Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn tại chi nhánh Ngân hàng công thương khu vực Đống Đa (83tr)

LỜI MỞ ĐẦU Trong xu thế phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế mở cửa và hội nhập đã làm cho nền kinh tế Việt Nam nói chung cũng như toàn nghành ngân hàng nói riêng có những thay đổi to lớn. Khi nền kinh tế ngày càng phát triển, sự cạnh tranh trên thị trường diễn ra quyết liệt. Để đứng vữngvà phát triển trên thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải có đủ sức cạnh tranh. Một trong những yếu tố quan trọng để quyết định đến năng lực cạnh tranh đó là vốn. Chính vì vậy mà vai trò của các ngân hàng là hế

doc81 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1503 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn tại chi nhánh Ngân hàng công thương khu vực Đống Đa (83tr), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t sức quan trọng. Ngân hàng có nhiệm vụ huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, cho vay đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Muốn làm tốt vai trò của mình thì bản thân ngân hàng phải nâng cao hiệu quả huy động vốn và huy động vốn, đảm bao kinh doanh có lãi mới tồn tại và phát triển được. Từ nhận thức trên em chọn đề tài "Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn tại chi nhánh ngân hàng công thương khu vực Đống Đa" để nghiên cứu viết luận văn tốt nghiệp của mình. Luận văn gồm 3 chương: Chương I: Lý luận chung về huy động vốn và sử dụng vốn của NHTM Việt Nam trong nền kinh tế thị trường Chương II: Thực trạng hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn tại Chi nhánh NHCT khu vực Đống Đa Chương III : Những giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn và sử dụng vốn tại chi nhánh NHCT khu vực Đống Đa CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HUY ĐỘNG VỐN VÀ SỬ DỤNG VỐN CỦA NHTM TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 1.1 NHTM và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường 1.1.1. Khái niệm về NHTM Theo điều 20 luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam nêu rõ: " Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo qui định của luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm các dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán " " NHTM là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan" Như vậy NHTM trước hết là tổ chức tín dụng được thành lập theo qui định của luật " các tổ chức tín dụng " được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, NHTM là ngân hàng ngắn hạn hoạt động chủ yếu là huy động vốn và cho vay ngắn hạn, đối tượng chủ yếu là cho vay thương mại. 1.1.2. Vai trò của NHTM trong nền kinh tế thị trường Hệ thống NHTM ra đời là do kết quả của quá trình hình thành và phát triển lâu dài của kinh tế hàng hoá cũng như các quan hệ hàng hoá tiền tệ. Cùng với thời gian các hoạt động của ngân hàng cũng ngày càng phát triển phong phú đa dạng hơn. Ngày nay trong nền kinh tế thị trường việc thừa, thiếu vốn diễn ra thường xuyên giữa các doanh nghiệp, cá nhân. Để đáp ứng nhu cầu vốn của các chủ thể cần vốn và tận dụng các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, NHTM đóng vai trò làm trung gian tài chính: huy động vốn từ nơi thừa vốn cho nơi thiếu vốn vay nhằm đáp ứng tốt nhu cầu vốn của thị trường. Với tư cách là các trung gian tài chính, ngân hàng thu hút mọi khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội để cung cấp cho nền kinh tế dưới nhiều hình thức, làm cho đồng tiền luôn ở trạng thái vận động mang lại lợi nhuận cao đồng thời góp phần điều hoà vốn cho nền kinh tế . Nền kinh tế càng phát triển thì vai trò của NHTM càng hết sức quan trọng. Nó được ví như đòn bẩy kinh tế, là công cụ để kiềm chế và đẩy lùi lạm phát. Nền kinh tế của mỗi nước không thể phát triển bền vững nếu hệ thống các NHTM không đủ mạnh . Chính vì vậy NHTM đóng vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế thị trường. 1.1.2.1 NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế Trong nền kinh tế thị trường, vốn được tạo ra từ quá trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh nghiệp và Nhà nước. Muốn có nhiều vốn phải tăng thu nhập quốc dân và giảm nhịp độ tiêu dùng. Để tăng thu nhập quốc dân thì phải mở rộng qui mô sản xuất và lưu thông hàng hoá cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, đẩy mạnh sự phát triển của các nghành trong nền kinh tế và muốn làm được điều đó thì cần thiết phải có vốn. Mặt khác khi nền kinh tế phát triển sẽ càng tạo nhiều nguồn vốn, điều đó sẽ tác động tích cực tới hoạt động của ngân hàng NHTM là chủ thể chính thức đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh. NHTM đứng ra huy động các nguốn vốn tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế, các cá nhân. Bằng nguồn vốn huy động được trong nền kinh tế, thông qua hoạt động tín dụng các NHTM đã cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế và đáp ứng nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Nhờ có hoạt động của hệ thống NHTM và đặc biệt các hoạt động tín dụng mà các doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, cải tiến công nghệ, tăng năng suất lao động nâng cao hiệu quả kinh tế . 1.1.2.2 NHTM là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế Trong sự vân hành của nền kinh tế thị trường, NHTM đã hoạt động một cách có hiệu quả thông qua các nghiệp vụ kinh doanh của mình sẽ thực sự là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Bằng hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các NHTM trong cùng hệ thống, các NHTM đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Cũng thông qua việc cấp các khoản tín dụng cho nền kinh tế, họ đã thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân chia vốn của thị trường một cách có hiệu quả, thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mô: "Nhà nước điều tiết ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trường". Hệ thống NHTM hoạt động có hiệu quả thực sự là công cụ quan trọng để nhà nước điều tiết thị trường. 1.1.2.3 NHTM là cầu nối giữa các doanh nghiệp với thị trường: Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự tác động mạnh mẽ của các qui luật kinh tế khách quan như quy luật giá trị, qui luật cung cầu, qui luật cạnh tranh .... Sản xuất trên cơ sở phải đáp ứng nhu cầu của thị trường, thoả mãn nhu cầu của thị trường trên mọi phương diện. Để có thể đáp ứng tốt nhất các nhu cầu của thị trường, doanh nghiệp không những cần nâng cao chất lượng lao động củng cố và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế mà còn phải không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, dây truyền công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất một cách thích hợp... Tất cả các hoạt động này đòi hỏi phải có một khối lượng lớn vốn đầu tư nhiều khi vượt quá khả năng vốn tự có của doanh nghiệp. Để giải quyết điều này, các doanh nghiệp có thể đến ngân hàng xin vay vốn để thoả mãn nhu cầu đầu tư của mình. Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng là chiếc cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường. Nguồn vốn tín dụng ngân hàng cấp cho doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh giúp doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu của thị trường, từ đó tạo cho doanh nghiệp một chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh. 1.1.2.4 NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế: Trong nền kinh tế thị trường khi các mối qua hệ hàng hoá tiền tệ ngày càng mở rộng thì nhu cầu giao lưu kinh tế - xã hội giữa các nước ngày càng trở nên cần thiết và cấp bách. Việc phát triển kinh tế của mỗi quốc gia trên thế giới và là bộ phận cấu thành nên sự phát triển đó. Vì vậy, nền tài chính của mỗi nước cũng phải hoà nhập với nền tài chính quốc tế và NHTM cùng các hoạt động kinh doanh của mình đã đóng vai trò quan trọng trong sự hoà nhập này. Với các nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ hối đoái và các nghiệp vụ khác của NHTM đã tạo điều kiện thúc đẩy ngoại thương không ngừng mở rộng. Thông qua các hoạt động thanh toán, kinh doanh ngoại hối, quan hệ tín dụng với các NHTM nước ngoài đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế. NHTM ra đời và phát triển trên cơ sở nền sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển và nền kinh tế ngày càng cần đến hoạt động của NHTM với các vai trò và chức năng của mình các NHTM đã trở thành bộ phận quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. 