho lưu bãi tăng lên do hàng hoá còn tồn đọng,chưa tiêu thụ được đã tạo thêm gánh nặng cho Công ty. Điều này cho thấy việc sử dụng chi phí của Công ty đang gặp nhiều vấn đề cần giải quyết.
Để giảm được các khoản không cần thiết trong chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp, tạo được hiệu quả trong việc tiết kiệm chi phí, tăng khả năng kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần:
- Giảm chi phí hàng tồn kho. Như đã phân tích, hàng tồn kho của Công ty rất lớn: từ khoảng 2,5 tỷ đến trên 3,3 tỷ đồng, chiếm khoảng 40 đến 55% tổng tài sản lưu động của Công ty. Hàng tồn kho nhiều nhưng kho của Công ty không đáp ứng đủ việc bảo quản số hàng này, vì vậy việc thuê kho để lưu trữ số hàng tồn kho đã làm chi phí tăng thêm rất nhiều. Để giảm chi phí hàng tồn kho, Công ty nên đặt hàng và mua hàng theo đơn đặt hàng trước, nhằm tránh được việc hàng thừa hàng thiếu, đáp ứng không chính xác nhu cầu của khách hàng.
- Tăng năng suất lao động: Tăng năng suất lao động hay giảm lượng lao động dư thừa trong Công ty hiện nay không chỉ là vấn đề đối với riêng Công ty mà còn là mối quan tâm của các doanh nghiệp nhà nước và là chủ trương của Đảng, của Nhà nước. Hiện nay lượng lao động trong Công ty là 82 người trong đó Trung tâm kinh doanh xuất nhập khẩu gồm 18 người làm nhiệm vụ kinh doanh thiết bị sản phẩm và kinh doanh vật tư từ khâu mua hàng đến khâu bán hàng. Ngoài ra, phòng Tổ chức- Hành chính có 15 người quản lý về các khâu như lao động, chỉ đạo hoạt động của Công ty... Phòng này còn quá dư thừa lao động, phải rút bớt lại số lượng lao động trong khu vực này. Theo em, phòng này chỉ nên rút lại còn 10 người, trong đó:
+ 5 người làm công tác quản lý lao động từ khâu tuyển dụng lao động, xây dựng quy hoạch cán bộ và lao động, xây dựng cấp bậc kỹ thuật, thực hiện kế hoạch tiền lương, tổ chức thực hiện kế hoạch đào tạovà đào tạo lại lực lượng lao động của Công ty
+ 1 người làm nhiệm vụ hướng dẫn và tổ chức thực hiện thi đua, khen thưởng kỷ luật trong Công ty
+ 2 người quản lý việc sửa chữa , quản lý và sử dụng có hiệu quả hệ thống tài sản của Công ty.
+1 người quản lý và thực hiện công tác văn thư, công tác tổng hợp và giao ban định kỳ của Công ty.
+ 1 người làm công tác giao dịch, đảm bảo công tác khánh tiết, lễ tân trong công ty
Giảm được 5 người sẽ giảm bớt được khoản chi phí cho tiền lương lao động, sử dụng có hiệu quả lượng lao động trong doanh nghiệp.
Kết quả có thể đạt được.
Với các hình thức giảm chi phí trên, Công ty có thể đạt được kết quả sau:
- Thu hút thêm nhiều khách hàng do đáp ứng tốt nhu cầu về loại hàng hoá mà họ cần. Mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm nhờ có mối quan hệ tốt với khách hàng thông qua các hợp đồng kinh doanh.
- Tăng thêm thu nhập cho người lao động, tạo hiệu quả tối ưu trong sản xuất kinh doanh, giảm được các chi phí phát sinh không cần thiết.
V. Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn sản xuất kinh doanh.
