Lời nói đầu
Như chúng ta đã biết, Tây Bắc là một vùng miền núi với diện tích tự nhiên là 3. 610. 140 ha (chiếm 10,9% so với diện tích cả nước) với số dân khoảng 2052 nghìn người, bao gồm hầu hết các dân tộc có mặt ở Việt Nam. Ngoài vị trí cực kì quan trọng về an ninh, quốc phòng. Tây Bắc còn là nơi chứa đựng nhiều tiềm năng to lớn về mặt kinh tế cùng với việc phát triển nghề rừng và công nghiệp chế biến Lâm sản, các cây ăn quả có giá trị kinh tế cao và nhiều loại cây dược liệu qúy hiếm. Đây cũn
97 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1372 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển kinh tế - Xã hội ở vùng Tây Bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g là nơi rất thích hợp cho việc phát triển chăn nuôi đại gia súc với quy mô lớn. Hơn nữa, đại bộ phận khoáng sản ở nước ta cũng như các nguồn năng lượng chính đều nằm ở Tây Bắc.
Với nguồn tài nguyên phong phú như vậy, lẽ ra kinh tế - xã hội của vùng Tây Bắc phải có sự phát triển nhanh. Song đáng tiếc cho đến nay Tây Bắc vẫn là nơi lạc hậu nhất đất nước về mọi mặt.
Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan làm cho vùngTâyBắc phát triển chậm, nhưng có lẽ nguyên nhân cơ bản có tính quyết định chính là sự đầu tư của chúng ta cho miền núi nói chung và vùng Tây Bắc nói riêng trong những năm qua chưa thật hợp lý.
Việc đầu tư cho vùng Tây Bắc trong những năm qua tuy chưa thật thỏa đáng song cũng không phải là ít. Nhưng do phương thức đầu tư không thật phù hợp, lĩnh vực đầu tư chưa đúng, tình hình quản lý và sử dụng vốn đầu tư không tốt nên chưa tạo được cho Tây Bắc một môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi để phát triển. Vì thế khoảng cách giữa vùng Tây Bắc với các vùng khác trong cả nước ngày càng xa.
Từ thực trạng này, kết hợp với những kiến thức đã được học trong nhà trường và trải qua thời gian thực tập tại Uỷ ban dân tộc và Miền núi em đã mạnh dạn đi sâu vào nghiên cứu đề tài:
“Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ở vùng tây bắc”
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm hệ thống hóa các vấn đề lý luận và thực tiễn về đầu tư phát triển kinh tế - xã hội đồng thời đánh giá khái quát thực trạng đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây bắc trong những năm qua. Trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Bắc trong những năm tới.
Kết cấu của bài viết bao gồm ba chương
Chương I : Cơ sở lý luận chung về đầu tư phát triển
Chương II : Thực trạng đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Bắc trong những năm qua.
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Bắc trong những năm tới.
Nhằm phục vụ nội dung nghiên cứu trên, trong bài viết của mình em đã sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp thống kê, phương pháp phân tích kinh tế, phương pháp trừu tượng hóa, phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. . . .
Đề tài nghiên cứu được hoàn thành với sự giúp đỡ nhiệt tình của giáo viên hướng dẫn PTS. Lê Anh Vân, Bác Phó Vụ trưởng vụ tổng hợp Lê Kim Khôi cùng với các thầy cô giáo trong khoa Khoa học quản lý và các cô chú ở Uỷ ban dân tộc và miền núi.
Tuy nhiên do hạn chế về thời gian nghiên cứu, cũng như giới hạn về khả năng nghiên cứu của bản thân nên bài viết không thể tránh được những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp và giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô giáo cùng các cô chú ở Uỷ ban dân tộc và miền núi.
Em xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến giáo viên hướng dẫn PTS Lê Anh Vân, Bác phó vụ trưởng vụ tổng hợp Lê Kim Khôi, cùng các thầy cô giáo trong khoa khoa học quản lý và các cô chú ở Uỷ ban dân tộc và miền núi.
chương I
cơ sở lý luận chung Về đầu tư phát triển
I - Hoạt động đầu tư.
1. Khái niệm đầu tư.
Đầu tư là một hoạt động cơ bản tồn tại tất yếu và có vai trò quan trọng trong bất kì nền kinh tế -xã hội nào.
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại (như tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, trí tuệ. . . ) để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó.
Trong nền kinh tế quốc dân, hoạt động đầu tư là quá trình sử dụng vốn để tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ thuật. vốn đầu tư được hình thành từ tiền tích lũy của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ; từ tiền tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khai thác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội. Có thể nói rằng. Đầu tư là yếu tố quyết định sự phát triển nền sản xuất xã hội, là chìa khóa của sự tăng trưởng.
2. Phân loại đầu tư.
Xét trong phạm vi một quốc gia, các hoạt động đầu tư có thể được phân chia thành nhiều loại khác nhau theo các tiêu thức phân loại khác nhau. Về cơ bản chúng ta có thể phân biệt các loại hình đầu tư theo bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư mang lại. Cụ thể chúng ta có các loại hình đầu tư sau:
2.1. Đầu tư tài chính.
Là hoạt động đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi xuất định trước (gửi tiết kiệm mua trái phiếu chính phủ) hoặc lãi xuất tùy thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị phát hành.
Đầu tư tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này), mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân đầu tư. Với sự hoạt động của hình thức đầu tư tài chính, vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút ra một cách nhanh chóng (rút tiết kiệm, chuyển nhượng trái phiếu, cổ phiếu cho người khác). Điều này khuyến khích người có tiền bỏ ra để đầu tư để thu lợi nhuận. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện đầu tư họ có thể sẽ gặp phải rủi ro. Để hạn chế rủi ro trong loại hình đầu tư này chủ đầu tư có thể đầu tư vào nhiều nơi, mỗi nơi một ít tiền.
2.2. Đầu tư thương mại:
Là loại hình đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra mua hàng hóa và sau đó đem bán lại với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận chênh lệch giá giữa mua và bán.