1.1.3. Các nghiệp vụ chủ yếu của NHTM NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ. Nó hoạt động dựa trên nguyên tắc "đi vay" để "cho vay" tức là ngân hàng phải tự cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn nhằm đảm bảo tốt công tác huy động vốn và đầu tư vốn. Là doanh nghiệp đặc biệt hoạt động trên thị trường tài chính nên ngân hàng có đầy đủ các nghiệp vụ cần thiết trong khuôn khổ nghề nghiệp của mình. Tuy vậy, tuỳ vào trình độ phát triển của kinh tế mỗi nước mà các nghiệp vụ của NHTM mỗi nước khác nhau. Cho dù vậy thì về cơ bản nghiệp vụ của ngân hàng có 3 nghiệp vụ chính: nghiệp vụ huy động vốn, nghiệp vụ sử dụng vốn, nghiệp vụ môi giới trung gian, đây là các nghiệp vụ nằm trong bảng tổng kết tài sản. Ngoài ra còn có một số nghiệp vụ nằm ngoài bảng như bảo lãnh, cho thuê két sắt ... Do đòi hỏi ngày càng cao của nền kinh tế nên các nghiệp vụ của ngân hàng ngày càng được chuyên môn hoá và phát triển cao bên cạnh những nghiệp vụ truyền thống . Sau đây là 3 nghiệp vụ cơ bản của NHTM : 1.1.3.1 Nghiệp vụ nguồn vốn của NHTM : a - Vốn tự có Vốn tự có của ngân hàng là vốn thuộc sở hữu riêng của NHTM. Nó được tạo lập và tích luỹ trong quá trình hoạt động của ngân hàng. Vốn tự có của NHTM thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng nhưng nó lại mang tính quyết định đến quy mô hoạt động của ngân hàng và là cơ sở để tiến hành kinh doanh huy động vốn và cho vay. Vốn tự có của ngân hàng thường bao gồm: Vốn điều lệ, các quỹ dự trữ được trích từ lợi nhuận ròng hàng năm bổ sung vào vốn tự có và lợi nhuận chưa chia và các quỹ chưa sử dụng đến. b - Nghiệp vụ huy động vốn Đây là nghiệp vụ phản ánh việc ngân hàng tạo lập vốn thông qua việc nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá. Vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu của NHTM. Nó chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn kinh doanh của NHTM. Nguồn vốn này được hình thành từ các nguồn vốn tiền gửi của các thành phần kinh tế bao gồm: Tiền gửi thanh toán: Là số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng. Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tài khoản tiền gửi có sự thoả thuận giữa khách hàng và ngân hàng về thời hạn rút tiền. Tiền gửi của các tổ chức dân cư: Là các khoản tiền tích luỹ dự phòng của các tầng lớp dân cư. Nó được chia làm 2 loại: + Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn + Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn Phát hành các giấy tờ có giá: Là nghiệp vụ dùng để thu hút các khoản vốn có tính dài hạn nhằm đảm bảo khả năng đầu tư các khoản vốn dài hạn của ngân hàng vào nền kinh tế. Ngoài ra nó còn giúp cho ngân hàng tăng cường tính ổn định trong kinh doanh Nguồn vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu mà NHTM sử dụng để đáp ứng nhu cầu tín dụng của khách hàng. Do đó, quy mô của nguồn vốn huy động có ý nghĩa hết sức quyết định đến khả năng cho vay của ngân hàng. Nếu một NHTM huy động được ít vốn thì quy mô cho vay của nó không thể lớn và lợi nhuận thu được cũng ít, kết quả kinh doanh bị hạn chế. Ngược lại ngân hàng huy động được nhiều vốn, chứng tỏ ngân hàng có uy tín và vị thế trên thị trường. Từ đó mở rộng được quy mô đầu tư đối với nền kinh tế nhờ đó mà không những mang lại lợi ích lớn cho bản thân ngân hàng mà còn cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. c - Nghiệp vụ đi vay Đối với nghiệp vụ này ngân hàng tạo vốn thông qua việc đi vay các tổ chức tín dụng khác trên thị trường tiền tệ và vay của Ngân hàng Trung ương dưới hình thức tái chiết khấu hay vay có bảo đảm, nhằm tạo ra sự cân bằng trong điều hành vốn của bản thân ngân hàng khi họ không thể tự cân đối được. 1.1.3.2 Nghiệp vụ tài sản có của NHTM Đây là nghiệp vụ phản ánh quá trình sử dụng vốn vào các mục đích nhằm đảm bảo an toàn cũng như tìm kiếm lợi nhuận của ngân hàng. a - Nghiệp vụ ngân quỹ Nghiệp vụ này phản ánh các khoản vốn của ngân hàng được dùng vào mục đích an toàn về khả năng thanh toán và thực hiện qui định về dự trữ bắt buộc do Ngân hàng Nhà nước đề ra. b - Nghiệp vụ tín dụng : Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian sẽ thu hồi được một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Quan hệ giao dịch này thực chất gồm các nội dung sau: - Người cho vay chuyển giao cho người vay một lượng giá trị nhất định, giá trị này có thể dưới dạng tiền tệ hay vật chất. - Người vay chỉ có quyền sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định. Sau khi hết thời hạn sử dụng theo thoả thuận người vay phải hoàn trả khoản tiền trên cho người cho vay. - Giá trị được hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị lúc cho vay hay nói cách khác, người vay phải trả thêm khoản lợi tức ngoài phần vốn gốc cho người cho vay. Có thể nói tín dụng là hoạt động sinh lời chủ yếu của NHTM. Lợi nhuận tối đa là mục tiêu cuối cùng và quan trọng mà mỗi nhà kinh doanh ngân hàng đều hướng tới thông qua phục vụ những nhu cầu tín dụng của cộng đồng. c - Đầu tư tài chính: Bên cạnh nghiệp vụ cho vay, các NHTM còn thực hiện quá trình đầu tư vốn của mình thông qua các hoạt động hùn vốn, góp vốn, kinh doanh chứng khoán trên thị trường. Ngoài mục đích thu lợi nhuận từ các nghiệp vụ đầu tư còn là việc NHTM thông qua đó để đa dạng hoá hoạt động kinh doanh của mình nhằm phân tán rủi ro. d - Nghiệp vụ tài sản có khác: Bằng các hoạt động kinh doanh khác trên thị trường như : kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc đá quý, thực hiện các dịch vụ tư vấn, dịch vụ ngân quỹ, nghiệp vụ uỷ thác và đại lý, kinh doanh và dịch vụ bảo hiểm ....các dịch vụ khác theo yêu cầu và quy định của pháp luật mà các ngân hàng thu được khoản lợi nhuận đáng kể. 1.1.3.3 Các nghiệp vụ trung gian của NHTM: Nghiệp vụ trung gian thực chất là nghiệp vụ kinh doanh các dịch vụ NHTM nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu nào đó của khách hàng trên cơ sở đó là tăng thu nhập của ngân hàng. NHTM thường cung cấp cho thị trường nhiều nghiệp vụ mang tính chất dịch vụ tiện ích như: nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt, nghiệp vụ chuyển đổi tiền, nghiệp vụ quản lý hộ tài sản ... Các nghiệp vụ kinh doanh dịch vụ ngày nay ngày càng có xu hướng phát triển mạnh. Nó không những mang lại nguồn thu nhập đáng kể mà còn giúp ngân hàng duy trì tốt mối quan hệ thường xuyên với khách hàng từ đó có tác dụng tích cực đối với cả nghiệp vụ bên nợ và nghiệp vụ bên có của NHTM. 1.2. Nghiệp vụ huy động vốn và sử dụng vốn của NHTM: 1.2.1 Nghiệp vụ huy động vốn của NHTM: Trong hoạt động của các NHTM thì nhiệm vụ chủ yếu là "đi vay" để "cho vay". Muốn thực hiện tốt nhiệm vụ này, các ngân hàng phải có nguồn vốn dồi dào phục vụ hoạt động kinh doanh của mình. Bằng việc huy động các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội để đáp ứng nhu cầu kinh doanh, người ta gọi nguồn tiền này là vốn huy động. Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện nghiệp vụ của mình. 1.2.1.1 Các hình thức huy động vốn: Trong tổng nguồn vốn của NHTM thì vốn huy động chiếm tỷ trọng cao nhất. Vì vậy để có nguồn vốn dồi dào phục vụ hoạt động kinh doanh của mình thì ngân hàng thực hiện tốt việc huy động vốn bằng nhiều hình thức: Nhận tiền gửi, tiền tiết kiệm, phát hành các loại trái phiếu, kỳ phiếu. Tiền gửi không kỳ hạn: Đây là loại tiền gửi mà người gửi tiền có thể rút ra bất kỳ lúc nào và ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu đó của khách hàng. Tiền gửi không kỳ hạn có 2 loại sau: - Tiền gửi thanh toán: Là loại tiền gửi không kỳ hạn nhằm mục đích thanh toán các hoạt động sản xuất, dịch vụ phát sinh trong quá trình kinh doanh một cách thường xuyên, an toàn, thuận tiện. Đối với loại tiền gửi thanh toán thì việc rút tiền hoặc chi trả cho bên thứ 3 thường được thực hiện bằng séc hay chuyển khoản. Lãi suất đối với loại tiền gửi này thì không được coi trọng mà vấn đề cần được coi trọng đó là sự thuận tiện trong thanh toán, an toàn và các dịch vụ kèm theo nó. Xét về góc độ ngân hàng thì tiền gửi thanh toán là một khoản nợ mà ngân hàng luôn phải chủ động trả cho khách hàng bất cứ lúc nào. Nhưng do có sự chênh lệch giữa nguồn tiền gửi vào và nguồn tiền rút ra của các khách hàng cho nên ngân hàng vẫn có thể sử dụng một phần nguồn tiền này làm vốn kinh doanh với chi phí huy động rất thấp. - Tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý: Đây là khoản tiền gửi vì mục đích an toàn tài sản chứ không vì mục đích thanh toán. b- Tiền gửi có kỳ hạn : Đây là loại tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra sau một khoảng thời gian nhất định .Khách hàng thực hiện việc gửi tiền theo loại hình này nhằm mục đích hưởng lãi . Chính vì vậy lãi suất của loại tiền gửi này thường cao. Trong những năm gần đây, ở Việt Nam tỉ trọng tiền gửi có kỳ hạn có xu hướng tăng lên trong tổng nguồn vốn tiền gửi. Đây là nguồn vốn huy động có tính ổn định cao, do vậy mà ngân hàng cần có các chính sách thích hợp để thu hút tốt nguồn vốn này. Tiền gửi tiền tiết kiệm: ở nước ta có các loại hình tiền gửi tiết kiệm sau - Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: là loại tiền gửi mà khàch hàng có thể rút ra bất kỳ lúc nào nhưng không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người khác - Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: là loại tiền gửi có sự thoả thuận giữa khách hàng và ngân hàng về thời hạn gửi, rút tiền. Đây là loại tiền gửi có mức lãi suất cao hơn tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và nếu khách hàng muốn rút rước hạn thì phải chịu mức lãi suất thấp hơn. 1.2.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn: 1.2.2.1 Vốn cho vay Hướng cơ bản trong sử dụng và khai thác các nguồn vốn của NHTM là cho vay. Hoạt động cho vay có thể được phân loại theo nhiều cách thức như: Mục đích, thời hạn, hình thức đảm bảo, phương pháp hoàn trả và nguồn gốc khách hàng ... Căn cứ theo mức độ đảm bảo thì sẽ được chia thành: - Cho vay có đảm bảo: Là hoạt động quan trọng của ngân hàng. Cho vay có đảm bảo biểu hiện việc cho vay có cầm giữ các vật thế chấp cụ thể nào đó. Vật thế chấp có thể bao gồm nhiều loại khác nhau như : bất động sản, biên nhận ký gửi hàng hoá, máy móc thiết bị, cổ phiếu.... Yêu cầu cơ bản của các vật thế chấp là có thể bán được. Lý do thực tế đòi hỏi một khoản vay phải được đảm bảo là nhằm tạo điều kiện để ngân hàng giảm bớt rủi ro, mất mát trong trường hợp người vay không muốn hoặc không thể trả nợ khi đến hạn. Sự đảm bảo là yêu cầu phải có đối với các khoản vay vì một trong những lý do chính là sự yếu kém về mặt tài chính của người vay. Sự yếu kém này có thể được biểu hiện qua một vài yếu tố như nợ nần chồng chất, quản lý yếu kém và lợi nhuận thấp. Người vay trong điều kiện như thế có thể tạo uy tín bằng cách thế chấp các tài sản. Cho vay có đảm bảo cũng tạo tâm lý yên tâm cho ngân hàng. Khi người vay đem cầm cố các tài sản mang quyền sở hữu của mình thì người vay có ý thức hoàn trả nợ. Kỳ hạn của mỗi khoản vay cũng ảnh hưởng đến việc khoản vay đó có cần đảm bảo hay không. Khi kỳ hạn cho vay dài thì rủi ro của khoản vay lớn thì các khoản cho vay này càng cần có sự đảm bảo. Khách hàng không có khả năng trả nợ hoặc không có người đảm bảo trả thay thì khi đến hạn các tài sản thế chấp sẽ được phát mại - Cho vay không bảo đảm: Khác với cho vay có bảo đảm, cho vay không bảo đảm được dựa trên uy tín và tình hình tài chính của người vay trong đó cần xét đến khía cạnh đó là: Lợi tức dự kiến thu được trong tương lai cũng như tình hình trả nợ trước đây. Trong hoạt động ngân hàng một số khoản cho vay không cần đảm bảo. Các khách hàng vay phải là những người có uy tín, có quan hệ làm ăn lâu dài với ngân hàng, có tình hình tài chính vững chắc, luôn thực hiện tốt các nghĩa vụ với ngân hàng. Căn cứ theo phương pháp hoàn trả: - Cho vay hoàn trả một lần: Những khoản cho vay hoàn trả một lần thường là những khoản cho vay thẳng, nghĩa là trong hợp đồng yêu cầu trả vốn một lần vào thời gian đáo hạn cuối cùng. Những khoản lãi có thể được trả vào những thời điểm khác nhau hoạc trả khi đến hạn. Đối với các khoản vay hoàn trả một lần thì khi đến hạn sẽ trở thành gánh nặng cho khách hàng. Thường áp dụng phương thức này đối với những khoản vay ngắn hạn. - Cho vay hoàn trả nhiều lần: Việc hoàn trả các khoản vay này được chia thành nhiều lần khác nhau. Cho vay hoàn trả nhiều lần thực hiện theo nguyên tắc trả dần trong suốt kỳ thực hiện hợp đồng. Nhờ vậy việc hoàn trả không trở thành gánh nặng đối với khách hàng. Nó làm tăng hiệu quả sử dụng vốn . Căn cứ theo kỳ hạn trả nợ: Cho vay được chia thành như sau: - Cho vay ngắn hạn: Là các khoản cho vay có kỳ hạn 12 tháng trở xuống. Cho vay ngắn hạn được thực hiện trong một thời gian nhất định hoặc theo yêu cầu. Cho vay theo yêu cầu, người vay sẽ ở vào một vị thế rất linh hoạt và có thể trả nợ trong một thời gian rất ngắn. Những khoản cho vay ngắn hạn thường được sử dụng để bổ sung vốn lưu động cũng như những tài trợ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh mang tính thời vụ. - Cho vay trung và dài hạn: Việc quy định thời gian cho các khoản vay tuỳ thuộc vào qui định của mỗi nước. Theo quy định của nước ta hiện nay thì các khoản vay có thời hạn từ trên 1 năm đến dưới 5 năm được coi là các khoản vay trung hạn, còn các khoản vay có thời hạn trên 5 năm trở lên thì được coi là các khoản vay dài hạn. Những khoản cho vay này thường có giá trị lớn và người vay thường dùng để đầu tư máy móc trang thiết bị, mở rộng sản xuất, nâng cấp tài sản cố định. 1.2.2.2 Hoạt động đầu tư : Hoạt động đầu tư của ngân hàng là hoạt động nhằm phân tán rủi ro cũng như tìm kiếm thu nhập cho ngân hàng. NHTM có thể đầu tư vào các chứng khoán chính phủ, nó vừa mang lại thu nhập cho ngân hàng, vừa góp phần vào việc cân bằng thu chi ngân sách thường xuyên; đồng thời góp phần điều hoà lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế. NHTM còn được phép đầu tư vốn để mua cổ phiếu, trái phiếu của các doanh nghiệp, qua đây những NHTM lớn tham gia vào việc thành lập quản lý các ngân hàng. Tuy nhiên trong hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng thì hoạt động cho vay vẫn là chủ yêú còn hoạt động đầu tư chỉ giúp ngân hàng giảm thiểu rủi ro. 1.2.2.3 Hoạt động ngân quỹ: Là hoạt động phục vụ cho việc chi trả đối với khách hàng. Nó bao gồm nghiệp quỹ tiền mặt, tiền gửi ở các ngân hàng khác và ở Ngân hàng Trung ương, tiền trong quá trình thu nhận... - Quỹ tiền mặt bao gồm tiền giấy, tiền đúc sử dụng để chi trả cho khách hàng. Quỹ tiền mặt lớn hay nhỏ phụ thuốc chủ yếu vào quy mô ngân hàng, mối quan hệ giữa thanh toán tiền mặt với thanh toán chuyển khoản. - Tiền gửi của các NHTM ở Ngân hàng Trung ương bao gồm tiền dự trữ bắt buộc và tiền gửi thanh toán - Tiền gửi ở các ngân hàng khác nhằm mục đích phục vụ hoạt động thanh toán theo yêu cầu của khách hàng từ ngân hàng này qua ngân hàng khác. 1.3 Hiệu quả huy động vốn và sử dụng vốn của NHTM 1.3.1 Mối quan hệ biện chứng giữa huy động vốn và sử dụng vốn: Ngân hàng hoạt động dựa trên nguyên tắc là "đi vay" để "cho vay". Chính vì vậy mà hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn của ngân hàng có quan hệ biện chứng với nhau. Để có vốn phục vụ cho công tác cho vay cũng như các hoạt động đầu tư của ngân hàng thì ngân hàng phải tiến hành huy động vốn. Nếu số lượng vốn huy động nhiều thì ngân hàng có thể tăng cường hoạt động sử dụng vốn, khi đó ngân ngân hàng có thể mở rộng qui mô hoạt động của mình cũng như nâng cao hiệu quả kinh tế và tạo lập uy tín của mình trên thị trườngngày một tốt hơn. Trong trường hợp ngân hàng mặc dù đã sử dụng các chính sách phù hợp để huy động vốn nhưng lượng vốn huy động của ngân hàng không đáp ứng đủ nhu cầu vốn của thị trươfng thì chứng tỏ hoạt động ngân hàng không hiệu quả. Điều này cho thấy hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn của ngân hàng có quan hệ mật thiết với nhau, bổ trợ cho nhau ngân hàng chỉ được đánh giá là hoạt động có hiệu quả khi hai hoạt động này cùng được thực hiện tốt. Nếu một trong hai hoạt động không được thực hiện tốt thì hoạt động kia cũng bị ảnh hưởng . Tuy nhiên số lượng, cơ cấu, loại hình vốn huy động cũng như thời gian huy động lại phụ thuộc vào chiến lược kinh doanh của mỗi ngân hàng trong từng thời kỳ. Khi ngân hàng muốn mở rộng vốn cho vay nhằm chiếm lĩnh những thị trường lớn hơn lúc này vốn là yếu tố cần thiết hơn bao giờ hết. Chính vì vậy, hoạt động huy động vốn cần được tăng cường hơn nữa nhằm huy động được lượng vốn cần thiết. Trong trường hợp doanh số cho vay của ngân hàng không tăng nhưng ngân hàng muốn tăng lợi nhuận thì họ thực hiện bằng cách giảm các chi phí của việc huy động cũng như giảm thiểu việc huy động ở mức lãi suất cao, tăng cường các khoản huy động ở mức lãi suất thấp. Còn khi ngân hàng muốn thu hẹp hoạt động tín dụng thì bắt buộc phải có sự thay đổi tương ứng trong hoạt động huy động vốn nhằm giảm bớt một cách tương ứng lượng tiền không cần thiết. Nhờ đó mà ngân hàng tránh được các khoản chi phí phát sinh do sự thiếu đồng bộ giữa hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn củaNHTM. Nói tóm lại, công tác huy động vốn và sử dụng vốn có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau. Ngân hàng muốn thực hiện tốt công tác này thì phải thực hiện tốt công tác kia và ngược lại. Trong công tác quản lý hoạt động ngân hàng thì các nhà quản lý phải biết kết hợp được một cách tối ưu hoạt động của công tác huy động vốn và công tác sử dụng vốn nhằm đem lại hiệu quả kinh doanh cao nhất. 1.3.2 Những chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn và sử dụng vốn của NHTM 1.3.2.1 Hiệu quả của công tác huy động vốn: Trong quá trình thực hiện CNH-HĐH đất nước vấn đề vốn là một vấn đề quan trọng. Nó là tiền đề cho mọi hoạt động trong nền kinh tế. Muốn thực hiện tốt những mục tiêu đề ra cần phải có vốn. Vốn chủ yếu nằm trong dân cư dưới dạng tiết kiệm, dự phòng cũng như trong các thành phần kinh tế dưới dạng vốn tạm thời nhàn rỗi. Chúng ta thấy lượng vốn tạm thời nhàn rỗi của khu vực này là rất lớn. Do đó nhiệm vụ to lớn và xuyên suốt của các NHTM là phải tập trung thu hút các nguồn vốn lớn này để đầu tư cho các hoạt động kinh doanh, các công trình kinh tế xã hội biến chúng thành những đồng vốn mang lại hiệu quả kinh tế xã hội. Để đạt được điều đó đòi hỏi ngân hàng phải thực hiện tốt công tác huy động vốn. Hiệu quả của công tác huy động vốn được đánh giá qua các khía cạnh sau: Vốn huy động phải xuất phát từ nhu cầu kinh doanh của ngân hàng. Vốn huy động của ngân hàng phải có sự tăng trưởng, ổn định về số lượng để có thể thoả mãn nhu cầu cho vay, thanh toán cũng như các hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng. Tuy nhiên, vốn huy động phải có được sự ổn định về mặt thời gian. Nếu ngân hàng huy động được một lượng vốn lớn nhưng không ổn định về mặt thời gian; có nghĩa là thường xuyên có một dòng tiền lớn có khả năng bị rút ra nên lượng vốn được sử dụng để cho vay và đầu tư sẽ không lớn. Như vậy hiệu quả sử dụng vốn sẽ không cao và ngân hàng phải thường xuyên đối đầu với vốn được sử dụng để thanh khoản. Nhưng nếu ngân hàng huy động được nguồn vốn ổn định thì ngân hàng sẽ yên tâm sử dụng phần lớn nguồn vốn đó vào các hoạt động có thu nhập cao, lượng vốn dùng để đáp ứng nhu cầu thanh khoản sẽ giảm xuống. Nói như vậy không có nghĩa là nếu ngân hàng có nguồn vốn ổn định thì sẽ sử dụng vốn tốt và ngược lại, mà việc huy động vốn phải dựa trên nhu cầu thực tế của ngân hàng về vốn. Ngân hàng huy động đươc nguồn vốn ít sẽ không đáp ứng đủ nhu cầu của khách hàng cũng như không đa dạng hoá đươc các hoạt động kinh doanh của mình, không tạo được sức cạnh tranh trên thị trường từ đó dẫn đến việc mất khách hàng băng khiến cho lợi nhuận sẽ bị giảm sút. Nói tóm lại, huy động vốn sẽ đươc coi là có hiệu quả khi huy động được một nguồn vốn ổn định, vừa đủ để đáp ứng nhu cầu kinh doanh của ngân hàng. Khi đó hoạt động của ngân hàng đạt hiệu quả cao nhất, lợi nhuận thu được là lớn nhất. Vì vậy, các NHTM rất coi trọng công tác cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn trong kinh doanh tiền tệ tín dụng Hiệu quả huy động vốn được đánh giá theo nhiều khía cạnh khác nhau.Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, vậy hiệu quả huy động vốn được đánh giá theo các góc độ khác nhau, với các chỉ tiêu khác nhau. Khi đánh giá hiệu quả huy động vốn người ta thường dựa trên các nguyên tắc sau: a- Qui mô vốn huy động của ngân hàng: Vốn huy động đóng một vai trò quan trọng trong tổng nguồn vốn kinh doanh của các NHTM. Qui mô của vốn huy động là một yếu tố để xác định năng lực kinh doanh của ngân hàng đó. Những ngân hàng có qui mô vốn lớn thì sẽ có khả năng đầu tư vào các dự án với khả năng thu lợi nhuận cao, có khả năng đa dạng hoá các hình thức đầu tư nhằm khai thác triệt để các nguồn lợi. Ngược lại đối với các ngân hàng có qui mô vốn nhỏ, cơ hội đầu tư vào các dự án lớn để tìm kiếm lợi nhuận cao là rất khó khăn, bởi vì các dự án đầu tư thường yêu cầu một lượng vốn lớn và thời gian sử dụng vốn thường là dài khi đó nếu ngân hàng không có một qui mô vốn lớn thì không thể đáp ứng được các yêu cầu này. Qui mô vốn của ngân hàng thể hiện ở khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn, khả năng ổn định vốn v.v b- Mức tăng trưởng của nguồn vốn huy động: Đánh giá qua mức độ tăng giảm nguồn vốn huy động và số lượng vốn huy động có kỳ hạn. Nguồn vốn tăng đều qua các năm đạt mục tiêu về nguồn vốn đặt ra và có độ gia tăng đều đặn là nguồn vốn tăng trưởng ổn định. Đây là một chỉ tiêu để đánh giá tình hình huy động vốn của các ngân hàng có tốt hay không. Thông qua mức độ tăng trưởng của vốn huy động ta biết được tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàngcó tốt hay không. Việc nguồn vốn kinh doanh tăng trưởng đều hàng năm cho thấy tình hình kinh doanh của ngân hàng đó là rất tốt bởi vì khi ngân hàng thực hiện tốt hoạt động nghiệp vụ của mình thì họ mới cần phải huy động nhiều vốn. Bên cạnh việc tăng trưởng về khối lượng vốn còn đòi hỏi nguồn vốn phải có sự ổn định về thời gian. Vì khi có nguồn vốn lớn với thời gian ổn định, ngân hàng sẽ thực hiện tốt các hoạt động đầu tư, thu được lợi nhuận cao. Đó chính là kết quả để đánh giá hiệu quả huy động vốn tốt hay không. c- Chi phí huy động vốn : Một trong những yếu tố để xác định được việc huy động vốn của ngân hàng có đạt được hiệu quả hay không đó chính là chi phí huy động vốn. Đây là chỉ tiêu hết sức quan trọng để đánh giá hiệu quả huy động vốn. Hiệu quả huy động vốn chỉ được coi là tốt khi một trong các yếu tố là chi phí huy động giảm. Chỉ tiêu này được đánh giá trên hai khía cạnh là chi phí trả lãi và chi phí phi lãi suất +Chi phí trả lãi : Là yếu tố rất quan trọng khi thực hiện hoạt động huy động vốn. Nó ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM. Việc tăng nguồn vốn huy động trong khi chi phí trả lãi cao sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trong việc thực hiện hoạt động kinh