Đối với các doanh nghiệp thương mại có đặc điểm vốn cố định chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng vốn kinh doanh, trong đó vốn lưu động quyết định đến hiệu quả kinh doanh của Công ty. Vì vậy, các doanh nghiệp cố gắng duy trì một tỷ lệ thấp nhất vốn cố định của Công ty bằng việc hạn chế việc mua sắm các tài sản cố định không cần thiết. Đối với vốn lưu động cần phải đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn bằng việc đẩy nhanh tiêu thụ hàng hoá khi nhập khẩu về cũng như cần thiết ký kết hợp đồng tiêu thụ ( trong nước hay xuất khẩu ) hoặc dự kiến tiêu thụ trước khi hàng hoá được nhập về để tránh hàng hóa bị ứ đọng. Đồng thời cần phải cân đối giữa khả năng tiêu thụ và hàng nhập để giảm tối thiểu hàng tồn kho và có biện pháp thích hợp đối với hàng tồn kho.
Về việc sử dụng vốn vay, các doanh nghiệp kinh doanh thương mại có nhu cầu về vốn không ổn định trong năm, có tháng nhu cầu vốn cao, có tháng nhu cầu vốn thấp vì nó phụ thuộc vào nhu cầu hàng hoá xuất nhập khẩu trong từng thời kỳ. Do đó doanh nghiệp cần thiết phải lập kế hoạch dự kiến nhu cầu vốn trong từng thời kỳ để có kế hoạch vay vốn và xác định kỳ hạn đối với từng loại vốn vay.
Công ty Xuất nhập khẩu và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc Bản đồ hiện nay có số vốn khoảng 8,5 tỷ đồng tiền vốn trong đó vốn chủ sở hữu khoảng 4 tỷ đồng và vốn cho kinh doanh chỉ có gần 4 tỷ đồng. Theo đánh giá của Công ty thì vốn kinh doanh hiện có còn quá thấp so với nhu cầu vốn cần thiết cho kinh doanh. Để giải quyết tình trạng thiếu vốn, Công ty thường huy động chủ yếu từ việc thanh toán hàng trả chậm khách hàng nước ngoài. Hơn nữa, xét bố trí cơ cấu vốn của Công ty
Bảng 15: Bố trí cơ cấu vốn của Công ty
Đơn vị tính : %
Chỉ tiêu
1997
1998
1999
Tài sản cố định/ Tổng số tài sản
42%
34%
30%
Tài sản lưu động/ Tổng số tài sản
58%
66%
70%
Theo bảng trên, ta thấy tỷ lệ tài sản cố định trên tổng tài sản của công ty là quá lớn; bởi theo phân tích tài chính doanh nghiệp: một doanh nghiệp thương mại chỉ nên có chỉ tiêu tài sản cố định trên tổng tài sản chiếm từ 20 đến 23%.
Nhưng ở Công ty, thì chỉ tiêu tài sản cố định trên tổng tài sản lại quá lớn, chiếm từ 30 đến 42% tổng tài sản của Công ty. Với lượng tài sản cố định lớn như trên cũng là một trở ngại trong việc sử dụng vốn của Công ty, góp phần tạo nên sự thiếu hụt vốn trong kinh doanh ( do tài sản lưu động trong tổng tài sản không đủ số lượng cần thiết). Với lượng vốn kinh doanh thấp như vậy, vốn của Công ty lại tồn đọng nhiều trong khâu giải quyết hàng tồn kho, lượng hàng tồn kho của Công ty quá lớn, có khi lên đến 3,3 tỷ đồng chiếm gần như toàn bộ lượng vốn kinh doanh của Công ty, làm vòng quay của vốn chậm lại, tạo nên sự không hiệu quả trong sử dụng vốn.
Vốn là yêu cầu cần thiết đối với bất cứ doanh nghiệp kinh doanh nào, đối với Công ty Xuất nhập khẩu và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc Bản đồ cũng không loại trừ điều đó. Việc kinh doanh trong tình trạng thiếu vốn đã làm giảm đáng kể tính hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Vì vậy, mục tiêu của Công ty đề ra là tìm mọi biện pháp tăng vốn kinh doanh.