Loại hình đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét quan hệ ngoại thương) mà chỉ làm tăng tài sản, tài chính của chủ đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa giữa người mua và người bán với người đầu tư và giữa người đầu tư với khách hàng của họ.
Hai hình thức đầu tư trên là hai hình thức không tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất vật chất, nhưng thông qua đó nguồn vốn được tập trung để đầu tư vào sản xuất và thúc đẩy lưu thông hàng hóa, phân phối của cải vật chất do hoạt động sản xuất vật chất tạo ra, từ đó thúc đẩy sự phát triển của hoạt động sản xuất vật chất, tạo ra nhiều của cải hơn cho xã hội.
2.3. Đầu tư phát triển (đầu tư vật chất và trí tuệ).
Là hoạt động đầu tư trong đó người có tiều bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người lao động.Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ và bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế - xã hội.
II. Vài trò của đầu tư phát triển trong nền kinh tế.
1. Đặc điểm của đầu tư phát triển.
Như ở phần trên chúng ta đã phân biệt được ba loại hình đầu tư theo tiêu thức bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại. Ngoài ra đầu tư phát triển còn có một số đặc điểm khác với đầu tư tài chính và đầu tư thương mại được thể hiện ở những khía cạnh sau:
- Vốn đầu tư (tiền, vật tư, lao động) cần huy động cho một công cuộc đầu tư là rất lớn.
- Thời gian cần thiết cho một công cuộc đầu tư rất dài do đó vốn đầu tư phải nắm khế đọng lâu, không tham gia vào quá trình chu chuyển kinh tế vì vậy trong suốt thời gian này nó không đem lại lợi ích cho nền kinh tế.
-Thời gian vận hành các kết quả đầu tư cho đến khi thu hồi đủ vốn đã bỏ ra hoặc thanh lý tài sản do vốn đầu tư tạo ra thường là vài năm, có thể là hàng chục năm và có nhiều trường hợp là vĩnh viễn.
- Nếu các thành quả của đầu tư là các công trình xây dựng thì nó sẽ được sử dụng ở ngay tại nơi đã tạo ra nó.
- Các kết quả, hiệu quả đầu tư phát triển chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố không ổn định trong tự nhiên, trong hoạt động kinh tế - xã hội như: Điều kiện địa lý, khí hậu, cơ chế chính sách, nhu cầu thị trường quan hệ quốc tế...dẫn đến có độ mạo hiểm cao.
2. Vai trò của đầu tư phát triển trong nền kinh tế.
Tất cả các lý thuyết kinh tế từ trước đến nay, từ cổ điển đến hiện đại đều coi đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá cho sự tăng trưởng. Vốn đầu tư luôn là một biến số quan trọng trong hàm sản xuất trong mọi mô hình kinh tế. Vai trò của đầu tư phát triển được xem xét trên hai góc độ nền kinh tế.
2.1. Đầu tư trên giác độ toàn bộ nền kinh tế.
Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế, đầu tư có tác động đến các mặt sau:
* Đầu tư phát triển vừa tác động đến tổng cung vừa tác động đến tổng cầu của nền kinh tế.
Thứ nhất: Đầu tư tác động đến tổng cầu.
Trong tổng cầu của nền kinh tế quốc dân, đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn, theo số liệu của ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng từ 24% - 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới và tác động của đầu tư đến tổng cầu là ngắn hạn.
Điều này có nghĩa là trong thời gian thực hiện đầu tư và khi tổng cung chưa tăng (các kết quả đầu tư chưa phát huy tác dụng) sự tăng lên của tổng cầu làm cho sản lượng cân bằng tăng theo và giá cả các đầu vào tăng. Điều này được thể hiện qua đồ thị số 01.
Công thức tổng cầu nền kinh tế mở.
AD - C + I + G + (EX - IM)
Trong đó AD: Tổng cầu; C: Chi tiêu của hộ gia đình:
I: Chi tiêu của doanh nghiệp ; G: Chi tiêu của chính phủ
EX - IM: là xuất khẩu ròng.
Như vậy, đầu tư của các doanh nghiệp và một phần chi tiêu của chính phủ (đầu tư của chính phủ) là một bộ phận trong tổng cầu nền kinh tế. Tuy nhiên sự tác động của đầu tư đến tổng cầu nền kinh tế là trong ngắn hạn, trong thời gian thực hiện đầu tư trong khi tổng cung chưa thay đổi (các kết quả đầu tư chưa phát huy các kết quả).
Thứ hai: Đầu tư tác động đến tổng cung.
Khi các kết quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên kéo theo sản lượng tiềm năng tăng lên từ QE lên QE, giá sản phẩm giảm xuống từ PE - PE, sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ phát triển kinh tế - xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. Điều này được thể hiện qua đồ thị số 01.
E’
E
E”
AD’
AD
QE
QE’
PE''
PE'’
PE
P
AS
AS’
QE’’
0
Q
Chú thích :
Khi chưa đầu tư đường tổng cầu là AD và điểm cân bằng tại E.
Sau đầu tư đường tổng cầu dịch chuyển từ AD - AD’ và tổng cung AS chưa kịp tăng. Do vậy, giá tăng từ PE lên PE’ và điểm cân bằng mới là E’
* Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế.
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và đối với tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia.
Đầu tư luôn tác động hai mặt tích cực và tiêu cực.
* Thứ nhất: Tăng đầu tư sẽ có tác động.
- Tích cực: Tăng đầu tư sẽ tạo việc làm, giảm thất nghiệp, nâng cao đời sống, giảm tệ nạn xã hội.
- Tiêu cực: Tăng đầu tư sẽ phải chi một lượng tiền lớn, nếu tăng qúa mức sẽ dẫn đến tình trạng tiền đang lưu hành bị mất giá (lạm phát) dẫn đến tăng giá cả những sản phẩm có liên quan làm cho sản xuất bị đình trệ.
* Thứ hai: Giảm đầu tư sẽ có tác động.
- Tích cực: Giảm đầu tư thì lượng tiền chi ra ít nên sẽ giảm lạm phát, giá cả đời sống ổn định, tệ nạn xã hội giảm đi.