doanh và làm giảm lợi nhuận của ngân hàng. Do đó xem xét chi phí trả lãi và tình hình biến động của chi phí này là việc làm thường xuyên trong công tác quản trị nguồn vốn hoạt động của ngân hàng, là một nội dung quan trọng trong việc đánh giá tình hình hoạt động vốn của ngân hàng . Việc xem xét chi phí trả lãi được biểu hiện thông qua lãi suất của từng loại vốn trong tổng nguồn vốn và cơ cấu nguồn vốn huy động. Nguồn ._.vốn của các ngân hàng khác nhau thì sẽ có cơ cấu khác nhau. Nó thể hiện ở từng loại vốn : tiền gửi không kì hạn, tiền gửi có kỳ hạn ,tiền gửi tiết kiệm... trong tổng nguồn vốn. Khi tỷ trọng các loại tiền khác nhau thì cũng làm cho chi phí trả lãi của ngân hàng cũng khác nhau. Đối với các loại vốn khác nhau của của ngân hàng thì có các mức lãi suất khác nhau. Khi các ngân hàng huy động được nhiều các khoản tiền gửi có kì hạn thì nguồn vốn huy động sẽ ổn định hơn nhưng chi phí phải trả cao hơn các ngân hàng huy động được nhiều tiền gửi không kì hạn. Bởi vì tiền gửi không kì hạn là loại tiền gửi chủ yếu dùng cho thanh toán nên nó luôn biến động và lãi suất của loại tiền này cũng rất thấp. Các NHTM luôn phải biết cân đối giữa các loại vốn trong tổng nguồn vốn huy động để làm sao huy động được nhiều vốn nhất với chi phí huy động hợp lý. Các NHTM đều muốn trả lãi tiền gửi thấp ( mua rẻ ) nhưng người gửi tiền lại muốn lãi tiền gửi cao. Lãi suất huy động phụ thuộc vào quan hệ cung - cầu vốn trên thị trường trong từng thời kỳ trên mỗi địa phương được người gửi tiền và ngân hàng huy động chấp nhận. + Chi phí phi lãi suất : Đây là các loại chi phí nhằm phục vụ các hoạt động của ngân hàng như : chi phí tiền lương cho cán bộ công nhân viên, chi phí về điện, nước , mua sắm tài sản cố định, chi phí mua quà tặng, quay số, các chi phi khuyến khích người gửi tiền .... Khi chi phí phi lãi suất mà tăng lên thì nó cũng gây ảnh hưởng đến quá trình huy động vốn của ngân hàng, bởi vì nó làm cho chi phí huy động vốn của ngân hàng cũng tăng lên từ đó làm giảm lợi nhuận của ngân hàng. Thông qua việc xác định chi phí huy động vốn ngân hàng có thể đề ra mức lãi suất cho vay. Với việc so sánh mức lãi suất huy động của ngân hàng với mặt bằng lãi suất chung thì chúng ta có thể đánh giá được hiệu quả huy động vốn và từ đó đề ra được các giải pháp giảm thiểu chi phí huy động để nâng cao hiệu quả huy động vốn. d- Sự phù hợp giữa nhu cầu sử dụng vốn và huy động vốn : Đánh giá qua việc so sánh nguồn vốn huy động được với các nhu cầu tín dụng , thanh toán và các nhu cầu khác để thấy nguồn vốn huy động đã đáp ứng đủ nhu cầu vốn đó hay chưa. Vốn huy động phải xuất phát từ nhu cầu kinh doanh của ngân hàng. Nếu ngân hàng huy động được một lượng lớn vốn mà không cho vay hết thì vốn trong ngân hàng sẽ bị đọng vốn dẫn đến rủi ro về nguồn vốn khiến cho lợi nhuận của ngân hàng bị giảm sút bởi vẫn phải trả lãi và các chi phí kèm theo. Ngược lại nếu ngân hàng huy động không đủ vốn để cho vay thì sẽ làm cho lợi nhuận của ngân hàng bị giảm sút do không khai thác triệt để được thị trường và có thể đẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán. Các NHTM thường huy động được một lượng lớn các khoản vốn ngắn hạn trong khi đó nhu cầu vay vốn của các khách hàng lại là nhu cầu vay vốn trung, dài hạn. Sự không phù hợp giữa việc huy động và việc cho vay này có thể làm cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng kém hiệu quả. Để đánh giá được việc huy động vốn có đạt hiệu quả hay không chúng ta cũng cần dựa trên tiêu thức này. Vì vậy các NHTM thường bố trí một bộ phận thường xuyên theo dõi, báo cáo lãnh đạo để có biện pháp cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn kinh doanh, đảm bảo không thừa vốn hoặc thiếu vốn ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh. Tóm lại NHTM sẽ được coi là huy động có hiệu quả khi ngân hàng có nguồn vốn huy động ổn định đáp ứng đủ nhu cầu kinh doanh của ngân hàng với chi phí huy động thấp. Trên đây là bốn chỉ tiêu chính để đánh giá hiệu quả huy động vốn cuả các NHTM. 1.3.2.2Hiệu quả sử dụng vốn Đối với NHTM, cho vay có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển, mở rộng phạm vi kinh doanh, tăng trưởng nguồn vốn và đạt được mục tiêu của mình. Nhận thấy tầm quan trọng của hoạt động cho vay, việc đánh giá hiệu quả của hoạt động này là rất cần thiết. Bởi vậy, để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn, người ta thường dựa vào 2 tiêu thức sau đây: a- Quy mô cho vay: Để xác định quy mô hoạt động sử dụng vốn của NHTM, người ta thường căn cứ vào các số liệu sau đây: - Doanh số cho vay: Đây là chỉ tiêu cơ bản khi đánh giá khái quát có hệ thống đối với những khoản vay tại một thời điểm. Chỉ tiêu này cho biết được khả năng luân chuyển, sử dụng vốn của một ngân hàng, phản ánh qui mô đầu tư và khả năng cấp tín dụng cho nền kinh tế trong một kỳ nhất định của NHTM. Doanh số cho vay là cơ sở để tính vòng quay vốn tín dụng ngắn hạn của ngân hàng - Dư nợ tín dụng: Tổng dư nợ nội tệ và ngoại tệ tại một thời điểm cuối kỳ kế hoạch phản ánh mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng. Đồng thời đây cũng là chỉ tiêu phản ánh số vốn đầu tư của ngân hàng chưa được thu hồi về và mối quan hệ giữa huy động vốn và sử dụng vốn của ngân hàng. - Doanh số thu nợ: Là chỉ tiêu phản ánh khả năng thu hồi nợ vay của ngân hàng đối với các khoản cho vay khi đến hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. - Vốn vay/ Khả năng giải quyết,xử lý vốn tồn đọng : Là chỉ tiêu phản ánh độ nhạy bén, khả năng luân chuyển vốn tồn đọng theo chiều hướng đem lại lợi nhuận cho ngân hàng - Hệ số sử dụng vốn: Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sử dụng nguồn vốn huy động so với tổng nguồn vốn trong kỳ qua công thức sau: Hệ số sử dụng vốn = Tổng vốn sử dụng Tổng nguồn vốn Hệ số sử dụng vốn luôn nhỏ hơn 1. Qua hệ số sử dụng vốn có thể đánh giá được tình hình sử dụng vốn của ngân hàng. b- Chất lượng tín dụng: - Tỷ lệ nợ quá hạn: là chỉ tiêu cơ bản cho biết chất lượng một khoản vay và khả năng bảo đảm của khoản vay đó tại một thời điểm( kỳ kế hoạch). Thực chất nó là yếu tố để đánh giá tính chất, trình độ nghiệp vụ của các cán bộ tín dụng ngân hàng và đồng thời gián tiếp thể hiện hiệu quả của hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng như tình hình biến động chung của nền kinh tế. Tỷ lệ nợ quá hạn = Tổng số nợ quá hạn X 100% Tổng số dư nợ - Tỷ trọng nợ quá hạn/ tổng thu nợ: Phản ánh số nợ quá hạn và khả năng thu hồi nợ đến hạn của ngân hàng. Thông qua các chỉ tiêu đánh giá qui mô và chất lượng sử dụng vốn của ngân hàng trong kỳ kế hoạch (thường tính theo quý, 6 tháng, 9 tháng,1 năm), các nhà quả trị NHTM đánh giá được kết quả kinh doanh tín dụng và đầu tư, trên cơ sở đó điều chỉnh kế hoạch cân đối nguồn vốn và có biện pháp quản lý, điều hành kinh doanh đạt hiệu quả cao. Như vậy, để đánh giá hiệu quả huy động vốn và sử dụng vốn, các NHTM phải thông qua một hệ thống các chỉ tiêu nêu trên. Trên cơ sở số liệu các chỉ tiêu trên, các nhà quản trị NHTM phân tích tổng hợp rút ra những nhân xét, đánh giá cần thiết để chủ động điều hành, quản trị NHTM kinh doanh thực hiện các mục tiêu kế hoạch đề ra. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN VÀ SỬ DỤNG VỐN CỦA CHI NHÁNH NHCT KHU VỰC ĐỐNG ĐA 2.1 Một số nét về chi nhánh NHCT khu vực Đống Đa: 2.1.1 Khái quát tình hình kinh tế-xã hội trên địa bàn quận Đống Đa : Quận Đống Đa là một trong những quận lớn của thủ đô Hà Nội, với diện tích hơn 10km2. Đây là quận có mật độ dân cư đông đúc và là nơi tập trung nhiều cơ sở công nghiệp, các công ty, doanh nghiệp, nhà hàng, khách sạn...