Để tăng vốn kinh doanh của Công ty trong những năm tới tập trung chủ yếu vào các biện pháp sau:
- Giảm lượng hàng hoá tồn kho: Công ty nên nhập hàng theo đơn đặt hàng của khách hàng nhằm đảm bảo hàng khi nhập về sẽ tiêu thụ hết. Việc nhập hàng theo đơn đặt hàng của khách hàng tạo điều kiện tốt cho Công ty trong việc đáp ứng đúng, đủ, kịp thời nhu cầu về hàng hoá cho khách hàng; làm giảm lượng hàng hoá phải lưu kho, giảm chi phí vận chuyển và các khoản chi phí khác có liên quan. Điều này có ảnh hưởng tích cực đến việc sử dụng vốn của Công ty, tăng khả năng sử dụng vốn của Công ty, hạn chế lượng vốn tồn đọng quá lớn trong việc xử lý hàng tồn kho.
- Tăng do thanh toán hàng trả chậm khách hàng nước ngoài, tuy nhiên đây chỉ là biện pháp tình thế không tạo hiệu quả lâu dài do phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan. Trước hết là sự phụ thuộc vào sự lên xuống của tỷ giá hối đoái; thứ nữa là sự phụ thuộc vào khách hàng, vốn của doanh nghiệp không điều chỉnh được theo ý muốn của doanh nghiệp. Vì vậy đây không phải là biện pháp tốt cho việc huy động vốn của doanh nghiệp.
- Vốn tín dụng: hình thức này đảm bảo cho Công ty lượng vốn cần thiết vào những lúc Công ty cần. Tuy nhiên, việc vay vốn của ngân hàng, của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước sẽ làm giảm lợi nhuận của Cồng ty do Công ty phải chịu một khoản chi trả cho lãi vay. Hơn nữa, việc vay vốn của ngân hàng gặp rất nhiều rắc rối trong quá trình làm thủ tục vay như việc đòi hỏi thế chấp bằng tài sản, bằng quyền sử dụng đất của Công ty...đã đặt ra nhiều vấn đề Công ty cần phải giải quyết.
- Cổ phần hoá công ty: hình thức cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước đang là một chủ trương của Đảng và Nhà nước. Hình thức này đang thể hiện tính ưu việt của nó trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước, tạo sự phát triển,sự hội nhập với xu thế phát triển chung của nền kinh tế thế giới. Qua đánh giá thực tiễn mấy năm vừa qua, việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước đã tạo hiệu quả kinh doanh vượt bậc của các doanh nghiệp này, làm tăng vốn của các doanh nghiệp cổ phần hoá lên 2,3 thậm chí 5 lần.
Với việc cổ phần hoá công ty, Công ty sẽ tạo điều kiện tăng vốn kinh doanh, tranh thủ được sự ủng hộ của Nhà nước. Việc cổ phần hoá cũng đảm bảo lợi thế trong sử dụng và huy động vốn của Công ty, đảm bảo vốn lúc cần, tránh được tình trạng phải trả chi phí lãi vay quá lớn.
Kết quả có thể đạt được
- Tăng nguồn vốn cho kinh doanh mà không chịu quá nhiều sự ảnh hưởng của điều kiện khách quan.
- Nắm bắt được cơ hội kinh doanh, nhận được những hợp đồng lớn mà trước kia do thiếu vốn Công ty không đáp ứng được.
- Tăng hiệu quả kinh doanh, tạo thêm nhiều lợi nhuận do thu hút đựơc những hợp đồng lớn, giảm chi phí lãi vay.
- Quá trình cổ phần hóa ( nếu công ty thực hiện biện pháp này) Công ty bán các cổ phiếu cho các đối tượng như cán bộ công nhân viên của công ty... Với hình thức chuyển hoá quyền sở hữu này sẽ nâng cao vai trò làm chủ của người lao động trong Công ty, kích thích họ nâng cao trách nhiệm và năng suất lao động, tạo động lực trong kinh doanh, góp phần tăng hiệu quả kinh doanh của Công ty.