- Tiêu cực: Giảm đầu tư sẽ giảm việc làm, tăng thất nghiệp ảnh hưởng đến đời sống xã hội.
Như vậy: Trong điều hành vĩ mô nền kinh tế, các nhà hoạt động chính sách cần thấy hết tác động hai mặt này để đưa ra các chính sách nhằm hạn chế các tác động xấu, phát huy tác động tích cực, duy trì được sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế.
* Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Theo kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy, nếu một quốc gia muốn giữ tốc độ tăng trưởng GDP ở mức trung bình 8% - 10% thì tỷ lệ đầu tư phải đạt từ 15% - 20% tuỳ thuộc và hệ số ICOR của quốc giá đó. Hệ số ICOR phản ánh suất đầu tư tính cho một đơn vị GDP tăng thêm - ICOR là tên viết tắt của từ tiếng anh “tỷ suất vốn GDP” Icremental Capital Output Ration - Hệ số ICOR được tính theo công thức sau:
ICOR = mức vốn đầu tư/mức tăng GDP.
Từ đó suy ra: mức tăng GDP = vốn đầu tư/ICOR.
Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư.
Hệ số ICOR của mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách trong nước.
* Đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy để có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn từ 9% - 10% là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở hai khu vực công nghiệp và dịch vụ vì hai khi vực này sử dụng các tiềm năng về trí tuệ con người sẽ không khó khăn lắm để đạt tốc độ tăng trưởng 15% - 20% còn khu vực nông, lâm nghiệp, thuỷ sản do giới hạn về đất đai, khí hậu...Nên để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5%-6% là rất khó khăn
Tuy nhiên, để thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tập trung đầu tư phát triển cho các ngành có tốc độ tăng trưởng cao thì rõ ràng là phải có vốn đầu tư, không có vốn đầu tư thì không thể nói đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, không thể nói đến sự phát triển của ngành này hay ngành khác.
Như vậy, Chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt đựơc tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nên kinh tế.
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị... của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác phát triển theo.
* Đầu tư tác động đến khả năng công nghệ và khoa học của đất nước chúng ta đều biết rằng công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của đất nước.
Công nghệ có thể đạt được thông qua hai con đường chính là:
Thứ nhất: Tự bỏ chi phí để tự nghiên cứu, phát triển ra công nghệ bằng khả năng của chính mình sau đó áp dụng vào các hoạt động kinh tế để thu hồi vốn đã bỏ ra cho đầu tư nghiên cứu công nghệ và có lãi. Nhưng để nghiên cứu ra công nghệ thì cần phải bỏ ra rất nhiều vốn đầu tư cho các lao động chất xám, cho các máy móc hiện đại...với thời gian đầu tư kéo dài và độ mạo hiểm cao. Nên việc nghiên cứu, phát hiện công nghệ mới thường do các nước phát triển, các công ty đa quốc gia với nguồn vốn đầu tư dồi dào, với những bộ phận chuyên trách trong nghiên cứu và phát triển thực hiện.
Con đường thì hai là đi mua công nghệ trên thị trường thế giới, việc mua công nghệ sẵn có trên thị trượng thế giới sẽ nhanh chóng giúp cho có được công nghệ như mong muốn, nhưng công nghệ này thường không hiện đại và phải cạnh tranh và cũng không đắt lắm. Do đó đây là hình thức thích hợp với các nước đi sau thường là ở những nước lạc hậu những nước đang phát triển. Tuy nhiên phương pháp này cũng có những rủi ro nhất định, đó là khi mua phải công nghệ lạc hậu nhưng lại với giá cao, những công nghệ gây ô nhiễm mỗi trường.
Thông qua con đường đầu tư mỗi nước sẽ có cách riêng để tăng cường khả năng công nghệ của mình một cách thích hợp. Đối với Việt Nam hiện nay theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ công nghệ của Việt Nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực. Theo UNIDO, nếu chia quá trình phát triển công nghệ thế giới làm 7 giai đoạn thì Việt Nam năm 1990 ở vào giai đoạn 1 và 2 Việt Nam đang là một trong 90 nước kém nhất về công nghệ, với trình độ công nghệ lạc hậu này quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá của Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề ra được một chiến lược đầu tư phát triển công nghệ nhanh và vững chắc.
2.2. Trên giác độ vi mô (của cơ sở sản xuất kinh doanh).
Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ, đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở, tức là một cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ muốn ra đời cần phải có nhà xưởng, đội ngũ lao động, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất - kỹ thuật vừa tạo ra các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư đối với các cơ sở này hao mòn, hư hỏng. Để duy trì được sự hoạt động bình thường cần định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất - kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn này hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học - kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các trang thiết bị mới thay thế các trang thiết bị cũ đã lỗi thời. Tuy nhiên muốn có cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ, muốn có các chi phí sửa chữa máy móc, mua sắm trang thiết bị...thì rõ ràng là phải có vốn đầu tư.
2.3. Đối với các cơ sở vô vị lợi (hoạt động không thể thu lợi cho bản thân mình).
Các cơ sở vô vị lợi đang tồn tại, để duy trì sự hoạt động bình thường ngoài việc định kỳ phải sửa chữa lớn các cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có còn phải thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các cơ sở vật chất này. Tất cả những hoạt động và chi phí này đều là những hoạt động đầu tư.
Như vậy đến đây chúng ta đã thấy được bản chất và vai trò của đầu tư, có thể nói rằng, đầu tư là một hoạt động tất yếu mà mọi quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội đều phải thực hiện. Đối với nước ta , một nước đang phát triển - đầu tư lại càng mang tính cấp bách, có vai trò quan trọng đối với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng XHCN mà Đảng và Nhà nước đề ra. Tuy nhiên, để hoạt động đầu tư thực sự có hiệu quả, phát huy vai trò của mình trong nền kinh tế, hoàn thành các mục tiêu trong chiến lược phát triển của đất nước... chúng ta cần phải có vốn, thật nhiều vốn. Đó chính là vốn đầu tư.
