Lời nói đầu
Từ khi đất nước chuyển sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế nước ta có nhiều khởi sắc, thu nhập quốc dân mỗi năm một tăng cao, thu nhập bình quân đầu người mỗi năm một gia tăng, đồng thời nền kinh tế cũng hoạt động sôi động và khốc liệt hơn. Do đó để đứng vững trong nền kinh tế mang đầy tính cạnh tranh khốc liệt này là một điều hoàn toàn không hề đơn giản đối với một đơn vị kinh doanh, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp đã quen với sự bao cấp của Nh
76 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1312 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hoá tại Công ty sản xuất kinh doanh XNK (PROSIMEX) - Bộ TM, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à nước. Trước tình hình đó, nhiều doanh nghiệp đã không trụ nổi và đã bị phá sản. Nhưng bên cạnh đó vẫn có không ít các doanh nghiệp không chỉ đứng vững trong thị trường mà còn đưa ra được những biện pháp hữu hiệu làm tăng doanh thu hàng năm cho doanh nghiệp, nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên, góp phần thực hiện tốt các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, thúc đẩy sự tăng trưởng của nước nhà. Công ty Sản xuất Kinh doanh xuất nhập khẩu (PROSIMEX) – Bộ Thương mại là một trong các doanh nghiệp đó. Đây là doanh nghiệp nhà nước hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu. Trong những năm qua Công ty đã luôn phát triển và tạo uy tín tốt với các bạn hàng trong và ngoài nước, và nhập khẩu đã góp phần không nhỏ vào sự thành công này của Công ty. Doanh thu bán hàng nhập khẩu hàng năm chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu của toàn Công ty (70%) do đó nhập khẩu là một lĩnh vực thực sự quan trọng của toàn Công ty.
Để đánh giá một cách chính xác tình hình và vai trò của hoạt động nhập khẩu của Công ty Sản xuất Kinh doanh xuất nhập khẩu em xin chọn đề tài: "Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hoá tại Công ty Sản xuất Kinh doanh xuất nhập khẩu (PROSIMEX) – Bộ Thương mại" làm đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thị Thanh Hà, người trực tiếp hướng dẫn em trong quá trình thực tập. Em cũng xin cảm ơn các cô chú trong Công ty Prosimex, những người đã giúp đỡ em rất nhiều trong thời gian thực tập tại Công ty. Do hạn chế về khả năng bản thân và thời gian nghiên cứu nên chuyên đề này chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo góp ý và giúp đỡ của các thầy cô giáo cùng toàn thể các bạn để đề tài này được hoàn thiện hơn nữa.
Chương I
Những lý luận cơ sở về hiệu quả kinh doanh nhập khẩu.
I. Khái quát về hoạt động nhập khẩu trong nền kinh tế thị trường.
1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
1.1. Khái niệm.
Nhập khẩu là khâu cơ bản của hoạt động ngoại thương. Nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán diễn ra trên phạm vi toàn thế giới. Nhập khẩu không chỉ là hoạt động buôn bán riêng lẻ mà là một hệ thống các quan hệ buôn bán trong một nền kinh tế có tổ chức bên trong và bên ngoài. Nhập khẩu là thể hiện sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới, đặc biệt trong tình hình thế giới hiện nay xu hướng liên kết toàn cầu và khu vực làm cho mức độ ảnh hưởng, tác động của từng quốc gia đối với nhau và của từng khu vực kinh tế thế giới ngày một tăng.
Hoạt động nhập khẩu là hoạt động buôn bán giữa các quốc gia, vì vậy nó phức tạp hơn mua bán trong nước: Mua bán trung gian chiếm tỷ trọng lớn; đồng tiền thanh toán là ngoại tệ, thường là ngoại tệ mạnh; hàng hoá phải chuyển qua biên giới, cửa khẩu của quốc gia khác; hoạt động buôn bán phải tuân theo những tập quán, thông lệ quốc tế cũng như địa phương.
Mục tiêu của hoạt động nhập khẩu là có được hiệu quả cao từ việc nhập khẩu vật tư hàng hoá... phục vụ cho quá trình tái sản xuất mở rộng và nâng cao đời sống trong nước, đồng thời đảm bảo sự phát triển liên tục, nâng cao năng suất lao động, bảo vệ các ngành sản xuất ở trong nước, giải quyết sự khan hiếm ở thị trường nội địa. Mặt khác thông qua thị trường nhập khẩu đảm bảo sự phát triển ổn định những ngành kinh tế mũi nhọn của mỗi nước mà khả năng sản xuất trong nước chưa đảm bảo nguyên liệu cho chúng, tạo những năng lực mới cho sản xuất, khai thác thế mạnh của quốc gia mình, kết hợp hài hoà có hiệu quả nhập khẩu và cán cân thanh toán.
1.2. Đặc điểm.
Nhập khẩu là hoạt động buôn bán giữa các quốc gia trên thế giới. Hoạt động buôn bán phát triển theo những tập quán thông lệ quốc tế, giao dịch buôn bán giữa những người có quốc tịch khác nhau.
Thương mại quốc tế có quan hệ trực tiếp đến quan hệ chính trị các nước nhập khẩu và các nước xuất khẩu, vì vậy hoạt động nhập khẩu là cơ hội để doanh nghiệp của các nước khác nhau có mối quan hệ làm ăn lâu dài, nhập khẩu là hoạt động lưu thông hàng hoá, dịch vụ giữa các quốc gia. Vì vậy nó thường xuyên bị chi phối bởi các chính sách luật pháp của mỗi quốc gia. Nhà nước quản lý hoạt động nhập khẩu thông qua các công cụ như: Chính sách thuế, hạn ngạch, phụ thu,... và các văn bản pháp luật, các quy định danh mục hàng hoá được phép nhập khẩu.
2. Vai trò của hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của ngoại thương. Nhập khẩu tác động trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống trong nước.
Nhập khẩu là một nghiệp vụ của hoạt động ngoại thương. Nó là việc mua hàng hoá và dịch vụ từ nước ngoài về phục vụ cho nhu cầu trong nước hoặc tái sản xuất trong nước. Nhập khẩu thể hiện mối liên hệ không thể thiếu giữa các nền kinh tế của các quốc gia với nền kinh tế thế giới.
Nhập khẩu để bổ sung các hàng hoá mà trong nước không thể sản xuất được hoặc sản xuất không đáp ứng được nhu cầu. Nhập khẩu còn để thay thế, nghĩa là nhập khẩu về những hàng hoá mà sản xuất trong nước sẽ không có lợi bằng nhập khẩu.
Trong điều kiện kinh tế nước ta, vai trò quan trọng của nhập khẩu được thể hiện ở những khía cạnh sau:
- Tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH.
- Bổ sung kịp thời những mặt cân đối của nền kinh tế đảm bảo phát triển kinh tế cân đối ổn định.
- Nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân. ở đây nhập khẩu vừa thoả mãn nhu cầu trực tiếp của nhân dân về hàng tiêu dùng, vừa phải đảm bảo đầu vào cho sản xuất, tạo việc làm ổn định cho người lao động.
- Nhập khẩu có vai trò tích cực đến thúc đẩy xuất khẩu. Sự tác động này được thể hiện ở chỗ nhập khẩu tạo đầu vào cho sản xuất hàng hoá xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hàng hoá xuất khẩu Việt Nam ra nước ngoài, đặc biệt là các nước nhập khẩu.
- Nhập khẩu tạo thuận lợi cho việc chuyển giao công nghệ, làm đa dạng hoá mặt hàng, chủng loại, mẫu mã, chất lượng, quy cách, cho phép thoả mãn hơn nhu cầu trong nước.
Để phát huy vai trò của hoạt động nhập khẩu cần phải:
- Mở rộng sự tham gia của các thành phần kinh tế vào các hoạt động dưới sự quản lý của nhà nước.
- Coi trọng hiệu quả kinh tế xã hội trong hoạt động nhập khẩu, nghĩa là không chỉ chạy theo mục đích lợi nhuận mà bỏ qua mục đích kinh tế xã hội.
- Đảm bảo nguyên tắc ngoại thương và quan hệ kinh tế với nước ngoài. Trong hoạt động cần phải chú ý tạo uy tín và không chỉ với các nước trong khu vực và với các nước khác trên thế gới trên cơ sở tôn trọng, bình đẳng, cùng có lợi.
3. Các hình thức nhập khẩu:
3.1. Nhập khẩu uỷ thác.
Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động nhập khẩu hình thành giữa một doanh nghiệp trong nước có vốn ngoại tệ riêng và có nhu cầu nhập khẩu một số loại hàng hoá nhưng không có quyền tham gia xuất nhập khẩu trực tiếp đã uỷ thác cho doanh nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác được hưởng phần trăm thù lao do hai bên thoả thuận gọi là phí uỷ thác.
Trong hoạt động nhập khẩu này, doanh nghiệp nhận uỷ thác không phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch, không phải nghiên cứu thị trường tiêu thụ hàng nhập khẩu mà chỉ đứng ra đại diện cho bên uỷ thác để tìm cách giao dịch với bạn hàng nước ngoài khi có tổn thất phát sinh.
Khi nhận uỷ thác thì doanh nghiệp xuất nhập khẩu (nhận uỷ thác) phải lập hai hợp đồng:
+ Một hợp đồng nua bán hàng hoá với nước ngoại gọi là hợp đồng ngoại thương.
+ Một hợp đồng giữa hai bên uỷ thác và bên nhận uỷ thác được gọi là hợp đồng nội thương.
Khi tiến hàng nhận uỷ thác thì đại diện các doanh nghiệp xuất nhập khẩu chỉ được tính kim ngạch xuất nhập khẩu chứ không được tính doanh số, không phải tính thuế giá trị gia tăng (VAT).
3.2. Nhập khẩu tái xuất.
Là hoạt động nhập hàng nhưng không phải để tiêu dùng trong nước mà để xuất khẩu sang nước thứ ba nào đó nhằm thu lợi nhuận. Nhưng hàng hoá nhập khẩu về này không được qua xử lý hay chế biến ở nước tái xuất. Như vậy nhập tái xuất luôn thu hút cùng ba nước tham gia là nước nhập khẩu, nước tái xuất và nước xuất khẩu.
Hoạt động nhập khẩu tái xuất có những đặc điểm sau đây:
+ Doanh nghiệp tái xuất phải tính toán chi phí, ghép mối bạn hàng nhập và bạn hàng xuất, đảm bảo sao cho có thể thu được số tiền lớn hơn tổng chi phí đã bỏ ra để tiến hành hoạt động.
+ Doanh nghiệp nước tái xuất phải lập hai hợp đồng: một hợp đồng xuất khẩu và một hợp đồng nhập khẩu, giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, hợp đồng nhập khẩu là cơ sở để thực hiện hợp đồng xuất khẩu; không phải chịu thuế xuất nhập khẩu đối với mặt hàng kinh doanh nhưng phải chịu thuế VAT.
+ Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính kim ngạch xuất nhập khẩu, doanh số tính trên giá trị hàng xuất khẩu.
+ Hàng hoá không nhất thiết phải chuyển qua nước tái xuất mà có thể được chuyển thẳng từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu (nước thứ ba) còn gọi là phương thức chuyển khẩu nhưng tiền trả phải luôn do người tái xuất thu của người nhập khẩu, chỉ giữ lại phần chênh lệch giữa số tiền xuất khẩu và số tiền nhập khẩu. Ngoài ra nhiều khi người tái xuất còn thu đựoc nhiều lợi tức về tiền hàng do thu nhanh trả chậm.
Để đảm bảo thanh toán, hợp đồng tái xuất thường dùng thư tín dụng giáp lưng ( Back to Back L/C).
3.3. Nhập khẩu đổi hàng.
Nhập khẩu đổi hàng cùng với trao đổi bù trừ là hai nghiệp vụ chủ yếu của buôn bán đối lưu. Nó là hình thức nhập khẩu gắn liền với xuất khẩu, thanh toán ở đây không phải bằng tiền mà bằng hàng hoá. Mục đích ở đây không phải thu lãi từ hoạt động nhập khẩu mà còn nhằm để xuất được hàng hoá, thu lãi từ hoạt động xuất khẩu.
Hoạt động nhập khẩu đổi hàng có những đặc điểm sau đây:
+ Hoạt động này rất có lợi bởi cùng một hợp đồng mà có thể tiến hành cùng đồng thời hoạt động nhập và xuất, do đó có thể thu lãi từ cả hai hoạt động này.
+ Hàng hoá xuất nhập tương đương nhau về mặt giá trị, tính quý hiếm, giá cả và điều kiện giao hàng.
+ Bạn hàng bán cũng là bạn hàng mua.
+ Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính cả kim ngạch nhập và kim ngạch xuất, doanh số tiêu thụ trên cả hàng hoá xuất và hàng hoá nhập.
+ Biện pháp để bảo đảm thực hiện hợp đồng có thể là:
- Dùng thư tín dụng đối ứng (Recipocal Letter of Credit): Đây là một loại L/C mà trong nội dung của nó có điều chỉnh quy định: L/C này chỉ có hiệu lực khi người hưởng mở một L/C khác có kim ngạch tương đương.
- Phạt về việc giao thiếu hay giao chậm.
3.4. Nhập khẩu tự doanh.
Hoạt động nhập khẩu tự doanh là hoạt động nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp trên cơ sở nghiên cứu thị trường trong nước và ngoài nước, tính toán đầy đủ các chi phí, chính sách, luật pháp của quốc gia cũng như quốc tế.
Hoạt động nhập khẩu tự doanh có những đặc điểm sau đây:
+ Doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải chịu trách nhiệm toàn bộ các hoạt động của mình. Vì thế nó đòi hỏi phải có sự xem xét kỹ lưỡng mọi vấn đề từ khâu nghiên cứu thị trường đầu vào, đầu ra cho đến việc ký kết thực hiện hợp đồng, bán hàng thu tiền về... Trong hợp đồng này, doanh nghiệp phải tự bỏ vốn và phải cân nhắc các khoản thu chi để đảm bảo kinh doanh có lãi.