Kiến nghị với Nhà nước
Nhà nước có vai trò rất lớn trong việc bảo đảm cho các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Để các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả nhà nước cần phải tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi, hệ thống chế độ luật pháp phải đồng bộ, các thủ tục phải đơn giản, gọn nhẹ, bộ máy quản lý làm việc nghiêm túc, có hiệu quả. Đối với cá doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu thì các chính sách của Nhà nước như: chính sách thuế, chính sách xuất nhập khẩu phải rõ ràng, đồng bộ, chặt chẽ và ổn định, các thủ tục cấp giấy phép xuất nhập khẩu, các thủ tục hải quan nên được làm nhanh chóng, thống nhất. Cán bộ làm công tác cấp giấy phép xuất nhập khẩu, cán bộ hải quan nên tạo mọi điều kiện cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu hàng hóa nhanh chóng, thuận lợi.
Về chính sách thuế và chính sách xuất nhập khẩu Nhà nước cần phải quy định cụ thể, chính xác tên hàng, mức thu, Nhà nước quản lý bằng hạn ngạch hay bằng giấy phép để Công ty làm cơ sở ký kết hợp đồng và khai báo hải quan, tính thuế. Đối với các loại máy móc thiết bị Nhà nước quản lý bằng hạn ngạch thì cần phải ưu tiên nhất định cho Công ty vì đây là đơn vị xuất nhập khẩu của cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Khi có sự thay đổi trong chính sách thuế, chính sách xuất nhập khẩu Nhà nước cần thông báo cho Công ty biết trước từ 3-6 tháng để Công ty kịp thời điều chỉnh kế hoạch kinh doanh của mình.
Về hệ thống quản lý xuất nhập khẩu, hải quan còn rườm rà, có nhiều bất cập, đội ngũ cán bộ làm việc quan liêu, làm ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, Nhà nước cần giám sát chặt chẽ công tác hải quan để giảm tối thiểu những việc làm sai trái của cán bộ hải quan. Trong trường hợp có bất đồng quan điểm giữa hải quan và doanh nghiệp, Nhà nước cần phải quy định thời hạn tối đa cho việc giải quyết các tranh chấp để giảm tối đa các chi phí không cần thiết cho các doanh nghiệp. Nếu cơ quan hải quan làm việc không đúng, gây thiệt hại cho các doanh nghiệp thì yêu cầu cơ quan hải quan phải có trách nhiệm bồi thường.
Như vậy cơ chế quản lý nhà nước hoàn thiện sẽ giúp cho các doanh nghiệp nâng cao được hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của mình.
Kết luận
Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu là yêu cầu cấp thiết đối với mọi doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu trong cơ chế thị trường. Với đề tài " Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh doanh của Công ty Xuất nhập khẩu và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc Bản đồ" em muốn đóng góp ý kiến của riêng mình về vấn đề bức xúc đó. Mặc dù các giải pháp đưa ra còn rất chung chung, do một phần còn nhiều hạn chế về kiến thức lý luận và hiểu biết thực tế cũng như còn thiếu rất nhiều thông tin về thị trường, giá cả và sản xuất các loại hàng hoá. Song những giải pháp này muốn đưa ra một số ý tưởng cơ bản để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở Công ty Xuất nhập khẩu và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc Bản đồ.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình và chu đáo của PGS.Tiến sỹ Nguyễn Kế Tuấn và Công ty Xuất nhập khẩu và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc Bản đồ đặc biệt là cô Trần Thị Kim Dung đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho em hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
TàI liệu tham khảo
1. Lý luận và thực tiễn thương mại quốc tế - Trung tâm kinh tế Châu á TháI Bình Dương, NXB Thống kê 1994
2. Tìm hiểu những quy định về hoạt động xuất nhập khẩu - NXB Thống kê 1995
3. Kinh tế đối ngoại Việt Nam- nội dung- giải pháp- hiệu quả : Vũ Phạm Quyết Thắng - NXB Thống kê 1994
4. Thời báo kinh tế - năm 1999
5. Báo kinh tế phát triển - năm 1998,1999
6. Quyết định số 254/1998/QĐ - TTg về điều hành xuất nhập khẩu hàng hóa năm 1999
7. Báo cáo tài chính Công ty Xuất nhập khẩu và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc Bản đồ năm 1997,1998,1999
8. Báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty Xuất nhập khẩu và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc Bản đồ năm 1999
9. Văn bản thông báo, tờ trình hoạt động của Công ty Xuất nhập
khẩu và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc Bản đồ năm 1999
10. Đánh giá tình hình thực hiện hoạt động kinh doanh của Công ty Xuất nhập khẩu và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc Bản đồ năm 1997,1998,1999.