3. Kinh nghiệm của một số nước đối với vấn đề đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.
Lý thuyết cũng như thực tiễn phát triển kinh tế các nước đều thừa nhận mối quan hệ chặt chẽ giữa sự tăng trưởng đầu tư và tăng trưởng GDP. Quan điểm cho rằng hình thành vốn là chìa khoá đối với phát triển đã được thể hiện trong chiến lược và kế hoạch phát triển của nhiều nước. Điều rõ ràng là một đất nước muốn giữ được tốc độ tăng trưởng ổn định ở mức trung bình thì nước đó phải giữ được mức đầu tư lớn. Tỷ lệ đầu tư ít khi thấp hơn 15% và trong một số trường hợp phải lớn 25% GDP.
J.M. Keynes trong lý thuyết “đầu tư và mô hình số nhân” đã chứng minh rằng, tăng đầu tư sẽ bù đắp những thiếu hụt của “ cầu tiêu dùng” từ đó tăng số lượng việc làm, tăng thu nhập, tăng hiệu quả cận biên của tư bản và kích thích sản xuất phát triển .ở đây có sự tác động dây chuyền: Tăng đầu tư - tăng thu nhập - tăng đầu tư mới - tăng thu nhập mới.
Bổ sung vào lý thuyết số nhân của J.M. Keynes, các nhà kinh tế Mỹ đưa ra lý thuyết “gia tốc” lý thuyết này một mặt nghiên cứu các nhân tố quyết định đầu tư, mặt khác chứng minh mối quan hệ giữa gia tăng sản lượng sẽ làm cho đầu tư tăng lên như thế nào. Và sự tăng nhanh tốc độ đầu tư so với sự thay đổi về sản lượng nói nên ý nghĩa của nguyên tắc “gia tốc”. Theo lý thuyết “gia tốc” để vốn đầu tư tiếp tục tăng lên thì sản lượng bán ra phải tăng liên tục. Nhưng logic của vấn đề là ở chỗ số lượng sản phẩm bán ra ngày hôm nay là kết quả đầu tư của thời kỳ trước.
Thực tế của các nước đã chứng minh điều này, cách đây vào ba thập kỷ, Châu á hầu như không được biết đến với tư cách là vùng kinh tế, nhưng sự năng động rồi sau đó là sự thành công ở các mức độ khác nhau về tăng trưởng kinh tế của khu vực Châu á - Thái Bình Dương đã làm thay đổi hẳn cách nhìn truyền thống. Vì khi nền kinh tế thế giới dao động ở mức tăng trưởng GDP 3% - 5% mỗi năm thì các nước đang phát triển như Hàn quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapo từ điểm xuất phát thấp, tài nguyên nghèo nàn, thị trường nội địa nhỏ bé đã trở thành những quốc gia công nghiệp mới. Đặc trưng chủ yếu của các quốc gia này là quá trình công nghiệp hoá diễn ra nhanh chóng làm thay đổi hẳn bộ mặt kinh tế xã hội của đất nước với GDP bình quân đầu người năm 1997 của Hồng Kông là 24.085 USD, Singapo là 24.610 USD, Đài Loan là 15.370 USD, Hàn Quốc 12.390 USD, Malaxia là 9.835 USD. Đặc biệt các nước Hồng Kông , Singapo, Đài Loan trước đây đều là những nước đi vay vốn thì nay trở thành những nước đầu tư và cho vay vốn. Sở dĩ có được như vậy là vì các nước này đã biết khai thác một cách tối ưu lợi thế so sánh, chọn được nhiều giải pháp tốt hơn là mắc sai lầm.
Riêng trong lĩnh vực đầu tư họ đã thực hiện được tỷ lệ đầu tư cao và liên tục trong nhiều năm, tỷ lệ tích luỹ trong GDP là rất cao bình quân của Hàn Quốc là 35%, Hồng Kông là 30%, Singapo là 46%, Đài Loan là 27%, Malaxia là 31% Thái Lan là 37%.
Chẳng hạn đối với cơ sở hạ tầng người ta tính được rằng nếu nâng 1% tổng quỹ đầu tư cơ sở hạ tầng thì sẽ tăng 1% GDP theo báo ngân hàng thế giới hàng năm các nước đang phát triển đầu tư khoảng 200 tỷ USD để xây dựng cơ sở hạ tầng tức là tương đương với 50% đầu tư của nhà nước và 4% của GDP .ở nước ta hàng năm đều tập trung ngân sách cho đầu tư cơ sở hạ tầng. Do đó, gần đây nhìn chung cơ sở hạ tầng đã được cải thiện, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của sản xuất, đời sống. Điều này là hoàn toàn phù hợp với tỷ lệ 2% GDP đầu tư cho cơ sở hạ tầng ở nước ta hiện nay.
Trong thời gian từ nay đến năm 2000 và những năm đầu thế kỷ XXI Đảng và Nhà nước đã có quan điểm cho rằng “ Đầu tư trong thời kỳ phát triển mới là đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước” Cụ thể hoá quan điểm trên. Đảng và Nhà nước đã đề ra ba mục tiêu cơ bản của đầu tư phát triển là:
* Đầu tư nhằm đảm bảo nhịp độ tăng trưởng kinh tế.
* Đầu tư nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiếp hoá - hiện đại hoá.
* Tăng tỷ lệ đầu tư trong GDP (đến năm 2000 tỷ lệ đầu tư/GDP xấp xỉ 35%).
Kết hợp giữa nhiệm vụ, mục tiêu đầu tư phát triển trong thời gian tới với mối quan hệ giữa đầu tư phát triển kinh tế và tăng trưởng kinh tế ở một số nước ta thấy việc thực hiện các công cuộc đầu tư phát triển kinh tế - xã hội là rất cần thiết và việc chúng ta phải luôn luôn tìm mọi cách, vận dụng các giải pháp khác nhau để nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển kinh tế - xã hội lại càng cần thiết hơn và mang tính thực tiễn cao.