+ Khi nhập khẩu tự doanh, doanh nghiệp xuất nhập khẩu được tính kim ngạch xuất nhập khẩu và khi tiêu thụ hàng hoá thì được tính doanh số và chịu thuế giá trị gia tăng (VAT).
+ Thông thường doanh nghiệp chỉ cần lập một hợp đồng ngoại thương để giao dịch với bên nước ngoài. Còn các hợp đồng bán hàng trong nước thì sau khi hàng về sẽ lập sau hoặc bán với hình thức khác như bán buôn.
3.5. Nhập khẩu liên doanh.
Là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết kinh tế một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó có ít nhất một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp) phối hợp cùng nhau để tiến hành giao dịch và đề ra các chủ trương, biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi nhất cho cả hai bên (các bên) cùng phân chia lỗ lãi tuỳ theo trách nhiệm của mỗi bên.
Hoạt động nhập khẩu liên doanh có những đặc điểm sau đây:
+ So với nhập khẩu tự doanh thì ở loại hình này các doanh nghiệp ít chịu rủi ro hơn bởi vì mỗi doanh nghiệp tham gia liên doanh chỉ phải góp một phần vốn nhất định. Quyền hạn và trách nhiệm của mỗi bên chỉ được phân bổ dựa trên phần vốn góp đó. Rủi ro (nếu có) sẽ được san sẻ cho các bên và như thế các doanh nghiệp thành viên phải chịu phần rủi ro ít hơn. Việc phân chia chi phí, lỗ lãi sẽ được dựa trên phần vốn góp và các thoả thuận giữa các nước với nhau.
+ Trong nhập khẩu liên doanh, doanh nghiệp đứng ra nhập khẩu sẽ được tính kim ngạch nhập khẩu, nhưng khi tiêu thụ hàng hoá thì được tính doanh số trên giá trị hàng hoá nhập theo tỷ lệ vốn góp của mình đồng thời chịu mọi khoản thuế trên phần doanh số đó.
+ Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp phải lập ra hai hợp đồng:
- Một hợp đồng ngoại thương mua hàng với nước ngoài.
- Một hợp đồng liên doanh với doanh nghiệp khác (không nhất thiết là phải Nhà nước).
Sự phân chia như trên đây là căn cứ vào chủ thể của hoạt động nhập khẩu. Nếu quan tâm đến hình thức thanh toán trong hoạt động này thì có thể là mua bán thanh toán bằng hàng. Mua bán tiền-hàng là cách thông thường, truyền thống. Thanh toán bằng hàng (còn gọi là buôn bán đối lưu) là một hình thức còn tương đối mới mẻ với chúng ta và trong phạm vi ở đây cũng nên tìm hiểu hình thức này.
3.6. Một số hình thức khác.
+ Tạm xuất tái nhập (qua gia công sửa chữa ở nước ngoài).
+ Nhận nguyên vật liệu, giao sản phẩm gia công quốc tế.
+ Dịch vụ kiểm tra và chuyển giao công nghệ mới (thuê chuyên gia).
II. Hiệu quả kinh doanh và các chỉ tiêu đánh giá.
1. Hiệu quả kinh doanh.
1.1. Khái niệm, bản chất hiệu quả kinh doanh.
1.1.1. Khái niệm:
Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm hiệu quả kinh doanh. Có quan điểm cho rằng: "Hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng sản lượng của một lượng hàng hoá mà không cắt giảm sản lượng của một loại hàng hoá khác. Một nền kinh tế có hiệu quả nằm trong giới hạn khả năng sản xuất của nó". Thực chất quan điểm này đã đề cập tới khía cạnh phân bổ có hiệu quả các nguồn lực của nền sản xuất xã hội. Trên góc độ này rõ ràng phân bổ các nguồn lực kinh tế sao cho đạt được việc sử dụng mọi nguồn lực trên đường giới hạn khả năng sản xuất làm cho nền kinh tế có hiệu quả và rõ ràng xét trên phương diện lý thuyết thì đây là mức hiệu quả cao nhất mà mỗi nền kinh tế có thể đạt được trên giới hạn năng lực sản xuất của doanh nghiệp.
Một số nhà quản trị học lại quan niệm hiệu quả kinh doanh được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được và chi phí phải bỏ ra để đạt được kết quả đó. Manfred Kuhn cho rằng: Tính hiệu quả được xác định bằng cách lấy kết quả tính theo đơn vị giá trị chia cho chi phí kinh doanh.
Quan điểm khác lại cho rằng: Hiệu quả là một phạm trù kinh tế, nó xuất hiện và tồn tại từ xã hội chiếm hữu nô lệ đến xã hội xã hội chủ nghĩa. Hiệu quả kinh doanh thể hiện trình độ sử dụng các yếu tố cần thiết tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh theo mục đích nhất định.
Trong những hình thái xã hội có quan hệ sản xuất khác nhau thì bản chất của phạm trù hiệu quả và những yếu tố hợp thành phạm trù hiệu quả vận động theo những khuynh hướng khác nhau.
Trong xã hội tư bản, giai cấp tư sản nắm quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và do vậy quyền lợi về kinh tế, chính trị... đều dành cho nhà tư bản. Chính vì thế việc phấn đấu tăng hiệu quả kinh doanh thực chất là đem lại lợi nhuận nhiều hơn nữa cho nhà tư bản nhằm nâng cao thu nhập cho họ, trong khi thu nhập của người lao động có thể thấp hơn nữa. Do vậy, việc tăng chất lượng sản phẩm không phải là để phục vụ trực tiếp người tiêu dùng mà để thu hút khách hàng nhằm bán được ngày càng nhiều hơn và qua đó thu được lợi nhuận lớn hơn.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, phạm trù hiệu quả vốn tồn tại vì sản phẩm sản xuất xã hội sản xuất ra vẫn là hàng hoá. Do các tài sản đều thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, toàn dân và tập thể, hơn nữa mục đích của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa cũng khác mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mục đích của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa là đáp ứng đủ nhu cầu ngày càng tăng của mọi thành viên trong xã hội nên bản chất của phạm trù hiệu quả cũng khác với tư bản chủ nghĩa.
Xét trên bình diện các quan điểm kinh tế học khác nhau cũng có nhiều ý kiến khác nhau về hiểu như thế nào về hiệu quả kinh doanh.
- Nhà kinh tế học Adam Smith cho rằng: "Hiệu quả là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế, là doanh thu tiêu thụ hàng hoá". Như vậy, hiệu quả được đồng nghĩa với chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh, có thể do tăng chi phí mở rộng sử dụng nguồn lực sản xuất. Nếu cùng một kết quả có hai mức chi phí khác nhau thì theo quan điểm này doanh nghiệp cũng đạt hiệu quả.
- Quan điểm nữa cho rằng: "Hiệu quả kinh doanh là tỷ lệ so sánh tương đối giữa kết quả và chi phí để đạt được kết quả đó. Ưu điểm của quan điểm này là phản ánh được mối quan hệ bản chất của hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên chưa biểu hiện được tương quan về lượng và chất giữa kết quả và chưa phản ánh được hết mức độ chặt chẽ của mối liên hệ này.
- Quan điểm khác nữa lại cho rằng: "Hiệu quả kinh doanh là mức độ thoả mãn yêu cầu của quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội cho rằng quỹ tiêu dùng với ý nghĩa là chỉ tiêu đại diện cho mức sống của mọi người trong các doanh nghiệp là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh". Quan điểm này có ưu điểm là đã bám sát mục tiêu của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân. Nhưng khó khăn ở đây là phương tiện để đo lường thể hiện tư tưởng định hướng đó.
Từ các quan điểm trên có thể hiểu một cách khái quát hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực (nhân tài, vật lực, tiền vốn...) để đạt được mục tiêu xác định. Trình độ lợi dụng các nguồn lực chỉ có thể được đánh gia trong mối quan hệ với kết quả tạo ra để xem xét xem với mỗi sự hao phí nguồn lực xác định có thể tạo ra ở mức độ nào. Vì vậy, có thể mô tả hiệu quả kinh doanh bằng các công thức chung nhất sau đây:
K
H =
C
Trong đó:
H: Hiệu quả kinh doanh
K: Kết quả đạt được
C: Hao phí nguồn lực cần thiết gắn với kết quả đó.
Hiệu quả kinh doanh theo khái niệm rộng là một phạm trù kinh tế phản ánh những lợi ích đạt được từ các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Như vậy cần phân định sự khác nhau và mối liên hệ giữa "kết quả" và "hiệu quả".
Bất kỳ hành động nào của con người nói chung và trong kinh doanh nói riêng đều mong muốn đạt được những kết quả hữu ích cụ thể nào đó, kết quả đạt được trong kinh doanh mà cụ thể là trong lĩnh vực sản xuất, phân phối lưu thông mới chỉ đáp ứng được phần nào tiêu dùng của cá nhân và xã hội. Tuy nhiên, kết quả đó được tạo ra ở mức độ nào, với giá nào là vấn đề cần xem xét vì nó phản ánh chất lượng của hoạt động tạo ra kết quả. Mặt khác nhu cầu tiêu dùng của con người bao giờ cũng có xu hướng lớn hơn khả năng tạo ra sản phẩm được nhiều nhất. Vì vậy nên khi đánh giá hoạt động kinh doanh tức là đánh giá chất lượng của hoạt động kinh doanh tạo ra kết quả mà nó có được.
Như vậy, hiệu quả kinh doanh là một đại lượng so sánh: So sánh giữa đầu vào và đầu ra, so sánh giữa chi phí kinh doanh bỏ ra và kết quả kinh doanh thu được. Đứng trên góc độ xã hội, chi phí xem xét phải là chi phí xã hội, do có sự kết hợp của các yếu tố lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động theo một tương quan cả về lượng và chất trong quá trình kinh doanh để tạo ra sản phẩm đủ tiêu chuẩn cho tiêu dùng....
Tóm lại, hiệu quả kinh doanh phản ánh mặt chất lượng các hoạt động kinh doanh, trình độ nguồn lực sản xuất trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp trong sự vận động không ngừng của các quá trình sản xuất kinh doanh, không phụ thuộc vào tốc độ biến động của từng nhân tố.
1.1.2. Bản chất.
Từ khái niệm về hiệu quả nêu ở trên đã khẳng định bản chất của hiệu quả kinh doanh là phản ánh được trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp để đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội và nó chính là hiệu quả của lao động xã hội được xác định trong mối tương quan giữa lượng kết quả hữu ích cuối cùng thu được với lượng hao phí lao động xã hội bỏ ra. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp phải được xem xét một cách toàn diện cả về không gian và thời qian, cả về mặt định tính và định lượng. Về mặt thời gian, hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được trong từng thời kỳ, từng giai đoạn không được làm giảm sút hiệu quả của các giai đoạn, các thời kỳ, chu kỳ kinh doanh tiếp theo. Điều đó đòi hỏi bản thân doanh nghiệp không được vì lợi ích trước mắt mà quên đi lợi ích lâu dài. Trong thực tế kinh doanh, điều này dễ xảy ra khi con người khai thác sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên, môi trường và cả nguồn lao động. Không thể coi tăng thu giảm chi là có hiệu quả khi giảm một cách tuỳ tiện, thiếu cân nhắc các chi phí cải tạo môi trường, đảm bảo môi trường sinh thái, đầu tư cho giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực....
Hiệu quả kinh doanh chỉ được coi là đạt được một cách toàn diện khi hoạt động của các bộ phận mang lại hiệu quả không ảnh hưởng đến hiệu quả chung ( về mặt định hướng là tăng thu giảm chi ). Điều đó có nghĩa là tiết kiệm tối đa các chi phí kinh doanh và khai thác các nguồn lực sẵn có làm sao đạt được kết quả lớn nhất.
1.2. Phân loại hiệu quả kinh doanh.
2.1. Hiệu quả kinh doanh cá biệt và hiệu quả kinh tế - xã hội của nền kinh tế quốc dân.
Hiệu quả kinh doanh cá biệt là hiệu quả kinh doanh thu được từ các hoạt động thương mại của từng doanh nghiệp kinh doanh. Biểu hiện chung của hiệu quả kinh doanh cá biệt là lợi nhuận mà mỗi doanh nghiệp đạt được.
Hiệu quả kinh tế - xã hội mà hoạt động kinh doanh đem lại cho nền kinh tế quốc dân là sự đóng góp của nó vào việc phát triển sản xuất, đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao động xã hội, tích luỹ ngoại tệ, tăng thu cho ngân sách, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống nhân dân.
Giữa hiệu quả kinh doanh cá biệt và hiệu quả kinh tế xã hội có quan hệ nhân quả và tác động qua lại với nhau. Hiệu quả kinh tế quốc dân chỉ có thể đạt được trên cơ sở hoạt động có hiệu quả của các doanh nghiêp. Mỗi doanh nghiệp như một tế bào của nền kinh tế, doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả sẽ đóng góp vào hiệu quả chung của nền kinh tế. Ngược lại, tính hiệu quả của bộ máy kinh tế sẽ là tiền đề tích cực, là khung cơ sở cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đạt kết quả cao. Đó chính là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa lợi ích bộ phận với lợi ích tổng thể. Tính hiệu quả của nền kinh tế xuất phát từ chính hiệu quả của mỗi doanh nghiệp và một nền kinh tế vận hành tốt là môi trường thuận lợi để doanh nghiệp hoạt động và ngày một phát triển.