Điển hình như Công ty điện tử Hanel, công ty hoá chất Thái Hà, Công ty máy tính FPT, Xí nghiệp xe đạp Thống Nhất, trung tâm thương mại Kim Liên, Cát Linh, ASEAN, siêu thị, khách sạn Quốc tế và các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần cùng với nhiều hộ kinh doanh buôn bán khác trên địa bàn quận. Trong nền kinh tế thị trường, sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển, tốc độ tăng trưởng nhanh là tiền đề để mở rộng hoạt động kinh doanh của nền kinh tế đất nước nói chung cũng như của địa bàn quận Đống Đa nói riêng. Nhu cầu vốn để phát triển kinh tế trên địa bàn quận rất lớn, đòi hỏi các NHTM không ngừng nỗ lực để phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu của thị trường. Đồng thời đây cũng là cơ sở để phát triển nguồn vốn cũng như mở rộng thị trường tín dụng và các dịch vụ ngân hàng khác. Trong những năm qua, nguồn vốn huy động từ dân cư cũng như của các tổ chức kinh tế đã tăng trưởng không ngừng . Từ nguồn vốn huy động, các hoạt động cho vay và các dịch vụ ngân hàng khác như dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, uỷ thác đầu tư,... cũng đã có những bước phát triển, đổi mới để phù hợp với nhịp độ phát triển của nền kinh tế. Chi nhánh NHCT khu vực Đống Đa ra đời trước những đòi hỏi cấp bách của thị trường, với hoạt động và phát triển vững mạnh của ngân hàng đã tác động tích cực đến hoạt động kinh tế-xã hội của quận Đống Đa nói riêng cũng như của toàn thành phố Hà Nội nói chung. 2.1.2 Chi nhánh NHCT khu vực Đống Đa và hoạt động kinh doanh của nó 2.1.2.1 Đôi nét về chi nhánh NHCT khu vực Đống Đa Chi nhánh ngân hàng công thương khu vực Đống Đa ( chi nhánh NHCT khu vực Đống Đa) được thành lập ngày 01/ 07/ 1988 trên cơ sở chi nhánh ngân hàng Nhà nước quận Đống Đa, là chi nhánh của chi nhánh NHCT thành phố Hà nội. Từ ngày 01/ 04/ 1993, ngân hàng NHCT Việt Nam thực hiện mô hình hai cấp, giải thể NHCT thànnh phố Hà nội, chi nhánh NHCT khu vực Đống Đa trở thành chi nhánh ngân hàng cấp một trực thuộc NHCT Việt Nam. Chính chi nhánh NHCT khu vực Đống Đa hiện nay là một trong năm chi nhánh được xếp hạng doanh nghiệp hạng I của NHCT Việt Nam. Đây là một chi nhánh lớn trên địa bàn Hà Nội cả về quy mô và hoạt động có trụ sở chính đặt tại 187 phố Tây Sơn, quận Đống Đa và hai phòng giao dịch đặt tại phường Cát Linh và Kim Liên. Hiện nay chi nhánh NHCT khu vực Đống Đa có 8 phòng nghiệp vụ và 2 phòng giao dịch và một hệ thống quỹ tiết kiệm bao gồm 15 quỹ tạo thành mạng lưới được bố trí hợp lý nhằm khai thác tốt nhất nguồn tiền gửi tiết kiệm dân cư trên địa bàn quận. Là một chi nhánh của NHCT Việt Nam nên chi nhánh NHCT khu vực Đống Đa có quan hệ đại lý với 450 ngân hàng tại hơn 40 nước trong khu vực và trên thế giới. Thực hiện thanh toán qua hệ thống tài chính viễn thông liên ngân hàng toàn cầu (SWIFT) nên ngân hàng có khả năng đáp ứng các yêu cầu và dịch vụ thanh toán ngân hàng trong nước và quốc tế một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất. Đây cũng là một chi nhánh ngân hàng đầu tiên của hệ thống NHCT Việt Nam thực hiện thí điểm chương trình giao dịch một cửa - chương trình giao dịch của ngân hàng hiện đại 2.1.2.2 Hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHCT khu vực Đống Đa Chi nhánh NHCT khu vực Đống Đa với phương châm hoạt động" Vì sự thành đạt của mọi người, mọi nhà, mọi doanh nghiệp" đã thực sự kinh doanh có hiệu quả. Trong suốt quá trình hoạt động, ngân hàng luôn đạt được kết quả tăng trưởng cao và an toàn, luôn được đánh giá là một trong những chi nhánh dẫn đầu trong hệ thống NHCT Việt Nam. Qua gần 15 năm kể từ ngày thành lập, chi nhánh NHCT khu vực Đống Đa đã được nhà nước tặng thưởng 3 huân chương lao động hạng Nhất, Nhì, Ba và đang được đề nghị phong tặng danh hiệu đơn vị anh hùng lao động thời kỳ đổi mới. Những năm qua, ngân hàng đã không ngừng đa dạng hoá các hoạt động của mình trên các lĩnh vực để đáp ứng những yêu cầu của thị trường, từ đó góp phần tích cực cho việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN của Đảng và Nhà Nước hoạt động huy động vốn Ngay từ khi mới thành lập chi nhánh NHCT khu vực Đống Đa luôn xác định công tác huy động vốn và sử dụng vốn là chiến lược quan trọng và hết sức cần thiết trong chiến lược kinh doanh của mình nhằm phục vụ nhu cầu vốn cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, phục vụ cho sự phát triển kinh tế của khu vực nói riêng và thành phố Hà nội nói chung. Bằng các chính sách lãi suất hợp lý, đa dang hình thức huy động và không ngừng đổi mới công nghệ nên đã đạt được sự tăng trưởng nguồn vốn liên tục với khối lượng lớn. Bảng 1 dưới đây phản ánh điều đó: Bảng 1: Tình hình biến động vốn huy động của NHCT Đống Đa từ năm 2000 - 2002 Đơn vị: Tỷ VNĐ Chỉ tiêu 31/12/2000 31/12/2001 31/12/2002 Tổng nguồn vốn huy động 1850 2010 2320 Biến động nguồn vốn huy động _ +160 +310 Tốc độ tăng trưởng (%) _ +8,6 +15,4 Qua bảng số liệu trên ta thấy nguồn vốn huy động của chi nhánh NHCT khu vực Đống Đa liên tục tăng trưởng qua các năm, cụ thể: Năm 2000 tổng vốn huy động đạt 1850 tỷ ( gồm cả VNĐ và ngoại tệ qui đổi). Năm 2001 con số này là 2010 tỷ tăng 160 tỷ so với năm 2000 với tốc độ tăng là 8,6%. Tính đến cuối năm 2002 tổng nguồn vốn huy động đạt 2320 tỷ đồng, tăng 310 tỷ so với năm 2001 tốc độ tăng là 15,4%. So với kế hoạch đạt ra mức tăng trưởng đã tăng gấp 1,24 lần, tạo nên một khối lượng vốn khá lớn. Để đạt được kết quả này là do sự cố gắng và nỗ lực không ngừng của tập thể cán bộ nhân viên trong ngâng hàng, sự đổi mới trong phong cách phục vụ của các nhân viên giao dịch trực tiếp với khách hàng cũng như các chủ trương, chính sách đúng đắn của ban lãnh đạo chi nhánh NHCT khu vực Đống Đa. 2.1.2.2. Hoạt động tín dụng Mặc dù nền kinh tế đã có những chuyển biến tích cực nhưng nhìn chung trong những năm qua, do tình hình kinh tế trong nước có nhiều khó khăn, môi trường đầu tư không thuận lợi, vật tư hàng hoá trong một số ngành kinh tế ứ đọng lớn, chậm tiêu thụ, sức mua của thị trường thấp. Nhiều doanh nghiệp đã không dám đầu tư vào sản xuất kinh doanh, số lượng dự án có đủ điều kiện cho vay không nhiều, lại thêm sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng nên nhìn chung đối với từng ngân hàng lượng vốn đầu tư cũng bị hạn chế. Trong bối cảnh đó với sự quyết tâm cao, Chi nhánh NHCT khu vực Đống Đa đã vận dụng kịp thời, linh hoạt các chủ trương, chính sách đúng đắn của Nhà nước, của Ngành, bám sát từng đơn vị kinh tế và có những giải pháp tích cực, nên kết quả hoạt động tín dụng của Chi nhánh vẫn đạt được kết quả tốt cả về tốc độ tăng trưởng và chất lượng các khoản đầu tư. Chi nhánh đã tăng cường đầu tư cho khu vực kinh tế quốc doanh, các ngành kinh tế trọng điểm, kinh tế mũi nhọn, sản xuất kinh doanh lớn như bưu chính viễn thông, xây dựng, dịch vụ giao thông vận tải, ưu tiên vốn cho các dự án lớn, khả thi, có hiệu quả. Nhờ đó mà hoạt động tín dụng tại Chi nhánh vẫn thu được những kết quả đáng khích lệ. Bảng2: Hoạt động tín dụng của Chi nhánh NHCT Khu vực Đống Đa Đơn vị: Tỷ đồng CHỈ TIÊU 2000 2001 2002 ST +/- so với năm2000(%) ST +/- so với năm2001(%) 1. Doanh số cho vay 1410 1740 +23,4 1763 +1,3 + Quốc doanh 1250 1555 +24,4 1569 +0,9 + Ngoài quốc doanh 160 185 +15,6 194 +4,8 2. Doanh số thu nợ 1060 1100 +3,8 1583 +43,9 + Quốc doanh 1020 935 -8,3 1409 50,6 + Ngoài quốc doanh 40 165 +312,5 174 +5,5 3. Dư nợ đến 31/12 950 1490 +56,8 1670 +12,1 + Quốc doanh 800 1320 +65 1486 +12,6 + Ngoài quốc doanh 150 170 +13,3 184 +8 Nguồn: Báo cáo thống kê NHCTĐống Đa Bảng số liệu trên cho thấy, dư nợ cho vay của NHCT Đống Đa luôn luôn tăng lên với mức độ tăng trưởng cao. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự tăng trưởng này là do Chi nhánh đã chủ động áp dụng nhiều biện pháp sáng tạo trong cho vay, đồng thời đảm bảo thông suốt, nhanh chóng, thuận tiện cho khách hàng. Chi nhánh có quan hệ tốt với khách hàng, áp dụng chính sách khách hàng một cách linh hoạt trong đó đặc biệt quan tâm đến các khách hàng truyền thống, những đơn vị có tình hình tài chính tốt, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, các Tổng công ty và đơn vị thành viên của Tổng công ty 90,91 như: Tổng công ty Hàng Hải, Tổng công ty Bưu chính Viễn thông, Tổng công ty Xây dựng Thăng Long, Tổng công ty Công trình Giao thông 8 , Xí nghiệp Dược phẩm trung ương 1, Công ty xây dựng công trình giao thông Việt-Lào, Công ty thiết bị lạnh Long Biên, Công ty cơ điện Trần Phú. Ngoài ra, Chi nhánh còn luôn quan tâm đến công tác tiếp thị thu hút thêm được nhiều khách hàng mới đến vay vốn. Đối với hoạt động tín dụng trung-dài hạn, mặc dù trong những năm qua số dự án đầu tư không nhiều, vốn đầu tư không lớn nhưng Chi nhánh đã kịp thời đầu tư cho các dự án khả thi, đặc biệt là các công trình của các dự án quốc tế như: máy súc, trạm trộn bê tông của Công ty Bê tông xây dựng Hà Nội; thiết bị thi công cầu của XN Thiết kế Thăng Long, Công ty XDCT Việt-Lào, Công ty XDCT8, Công ty XDCT134, Công ty xây dựng số 4... Tuy nhiên, nhìn về góc độ sử dụng vốn, NHCT Đống Đa vẫn chưa sử dụng hết nguồn vốn huy động để cho vay, mới chỉ đạt gần 72% nên phải điều chuyển vốn về NHCT Việt Nam hàng trăm tỉ đồng. Tính đến 31/12/2002, có khoảng 1600 khách hàng mở tài khoản giao dịch tại NHCT Đống Đa, trong đó có hơn 450 khách hàng có quan hệ tín dụng với ngân hàng (163 DNNN trong đó có 6 TCT90,91; 25 Công ty TNHH và HTX; 262 hộ t nhân cá thể). Các khách hàng lớn chủ yếu là các công ty và tổng công ty thuộc Bộ GTVT và Bộ xây dựng. Tổng dư nợ cho vay đến 30/12/2002 đạt 1.670 tỷ đồng, tăng so với năm trước 180 tỷ, tốc độ tăng đạt 12.1%, so với kế hoạch tốc dộ tăng vượt mức kế hoạch. trong đó: Dư nợ ngắn hạn: 1.070 tỷ đồng, chiếm 64,1% tổng dư nợ Dư nợ trung-dài hạn: 600 tỷ đồng, chiếm 35,9% tổng dư nợ Cho vay KTQD: 1.588 tỷ đồng, chiếm 95,1% tổng dư nợ Cho vay ngoài quốc doanh: 82 tỷ đồng, chiếm 4,9% tổng dư nợ Nợ quá hạn: 14 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 0,84% trên tổng dư nợ, giảm 12,5% so với năm 2001(2 tỷ). 2.1.2.3. Hoạt động kinh doanh đối ngoại a-Nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ: Đánh giá chung qua các năm đều cho thấy nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ của chi nhánh NHCT khu vực Đống Đa luôn đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, kinh doanh đa dạng các loại ngoại tệ khác nhau. Mặc dù trong những năm gần đây chính sách quản lý và tỷ giá ngoại hối có nhiều biến động, mức cung ngoại tệ luôn khan hiếm cho kinh doanh nhập khẩu nhng với sự tích cực, chủ động khai thác nguồn ngoại tệ và với nhiều biện pháp linh hoạt chi nhánh NHCT khu vực Đống Đa đã đáp ứng đủ nhu cầu ngoại tệ cho các khách hàng về số lượng cũng như chủng loại, quan tâm đáp ứng kịp thời nhu cầu ngoại tệ cho các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu, hạn chế đáng kể rủi ro về tỷ giá cho các doanh nghiệp XNK. Trong năm 2002, lượng mua bán ngoại tệ qui đổi USD đạt 17,2 triệu USD tăng 29% so với năm 2001. Thu về kinh doanh ngoại tệ đạt 0,73 tỷ đồng, tăng 12%. Phí giao dịch kinh doanh ngoại tệ đạt 0,27 tỷ đồng, tăng 44%. b- Nghiệp vụ thanh toán quốc tế: Do ảnh hưởng của một số nhân tố như sức mua giảm, thuế GTGT mặc dù đã được điều chỉnh nhưng vẫn ở mức cao nên nhịp độ hoạt động XNK của một số khách hàng ở chi nhánh NHCT khu vực Đống Đa vẫn bị giảm đáng kể trong 2 năm gần đây. Mặc dù vậy, năm 2002 Chi nhánh đã thu hút được khách hàng lớn là Công ty XNK tổng hợp Hà Nội, Chi nhánh Intimex Hải Phòng, Tổng công ty XNK dệt may, Công ty XNK vật t nông nghiệp, Tổng công ty công nghiệp tàu thuỷ, Tổng công ty thuỷ tinh và gốm xây dựng, Nhờ đó, mở rộng thêm các quan hệ tín dụng, thanh toán quốc tế, nên số tiền mở L/C nhập khẩu và thanh toán L/C xuất tăng hơn so với năm trước.(USD) Nghiệp v ụ Năm 2001 Năm 2002 2002/01 Số món Số tiền Số món Số tiền L/C nhập 569 45,606,617 634 55,457,154 122% Nhờ thu đến 41 1,240,400 80 2,822,275 228% T/T 294 5,339,050 380 8,639,160 162% Nhờ thu đi 5 47,400 25 750,000 16 lần T Báo L/C xuất 65 729,108 109 2,650,000 3,3 lần Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh đối ngoại năm 2002 Mặc dù khối lượng nghiệp vụ TTQT phát sinh lớn, song Chi nhánh vẫn đảm bảo an toàn không để xẩy ra sai sót làm ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng cũng như uy tín của NHCT. Mặt khác, Chi nhánh còn tư vấn giúp khách hàng lựa chọn phương thức thanh toán, điều tra thông tin của khách hàng nước ngoài để tránh rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng XNK. c- Các hoạt động chi trả kiều hối, séc du lịch - Doanh số chi trả kiều hối năm 2002: 825,000.00USD - Doanh số thanh toán séc du lịch năm 2002: 9,000.00USD - Doanh số thanh toán thẻ VISA, MASTER năm 2002: 4,030.00USD + Phí dịch vụ chi trả kiều hối năm 2002 đạt 14.292.964 đồng + Phí thanh toán séc du lịch đạt 641.984 đồng Tổng phí thu được từ hoạt động kinh doanh đối ngoại năm 2002 đạt 6,13 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 19% trên lợi nhuận ròng. 2.2 Thực trạng hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn của chi nhánh NHCT khu vực Đống Đa 2.2.1 Thực trạng hoạt động huy động vốn chi nhánh NHCT khu vực Đống Đa: Nhu cầu vốn cho phát triển của nền kinh tế là rất cấp thiết. Trước yêu cầu phát huy nội lực, huy động các nguồn vốn trong xã hội để phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, các NHTM trong những năm qua đã không ngừng nỗ lực tìm kiếm và áp dụng các giải pháp huy động vốn có hiệu quả. Chi nhánh NHCT khu vực Đống Đa cũng không nằm ngoài qui luật đó. Bằng uy tín của mình, với các biện pháp chính sách phù hợp NHCT Đống Đa đã hoàn thành tốt công tác huy động vốn. Nguồn vốn ngày càng tăng trưởng cơ cấu vốn cũng có sự thay đổi có lợi cho hoạt động kinh doanh ngân hàng. Để thấy rõ điều đó trước tiên chúng ta hãy xem xét tình hình huy động vốn của NHCT Đống Đa qua các năm trong bảng dưới đây: Bảng 3: Kết cấu nguồn vốn huy động của chi nhánh NHCT Đống Đa từ 2000 - 2002 Đơn vị: Tỷ VNĐ Chỉ tiêu 31/12/2000 31/12/2001 31/12/2002 ST TT ST TT ST TT Tổng nguồn vốn huy động 1850 100 2010 100 2320 100 1. Tiền gửi tiết kiệm 200 64,9 1230 61,2 1360 58,6 2. Tiền gửi của các TCKT 50 35,1 750 37,3 800 34,5 3. Kỳ phiếu, trái phiếu 0 0 30 1,5 160 6,9 4. Nguồn huy động khác 0 0 0 0 0 0 ( Nguồn: báo cáo tổng kết của chi nhánh NHCT khu vực Đống Đa qua các năm) 0 500 1000 1500 2000 2500 1 2 3 4 5 Tổng nguồn vốn huy động 1. Tiền gửi tiết kiệm 2. Tiền gửi của các TCKT 3. Kỳ phiếu, trái phiếu 4. Nguồn huy động khác Nhìn vào bảng 3 ta thấy trong cơ cấu nguồn vốn huy động có sự biến động, nếu trong năm 2000 nguồn vốn tiết kiệm chiếm 64,9% và nguồn vốn của các tổ chức kinh tế chiếm 35,1% trong tổng nguồn vốn thì sang năm 2001 nguồn vốn tiết kiệm chiếm 61,2% và nguồn vốn của các tổ chức kinh tế tăng lên 37,3%. Điều đó chứng tỏ rằng trong nguồn vốn có sự thay đổi về cơ cấu vốn, nguồn vốn từ các tổ chức kinh tế đã tăng lên, có lợi trong hạch toán kinh doanh bởi lãi suất tiền gửi của cac tổ chức kinh tế thấp chủ yếu là tiền gửi trong thanh toán. Trong 2 năm trở lại đây, ngân hàng đã tăng cường huy động vốn thông qua việc phát hành trái phiếu và kỳ phiếu theo chỉ định của ngân hàng cấp trên. Để hiểu rõ hơn nữa thì chúng ta sẽ xem biểu đồ sau: 2.2.1.1 Tiền gửi tiết kiệm của dân cư Tiền gửi tiết kiệm là nguồn tiền gửi lớn nhất của chi nhánh NHCT khu vực Đống Đa. Nó thường chiếm từ 60 -70% trong tổng nguồn vốn huy động hàng năm của chi nhánh. Đây là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi chưa có nhu cầu sử dụng, hoặc các khoản tiền tiết kiẹm của người dân đem gửi vào ngân hàng nhằm tìm kiếm thêm thu nhập bằng tiền lãi. Để thấy được tình hình huy động vốn từ nguồn này ta xem bảng sau: Bảng4: Biến động tiền gửi tiết kiệm của ngân hàng công thương Đống Đa từ năm 2000 - 2002 Đơn vị: Tỷ VNĐ Chỉ tiêu 2000 2001 2002 ST TT ST TT ST TT Tổng vốn huy động 1850 100 2010 100 2320 100 Tiền gửi tiết kiệm 1200 64,9 1230 61,2 1360 58,6 + Không kỳ hạn 20 1,1 25 1,2 