III. Vốn đầu tư.
1. Khái niệm vốn đầu tư.
Trên thế giới hiện tồn tại một số khái niệm, định nghĩa không hoàn toàn giống nhau về vốn đầu tư. Tuy nhiên nếu xét theo nguồn hình thành và mục tiêu sử dụng ta có khái niệm vốn đầu tư như sau:
“Vốn đầu tư là tiền tích lũy của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân cư và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội, nhằm duy trì tiếm lực sẵn có và tạo tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội”.
2. Các nguồn hình thành vốn đầu tư.
Vốn đầu tư được huy động từ nhiều nguồn khác nhau, của nhiều thành phần kinh tế trong và ngoài nước, cụ thể là:
2.1. Nguồn trong nước.
- Ngân sách Nhà nước: Bao gồm thu từ các nguồn tích luỹ trong nước (thuế, phí, lệ phí, trích nộp khấu hao của các doanh nghiệp có vốn Nhà nước, phát hành trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình, công trái quốc gia...) và các nguồn thu trong nước (các khoản vay, viện trợ của các chính phủ, các tổ chức quốc tế cho chính phủ Việt Nam...).
- Vốn tín dụng ưu đãi đầu tư của Nhà nước: Do tổng cục đầu tư phát triển và ngân hàng Đầu tư phát triển quản lý bao gồm.
+ Vốn ngân sách hàng năm dành cho đầu tư xây dựng cơ bản.
+ Vốn huy động theo chủ trương của chính phủ.
+ Vốn vay nước ngoài của chính phủ và các nguồn viện trợ dành cho đầu tư phát triển.
+ Vốn thu hồi nợ vay (gồm gốc và một phần lãi vay) các công trình tín dụng ưu đãi của Nhà nước đã đầu tư trước đây nay đến hạn trả nợ
+ các nguồn vốn khác theo quy điịnh của chính phủ.
- Vốn tín dụng thương mại (là nguồn vốn mà các doanh nghiệp vay thẳng qua hệ thống ngân hàng thương mại).
- Vốn tự huy động của các doanh nghiệp (vốn sẵn có, khấu hao tài sản cố định và lợi nhuận được phép giữ lại).
- Vốn cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước.
- Vốn tích luỹ của dân cư được đầu tư vào các doanh nghiệp tư nhân và các hình thức kinh doanh cá thể khác.
2.2. Nguồn ngoài nước.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Là vốn của các doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài đầu tư sang các nước khác và trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý quá trình sử dụng và thu hồi số vốn bỏ ra. Vốn này thường không đủ lớn để giải quyết dứt điểm từng vấn đề kinh tế xã hội của nước nhận đầu tư. Tuy nhiên, với vốn đầu tư trực tiếp, nước nhận đầu tư không phải lo trả nợ, lại có thể dễ dàng có được công nghệ (do người đầu tư đem vào góp vốn và sử dụng), trong đó có cả công nghệ bị cấm xuất theo đường ngoại thương, vì lý do cạnh tranh hay cấm vận nước nhận đầu tư; học tập được kinh nghiệm quản lý; tác phong làm việc theo lối công nghiệp của nước ngoài; gián tiếp có chỗ đứng trên thị trường thế giới; nhanh chóng được thế giới biết đến thông qua quan hệ làm ăn với nhà đầu tư. Nước nhận đầu tư trực tiếp phải chia sẻ lợi ích kinh tế do đầu tư đem lại với người đầu tư theo mức độ góp vốn của họ. Vì vậy, có quan điểm cho rằng đầu tư trực tiếp sẽ làm cạn kiệt tài nguyên của nước nhận đầu tư.
- Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài.
Là vốn của chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ được thực hiện dưới các hình thức khác nhau là viện trợ hoàn lại, viện trợ không hoàn lại, cho vay ưu đãi với thời gian dài và lãi xuất thấp, kể cả vay theo hình thức thông thường, một hình thức phổ biến của đầu tư gián tiếp tồn tại dưới loại hình ODA - viện trợ phát triển chính thức của các công nghiệp phát triển. Vốn đầu tư gián tiếp thường lớn cho nên có tác dụng mạnh và nhanh đối với việc giải quyết dứt điểm các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của nước nhận đầu tư.
- Vốn kiểu hối.
3. Nội dung vốn đầu tư:
Nội dung của vốn đầu tư bao gồm các khoản mục chi phí gắn liền với nội dung của hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư chính là quá trình sử dụng vốn đầu tư nhằm tái sản xuất các cơ sở vật chất kỹ thuật và thực hiện các chi phí gắn liến với sự hoạt động của các cơ sở vật chất kỹ thuật vừa được quá trình tái sản xuất tạo ra thông qua các hình thức xây dựng nhà cửa, cấu trúc, hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản khác, thực hiện các chi phí gắn liền với sự ra đời và hoạt động của các cơ sở vật chất kỹ thuật đó.
Xuất phát từ nội dung hoạt động đầu tư phát triển trên đây, để tạo thuận lợi cho công tác quản lý việc sử dụng vốn đầu tư nhằm đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất, có thể phân chia vốn đầu tư thành các khoản mục sau đây.
3.1. Trên giác độ quản lý vĩ mô (quản lý Nhà nước).
Trên giác độ này vốn đầu tư được chia thành bốn khoản lớn sau:
- Nhóm 1: những chi phí tạo ra tài sản cố định (mà sự biểu hiện bằng tiền là vốn cố định).
- Nhóm 2: Những chi phí tạo ra tài sản lưu động (mà sự biểu hiện bằng tiền là vốn lưu động của các tài sản cố định vừa được tạo ra).
- Nhóm 3: Những chi phí chuẩn bị đầu tư chiếm khoảng 0,3% - 15% vốn đầu tư.
- Nhóm 4: Chi phí dự phòng.
3.2. Trên giác độ quản lý vi mô (các cơ sở).
TRên giác độ quản lý vi mô, nội dung vốn đầu tư được phân chia chi tiết bởi một cơ sở chỉ quản lý một vài dự án, tạo điều kiện cho công tác quản lý tốt hơn.
- Nhóm 1: Những chi phí tạo ra tài sản cố định bao gồm.
+ Chi phí ban đầu và đất đai.
+ Chi phí xây dựng, sửa chữa nhà cửa, cấu trúc hạ tầng.