Vì vậy, trong hoạt động kinh doanh của mình các doanh nghiệp phải thường xuyên quan tâm đến hiệu quả kinh tế - xã hội, đảm bảo lợi ích riêng hài hoà với lợi ích chung. Về phía các cơ quan quản lý nhà nước, với vai trò định hướng cho sự phát triển của nền kinh tế cần có các chính sách tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp có thể hoạt động đạt hiệu quả cao nhất trong khả năng có thể của mình.
2.2. Hiệu quả chi phí bộ phận và hiệu quả chi phí tổng hợp.
Hoạt động của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng gắn liền với môi trường kinh doanh của nó nhằm giải quyết những vấn đề then chốt trong kinh doanh như: Kinh doanh cái gì? Kinh doanh cho ai? Kinh doanh như thế nào và chi phí bao nhiêu?...
Mỗi doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh của mình trong những điều kiện riêng về tài nguyên, trình độ trang thiết bị kỹ thuật, trình độ tổ chức, quản lý lao động, quản lý kinh doanh mà Paul Samuelson gọi đó là "hộp đen" kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Bằng khả năng của mình họ cung ứng cho xã hội những sản phẩm với chi phí cá biệt nhất định và nhà kinh doanh nào cũng muốn tiêu thụ hàng hoá của mình với số lượng nhiều nhất. Tuy nhiên, thị trường hoạt động theo quy luật riêng của nó và mọi doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường là phải chấp nhận “luật chơi” đó. Một trong những quy luật thị trường tác động rõ nét nhất đến các chủ thể của nền kinh tế là quy luật giá trị. Thị trường chỉ chấp nhận mức hao phí trung bình xã hội cần thiết để sản xuất ra một đơn vị hàng hoá sản phẩm. Quy luật giá trị đã đặt tất cả các doanh nghiệp với mức chi phí cá biệt khác nhau trên một mặt bằng trao đổi chung, đó là giá cả thị trường.
Suy đến cùng, chi phí bỏ ra là chi phí lao động xã hội, nhưng đối với mỗi doanh nghiệp mà ta đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh thì chi phí lao động xã hội đó lại được thể hiện dưới các dạng chi phí khác nhau: giá thành sản xuất, chi phí sản xuất Bản thân mỗi loại chi phí này lại được phân chia một cánh tỷ mỷ hơn. Vì vậy, khi đánh giá hiệu quả kinh doanh không thể không đánh giá hiệu quả tổng hợp của các loại chi phí trên, đồng thời cần thiết phải đánh giá hiệu quả của từng loại chi phí hay nói cánh khác là đánh giá hiệu quả của chi phí bộ phận.
2.3. Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối.
Việc xác định hiệu quả nhằm hai mục đích cơ bản:
Một là, thể hiện và đánh giá trình độ sử dụng các dạng chi phí khác nhau trong hoạt động kinh doanh.
Hai là, để phân tích luận chứng kinh tế của các phương án khác nhau trong việc thực hiện một nhiệm vụ cụ thể nào đó.
Từ hai mục đích trên mà người ta phân chia hiệu quả kinh doanh ra làm hai loại:
Hiệu quả tuyệt đối là lượng hiệu quả được tính toán cho từng phương án kinh doanh cụ thể bằng cánh xác định mức lợi ích thu được với lượng chi phí bỏ ra.
Hiệu quả tương đối được xác định bằng cánh so sánh các chỉ tiêu hiệu quả tuyệt đối của các phương án với nhau, hay chính là mức chênh lệch về hiệu quả tuyệt đối của các phương án.
Việc xác định hiệu quả tuyệt đối là cơ sở để xác định hiệu quả tương đối (so sánh). Tuy vậy, có những chỉ tiêu hiệu quả tương đối được xác định không phụ thuộc vào việc xác định hiệu quả tuyệt đối. Chẳng hạn, việc so sánh mức chi phí của các phương án khác nhau để chọn ra phương án có chi phí thấp nhất thực chất chỉ là sự so sánh mức chi phí của các phương án chứ không phải là việc so sánh mức hiệu quả tuyệt đối của các phương án.
2.4. Hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài.
Căn cứ vào lợi ích nhận được trong các khoảng thời gian dài hay ngắn mà người ta phân chia thành hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài. Hiệu quả trước mắt là hiệu quả được xem xét trong một thời gian ngắn. Hiệu quả lâu dài là hiệu quả được xem xét trong một thời gian dài. Doanh nghiệp cần phải tiến hành các hoạt động kinh doanh sao cho nó mang lại cả lợi ích trước mắt cũng như lâu dài cho doanh nghiệp. Phải kết hợp hài hoà lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, không được chỉ vì lợi ích trước mắt mà làm thiệt hại đến lợi ích lâu dài của doanh nghiệp
2. Khái niệm về hiệu quả kinh doanh nhập khẩu.
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu là một hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, do đó quan điểm về hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp cũng dựa trên quan điểm hiệu quả kinh doanh nói chung, hay hiệu quả kinh doanh nhập khẩu là mức độ tiết kiệm chi phí và mức tăng hiệu quả kinh tế tính riêng cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu hay nói cách khác nó phản ánh trình độ sử dụng nguồn nhân lực để đạt được kết quả cao nhất với chi phí thấp nhất.
Từ khái niệm trên có thể đưa ra công thức đánh giá hiệu quả kinh doanh nhập khẩu:
- Dạng thuận:
Hiệu quả kinh doanh nhập khẩu = Kết quả đầu ra/Chi phí đầu vào
Chỉ tiêu này biểu thị mỗi đơn vị đầu vào có khả năng tạo ra bao nhiêu đơn vị đầu ra.
- Dạng nghịch:
Hiệu quả kinh doanh xuất khẩu = Chi phí đầu vào/Kết quả đầu ra
Chỉ tiêu này cho biết để có một đơn vị đầu ra cần bao nhiêu đơn vị đầu vào.
Kết quả đầu ra được đo bằng các chỉ tiêu như giá trị tổng sản lượng, doanh thu thuần, lợi tức gộp... Yếu tố đầu vào bao gồm: lao động, đối tượng lao động, vốn kinh doanh...
Bản chất của hiệu quả kinh doanh nhập khẩu là nần cao năng suất lao động xã hội và tiết kiệm nguồn lực xã hội tính riêng cho hoạt động nhập khẩu. Đây là hai mặt của mối quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu quả kinh tế của hoạt động nhập khẩu, gắn liền với hai quy luật tương ứng của nền sản xuất xã hội là quy luật tăng năng suất lao động và tiết kiệm thời gian. Chính việc khan hiếm nguồn lực và việc sử dụng chúng có tính chất cạnh tranh nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội đặt ra, yêu cầu phải khai thác, tận dụng triệt để và tiết kiệm nguồn lực, để đạt được mục tiêu kinh doanh các doanh nghiệp buộc phải chú trọng các điều kiện nội tại, phát huy năng lực, hiệu năng của các yếu tố sản xuất và tiết kiệm mọi chi phí.
Vì vậy, yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu là phải đạt kết quả tối đa với chi phí nhất định hoặc ngược lại đạt kết quả nhất định với chi phí tối thiểu. Chi phí ở đây được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm chi phí tạo ra nguồn lực và chi phí sử dụng nguồn lực, đồng thời bao gồm cả chi phí cơ hội. Chi phí cơ hội là giá trị của sự hy sinh công việc lựa chọn nào đó đã bỏ qua hay là giá trị của sự hy sinh công việc kinh doanh khác để thực hiện hạot động kinh doanh này, chi phí cơ hội phải được bổ sung vào chi phí kế toán và loại ra khỏi lợi nhuận kế toán để thấy rõ lợi ích kinh tế thực sự. Cách tính như vậy sẽ khuyến khích các nhà kinh doanh lựa chọn phương hướng kinh doanh tốt nhất, các mặt hàng kinh doanh có hiệu quả hơn.
3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh.
3.1. Sự khan hiếm nguồn lực đòi hỏi phải nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nói chung và hiệu quả hoạt động nhập khẩu nói riêng.
Như chúng ta đã biết, trong thực tế mọi nguồn lực đưa vào sản xuất kinh doanh đều có giới hạn. Không có nguồn lực nào là vô tận, tất cả đều là hữu hạn. Chính vì thế, nếu chúng ta sử dụng nguồn nhân lực một cách lãng phí, không tiết kiệm thì chúng sẽ nhanh chóng trở nên cạn kiệt và biến mất. Trong khi đó, dân số thế giới ngày càng tăng làm cho nhu cầu tiêu dùng ngày càng lớn và không có giới hạn. Do vậy, nguồn lực, của cải đã khan hiếm nay lại càng khan hiếm hơn, trong điều kiện đó việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là một vấn đề hàng đầu đối với bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào. Mọi doanh nghiệp khi bước vào hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải cân nhắc các phương án kinh doanh, xem phương án nào có hiệu quả hơn vì nguồn nhân lực của doanh nghiệp như vốn, lao động, kỹ thuật đưa vào sản xuất kinh doan._.h đều có giới hạn, nếu không tiết kiệm đầu vào chắc chắn doanh nghiệp sẽ đi tới thua lỗ, phá sản.
Đối với doanh nghiệp tham gia vào hoạt động nhập khẩu thì nguồn lực sử dụng là lượng ngoại tệ bỏ ra, thời gian và lao động. Nếu không biết sử dụng một cách tiết kiệm thì chi phí đầu vào cho nhập khẩu tăng lên, dẫn đến giá tăng làm cho doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất, tiêu thụ. Chính vì vậy, để đạt được hiệu quả đồng thời vẫn mang lại lợi ích xã hội, các doanh nghiệp nhập khẩu phải tìm các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu sao cho đạt kết quả cao nhất với chi phí thấp nhất.
3.2. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật là điều kiện thuận lợi để nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu.
áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật cho phép doanh nghiệp sử dụng các nguồn lực đầu vào một cách hợp lý, tiết kiệm và tạo điều kiện thuận lợi cho công tác tổ chức, quản lý diễn ra một cách chính xác, đúng đắn. Điều này cho phép các doanh nghiệp có khả năng lựa chọn những phương án nhập khẩu, sản xuất kinh doanh tối ưu. Sự lựa chọn đúng đắn sẽ mang lại cho doanh nghiệp hiệu quả nhập khẩu cao nhất, đem lại nhiều lợi ích nhất.
Sự phát triển của khoa học kỹ thuật không chỉ đem lại hiệu quả cao cho hoạt động nhập khẩu mà cả lợi ích công cộng. Ngày nay, kết quả của tăng trưởng kinh tế chính là sự áp dụng thành công các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đang diễn ra với tốc độ như vũ bão, đặc biệt là đối với các nước Châu á chậm phát triển như Việt Nam.
3.3. Môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu.
Trong cơ chế thị trường, để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh với nhau và những ngành nghề nào, thị trường nào càng có mức lợi nhuận cao thì cạnh tranh càng gay gắt, quyết liệt hơn.
Đối với hoạt động nhập khẩu, mức độ canh tranh còn gay gắt hơn. Các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động nhập khẩu không những phải cạnh tranh với các doanh nghiệp trong cùng lĩnh vực mà còn phải cạnh tranh với các nhà sản xuất trong nước. Đặc biệt, một trong những chính sách thúc đẩy phát triển sản xuất trong nước mà nước ta áp dụng là hạn chế nhập khẩu những hàng hoá mà trong nước đã sản xuất được. Đây là một khó khăn khiến các doanh nghiệp nhập khẩu khó có thể tăng cao khối lượng hàng nhập khẩu. Để cạnh tranh thành công, để đạt được hiệu quả cao đồng thời vẫn mang lại lợi ích xã hội, các doanh nghiệp nhập khẩu không còn con đường nào khác là phải tìm các biện pháp để giảm chi phí nhập khẩu, nâng cao uy tín của doanh nghiệp cả ở thị trường trong và ngoài nước. Do vậy, đạt hiệu quả và nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu là vấn đề quan tâm của doanh nghiệp và trở thành điều kiện sống còn để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường.
3.4. Nâng cao hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả hoạt động nhập khẩu nói riêng chính là nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động .
Hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả hoạt động nhập khẩu nói riêng là điều kiện sống còn để doanh nghiệp tồn tại và phát triển, nếu hiệu quả hoạt động nhập khẩu không ngừng được nâng cao thì kết quả thu được ngày càng tăng, điều đó có nghĩa là thu nhập của người lao động cũng tăng theo. Khi người lao động có thu nhập cao, họ sẽ có điều kiện để chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần cho bản thân và gia đình, mặt khác nhờ có thu nhập cao mà người lao động sẽ hăng say làm việc hơn làm cho năng suất lao động ngày càng tăng. Điều đó sẽ giúp cho doanh nghiệp ngày càng nâng cao được hiệu quả hoạt động nhập khẩu và làm ăn ngày càng tấn tới. Suy cho cùng thì nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả hoạt động nhập khẩu nói riêng cũng chính là nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người lao động và ngược lại.
4. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu kinh doanh nhập khẩu.
4.1. Hiệu quả tổng hợp tuyệt đối.
Lợi nhuận nhập khẩu = Doanh thu nhập khẩu - Chi phí nhập khẩu
Khi xem xét đánh giá hiệu quả hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp người ta thường quan tâm trước hết tới lợi nhuận. Lợi nhuận là chỉ tiêu hiệu quả kinh tế có tính tổng hợp phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động kinh doanh. Lợi nhuận để duy trì và tái sản xuất mở rộng cho doanh nghiệp là điều kiện để nâng cao mức sống của người lao động. Khi lợi nhuận càng lớn thì doanh nghiệp làm ăn càng có lãi.
Tuy nhiên, bản thân chỉ tiêu lợi nhuận chưa biểu hiện đầy đủ hiệu quả hoạt động nhập khẩu, bởi lẽ chưa biết đại lượng ấy được tạo ra từ nguồn lực nào, loại chi phí nào. Do vậy, để đánh giá hiệu quả hoạt động nhập khẩu người ta thường so sánh lợi nhuận với chi phí, doanh thu, vốn phục vụ cho hoạt động nhập khẩu.