11. Nghị quyết Đại hội Đảng VIII- Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 1996
12. Con số và sự kiện - năm 1999
12 Nghiên cứu kinh tế - số 7,9 năm 1998; số 2 năm 1999.
Mục lục
Lời nói đầu
1
Chương I: Lý luận chung về hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu
3
I. Xuất nhập khẩu và vai trò trong quá trình CNH - HĐH
3
1. Bản chất và tính tất yếu khách quan của kinh doanh xuất nhập khẩu
3
2. Các hình thức xuất nhập khẩu chủ yếu
6
3. Nội dung công tác xuất nhập khẩu hàng hoá ở các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu
7
4. Vai trò xuất nhập khẩu trong quá trình CNH - - HĐH ở nước ta
11
II. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu
12
1. Quan điểm về hiệu quả
12
2. Phương pháp đánh giá hiệu quả
15
3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh
17
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả xuất nhập khẩu
19
A. Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
19
1. Nhân tố kinh tế xã hội trong nước
19
2. Nhân tố tài nguyên thiên nhiên và địa lý
23
3. ảnh hưởng của tình hình kinh tế xã hội thế giới
23
B. Nhóm nhân tố thuộc bản thân doanh nghiệp
24
1. Nhân tố bộ máy quản lý
24
2. Nhân tố con người
24
3. Mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp
24
4. Khả năng cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp
25
Chương II. Phân tích và đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở Công ty Xuất nhập khẩu và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc Bản đồ
26
I. Khái quát về Công ty Xuất nhập khẩu và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc Bản đồ
26
1. Quá trình hình thành và phát triển
26
2. Một số đặc điểm kinh tế kỹ thuật chủ yếu
28
II. Phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty XNK và tư vấn dịch vụ - Đo đạc Bản đồ
35
1. Hiệu quả kinh doanh của Công ty những năm qua
35
2. Các chỉ tiêu phân tích đánh giá hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty
45
2.1. Phân tích số liệu
45
2.2 Đánh giá hiệu quả kinh doanh trên các lĩnh vực của Công ty trong thời gian qua
56
III. Đánh giá tổng quát về tình hình hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty Xuất nhập khẩu và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc Bản đồ
58
1. Thành tựu
58
1.1. Quy mô hoạt động kinh doanh nhập khẩu ngày càng lớn mạnh
59
1.2. ổn định và mở rộng thị trường
59
1.3. Đa dạng hình thức kinh doanh, mở rộng danh mục hàng hoá nhập khẩu
60
1.4. Đảm bảo được hiệu quả việc tổ chức, quản lý công tác xuất nhập khẩu
60
2. Những hạn chế và nguyên nhân
61
2.1. Còn nhiều yếu kém trong công tác tìm kiếm, khai thác và mở rộng thị trường
61
2.2. Chưa tận dụng triệt để lợi thế độc quyền trong cung cấp các loại hàng hóa cho các đơn vị trong ngành Địa chính
62
2.3. Hoạt động kinh doanh xuất khẩu còn chưa phát triển
63
2.4. Sử dụng chi phí cho kinh doanh chưa hiệu quả
64
2.5. Khó khăn trong quá trình sử dụng vốn
64
Chương III Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty Xuất nhập khẩu và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc Bản đồ
65
I. Đẩy mạnh bộ phận nghiên cứu và mở rộng thị trường
65
II. Tăng cường vị trí độc quyền của Công ty trong cung cấp các loại máy móc thiết bị, phụ tùng thay thế cho các đơn vị trực thuộc Tổng cục Địa chính Việt Nam
68
III.Phát triển hoạt động xuất khẩu ở Công ty Xuất nhập khẩu và Tư vấn - Dịch vụ Đo đạc Bản đồ.
71
IV.Sử dụng chi phí kinh doanh có hiệu quả.
74
V. Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn sản xuất kinh doanh.
78
Kiến nghị với Nhà nước
81
Kết luận
83
Tài liệu tham khảo
84
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 23293.doc