+ Chi phí mua sắm lắp đặt máy móc thiết bị dụng cụ, mua sắm phương tiện vận chuyển.
+ Chi phí khác.
- Nhóm 2: Những chi phí tạo ra tài sản lưu động bao gồm:
+ Chi phí nằm trong giai đoạn sản xuất như chi phí để mua nguyên vật liệu, trả lương người lao động, chi phí về điện nước, nhiên liệu, phụ tùng...
+ Chi phí nằm trong giai đoạn lưu thông gồm có sản phẩm dở dang tồn kho, hàng hoá bán chịu vốn bằng tiền.
- Nhóm 3: Chi phí chuẩn bị đầu tư bao gồm:
+ Chi phí nghiên cứu có vốn đầu tư.
+ Chi phí nghiên cứu tiền khả thi.
+ Chi phí nghiên cứu khả thi và thẩm định các dự án đầu tư.
- Nhóm 4: Chi phí phòng.
IV. Tổ chức quản lý hoạt động đầu tư.
1. Khái niệm:
Quản lý nói chung là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý vào các đối tượng quản lý để điều khiển đối tượng quản lý nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Đối với lĩnh vực đầu tư. Quản lý hoạt động đầu tư chính là sự tác động liên tục, có tổ chức, có định hướng quá trình đầu tư (bao gồm công tác chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành kết quả đầu tư cho đến khi thanh lý tài sản do đầu tư tạo ra) bằng một hệ thống đồng bộ các biện pháp khác nhằm đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội cao trong những điều kiện cụ thể xác định và trên cơ sở vận dụng sáng tạo những quy luật kinh tế khách quan nói chung và quy luật vận động đặc thù của đầu tư nói riêng.
2. Mục tiêu của quản lý hoạt động đầu tư.
2.1. Trên giác độ quản lý vĩ mô:
Trên giác độ này mục tiêu chung của quản lý đầu tư cần phải đạt là:
- Đáp ứng tốt nhất việc thực hiện các mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ của quốc gia, cụ thể hơn là chiến lược phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng XHCN, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động.
- Huy động tối đa và sử dụng với hiệu quả cao nhất các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước, tận dụng và khai thác các tài nguyên, các tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên, đất đai, lao động và các tiềm năng khác, bảo vệ môi trường sinh thái, chống mọi hành vi tham ô lãng phí trong sử dụng vốn đầu tư và khai thác các kết quả của đầu tư.
- Đảm bảo quá trình thực hiện đầu tư, xây dựng công trình theo quy hoạch kiến trúc và thiết kế kỹ thuật được duyệt, đảm bảo sự bền vững và mỹ quan áp dụng công nghệ xây dựng tiên tiến, đảm bảo chất l._.ượng và thời gian xây dựng với chi phí hợp lý.
2.2. Trên giác độ từng cơ sở doanh nghiệp có vốn đầu tư:
Trên giác độ quản lý vi mô, mục tiêu của quản lý đầu tư suy cho cùng là nhằm đạt được hiệu quả kinh tế tài chính cao nhất với chi phí vốn đầu tư thấp nhất trong mọi thời gian của từng dự án đầu tư.
Đối với giai đoạn chuẩn bị đầu tư, mục tiêu chủ yếu của quản lý là đảm bảo chất lượng và mức độ chính xác của các kết quả nghiên cứu, dự đoán tính toán.
Đới với giai đoạn thực hiện đầu tư, mục tiêu chủ yếu của quản lý là đảm bảo tiến độ, chất lượng với chi phí thấp nhất.
Đới với giai đoạn vận hành các kết quả đầu tư là nhanh chóng thu hồi đủ vốn đã bỏ ra và có lãi đối với các công cuộc đầu tư sản xuất kinh doanh, hoặc đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất với chi phí thấp nhất đối với các hoạt động đầu tư khác.
3. Nhiêm vụ của quản lý hoạt động đầu tư.
Nhiệm vụ của công tác quản lý đầu tư cần phân biệt trên hai giác độ:
3.1. Quản lý về phía Nhà nước.
Đầu tư là hoạt động mang tính liên ngành, có quan hệ quyết định đến quá trình hình thành và hoạt động của mỗi ngành, mỗi địa phươg và mỗi cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ, có liên quan trực tiếp đến việc khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên khoáng sản, đất đại, rừng, biển, sử dụng một nguồn vốn lớn của Nhà nước và xã hội. Vì vậy, sự can thiệp của Nhà nước vào lĩnh vực đầu tư thường mạnh hơn so với các lĩnh vực khác.
Nhiệm vụ quản lý kinh tế của Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư bao gồm các vấn đề sau:
Thứ nhất: Xây dựng các chiến lược phát triển, các kế hoạch định hướng, cung cấp thông tin, dự báo để hướng dẫn đầu tư, xây dựng kế hoạch định hướng cho các địa phương và vùng lãnh thổ làm cơ sở hướng dẫn đầu tư cho các nhà đầu tư.
Thứ hai: Xây dựng luật pháp, quy chế và các chính sách quản lý đầu tư như luật xây dựng, luật thuế, luật đầu tư, luật bảo vệ môi trường, luật đất đai, luật đấu thuầu.
Thứ ba: Tạo môi trường kinh tế thuận lợi và quy định khuôn khổ pháp lý cho hoạt động đầu tư thông qua các kế hoạch định hướng, dự báo thông tin, luật pháp và chính sách đầu tư.
Thứ tư: Điều hoà thu nhập giữa chủ đầu tư, chủ thầu xây dựng, người lao động và các lực lượng dịch vụ, tư vấn, thiết kế... phục vụ đầu tư, có chính sách đại ngộ thoả đáng với người lao động trong lĩnh vực thực hiện đầu tư.
Thứ năm: Quản lý việc sử dụng đất đai, tài nguyên một cách hợp lý bảo vệ môi trường, quản lý việc xây dựng các kết cấu hạ tầng kỹ thuật (giao thông, điện, nước) và kết cấu hạ tầng xã hội (giáo dục, y tế, văn hoá...) để đảm bảo các điều kiện cho phát triển kinh tế và cải thiện đời sống của mọi người dân.