4.2. Hiệu quả tổng hợp tương đối.
Chỉ tiêu 1: Mức doanh lợi của vốn phục vụ cho hoạt động nhập khẩu.
Ln
Vn
H1 =
Trong đó: H1 : Mức doanh lợi của vốn phục vụ cho hoạt động nhập khẩu.
Ln : Lợi nhuận thu được từ hoạt động nhập khẩu.
Vn : Vốn phục vụ cho hoạt động nhập khẩu.
ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn bỏ vào hoạt động nhập khẩu thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Chỉ tiêu 2: Mức doanh lợi của doanh thu từ hoạt động nhập khẩu.
Ln
Dn
H2 =
Trong đó: H2 : Mức doanh lợi của doanh thu từ hoạt động nhập khẩu.
Ln : Lợi nhuận thu được từ hoạt động nhập khẩu.
Dn : Doanh thu thu được từ hoạt động nhập khẩu.
ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết trong một đồng doanh thu nhập khẩu thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận nhập khẩu.
Chỉ tiêu 3: Mức doanh lợi của chi phí nhập khẩu.
Ln
Cn
H3 =
Trong đó: H3 : Mức doanh lợi của chi phí nhập khẩu.
Ln : Lợi nhuận thu được từ hoạt động nhập khẩu.
Cn : Chi phí cho hoạt động nhập khẩu.
ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng chi phí bỏ vào hoạt động nhập khẩu thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
4.3. Các chỉ tiêu hiệu quả bộ phận.
4.3.1. Hiệu quả về sử dụng vốn.
Chỉ tiêu 4: Hiệu quả sử dụng vốn cố định nhập khẩu.
Ln
VCDn
H4 =
Trong đó: H4 : Hiệu quả sử dụng vốn cố định nhập khẩu.
Ln : Lợi nhuận thu được từ hoạt động nhập khẩu.
VCDn : Vốn cố định đầu tư vào hoạt động nhập khẩu.
ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn cố định bỏ vào hoạt động nhập khẩu thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Chỉ tiêu 5: Hiệu quả sử dụng vốn lưu động nhập khẩu.
Ln
VLDn
H5 =
Trong đó: H5 : Hiệu quả sử dụng vốn lưu động nhập khẩu.
Ln : Lợi nhuận thu được từ hoạt động nhập khẩu.
VLDn : Vốn lưu động đầu tư vào hoạt động nhập khẩu.
ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn lưu động đầu tư vào hoạt động nhập khẩu thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Chỉ tiêu 6: Số vòng quay của vốn lưu động nhập khẩu.
Dn
VLDn
H6 =
Trong đó: H6 : Số vòng quay của vốn lưu động nhập khẩu.
Dn : Doanh thu thu được từ hoạt động nhập khẩu.
VLDn : Vốn lưu động đầu tư vào hoạt động nhập khẩu.
ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn lưu động đầu tư vào hoạt động nhập khẩu thì thu được bao nhiêu đồng doanh thu hay thể hiện số vòng luân chuyển của vốn lưu động. Số vòng quay càng nhiều phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng tăng.
Chỉ tiêu 7: Số vòng quay của toàn bộ vốn nhập khẩu.
Dn
Vn
H7 =
Trong đó: H7 : Số vòng quay của toàn bộ vốn nhập khẩu.
Dn : Doanh thu thu được từ hoạt động nhập khẩu.
Vn : Vốn phục vụ cho hoạt động nhập khẩu.
ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn đầu tư vào hoạt động nhập khẩu thì thu được bao nhiêu đồng doanh thu hay thể hiện số vòng luân chuyển của vốn nhập khẩu.
4.3.2. Hiệu quả về sử dụng lao động nhập khẩu.
Chỉ tiêu 8: Mức sinh lời của một lao động tham gia vào hoạt động nhập khẩu.
Ln
LDn
H8 =
Trong đó: H8 : Mức sinh lời của một lao động tham gia vào hoạt động nhập khẩu.
Ln : Lợi nhuận thu được từ hoạt động nhập khẩu.
LDn : Số lao động tham gia vào hoạt động nhập khẩu.
ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết một lao động tham gia vào hoạt động nhập khẩu sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trong kỳ phân tích.
Chỉ tiêu 9: Doanh thu bình quân một lao động tham gia vào hoạt động nhập khẩu.
Dn
LDn
H9 =
Trong đó: H9 : Doanh thu bình quân một lao động tham gia vào hoạt
động nhập khẩu.
Dn : Doanh thu thu được từ hoạt động nhập khẩu.
LDn : Số lao động tham gia vào hoạt động nhập khẩu.
ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết một lao động tham gia vào hoạt động nhập khẩu có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu trong kỳ phân tích.
4.4. Các chỉ tiêu biểu hiện hiệu quả kinh tế - xã hội.
Hiệu quả kinh tế là các chỉ tiêu có tính chất định lượng như đã xem xét ở trên. Đó là các chỉ tiêu cơ bản và quan trọng nhất đối với doanh nghiệp. Hiệu quả về mặt xã hội trong hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp là những mặt lợi ích không thể định lượng được, nhưng nó đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc lựa chọn phương án nhập khẩu để triển khai trong thực tế. Nội dung của việc xem xét hiệu quả về mặt xã hội rất đa dạng và phức tạp. Người ta thường gắn việc phân tích hiệu quả về mặt xã hội trong hoạt động nhập khẩu với việc thực hiện các nhiệm vụ xã hội đặt ra cho mỗi doanh nghiệp trong kỳ. Hay nói rộng hơn là phải phân tích ảnh hưởng của phương án nhập khẩu đối với toàn bộ đời sống kinh tế xã hội của cả nên kinh tế quốc dân, của khu vực hay chỉ bó hẹp trong doanh nghiệp. Những nội dung cần phân tích là:
- Tác động vào việc phát triển kinh tế: Đóng góp vào gia tăng tổng sản phẩm, tăng tích luỹ, thoả mãn nhu cầu tiết kiệm ngoại tệ .....
- Tác động đến việc phát triển xã hội: Giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, xoá bỏ sự cách biệt giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn, giữa miền xuôi và miền ngược .......
- Tác động đến môi trường sinh thái và tốc độ đô thị hoá.
Tuỳ thuộc vào từng điều kiện, vào trạng thái hoạt động của mỗi doanh nghiệp trong từng thời điểm nhất định mà việc lựa chọn các phương án nhập khẩu, người ta sẽ xác định chỉ tiêu nào đó làm căn cứ, nhưng mục tiêu cao nhất của doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận, những phương án nào vừa đảm bảo lợi nhuận vừa gắn với mục tiêu về xã hội thì sẽ được lựa chọn.
5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh nhập khẩu.
5.1. Các nhân tố khách quan.
Trong hoạt động thương mại, bất kỳ một hình thức kinh doanh nào cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của môi trường kinh doanh. Chính vì vậy, khi tiến hành bất kỳ một hoạt động nhập khẩu nào người ta đều phải xem xét kỹ lưỡng môi trường kinh doanh sao cho chi phí mà họ bỏ ra ít nhất và thu lợi nhuận cao nhất.
5.1.1. Môi trường chính trị - luật pháp trong nước và quốc tế.
Chế độ chính sách, luật pháp của nhà nước là những yếu tố mà các doanh nghiệp xuất nhập khẩu buộc phải nắm rõ và tuân thủ một cách vô điều kiện vì chúng thể hiện ý chí của Đảng lãnh đạo của mỗi nước, sự thống nhất chung của quốc tế. Hoạt động nhập khẩu được tiến hành giữa các chủ thể ở các quốc gia khác nhau, do đó nó không chỉ chịu sự tác động của chế độ, chính sách, luật pháp ở trong nước mà còn phải chịu những điều kiện tương tự ở phía các nước đối tác.
Tình hình chính trị trong nước và quốc tế có ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu. Với một đối tác mà tại đó đang có xung đột về chính trị sẽ gây cản trở đến tiến trình thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu. Cũng như vậy, nếu tình hình chính trị trong nước bất ổn định thì hoạt động xuất nhập khẩu có thể bị giảm suát hoặc đình trệ.
5.1.2. Các công cụ kinh tế vĩ mô đối với nhập khẩu.
Thương mại quốc tế nói chung đem lại lợi ích to lớn cho nền kinh tế nhưng với những lý do mà mục đích riêng của mình nên hầu hết các quốc gia đều có chính sách thương mại riêng để thực hiện mục tiêu của chính phủ ở nước đó. Để nền kinh tế vận hành có hiệu quả thì việc đưa ra những chính sách và quyết định hợp lý là điều hết sức cần thiết. Trong hoạt động xuất nhập khẩu nhà nước thường áp dụng những hình thức, công cụ nhất định nhằm hạn chế thương mại tự do như: thuế quan, hạn ngạch,....
5.1.2.1. Thuế quan.
Thuế quan là loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hoá xuất nhập khẩu của một quốc gia. Đây là biện pháp quan trọng nhất để thực hiện chính sách thương mại. Thuế đánh vào từng đơn vị hàng hoá nhập khẩu gọi là thuế nhập khẩu.
Nếu thuế nhập khẩu cao thì giá cả hàng hoá sẽ bị đội lên, và do đó làm hạn chế sức cạnh tranh của mặt hàng của doanh nghiệp nhập khẩu. Ngược lại, thuế nhập khẩu thấp, chi phí cho việc nhập khẩu sẽ thấp làm tăng lợi nhuận nhập khẩu. Do vậy, hiệu quả nhập khẩu sẽ được cải thiện.
5.1.2.2. Hạn ngạch nhập khẩu.
Hạn ngạch nhập khẩu được hiểu là quy định của nhà nước về số lượng còn giá trị của mặt hàng hoặc một nhóm hàng được phép nhập khẩu từ một thị trường nhất định trong một thời gian nhất định. Chính sách này được dùng để bảo hộ sản xuất trong nước, bảo hộ nguồn lực trong nước, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, để thực hiện chiến lược thay thế hàng nhập khẩu, bảo hộ sản xuất nội địa và thực hiện các chính sách khác. Hạn ngạch hạn chế số lượng nhập khẩu đồng thưòi nó cũng ảnh hưởng đến giá trị nội địa của hàng hoá.
Hạn ngạch nhập khẩu làm cho lượng hàng nhập khẩu của doanh nghiệp bị hạn chế, do dó không thể đáp ứng được yêu cầu của thị trường đầu ra. Do có một lượng hàng hoá nhất định đựoc nhập khẩu nên các doanh nghiệp sẽ phải tăeng chi phí để lấy được hạn ngạch có quy mô vừa đủ để bù đắp chi phí, giữ dược thị trường và có lãi. Hạn ngạch chặt chẽ sẽ làm cho doanh nghiệp có nguy cơ tạm dừng kinh doanh mặt hàng nhập khẩu bị hạn chế. Kinh doanh bị gián đoạn.
5.1.3. Tỷ giá hối đoái và tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu.
Tỷ giá hối đoái có tác động mạnh mẽ đến hoạt động nhập khẩu vì tính giá và thanh toán trong nhập khẩu phải dùng đến ngoại tệ. Tỷ giá hối đoái tăng sẽ khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu và ngược lại.
Tỷ giá ngoại tệ hàng nhập khẩu cũng ảnh hưởng đến việc quyết định nhập khẩu hany không một mặt hangf nào đó. Tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu là số lượng bản tệ thu về khi phải chi ra một đơn vị ngoại tệ. Trên cơ sở so sánh tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu với tỷ giá hối đoái, doanh nghiệp sẽ xác định được mức lỗ lãi là bao nhiêu khi tiến hành nhập khẩu hàng hoá đó.
5.1.4. Các quan hệ kinh tế quốc tế.
Hiện nay trên thế giới ngày càng xuất hiện nhiều các tổ chức kinh tế quốc tế như: ASEAN, APEC, NAFTA, WTO... Việc tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế này đều đem lại lợi ích thiết thực cho quốc gia. Các nhà sản xuất kinh doanh mở rộng được thị trường tiêu thụ ra nước ngoài. Khi các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài sẽ gặp phải hàng rào thuế quan và phi thuế quan của các nước nhập khẩu, các hàng rào này nới lỏng hay siết chặt đều phụ thuộc vào quan hệ song phương giữa hai nước, giữa nước xuất khẩu và nước nhập khẩu. Chính điều này đã thúc đẩy các quốc gia tích cực trong quan hệ ngoại giao với nước khác, tích cực tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế nhằm tạo được những mối quan hệ bền vững, xu hướng tích cực cho quá trình nhập khẩu, xuất khẩu hàng hoá của nước mình.
5.1.5. Sự phát triển của nền sản xuất trong và ngoài nước.
Hoạt động nhập khẩu chịu sự tác động trực tiếp của tình hình sản xuất trong và ngoài nước. Sự phát triển của nền sản xuất trong nước tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ với hàng nhập khẩu và có thể làm giảm nhu cầu nhập khẩu. Còn nếu sản xuất trong nước kém phát triển, không thể sản xuất ra những sản phẩm mang tính công nghệ cao, kỹ thuật cao thì nhu cầu nhapạ khẩu sẽ tăng lên. Ngược lại, sự phát triển của nền sản xuất ở nước ngoài tạo ra những sản phẩm mới hơn, hiện đại hơn, có giá trị sử dụng cao hơn, hapá dẫn khách hàng hơn nên nó sẽ thúc đẩy nhapạ khẩu. Nhiều khi để tránh được sự độc quyền, tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh khuyến khích hoạt động xuất nhập khẩu hiện nay.