20 0,8 + Có kỳ hạn 1180 63,8 1205 60 1340 57,8 (Nguồn : báo cáo kết quả kinh doanh chi nhánh NHCT khu vực Đống Đa) Năm 2000 tổng vốn huy động bằng VNĐ và ngoại tệ đã qui đổi đạt 1850 tỷ đồng. Năm 2001 tổng vốn huy động bằng VNĐ và ngoại tệ đã qui đổi đạt 2010 tỷ đồng. Năm 2002 tổng vốn huy động bằng VNĐ và ngoại tệ đã qui đổi đạt 2320 tỷ đồng. Trong tổng nguồn vốn huy động được thì nguồn tiền gửi tiết kiệm chiếm phần lớn. Cụ thể: trong năm200 đạt 1200 tỷ chiếm 64,9% trong tổng nguồn vốn huy động; năm 2001 đạt 1230 tỷ đồng chiếm 61,2% tổng nguồn vốn huy động. Tính đến 31/12/2002 con số vốn huy động dưới hình thức tiết kiệm là 1360 tỷ đồng chiếm 58,6% trong tổng nguồn vốn huy động Mặc dù trong các năm gần đây tỷ trọng tiền gửi tiết kiệm có xu hướng giảm nhưng vẫn là nguồn vốn huy động lớn nhất của chi nhánh NHCT khu vực Đống Đa. Chi nhánh trong những năm gân đây đã thực hiện việc huy động vốn từ các nguồn huy động có chi phí thấp một cách có hiệu quả. Chính vì vậy mà những nguồn huy động có chi phí cao như tiền gửi tiết kiệm sẽ được giảm xuống. Trong cơ cấu tiền gửi tiết kiệm, căn cư vào thời hạn gửi tiền ta thấy tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là chủ yếu. Con số này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn, điiêù này thể hiện ở các con số sau đây: tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn trong năm 2000 đạt 1180 tỷ chiếm 63,8% tổng nguồn vốn huy động, đến cuối năm 2001 nguồn tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn đạt 1250 tỷ đồng chiếm 60%; sang năm 2002 con số này tăng lên 135 tỷ so với năm 2001. Việc tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn ngày càng giảm trong khi tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng vẫn tăng trưởng tốt qua các năm. Điều này chứng tỏ rằng chi nhánh đẫ thực hiện có hiệu quả hoạt động huy động vốn Về cơ cấu của tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tông nguồn vốn huy động: năm 2000 là 20 tỷ đồng chiếm 1,1% tổng nguồn vốn huy động, năm 2001 là 25 tỷ đồng chiếm 1,2% tổng nguồn vốn huy động đến năm 2002 con số này là 20 tỷ chiếm 0,8% trong tổng vốn huy động, so với năm 2001 thì con số này đã giảm xuống 5 tỷ đồng Tiền gửi tiết kiệm chiếm phần lớn trong tổng nguồn vốn huy động, đây là nguồn vốn có tính ổn cao giúp chi nhánh NHCT khu vực Đống Đa có thể cgủ động trong kinh doanh. Tuy nhiên khi nền kinh tế ngày cang phát triển, nhu cầu thanh toán của các cá nhân, tổ chức ngày càng tăng thì tỷ trọng tiền gửi thanh toán sẽ tăng lên và tỷ trong tiền ggửi tiết kiệm sẽ giảm xuống là điều không thể tránh khỏi. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn mặc dù đang chiếm tỷ lệ rất lớn trong tổng các loại tiền gửi tiết kiệm nhưng phải huy động với lãi suất cao trong khi với tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn thì lãi suất huy động là thấp hơn nhưng hiện nay nó chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn. Chính vì vậy trong tương lai thì ngân hàng cần có biện pháp để khai thác tốt hơn nguồn tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn nhằm giảm chi phí huy động để nâng cao hiệu quả huy động vốn của chi nhánh NHCT khu vực Đống Đa. 2.2.1.2 Tiền gửi của các tổ chức kinh tế: Tiền gửi của các tổ chức kinh tế là nguồn tiền rất quan trọng giúp ngân hàng giảm chi phí đầu vào và tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng hoạt động cho vay và đầu tư vốn. Do phụ thuộc vào đặc điểm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nên nguồn huy động từ tiền gửi của các tổ chức kinh tế có nhiều biến động. Nguồn vốn tiền gưỉ thanh toán của các tổ chức kinh tế mà chủ yếu là nguồn tiền gửi thanh toán cuả các doanh nghiệp tăng cũng có nghĩa là dịch vụ thanh toán của ngân hàng phát triển thuận lợi. Bảng 5 dưới đây thể hiện điều đó. Bảng5: Biến động nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế của chi nhánhNHCT khu vực Đống Đa Đơn vị: Tỷ VNĐ Chỉ tiêu 31/12/2000 31/12/2001 31/12/2002 Tiền gửi của các tổ chức kinh tế 650 750 800 Biến động _ +100 +50 Tốc độ tăng trưởng (%) _ +15,38 +6,67 (Nguồn : báo cáo kết quả kinh doanh chi nhánhNHCT khu vực Đống Đa) Nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế còn tương đối thấp. Tuy vậy, đây cũng là nguồn lớn thứ hai sau tiền gửi dân cư. Nó là các khoản vốn tạm thời chưa sử dụng đến hoặc các khoản tiền thanh toán chưa đến hạn được các doanh nghiệp gửi vào ngân hàng. Các khoản tiền này chủ yếu được gửi vào nhằm mục đích thanh toán chứ không vì mục đích sinh lời. Nguồn tiền gửi từ các tổ chức kinh tế trong những năm gần đây có xu hướng tăng chậm. Năm 2001 mức độ biến động là 100 Tỷ đồng so với năm 2000 tương ứng với nó là tỷ lệ biến động là 15,38%. Trong khi đó năm 2002 nó chỉ tăng nhẹ là 50 tỷ đồng chiếm 6,67% so với năm 2001. Mặc dù giảm sút nhưng nó vẫn là một nguồn vốn quan trọng trong tổng nguồn vốn huy động. Nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế để nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của doanh nghiệp như trả lương, trả tiền dịch vụ thông tin.... Chính vì vậy mà đòi hỏi NHCT Đống Đa phải không ngừng nỗ lực đổi mới công nghệ ngân hàng, nâng cao chất lượng thanh toán theo hướng an toàn, hiệu quả, tạo lòng tin cho khách hàng gửi tiền. Nếu thực hiện tốt hoạt động thanh toán thì không những ngân hàng sẽ huy động được tốt nguồn vốn này mà còn mở rộng và đặt quan hệ tín dụng với doanh nghiệp, tạo uy tín đối với doanh nghiệp thì nguồn vốn này cũng tương đối ổn định do chi phí thấp. Vấn đề dặt ra là phải quản lý tốt nguồn tiền gửi này, nắm vững tình hình để đáp ứng kịp thời và tốt nhất nhu cầu của khách hàng. 2.2.1.3 Phát hành trái phiếu, kỳ phiếu: Ngoài hai hình thức huy động trên, ngân hàng còn tiến hành nghiệp vụ phát hành kỳ phiếu, trái phiếu. Việc phát hành kỳ phiếu trái phiếu nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh và cùng để thu hút về một phần tiền mặt từ trong lưu thông. Tình hình phát hành kỳ phiếu, trái phiếu được thể hiện trong bảng sau: Bảng 6: Biến động nguồn phát hành kỳ phiếu, trái phiếu của ngân hàng công thương Đống Đa Đơn vị: Tỷ VNĐ Chỉ tiêu 31/12/2000 31/12/2001 31/12/2002 Kỳ phiếu, trái phiếu 0 30 160 Biến động 0 30 130 (Nguồn : báo cáo kết quả kinh doanh chi nhánhNHCT khu vực Đống Đa) Nhìn bảng số liệu ta thấy việc huy động vốn băng việc phát hành kỳ phiếu và trái phiếu chỉ diễn ra trong 2 năm 2001và 2002. Nếu năm 2001 kỳ phiếu việc phát hành kỳ phiếu chỉ đạt 30 tỷ đồng thì sang đến năm 2002 việc phát hành kỳ phiếu đã tăng lên đến 160 tỷ đồng. Để đạt được kết quả như trên thì NHCT Đống Đa đã phải nỗ lực trong việc thực hiện phát hành kỳ phiếu, trái phiếu. Ngoài hình thức như: quà tặng khi khách hàng mua kỳ phiếu, trái phiếu, phát hànhkỳ phiếu trái phiếu với mức lãi suất hấp dẫn..... Như chúng ta đã biết, việc phát hành kỳ phiếu trái phiếu của ngân hàng nhằm thực hiện các chính sách tiền tệ của ngân hàng. Công tác phát hành kỳ phiếu, trái phiếu căn cứ vào từng thời kỳ và sự chỉ đạo của ngân hàng cấp trên. 2.2.2 Thực trạng hoạt động sử dụng vốn của chi nhánh ngân hàng công thương khu vực Đống Đa 2.2.2.1 Khái quát chung về tình hình sử dụng vốn: Trên cơ sở nguồn vốn huy động được, NHCT Đống Đa đã thực hiện vốn vay đó một cách có hiệu quả đem lại lợi nhuận tương đối ổn định. Với lợi thế nguồn vốn huy động dồi dào ngân hàng đã thực hiện mở rộng tín dụng nhằm cung ứng vốn cho nền kinh tế thông qua việc cho vay vốn với các doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh, các hộ gia đình. Một phần của nguồn vốn được ngân hàng chuyển vào dự trữ thanh toán, nhằm đảm bảo khả năng thanh toán. Đạt được những kết qủa đáng kể trong hoạt động sử dụng vốn. Trước hết là do uy tín của ngân hàng trên thị trường, do sự đổi mới cơ chế thông thoáng hơn của ngành n._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNH1100.doc
Tài liệu liên quan