Thứ sáu: Tổ chức các doanh nghiệp Nhà nước để tham gia điều tiết thị trường và thực hiện đầu tư vào các lĩnh vực chỉ có nhà nước mới được đảm nhiệm.
Thứ bẩy: Xây dựng chính sách cán bộ lĩnh vực đầu tư, quy định chức danh và tiêu chuẩn cán bộ: quy hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ và xử lý vấn đề cán bộ thuộc thầm quyền Nhà nước.
Thứ tám: Thực hiện sự kiểm soạt của Nhà nước đối với toàn bộ hoạt động đầu tư, chống các hiện tượng tiêu cực trong đầu tư.
Thứ chín: Đảm bảo đáp ứng đòi hỏi phát triển của đất nước theo đường lối mà các đại hội Đảng đã vạch ra, chuyển biến nền kinh tế Việt Nam sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN một cách hợp lý.
Thứ mười: Vận dụng kinh nghiệm của các nước vào hoàn cảnh Việt Nam để xây dựng luật lệ, thể chế và phương thức quản lý nền kinh tế nói chung và mở rộng quản hệ với các nước khác trong lĩnh vực đầu tư.
Thứ mười một: Đề ra các giải pháp quản lý sử dụng vốn cấp phát cho đầu tư từ ngân sách, từ khâu xác định chủ trương đầu tư, phân phối vốn, quy hoạch, thiết kế và thi công xây lắp công trình, quản lý việc sử dụng các nguồn vốn khác để có các biện pháp thích hợp nhằm đảm bảo sự cân đối tổng thể của toàn bộ nền kinh tế.
Thứ mười hai: Đề ra các biện pháp nhằm đảm bảo chất lượng các công trình xây dựng, đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng và an toàn xã hội.
Thứ mười ba: Quản lý đồng bộ hoạt động đầu tư từ khi bỏ vốn cho đến khi thanh lý các tài sản do đầu tư tạo ra.
Thứ mười bốn: Có chủ trương đúng đắn trong hợp tác đầu tư với nước ngoài, chuẩn bị nguồn lực về tài chính, vật chất, lao động cho hợp tác đầu tư với nườc ngoài.
3.2. Quản lý về phía các cơ sở.
Nhiệm vụ quản lý về phía các cơ sở.
Thư nhất: Tổ chức thực hiện từng công cuộc đầu tư cụ thể của đơn vị theo dự án đã được duyệt thông qua các hợp đồng ký kết với các đơn vị có liên quan theo pháp luật hiện hành.
Thứ hai: Quản lý sử dụng từng nguồn vốn đầu tư từ khi lập dự án, thực hiện đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư theo yêu cầu đề ra trong dự án được duyệt.
Thứ ba: Quản lý chất lượng , tiến độ và chi phí của hoạt động đầu tư ở từng giai đoạn khác nhau, từng hoạt động khác nhau của dự án và toàn bộ dự án.
4. Cơ chế quản lý hoạt động đầu tư.
Cơ chế quản lý đầu tư là sản phẩm chủ quản của chủ thể quản lý đầu tư trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan, chủ yếu là các quy luật kinh tế, phù hợp với các đặc điểm và điều kiện cụ thể của hoạt động đầu tư (đối tượng quản lý), là công cụ của chủ thể quản lý (chủ đầu tư) để điều khiển hoạt động đầu tư, cơ chế quản lý đầu tư được thể hiện ở các hình thức tổ chức quản lý và phương pháp quản lý.
Các bộ phận cấu thành chủ yếu của cơ chế quản lý đầu tư là hệ thống tổ chức bộ máy quản lý và quá trình điều hành quản lý, hệ thống kế hoạch đầu từ, hệ thống quản lý tài sản của đầu tư, hệ thống các chính sách và đòn bẩy kinh tế trong đầu tư, hệ thống pháp luật có liên quan đến đầu tư, các quy chế, thể lệ quản lý kinh tế khác trong đầu tư, chẳng hạn theo điều 9 Điều lệ quản lý và xây dựng ban hành kèm theo nghị định 42/CP nói về cơ chế sử dụng vốn đầu tư như sau:
* Vốn ngân sách Nhà nước sử dụng để đầu tư phát triển theo kế hoạch Nhà nước, cụ thể là:
- Các dự án đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh mà không có khả năng thu hồi vốn thì được quản lý sử dụng theo phân cấp về chi ngân sách Nhà nước cho đầu tư phát triển.
- Đầu tư và hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước, góp vốn cổ phần liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước theo quy định của pháp luật.
- Chi cho quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các quỹ hỗ trợ phát triển đối với các chương trình, dự án phát triển kinh tế (thuộc ngân sách trung ương).
* Vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước.
Dùng để đầu tư đối với các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, các cơ sở sản xuất tạo việc làm, các dự án đầu tư quan trọng của Nhà nước trong từng thời kỳ (điện, xi măng, sắt thép, cấp thoát nước...) và một số dự án khác của các ngành có khả năng thu hồi vốn đã được xác định trong cơ cấu kế hoạch của Nhà nước. Việc bố trí đầu tư cho các dự án này do chính phủ quết định cụ thể cho từng đối tượng trong từng thời kỳ kế hoạch.
* Vốn thuộc các khoản vay nước ngoài của chính phủ và các nguồn viện trợ quốc tế dành cho đầu tư phát triển (kể cả vốn hỗ trợ chính sách ODA) được quản lý thống nhất theo mục b khoản 2 điều 21 của luật ngân sách Nhà nước.
* Vốn thuộc quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các quỹ khác của Nhà nước dùng cho đầu tư phát triển.
* Vốn tín dụng thương mại.
Dùng để đầu tư xây dựng mới, cải tạo, mở rộng đổi mới kỹ thuật và công nghệ, các dự án sản xuất kinh doanh, dịch vụ có hiệu quả, có khả năng thu hồi vốn và có đủ điều kiện vay vốn theo quy định hiện hành, vốn tín dụng thương mại được áp dụng theo cơ chế tự vay, tự trả, và thực hiện đầy đủ các thủ tục đầu tư và điều kiện vay trả vốn.