5.1.6. Hệ thống giao thông vận tải và thông tin liên lạc.
Hoạt động nhập khẩu nói chung không thể tách rời hoạt động vận chuyển và thông tin liên lạc. Với một hệ thống thông tin liên lạc nhanh nhậy, rộng khắp và hệ thống giao thông thuận tiện an toàn cho phép các doanh nghiệp tận dụng được các cơ hội kinh doanh, tận dụng được thời cơ làm đơn giản hoá hoạt động nhập khẩu, giảm bớt được các chi phái và rủi ro, nâng cao tính kịp thời, nhanh gọn trong quá trình nhập khẩu, tăng vòng quay của vốn.
Ngược lại khi hoạt động nhập khẩu phát huy được tính hiệu quả thì nó sẽ góp phần làm cho sản xuất trong nước phát triển, tăng thu ngân sách, từ đó nhà nước có điều kiện hơn để đầu tư cải tạo, nâng cấp hệ thống giao thông vận tải và giao tin liên lạc phục vụ nhu cầu phát triển của nền kinh tế quốc dân.
5.1.7. Hệ thống tài chính ngân hàng.
Hệ thống tài chính ngân hàng có vai trò quan trọng trong quản lý, cung cấp vốn và thanh toán nên nó can thiệp tới tất cả các hoạt động của tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế, dù doanh nghiệp đó lớn hay nhỏ hay ở bất cứ thành phần kinh tế nào. Hệ thống ngân hàng cung cấp vốn, giúp các doanh nghiệp trong nghiệp vụ thanh toán quốc tế và các cảnh báo cho doanh nghiệp khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Các mối quan hệ, uy tín, nghiệp vụ thanh toán liên ngân hàng của ngân hàng rất thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động nhập khẩu đảm bảo được lợi ích của mình.
Khi hoạt động nhập khẩu nói trên phát triển thì nó góp phần làm tăng doanh thu cho các ngân hàng, ngoài ra nó còn tạo điều kiện cho hệ thống ngân hàng có thực tiễn kiểm chứng chất lượng hoạt động của mình, từ đó có các biện pháp tích cực để không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng.
5.1.8. Những biến động của thị trường trong và ngoài nước.
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu là chiếc cầu nối giữa sản xuất trong nước với thị trường quốc tế và ngược lại. Nó tạo ra sự phù hợp, gắn bó và phản ánh sự tác động qua lại giữa hai thị trường. Khi có sự thay đổi trong giá cả, nhu cầu thị trường về một mặt hàng ở thị trường trong nước thì ngay lập tức có sự thay đổi lượng hàng nhập khẩu. Cũng như vậy, thị trường các nước ngoài quyết định sự thoả mãn các nhu cầu trong nước. Sự biến động của nó về khả năng cung cấp sản phẩm mới, về sự đa dạng của hàng hoá, địa vị cũng được phản ánh qua chiếc cầu này để tác động lên thị trường nội địa.
Ngoài các yếu tố kể trên, sự biến động của môi trường chính trị, văn hoá, xã hội, khoa học kỹ thuật, tự nhiên... đều tác động đến hoạt động nhập khẩu và một ví dụ gần đây là việc xoá bỏ cấm vận với Việt Nam của chính quyền Bill Clinton đã có tác dụng thúc đẩy thương mại trao đổi giữa hai nước lên cao, ở thị trường Việt Nam đã có rất nhiều thương hiệu xuất xứ từ Mỹ, mà trong đó hoạt động nhập khẩu đóng vai trò chủ yếu. Nói chung, những nhân tố này là khách quan mà bản thân doanh nghiệp chỉ có thể nhận thức và đưa ra phương hướng kinh doanh cho phù hợp với chúng chứ không thể tự mình tác động làm biến đổi chúng được.
5.2. Nhân tố chủ quan
Ngoài những nhân tố khách quan, doanh nghiệp có thể dựa vào các lợi thế của mình để hạn chế phần nào ảnh hưởng của môi trường, để khai thác các cơ hội. Sự thích ứng như vậy cũng phụ thuộc rất nhiều vào các nhân tố chủ quan.
5.2.1. Nguồn nhân lực.
Đây là nhân tố chủ quan quan trọng nhất vì con người sẽ quyết định toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh, đặc biệt trong điều kiện doanh nghiệp là đơn vị kinh doanh nhập khẩu nên đội ngũ cán bộ nắm chắc được chuyên môn nghiệp vụ nhập khẩu sẽ đem lại tác dụng rất lớn trong sự thành công trong kinh doanh. Nó giúp tiết kiệm thời gian giao dịch, tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu thuận tiện, tiêu thụ nhanh hàng nhập khẩu tránh để đọng vốn... Khi mọi nhân viên trong doanh nghiệp đều có tinh thần trách nghiệm, đều có tác phong làm việc nghiêm túc thì sẽ đem lại hiệu quả rất lớn. Và ngược lại, khi hiệu quả hoạt động nhập khẩu được nâng cao thì nguồn nhân lực trong công ty đó lại có điều kiện tốt hơn để hoàn thiện và nâng cao trình độ.
5.2.2. Vốn kinh doanh.
Đây cũng là nhân tố quan trọng vì lĩnh vực kinh doanh nhập khẩu đòi hỏi một lượng tiền mặt và ngoại tệ lớn để thanh toán cho các đối tác trong nước và nước ngoài. nếu thiếu vốn thì qúa trình nhập khẩu không thực hiện được, rất có thể sẽ dẫn đến mất thị trường, mất khách hàng và cơ hội kinh doanh. Ngược lại, quá trình kinh doanh nhập khẩu, với sự trợ giúp của nguồn vốn đầy đủ, sẽ có hiệu quả hơn, từ đó đem lại tích luỹ cho doanh nghiệp, bổ sung thêm nguồn vốn kinh doanh. Chúng có quan hệ qua lại, mật thiết với nhau, và nếu được kết hợp hài hoà sẽ làm cho doanh nghiệp không ngừng phát triển.
5.2.3. Trình độ tổ chức quản lý
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự điều tiết quản lý vĩ mô của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì yếu tố quản lý trong doanh nghiệp không thể không được chú trọng. Vì trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt, nếu người quản lý không sáng suốt tất yếu sẽ gặp những thất bại trong kinh doanh. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi mà đã và đang sẽ có nhiều doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực xuất nhập khẩu, với những tiềm lực vô cùng mạnh mẽ. Điều này càng đòi hỏi đội ngũ lãnh đạo, quản lý phải linh hoạt, nhạy bén, để có thể chớp thời cơ, vượt qua những nguy cơ trong kinh doanh để đem lại thành công cho doanh nghiệp.
Trong tổ chức, quản lý cần coi trọng khâu nhập khẩu hàng đầu vào và tiêu thụ hàng nhập khẩu. Đối với khâu mua hàng (nhập khẩu) nếu cán bộ có trình độ tổ chức quản lý tốt sẽ mua được đúng hàng, đúng thời điểm, đúng yêu cầu. Còn ở khâu tiêu thụ thì sẽ giúp công ty nhanh chóng bán hết hàng nhập, thu hồi vốn nhanh để tiếp tục đầu tư. Ngược lại, tổ chứuc tốt khâu trên sẽ đem lại hiệu quả cho hoạt động nhập khẩu, từ thực tế đó, trình độ tổ chức quản lý trong nhập khẩu sẽ được nâng lên thông qua sự phát triển nguồn nhân lực trong doanh nghiệp.
Chương II
Hoạt động nhập khẩu và hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của Công ty sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu (Prosimex) - Bộ Thương mại.
I. Giới thiệu khái quát về Công ty sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu (prosimex) - Bộ thương mại.
1. Giới thiệu chung về Công ty.
Công ty sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu là một doanh nghiệp nhà nước, có tư cách pháp nhân, được nhà nước giao vốn và tự hạch toán kinh doanh. Doanh nghiệp có nhiệm vụ sử dụng hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn được giao có quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh trong phạm vi vốn do nhà nước giao cho Công ty.
Tiền thân Công ty sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu là một cơ sở tăng gia của Bộ Thương mại cũ đã có từ hơn 20 năm trước. Sau nhiều năm phấn đấu và phát triển không ngừng, bằng quyết định 778/KTĐN/TCCB ngày 25 tháng 11 năm 1989 của Bộ Kinh tế Đối ngoại (nay là Bộ Thương mại) Công ty sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu đã được thành lập và hoạt động theo điều lệ đã được Bộ Kinh tế Đối ngoại phê duyệt theo quyết định số 55/KTĐN/TCCB ngày 12/2/1990.
Ngày 25/5/1999, theo quyết định của Bộ Thương mại số 0626/1999/QĐ-BTM, công ty được đổi tên thành Công ty sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu.
* Tên công ty Công ty sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu (Prosimex) – Bộ Thương mại.
* Tên giao dịch quốc tế: Import-Export Production and Trading Corporation (Prosimex)
* Trụ sở chính Khương Đình- Thanh Xuân- Hà Nội.
* Điện thoại: 8.583.672 – 8.584.578
* Fax: 84(4)8.585.009
* Vốn điều lệ ban đầu: 5.135.000.000 VNĐ
Trong đó: - Vốn cố định: 2.227.000.000 VNĐ
- Vốn lưu động: 2.908.000.000 VNĐ
Đăng ký kinh doanh số 108296 do trọng tài kinh tế cấp ngày 30/4/1993.
* Về ngành nghề kinh doanh:
Ngành ngoại thương, nghề sản xuất và gia công hàng xuất khẩu, kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu hàng may mặc, dệt thủ công mỹ nghệ, nông lâm sản, kim khí, điện máy, hàng tiêu dùng và các loại vật tư sản xuất, vật liệu xây dựng, phương tiện vận tải, hải sản, thiết bị máy móc phụ tùng.
Công ty được xây dựng trên khu đất rộng khoảng 10.500 m2 trong đó gồm 2.000 m2 nhà 3 tầng là nơi làm việc của các phòng ban, 5.500 m2 nhà khung để sản xuất, 2.000 m2 dùng làm nhà kho và 1.000 m2 để làm vườn cây và khu vui chơi giải trí của CBCNV.
Về vị trí địa lý, Công ty không có điều kiện thuận lợi gì đáng kể. Phía Tây nam của công ty là đường Kim Giang và sông Tô Lịch, phía Bắc và phía Tây tiếp giáp với khu dân cư phường Khương Trung. Tuy đây là cầu nối giao thông giữa nội và ngoại thành nhưng đường đi hơi nhỏ và hay xảy ra tình trạng tắc nghẽn giao thông. Vì vậy, công ty gặp khó khăn trong việc vận chuyển hàng hoá cũng như việc đi lại làm việc của CBCNV. Nhưng đây là khu vực có trật tự an ninh tốt nên việc bảo quản tài sản của công ty không gặp khó khăn.
Trong những năm qua, từ một đơn vị sản xuất nhỏ, Công ty đã không ngừng phấn đấu vươn lên về các mặt sản xuất, gia công, cung ứng và chế biến hàng xuất khẩu. Bằng nguồn vốn tự tích luỹ của mình, đến nay, Công ty đã có một cơ sở vật chất ổn định đảm bảo cho hoạt động sản xuất gia công và kinh doanh XNK.
Với mục đích kinh doanh là tăng nguồn thu lợi nhuận qua kinh doanh để đầu tư mở rộng cho sản xuất. Prosimex luôn xác định chiến lược phát triển của công ty là giữ vững và phát triển sản xuất, đảm bảo tình hình chủ động trong kinh doanh.
Do công ty là đơn vị nhà nước và công ty trực tiếp hoạt động kinh doanh, sự tồn tại và phát triển của công ty chủ yếu dựa vào năng lực của công ty. Do vậy, công ty trực tiếp tìm khách hàng trong và ngoài nước sao cho đảm bảo hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không bị gián đoạn. Nhờ sự phát triển đi lên, Công ty được nhiều khách hàng trong và ngoài nước biết tới và trở thành những khách hàng tiềm năng và thường xuyên của Công ty.
Xét một cách tổng quát, Công ty sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu PROSIMEX được thành lập chính là để tổ chức sản xuất, gia công hàng xuất khẩu và kinh doanh nhập khẩu góp phần tăng thu nhập ngoại tệ cho nhà nước, tăng cường cơ sở vật chất cho Công ty, góp phần giải quyết cho người lao động và nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên trong Công ty.
Công ty tự mình xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch sản xuất, kinh doanh của Công ty theo quy chế hiện hành để thực hiện mục đích và nội dung hoạt động của Công ty, tự tạo nguồn vốn bảo đảm tự trang trải về tài chính cho hoạt động kinh doanh của Công ty, quản lý và sử dụng các nguồn vốn theo đúng chế độ và hiệu quả kinh tế, nghiên cứu khả năng sản xuất, nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế để cải tiến và áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng, số lượng và chủng loại của sản phẩm do Công ty sản xuất và kinh doanh. Thực hiện nghiêm chỉnh các hợp đồng và các văn bản mà Công ty đã ký, chỉ đạo các đơn vị trực thuộc Công ty theo quy chế hiện hành của Nhà nước và Bộ Thương mại.
2. Hệ thống tổ chức của Công ty.
Sơ đồ tổ chức bộ máy hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
Hình 1: Sơ đồ tổ chức bộ máy hoạt động của Công ty Prosimex.
Phòng XNK1
Phòng XNK 2
Phòng XNK 3
Phòng XNK 4
Phòng XNK 5
Xí nghiệp may xuất khẩu PROSIMEX
Phòng Nghiệp vụ tổng hợp
Phó Tổng giám đốc hành chính đoàn thể
Phó tổng giám đốc sản xuất kinh doanh XNK
Tổng giám đốc
Chi nhánh PROSIMEX tại TP.Hải Phòng
Chi nhánh PROSIMEX tại tỉnh Quảng Ninh
Văn phòng đại diện của PROSIMEX tại Liên Bang Nga
Văn phòng đại diện của PROSIMEX tại Hoa Kỳ
Công ty liên doanh HANTEX
Phòng tổ chức hành chính
Phòng tài chính kế toán
Ban xuất khẩu lao động và dịch vụ đầu tư
Văn phòng Đảng uỷ công ty PROSIMEX
Công đoàn, đoàn thanh niên cộng sản HCM
Chi nhánh PROSIMEX tại TP. HCM
( Nguồn: Phòng Tổ chức Hành chính Công ty Prosimex)
a. Ban giám đốc:
Đứng đầu Công ty là giám đốc công ty. Giám đốc Công ty do Bộ Thương mại bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm.
Người điều hành các hoạt động của Công ty theo chế độ thủ trưởng và đại diện cho quyền lợi và nghĩa vụ Công ty trước pháp luật và cơ quan quản lý nhà nước. Giúp việc cho Giám đốc công ty gồm hai Phó Giám đốc chịu trách nhiệm trước Giám đốc Công ty về lĩnh vực công tác được giao do Giám đốc Công ty đề nghị và Bộ Thương mại bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm.
b. Phòng nghiệp vụ tổng hợp:
Giúp lãnh đạo Công ty lập kế hoạch hoạt động, tham mưu cho Giám đốc tổ chức thực hiện hạch toán kế hoạch quản lý hoạt dộng kinh doanh của công ty. Nghiên cứu và nắm bắt những biến động của thị trường để có những biện pháp, phương thức kinh doanh phù hợp nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Hướng dẫn các đơn vị trực thuộc về nghiệp vụ và thực hiện nhiệm vụ được giao, tổng hợp báo cáo định kỳ và liên hệ xin chỉ tiêu và hạn ngạch.
c. Phòng tổ chức hành chính:
Giúp Ban giám đốc về tổ chức tiền lương, quy hoạch cán bộ nghiên cứu đề xuất sắp xếp bổ sung, bố trí cán bộ cho phù hợp với bộ máy quản lý của Công ty. Tham mưu cho Giám đốc trong việc nâng bậc lương hàng năm cho cán bộ công nhân viên. Công tác khen thưởng xử lý kỷ luật lao động, ký kết hợp đồng, quản lý lao động. Giải quyết các chế độ chính sách cho người lao động.Thực hiện chính sách đối với cán bộ công nhân viên về hợp đồng lao động, đào tạo bồi dưỡng CBCNV, giải quyết chế độ hưu trí, mất sức. Soạn thảo văn bản quy chế Công ty, hướng dẫn và tổ chức học tập, và tổ chức thực hiện các chủ trương đường lối của Đảng và nhà nước và các nghị quyết do Công ty đề ra.
d. Phòng tài chính kế toán:
Là phòng có nhiệm vụ tham mưu cho Giám đốc, Công ty về lĩnh vực quản lý nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn trong sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu. Quan hệ với Bộ Tài chính về nộp ngân quỹ và thủ tục pháp lý về tài chính cho ngân hàng để huy động vốn cho sản xuất kinh doanh, tham mưu cho giám đốc lập các kế hoạch tổ chức thu chi ngân quỹ. Hướng dẫn các đơn vị trực thuộc thực hiện tốt các chính sách quy định về công tác tài chính kế toán theo đúng chế độ nhà nước.
e. Khối kinh doanh:
Hiện nay công ty có 5 phòng kinh doanh xuất khẩu, mỗi phòng chuyên sâu một số mặt hàng nhất định, ngoài ra còn có Ban xuất khẩu lao động và dịch vụ đầu tư. Có một Xí nghiệp may xuất khẩu, công ty liên doanh Hantex, có 3 chi nhánh tại các tỉnh thành phố và 2 chi nhánh tại Liên Bang Nga và Hoa Kỳ:
- Chi nhánh tại TP.HCM
- Chi nhánh tại Quảng Ninh
- Chi nhánh tại Hải Phòng
f. Khối sản xuất:
+ Phân xưởng may thuê và kiểm tra sản phẩm may xuất khẩu.
+ Phân xưởng lắp ráp.
+ Phân xưởng sản xuất đinh và phụ liệu sản xuất.
Nhiệm vụ của khối sản xuất là sản xuất, lắp ráp, chế biến,... ra các sản phẩm hoàn chỉnh nhằm phục vụ cho hoạt động xuất khẩu. Ngoài ra, khối sản xuất còn thực hiện nhiệm vụ sửa chữa, lắp ráp, gia công những hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài để tiêu thụ trên thị trường nội địa hoặc tái xuất khẩu ra nước ngoài. Đây là một bộ phận có đông đảo cán bộ._.
2,000.00
2,500.00
4,650.00
B- Nhập khẩu: trong đó
30,500.00
33,800.00
37,000.00
- Máy móc thiết bị
1,000.00
2,500.00
3,7000.00
- Sắt thép các loại
1,500.00
4,700.00
6,300.00
- Dầu cọ tái xuất khẩu
23,600.00
24,500.00
21,000.00
- Hàng tiêu dùng
3,000.00
3,500.00
4,000.00
- Hàng hoá khác
1,400.00
1,500.00
2,000.00
(Nguồn: Phòng Nghiệp vụ tổng hợp Công ty sản xuất kinh doanh XNK)
Để thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh Công ty đã đưa ra các giải pháp về thị trường:
- Tổ chức tốt việc cung cấp, thu thập xử lý thông tin kịp thời, chính xác. Tăng cường đầu tư và đưa công tác thông tin phát triển để thị trường đi trước một bước so với yêu cầu của nhiệm vụ kinh doanh.
- Thông qua cơ quan đại diện Thương mại Việt Nam ở nước ngoài, cũng như các đại diện Thương mại nước ngoài tại Việt Nam để khai thác và thu thập thông tin.
- Thiết lập các văn phòng và chi nhánh tại nước ngoài.
- Tổ chức tốt hệ thống cộng tác viên.
- Với các thị trường mới có thể thông qua các Công ty môi giới.
- Tăng cường các thông tin quảng cáo.
- Tổ chức và tham gia các triển lãm và hội chợ Thương mại Quốc tế.
- Đảm bảo hàng hoá xuất khẩu đúng tiêu chuẩn, thực hiện nghiêm túc các hợp đồng mua bán, dịch vụ xây dựng và củng cố uy tín của mình trên thị trường Quốc tế. Trong những năm tới PROSIMEX sẽ tập trung vào những thị trường đã và đang có quan hệ với Công ty, đặc biệt là thị trường Mỹ và thị trường các nước ASEAN. Tuy nhiên, để xác định đúng hướng đi và tìm đúng đối tác ta cũng cần phải tập trung nghiên cứu một số khả năng, nhu cầu thị hiếu và nhu cầu kinh doanh của từng thị trường và từng khu vực thị trường.
* Đối với thị trường truyền thống thì duy trì và phát triển.
* Đối với thị trường EU: Trước hết khi có hàng xuất sang EU phải nhận thức đầy đủ trách nhiệm của mình về số lượng, chất lượng và thời gian giao hàng vì điều này liên quan đến thời vụ. Thường xuyên nghiên cứu và cải tiến mẫu mã cho phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Vì sự phát triển lâu dài và đa dạng hàng may mặc, PROSIMEX cần đầu tư liên doanh với nước ngoài để lắp đặt thêm các thiết bị mới có thể sản xuất được phần lớn các mặt hàng trong danh mục 151 nhóm mặt hàng. Khả năng kinh doanh xuất nhập khẩu các mặt hàng khác với thị trường EU, ngoài mặt hàng may mặc, thêu ren, Công ty còn nhiều cơ hội để xuất khẩu các mặt hàng khác vào thị trường EU như: Cà phê, tinh dầu các loại, gạo, thủ công mỹ nghệ,... và nhập khẩu các hàng hoá từ thị trường EU như máy móc thiết bị, hoá chất, hàng tiêu dùng khác....
* Đối với thị trường Mỹ: xuất phát từ những thuận lợi và những khả năng nêu trên về việc thâm nhập và khai thác thị trường Mỹ, PROSIMEX cũng đã đặt ra những nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài như sau:
- Chủ động và quan hệ buôn bán với các Công ty Mỹ bằng cách giao dịch trực tiếp và thông qua các tổ chức xúc tiến Thương mại như: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Phòng Thương mại Mỹ.
- Tổ chức nghiên cứu luật thương mại và tập quán thương mại của Mỹ.
- Xây dựng các phương án, luận chứng kinh tế kỹ thuật và lĩnh vực đầu tư mang tính khả thi, gọi đầu tư và tìm đối tác.
- Nghiên cứu cụ thể về hàng xuất khẩu và hàng nhập khẩu với thị trường Mỹ để hoạch định cơ cấu và chính sách thích hợp, định hướng cho sản xuất và xuất khẩu theo nhu cầu, thị hiếu của thị trường.
- Chuẩn bị việc đào tạo cán bộ có kiến thức, có trình độ, có phẩm chất để làm việc trực tiếp được với khách hàng.
* Đối với thị trường Châu á: Với những thành tích đã đạt được trong những năm qua, tiếp tục duy trì và mở rộng quan hệ buôn bán với các Công ty ở các nước Châu á trên cơ sở những mặt hàng truyền thống và những thế mạnh của PROSIMEX. Đặc biệt coi trọng thị trường Singapore và Trung Quốc.....
II. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu- Bộ thương mại.
1. Đẩy mạnh nghiên cứu thị trường nhập khẩu và thị trường xuất bán trong nước.
1.1. Đối với thị trường nhập khẩu:
Từ nhiều năm nay trong hoạt động xuất nhập khẩu theo cơ chế cũ, những bạn hàng quen thuộc của Việt Nam thường là những nước xã hội chủ nghĩa, các nước khác chưa có quan hệ làm ăn nhiều, không có thị trường đầy đủ, ngược lại các nước khác cũng không biết nhiều về Việt Nam cần gì và có gì. Vấn đề đặt ra đối với Công ty là nghiên cứu thị trường nhập khẩu sao cho phù hợp với tình hình tiêu thụ trong nước và tìm nhà cung cấp tối ưu.
Trong cơ chế thị trường bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào cũng cần phải gắn với thị trường. Sự tồn tại của doanh nghiệp gắn liền với sự nắm vững thị trường. Đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thì công tác nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước là rất cần thiết và phải được quan tâm thoả đáng.
Trong kinh doanh phải nắm vững được các yếu tố của thị trường, hiểu biết được các quy luật vận động của chúng để ứng xử kịp thời, mỗi chủ thể kinh doanh nhất thiết phải tiến hành các hoạt động nghiên cứu thị trường vì nó rất có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả, nhất là trong công tác kinh doanh nhập khẩu của Công ty.
Qua quá trình quan sát và nghiên cứu ở công ty PROSIMEX cho thấy Công ty chưa thực sự coi trọng vấn đề nghiên cứu thị trường như là một động lực, tiền đề để phát triển kinh doanh. Trên thực tế đã cho thấy, trong cơ chế cũ khi mọi hoạt động giao dịch, tìm kiếm bạn hàng đều do nhà nước đảm bảo, nhiệm vụ của Công ty chỉ là hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế được giao cho nên công tác nghiên cưú thị trường gần như không được đề cập đến. Do vậy, thực tế ở Công ty cho thấy Công ty chưa thực sự quan tâm thích đáng đến công tác kế hoạch, marketing quốc tế, tìm kiếm nguồn hàng từ các thị trường không phải truyền thống...
Trong nghiên cứu thị trường xác định mặt hàng nhập khẩu, một nhân tố rất quan trọng cần phải xem xét đó là tỷ suất ngoại tệ các mặt hàng nhập khẩu. Tỷ suất ngoại tệ sẽ được so sánh với tỷ giá hối đoái để quyết định xem có nên nhập khẩu hay không. Như vậy, yêu cầu mới đặt ra là Công ty phải luôn bám sát giá cả thị trường, xu hướng vận động của giá cả cũng như việc tiếp cận với nhiều nguồn hàng.
Công ty cần phải xác định được nhu cầu và nguồn hàng một cách thực tế, kể cả lượng dự trữ, xu hướng biến động trong từng thời điểm, từng vùng, từng khu vực. Cùng với việc xác định nắm bắt nhu cầu là việc nắm bắt khả năng cung cấp của thị trường bao gồm: Việc xem xét đặc điểm tính chất, khả năng của sản xuất hàng hoá thay thế, khả năng lựa chọn mua bán. Kết hợp với việc nghiên cứu dung lượng thị trường, các điều kiện chính trị, thương mại, luật pháp, tập quán buôn bán quốc tế để có thể hoà nhập với thị trường một cách nhanh chóng và có hiệu quả.
Thâm nhập và mở rộng thị trường.
Từ trước đến nay việc thâm nhập và tạo một chỗ đứng vững chắc ở bất kỳ một thị trường nào là một việc hết sức khó khăn, đòi hỏi phải có sự đầu tư thích đáng, thường xuyên liên tục. Đối với mỗi thị trường và mỗi mặt hàng lại đòi hỏi có một phương pháp khác nhau.
Thị trường nhập khẩu là một mảng không thể thiếu của Công ty gắn liền với thị trường trong nước, thị trường tiêu thụ hàng nhập khẩu của Công ty
1.2. Đối với thị trường xuất bán trong nước.
Việc nắm bắt tình hình kinh tế xã hội cũng như cơ sở luật pháp hay tìm hiểu bạn hàng trong nước phải được cán bộ kinh doanh tiến hành rất kỹ lưỡng, đầy đủ và có hiệu quả. Tuy nhiên về hàng hoá mới chỉ quan tâm đến giá cả mà chưa chú ý đến dung lượng thị trường hay chu kỳ biến động của việc tiêu thụ hàng hoá, do đó hầu như chưa thể có dự đoán chính thức của giá cả. Nếu như không có các nhân tố ảnh hưởng đột biến tới dung lượng thị trường như bão lụt, hạn hán,... thì quan sát thị trường thực tế có thể thấy dung lượng thị trường biến đổi có tính chu kỳ và tương đối ổn định. Mặt khác do là người nhập khẩu trực tiếp nên cán bộ có thể nắm bắt được giá gốc (giá thấp nhất có thể bán) từ đó biết được giới hạn của giá lên xuống. Nắm vững chu kỳ trên, cán bộ kinh doanh tính toán thời gian nhập hàng đúng lúc để tiêu thụ hàng hoá có thể bán với giá thấp với thời gian nhanh. Để làm được điều này thì đợi giá đang xuống thấp vẫn lập phương án nhập hàng, khi hàng về là vừa khi giá lên.
Để có khả năng nghiên cứu thâm nhập và mở rộng thị trường xuất bán, bộ phận nghiên cứu thị trường cần hoạt động một cách có hiệu quả hơn. Việc thu thập thông tin chính xác, kịp thời là vô cùng quan trọng trong việc kinh doanh hàng hoá nói chung và hàng nhập khẩu nói riêng.
Trên cơ sở thu thập và xử lý những thông tin thị trường, Công ty sẽ xác định được chính xác thị trường mục tiêu, đưa ra các quyết định như kế hoạch sản phẩm, kế hoạch marketing,.... Căn cứ vào kết quả nghiên cứu thị trường mà xem xét điều chỉnh giá bán cho phù hợp hoặc có những biện pháp cụ thể để tăng giảm giá bán, trả lời đựoc những câu hỏi như:
- Khi nào khách hàng mua hàng của Công ty, khối lượng là bao nhiêu, quy cách chất lượng mẫu mã như thế nào?
- Giá cả mà khách hàng có thể chấp nhận được.
- Địa điểm thời gian mà người mua cần đến hàng hoá của Công ty.
Để hoàn thành được nhiệm vụ nặng nề và khó khăn trên bộ phận nghiên cứu thị trường phải có những thông tin cần thiết một cách kịp thời, đầy đủ và phản ánh chính xác tình hình thực tế. Để đạt được điều này Công ty cần dự báo được tình hình thị trường thông qua dự báo kinh tế, thông qua dự báo xu hướng nhu cầu... Đồng thời Công ty cũng cần tiếp cận thị trường, đi sâu đi sát thị trường, luôn coi trọng thị trường và vũ đài cạnh tranh đối với các đối thủ. Công ty phải có hệ thống thông tin hữu hiệu, mọi thông tin đối với Công ty đều quan trọng, giúp Công ty phân tích tình hình thực trạng thị trường, tình hình các đối thủ cạnh tranh, nhu cầu của thị trường để có kế hoạch mở rộng thị trường đáp ứng tốt nhất nhu cầu của thị trường.
Mở rộng thị trường là một mục tiêu lâu dài và khó khăn, nhưng chỉ có mở rộng thị trường thì Công ty mới có thể tồn tại và phát triển vững chắc. Đối với Công ty PROSIMEX hiện nay mục tiêu mở rộng thị trường trong nước để nâng cao hiệu quả kinh doanh hàng nhập khẩu là một trong những mục tiêu chính, Công ty cần có những biện pháp cụ thể để thực hiện.
2. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong kinh doanh nhập khẩu.
2.1. Giải quyết tốt mối quan hệ với ngân hàng.
Trong kinh doanh nói chung và kinh doanh hàng nhập khẩu nói riêng, yêu cầu về vốn kinh doanh là rất lớn và phải huy động trong thời gian ngắn, nên việc vay vốn các tổ chức tín dụng là điều tất yếu. Quan hệ của Công ty với các ngân hàng là một bộ phận quan trọng trong chiến lược huy động và sử dụng vốn của Công ty.
Công ty PROSIMEX là một doanh nghiệp nhà nước có ưu thế về vốn tự có nên Công ty ít gặp khó khăn về vốn. Tuy nhiên, để thực hiện những chiến lược cho cả xuất khẩu lẫn nhập khẩu thì nhu cầu về vốn có thể xuất hiện bất kỳ lúc nào. Do vậy mối quan hệ vưói các ngân hàng càng vững chắc thì khả năng đảm bảo an toàn về tài chính trong những trường hợp đột biến càng được đảm bảo. Hơn nữa, một khi mối quan hệ với các ngân hàng đã vững chắc, thủ tục vay vốn cũng sẽ bớt rườm rà.
2.2. Tăng cường liên kết liên doanh trong hoạt động xuất nhập khẩu.
Đây là một giải pháp cũng rất hữu ích trong việc huy động nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh. Hình thức này là nhiều bên cùng góp vốn để kinh doanh. Trong thời gian tới, Công ty cần tập trung vào liên doanh liên kết với các doanh nghiệp trong và ngoài nước, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất trong kinh doanh xuất nhập khẩu. Điều này cũng phù hợp với chiến lược đa dạng hoá hoạt động kinh doanh của Công ty trên cơ sở nắm bắt được nhu cầu thị trường.
Hình thức này tạo điều kiện cho Công ty có khả năng thực hiện được những hợp đồng lớn, nhờ đó uy tín của Công ty với các bạn hàng được nâng cao, đặc biệt là các bạn hàng lớn.
Ngoài ra, liên doanh liên kết cũng mang lại nhiều cơ hội để Công ty tiếp xúc với các nguồn vốn của nước ngoài, việc sử dụng vốn bằng các ngoại tệ có khả năng chuyển đổi cao sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhờ ưu điểm về lãi suất thấp và khả năng thanh toán cao đơn giản hoá thủ tục và các khâu trung gian thanh quyết toán.
3. Nhóm giải pháp tín dụng thanh toán trong kinh doanh nhập khẩu.
Vì hoạt động diễn ra trên phạm vị toàn thế giới. Công ty nhập khẩu hàng từ nhiều nước khác nhau, do đó việc thanh toán cũng khá phức tạp. Việc sử dụng các công cụ tín dụng trong thanh toán là một giải pháp cho Công ty, nhờ đó mà Công ty giảm bớt được chi phí (hoa hồng) khi thanh toán. Hiện nay trong thanh toán nhập khẩu tại Công ty PROSIMEX chủ yếu là thông qua hình thức L/C (thư tín dụng), TT điện chuyển tiền, CAD (thanh toán khi xuất trình chứng từ), trong khi đó L/C chiếm 80% lượng thanh toán cho các hợp đồng nhập khẩu công tác thanh toán cho các hợp đồng nhập khẩu tại Công ty đã được hệ thống hoá từ các phòng kinh doanh, đơn vị trực thuộc gắn kết với phòng tài chính kế toán, đảm bảo quá trình thanh toán được thông suốt và nhanh chóng. Vấn đề đặt ra là thanh toán bằng phương thức nào cho hợp đồng cụ thể. Trên thực tế thanh toán cho hình thức CAD có ưu điểm là nhận được tiền ngay khi xuất trình bộ chứng từ. Còn thanh toán bằng L/C, TT điện chuyển tiền thì Công ty phải mất một khoản phí cho ngân hàng (thường là 0,15% giá trị hợp đồng). Việc đa dạng các hình thức thanh toán là hết sức cần thiết và là nhu cầu khách quan trong kinh doanh, việc sử dụng linh hoạt các hình thức tín dụng trong thanh toán quốc tế cũng làm giảm áp lực và vốn kinh doanh, đặc biệt là nguồn ngoại tệ mạnh.
4. Nhóm giải pháp tổ chức thực hiện kinh doanh nhập khẩu và hợp lý hoá cơ cấu mặt hàng nhập khẩu.
4.1. Lựa chọn phương án kinh doanh hợp lý.
Hoạt động trong cơ chế thị trường với mức độ ngày càng cạnh tranh khốc liệt đòi hỏi các doanh nghiệp phải xây dựng một chiến lược kinh doanh đúng đắn phù hợp, kết hợp chặt chẽ cả mục tiêu trung, ngắn hạn và dài hạn, giảm sự phụ thuộc vào sự biến động của thị trường đồng thời thích ứng nhanh với sự biến động của môi trường kinh doanh.
Bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào trên thương trường đều phải được tính toán trên nhiều phương diện để đạt được hiệu quả cao nhất hay mục đích kinh doanh của doanh nghiệp. Trong cơ chế thị trường ngày càng khốc liệt, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải tận dụng hết thời cơ mà thị trường tạo ra trong khả năng cụ thể của mình. Do vậy để kinh doanh đạt đựoc hiệu quả cần phải lựa chọn phương án kinh doanh sao cho phù hợp.
4.2. Hợp lý hoá cơ cấu mặt hàng nhập khẩu.
Hiện nay nền sản xuất trong nước đã phát triển khá mạnh mẽ, công ty, xí nghiệp sản xuất trong nước đã từng bước đổi mới quy mô kỹ thuật, nâng cao năng suất chất lượng hàng hoá của mình. Hàng tiêu dùng sản xuất trong nước ngày càng tốt hơn với mẫu mã đẹp và khá phong phú. Xu thế người tiêu dùng đã chuyển dần hướng sang sử dụng hàng nội địa, trào lưu chuộng hàng ngoại dần dần giảm xuống. Xu thế này chắc chắn sẽ còn tiến triển hơn nữa trong những năm tới.
4.3. Chú trọng nghệ thuật đàm phán trong kinh doanh.
Đây là vấn đề hết sức nhạy cảm, một doanh nghiệp hoạt động thương mại sẽ phải tiến hành đàm phán, ký kết rất nhiều hợp đồng. Để đàm phán thành công Prosimex phải nắm vững 3 yếu tố cơ bản của đàm phán: bối cảnh, thời gian và quyền lực sao cho đàm phán có lợi nhất. Bên cạnh đó Prosimex cần phát huy tốt hơn nữa các nguyên tắc trong đàm phán, đó là “hiểu rõ đối tác, biết người biết ta, bách chiến bách thắng”, “tạo sự cạnh tranh”, “từng bước tiến tới mục tiêu”, “bình đẳng cùng có lợi”.
3.3. Quy định chặt chẽ các điều khoản trong hợp đồng.
Hợp đồng là cơ sở pháp lý để các bên thực hiện nghĩa vụ của mình trong thương vụ mua bán. Khi ký kết hợp đồng Prosimex cần chú trọng đến các điều khoản về giá cả, chất lượng, số lượng, cơ sở điều kiện giao hàng.... một cách chặt chẽ, tránh thua thiệt và sai sót sau này. Các điều khoản của hợp đồng khi soạn thảo phải được cân nhắc kỹ và nên theo những mẫu đã được ban hành và sử dụng rộng rãi để tránh tình trạng hiểu nhầm gây tranh chấp.
5. Nhóm biện pháp về tổ chức cán bộ.
Hoạt động này là cơ sở cho việc nâng cao hiệu quả sử dụng lao động cũng như năng suất lao động. Nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ luôn là mục tiêu lâu dài của Prosimex.
Đội ngũ chuyên môn của Prosimex phải là người có trình độ uyên thâm, biết sáng tạo và tạo lập môi trường làm việc thoải mái, tạo cảm giác hăng say cho người lao động. Tạo được bản sắc riêng cho Prosimex là điều không đơn giản. Để làm được điều đó công ty cần triển khai một số hoạt động sau:
Thứ nhất là công ty nên có kế hoạch chon nhân viên có trình độ chuyên môn tốt, phù hợp với vị trí mà họ được làm. Có như vậy, công ty mới đạt được hiệu quả sử dụng lao động cao.
Thứ hai là công ty cần thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo ngắn hạn và dài hạn nhằm bồi dưỡng thêm nghiệp vụ chuyên môn cho nhân viên trong công ty.
Thứ ba là công ty cần phân định rõ nhiệm vụ của từng người trong các phòng ban. Công việc này nên giao cho trưởng phòng là thích hợp nhất bởi vì họ là người nắm rõ nhất năng lực của các nhân viên mà họ quản lý. Có như vậy mọi hoạt động của công ty mới đạt hiệu quả cao được.
Thứ tư là công ty nên sử dụng các hình thức khuyến khích vật chất và tinh thần để động viên người lao động như: tiền lương, tiền thưởng, nghỉ phép, tham quan dã ngoại, hoạt động ngoại khoá, ca nhạc biểu diễn, mỗi phòng ban có thể đề ra quy định sinh hoạt riêng cho mình, thoát ra khỏi các hoạt động của công ty như: thiết lập quỹ khen thưởng của phòng, tổ chức thi đấu thể thao giữa các phòng ban trong công ty. Các hoạt động này sẽ có tác động tích cực đối với người lao động giúp cho họ lấy lại được sự cân bằng, gây hứng thú say mê trong công việc cũng như tái tạo sức lao động. Ngược lại, công ty cũng cần có biện pháp quản lý chặt chẽ lao động như siết chặt kỷ luật lao động, thực hiện phê bình nghiêm khắc những trường hợp vi phạm quy định kỷ luật chung.
Thứ năm là công ty nên tăng cường hơn nữa các chế độ chính sách bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế, trợ cấp cho người về hưu để người lao động trong công ty có hướng làm việc lâu dài cho công ty, cống hiến hết mình cho công ty, tránh hiện tượng chảy máu chất xám.
II. Một số kiến nghị đối với nhà nước.
Trong cơ chế thị trường, mọi doanh nghiệp đều toàn quyền hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh của mình và tuân theo pháp luật. Vai trò của nhà nước là định hướng và tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp phát huy được khả năng kinh doanh của mình, đặc biệt là kinh doanh xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, trên thực tế kinh doanh nhập khẩu cũng phát sinh không ít những khó khăn cần tới sự điều chỉnh vĩ mô từ phía Nhà nước để nâng cao hiệu quả kinh doanh của mỗi doanh nghiệp và đóng góp chung cho hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. Xuất phát từ thực tế đó, tôi mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị đối với Nhà nước như sau:
1. Tăng cường và mở rộng quan hệ với các nước và các tổ chức quốc tế:
Nhà nước cần duy trì và mở rộng quan hệ hợp tác theo hướng đa dạng hoá và đa phương hoá. Trên cơ sở đó các định đúng đắn các khu vực thị trường trọng điểm, có lợi cho sự phát triển kinh tế Việt Nam. Nhà nước phải là người dẫn dắt cho các đơn vị xuất nhập khẩu, trực tiếp làm ăn với các doanh nghiệp trong khu vực thị trường đó.
Việc củng cố quan hệ gắn bó và thường xuyên hợp tác chặt chẽ giữa các quốc gia sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp của các bên tiến hành trao đổi thương mại thuận lợi, phát huy lợi thế của mỗi quốc gia để cùng nhau phát triển.
2. Hoàn thiện cơ chế quản lý hoạt động nhập khẩu.
Cho đến nay, mặc dù các cơ quan quản lý Nhà nước đã cố gắng nhiều để dần dần hoàn thiện cơ chế quản lý hoạt động nhập khẩu nhưng vẫn còn một số tồn tại do nguyên nhân khách quan và chủ quan, gây khó khăn, cản trở cho hoạt động nhập khẩu của các doanh nghiệp nhập khẩu nói chung cũng như của Prosimex nói riêng. Do vậy, để tạo thuận lợi cho hoạt động này, trong thời gian tới Nhà nước cần tiến hành những công việc sau:
+ Đơn giản hoá, bỏ bớt một số khâu không cần thiết gây phiền hà trong thủ tục nhập khẩu. Hiện tại có quá nhiều công ty quan tham gia vào hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp, ngoài Hải quan còn có các cơ quan quản lý của ngành, cơ quan chủ quản, cơ quan quản lý địa phương.... Đôi khi giữa những bộ phận này có sự chồng chéo lẫn nhau trong việc quản lý và hoạt động theo những nguyên tắc không nhất quán gây nhiều khó khăn cho các đơn vị thương mại. Nên chăng, Nhà nước cần xây dựng một mô hình quản lý thống nhất để giảm bớt gánh nặng thủ tục cho doanh nghiệp tạo điều kiện cho doanh nghiệp tận dụng được cơ hội kinh doanh. Đồng thời Nhà nước cần bổ sung vào cơ quan Hải quan những cán bộ có trình độ chuyên môn về kỹ thuật và máy móc hiện đại để rút ngắn thời gian kiểm tra hàng hoá thiết bị nhập khẩu. Vấn đề này liên quan đến khâu đăng kiểm và kiểm hoá của các đơn vị quản lý xuất nhập khẩu. Đối với những mặt hàng cũ thì không có khó khăn gì nhưng đối với những mặt hàng mới thì công tác kiểm hoá làm mất rất nhiều thời gian, đặc biệt là những hàng hoá chưa được hợp chuẩn về các chỉ tiêu thông số kỹ thuật do sự thiếu cập nhật thông tin của các cơ quan chức trách và quy tắc hợp chuẩn của ta chưa nhất quán theo quy tắc nào cả (của EU, của Mỹ, của Nhật Bản). Bên cạnh đó Nhà nước cần quan tâm làm trong sạch đội ngũ cán bộ Hải quan.
+ Về thuế nhập khẩu: Nhà nước cần điều chỉnh lại thuế nhập khẩu như giảm dần mức thuế, hoàn thiện biểu thuế cụ thể, chính xác cho từng loại mặt hàng nhập khẩu để công ty có thể xây dựng kế hoạch kinh doanh của mình một cách chủ động.3. Tăng cường công tác quản lý ngoại tệ để đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động nhập khẩu.
Một khó khăn cho Prosimex hiện nay là nguồn vốn ngoại tệ còn rất hạn chế, để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho Prosimex cũng như các doanh nghiệp nhập khẩu khác, Nhà nước có thể tiến hành:
+ Xem xét, phân bổ cho các doanh nghiệp như Prosimex vốn ngoại tệ nhiều hơn.
+ Nhà nước có thể nới lỏng quan hệ trao đổi ngoại tệ giữa các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Điều này giúp họ tận dụng được ngoại tệ nhàn rỗi của nhau, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
+ Bên cạnh đó, Nhà nước cần giữ cho tỷ giá hối đoái ổn định ở một mức hợp lý, tránh những xáo động bất thường và không kiểm soát được của tỷ giá. Việc bình ổn tỷ giá của Nhà nước sẽ tạo tâm lý yên tâm cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu.
4. Nhà nước nên hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp nhập khẩu.
+ Nhà nước nên có chính sách hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp nhập khẩu như: cho vay vốn với lãi suất thấp, trong thời gian dài
+ Nhà nước có thể chỉ đạo để các Ngân hàng bảo lãnh cho các đơn vị nhập khẩu có thể vay được những khoản lớn từ các hãng sản xuất nước ngoài dưới hình thức trả chậm. Điều này đặc biệt quan trọng khi các đơn vị phải tiến hành những kế hoạch phân bổ quá lớn với khả năng của mình. Nhờ vậy, các đơn vị nhập khẩu như Prosimex có thể hoạt động dễ dàng và an toàn hơn.
+ Nhà nước có thể đứng ra bảo lãnh cho các doanh nghiệp được vay với số vốn lớn để doanh nghiệp không phải thế chấp tài sản, từ đó doanh nghiệp sẽ có đủ vốn phục vụ cho hoạt động nhập khẩu.
+ Nhà nước nên khuyến khích các ngân hàng góp vốn với các doanh nghiệp để hợp tác kinh doanh.
5. Nhà nước nên tổ chức thông tin kinh tế cho các doanh nghiệp.
Thông tin ngày nay có vai trò hết sức quan trọng đối với tất cả các doanh nghiệp. Tuy nhiên việc nắm bắt thông tin của các doanh nghiệp vẫn còn nhiều hạn chế, làm ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh .Chính vì thế Nhà nước cần thường xuyên tổ chức các diễn đàn thông tin kinh tế cho các doanh nghiệp về tình hình kinh tế trong và ngoài nước, những biến động của thị trường, những dự đoán về tình hình biến động đó.... để các doanh nghiệp nhập khẩu có thể đưa ra kế hoạch kinh doanh nhập khẩu hợp lý ,tránh rủi ro.
Nhà nước có thể thành lập các tổ chức thông tin kinh tế ở các đại sứ quán để doanh nghiệp có thể thu thập thông tin cần thiết về thị trường, sản phẩm, giá cả ở các quốc gia mà doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá. Đồng thời Nhà nước có thể xuất bản các ấn phẩm giới thiệu về những hàng hoá sản phẩm chuyên ngành.
Kết luận.
Vấn đề "Nâng cao hiệu quả kinh doanh" nhập khẩu nói riêng và kinh doanh nói chung là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp và của toàn xã hội. Đây thực sự là đề tài rộng lớn và phức tạp mà để giải quyết nó không những phải có trình độ hiểu biết, năng lực, kiến thức rộng lớn mà còn đòi hỏi có nhiều kinh nghiệm thực tế cọ xát trên thương trường.
Bằng những kiến thức tích luỹ được trong quá trình học tập tại trường Đại học Kinh tế quốc dân. Cộng với thời gian vừa qua trực tiếp khảo sát thực tế tại Công ty sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu (Prosimex) – Bộ Thương mại, kết hợp với việc tham khảo một số sách vở, tài kiệu, em đã hoàn thiện đề tài "Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu tại Công ty sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu Prosimex – Bộ Thương mại" với sự giúp đỡ tận tình của cô giáo Nguyễn Thị Thanh Hà.
Với thời gian thực tập có hạn và trình độ bản thân còn nhiều hạn chế. Cho nên bản chuyên đề này còn không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự đóng góp bổ sung ý kiến của các thầy cô giáo.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình kinh tế học quốc tế - GS. PTS. Tô Xuân Dân - NXB Thông kê năm 1999
2. Giáo trình kinh tế thương mại và dịch vụ - PGS. PTS. Đặng Đình Đào - NXB Thông kê năm 1997
3. Giáo trình kinh doanh quốc tế - TS. Nguyễn Thị Hường - NXB Thông kê năm 2000
4. Giáo trình quản trị dự án đầu tư nước ngoài - TS. Nguyễn Thị Hường - NXB Thông kê năm 2001
5. Giáo trình Marketing quốc tế - PTS. Nguyễn Cao Vân - NXB Giáo dục năm 1999
6. Phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh - ĐH KTQD.
7. Quản trị Kinh doanh tổng hợp trong các doanh nghiệp – Nhà xuất bản Khoa học Kỹ thuật năm 1997
8. Báo cáo tài chính của Công ty sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu (Prosimex) – Bộ Thương mại.
7. Một số số liệu về Công ty sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu (Prosimex) - Bộ Thương mại.
Mục lục
Lời nói đầu 1
Chương I: Những lý luận cơ sở về hiệu quả kinh doanh nhập khẩu 3
I. Khái quát về hoạt động nhập khẩu trong nền kinh tế thị trường 3
1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động kinh doanh nhập khẩu 3
1.1. Khái niệm 3
1.2. Đặc điểm 4
2. Vai trò của hoạt động kinh doanh nhập khẩu 4
3. Các hình thức nhập khẩu 5
3.1. Nhập khẩu uỷ thác 6
3.2. Nhập khẩu tái xuất 6
3.3. Nhập khẩu đổi hàng 7
3.4. Nhập khẩu tự doanh 8
3.5. Nhập khẩu liên doanh 9
3.6. Một số hình thức khác 10
II. Hiệu quảkinh doanh và các chỉ tiêu đánh giá 10
1. Hiệu quả kinh doanh 10
1.1. Khái niệm, bản chất hiệu quả kinh doanh 10
1.2. Phân loại hiệu quả kinh doanh 14
1.2.1. Hiệu quả kinh doanh cá biệt và hiệu quả kinh tế - xã hội của nền kinh tế quốc dân 14
1.2.2. Hiệu quả chi phí bộ phận và hiệu quả chi phí tổng hợp 15
1.2.3. Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối 16
1.2.4. Hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài 16
2. Khái niệm về hiệu quả kinh doanh nhập khẩu 17
3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh 18
3.1. Sự khan hiếm nguồn lực đòi hỏi phải nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nói chung và hiệu quả hoạt động nhập khẩu nói riêng 18
3.2. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật là điều kiện thuận lợi để nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu 19
3.3. Môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu 20
3.4. Nâng cao hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả hoạt động nhập khẩu nói riêng chính là nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động 20
4. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh nhập khẩu 21
4.1. Hiệu quả tổng hợp tuyệt đối 21
4.2. Hiệu quả tổng hợp tương đối 21
4.3. Các chỉ tiêu hiệu quả bộ phận 22
4.4. Các chỉ tiêu biểu hiện hiệu quả kinh tế - xã hội 25
5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh nhập khẩu 25
5.1. Các nhân tố khách quan 25
5.2. Nhân tố chủ quan 30
Chương II: Hoạt động nhập khẩu và hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của Công ty sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu (Prosimex)- Bộ Thương mại 32
I. Giới thiệu khái quát về Công ty sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu (Prosimex) - Bộ Thương mại 32
1. Giới thiệu chung về công ty 32
2. Hệ thống tổ chức của Công ty 35
3. Hoạt động của Công ty 38
4. Tình hình nhân sự 40
5. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Công ty sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu Prosimex
II. Phân tích đánh giá hiệu quả nhập khẩu của Công ty 42
1. Khái quát về hoạt động nhập khẩu của Công ty Prosimex 42
2. Phân tích đánh giá hiệu quả nhập khẩu của Công ty 45
3. Đánh giá chung về hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của Công ty 51
3.1. Những kết quả đạt được 51
3.2. Những tồn tại và hạn chế 53
3.3. Nguyên nhân của những tồn tại 54
Chương III: Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu tại Công ty sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu (Prosimex) - Bộ Thương mại 56
I. Phương hướng và mục tiêu phát triển của Công ty trong thời gian tới 56
1. Định hướng chiến lược phát triển của Công ty 56
2. Định hướng mở rộng thị trường bạn hàng và các mặt hàng 57
II. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công t sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu - Bộ Thương mại 60
1. Đẩy mạnh nghiên cứu thị trường nhập khẩu và thị trường xuất bán trong nước 60
1.1. Đối với thị trường nhập khẩu 60
1.2. Đối với thị trường xuất bán trong nước 62
2. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh nhập khẩu 63
2.1. Giải quyết tốt mối quan hệ với ngân hàng 63
2.2. Tăng cường liên kết liên doanh trong hoạt động xuất nhập khẩu 64
3. Nhóm giải pháp tín dụng thanh toán trong kinh doanh nhập khẩu 64
4. Nhóm giải pháp tổ chức thực hiện kinh doanh nhập khẩu và hợp lý hoá cơ cấu mặt hàng nhập khẩu 65
4.1. Lựa chọn phương án kinh doanh hợp lý 65
4.2. Hợp lý hoá cơ cấu mặt hàng nhập khẩu 66
4.3. Chú trọng nghệ thuật đàm phán trong kinh doanh 66
3.3. Quy định chặt chẽ các điều khoản trong hợp đồng 66
5. Nhóm biện pháp về tổ chức cán bộ 66
II. Một số kiến nghị đối với nhà nước 68
1. Tăng cường và mở rộng quan hệ với các nước và các tổ chức quốc tế 68
2. Hoàn thiện cơ chế quản lý hoạt động nhập khẩu 68
3. Nhà nước nên hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp nhập khẩu 70
4. Nhà nước nên tổ chức thông tin kinh tế cho các doanh nghiệp 71
Kết luận 72
Tài liệu tham khảo 73
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 23788.doc