* Vốn đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước (vốn khấu hao cơ bản, vốn tích lũy từ lợi nhuận sau thuế, vốn tự huy động), dùng để đầu tư cho phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp phải sử dụng theo đúng các chế độ quản lý vốn đầu tư hiện hành. doanh nghiệp thuộc tổ chức nào quản lý thì tổ chức đó còn phải chịu trách nhiệm kiểm tra, bảo đảm sử dụng vốn theo đúng mục đích, có hiệu quả.
* Vốn hợp tác liên doanh với nước ngoài của các doanh nghiệp Nhà nước.
Trong trường hợp các doanh nghiệp Nhà nước được phép góp vốn liên doanh với nước ngoài bằng quyền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất, mặt nước, mặt biển nhà xưởng, thiết bị và các công trình khác thuộc vốn nhà nước phải được cấp có thầm quyền cho phép và làm thủ tục nhận vốn để có trách nhiệm hoàn vốn cho nhà nước theo quy định hiện hành.
* Vốn do chính quyền cấp tỉnh và cấp huyện huy động sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân để đầu tư xây dựng các công trình kế cấu hạ tầng của xã, thị trấn trên nguyên tắc tự nguyện, các nguồn vốn trên phải được quản lý công khai, có kiểm tra, kiểm soát và đảm bảo sử dụng đúng mục đích, đúng chế độ theo quy định của pháp luật.
* Vốn đầu tư của các tổ chức kinh tế không thuộc các doanh nghiệp Nhà nước và vốn đầu tư của dân, chủ đầu tư phải làm thủ tục trình cơ quan có thẩm quyền xem xét cấp giấy phép kinh doanh, giấy phép xây dựng việc quản lý vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, thực hiện theo quy định của chính phủ.
* Vốn đầu tư của các cơ quan ngoại giao, tổ chức quốc tế và các cơ quan nước ngoài khác được phép xây dựng trên đất Việt Nam được quản lý theo hiệp định hoặc thoả thuận đã được ký kết giữa chính phủ Việt Nam với chính phủ các nước hoặc các tổ chức cơ quan nước ngoài.
Một dự án đầu tư có thể sử dụng nhiều nguồn vốn khác nhau, nhưng không được trái với quy định về sử dụng vốn của nhà nước, không được sử dụng nguồn vốn sự nghiệp để đầu tư xây dựng mới trừ các công trình hạ tầng thuộc các chương trình quốc gia do chính phủ quy định. Các ngành, các địa phương không được tự ý chuyển vốn đầu tư đã được cấp hoặc cho vay theo kế hoạch từ dự án này sang dự án khác khi chưa có ý kiến đồng ý của thủ tướng chính phủ.
5. Các công cụ quản lý hoạt động đầu tư.
Nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ và mục tiêu của quản lý hoạt động đầu tư, các chủ thể quản lý hoạt động đầu tư thường sử dụng các công cụ quản lý hoạt động đầu tư sau:
- Hệ thống luật có liên quan đến hoạt động đầu tư như: Luật đầu tư, luật công ty, luật xây dựng, luật đất đai, luật bảo vệ môi trường luật lao động, luật bảo hiểm, luật thuế, luật phá sản và một loại các văn bản dưới luật kèm theo về quản lý hoạt động đầu tư như các quy chế về quản lý tài chính, vật tư, thiết bị, lao động, tiền lương, sử dụng đất đai và tài nguyên thiên nhiên khác...
- Các chính sách và đòn bẩy kinh tế như chính sách giá cả, tiền lương xuất nhập khẩu, thuế, tài chính tín dụng, tỷ giá hồi đoái, thưởng phạt kinh tế, chính sánh khuyến khích đầu tư, những quy định về chế độ, hạch toán kế toán, phân phối xã hội.
- Các định mức và tiêu chuẩn quan trọng có liên quan đến lợi ích của toàn xã hội.
- Các kế hoạch định hướng và kế hoạch trực tiếp về đầu tư.
- Danh mục các dự án đầu tư.
- Các hợp đồng ký kết với các cá nhân và đơn vị hoàn thành các công việc của quá trình thực hiện dự án.
- Tài liệu phân tích đánh giá kết quả và hiệu quả của hoạt động đầu tư.
- Cá thông tin về tình hình cung cầu, kinh nghiệm quản lý, giá cả, luật pháp của Nhà nước và các vấn đề có liên quan đến đầu tư.
Phương tiện quản lý hoạt động đầu tư: Để quản lý hoạt động đầu tư, ngoài việc phải sử dụng các công cụ trên đây phả có các phương tiện quản lý. Trong điều kiện tiến bộ khoa học kỹ thuật hiên nay, các nhà quản lý đầu tư sử dụng rộng rãi hệ thống lưu trữ và xử lý thông tin hiện đại (cả phần cứng và phần mềm), hệ thống bưu chính viễn thông, thông tin liên lạc, các phương tiện đi lại trong quá trình điều hành và kiểm tra hoạt động của từng dự án đầu tư.
6. Tổ chức quản lý hoạt động đầu tư.
Sơ đồ bộ máy quản lý hoạt động đầu tư.
THủ TƯớNG CHíNH PHủ
Bộ Kế HOạCH Và ĐầU TƯ
Sở Kế HOạCH Và ĐầU TƯ
Bộ TàI CHíNH
Sở TàI CHíNH
Sở CÔNG NGHệ Và MÔI TRƯờNG
NGÂN HàNG ĐịA PHƯƠNG
Sở CHUYÊN NGàNH
nGÂN HàNG
Bộ CÔNG NGHệ Và MÔI TRƯờNG
Bộ CHUYÊN NGàNH
UBND
ĐịA PHƯƠNG
CHủ ĐầU TƯ
Việc phân cấp trách nhiệm quản lý Nhà nước về đầu tư và xây dựng được quy định cụ thể tại điều 6, Điều lệ quản lý đều và xây dựng ban hành kèm theo ghị định 42/CP ngày 16/07/1996 của chính phủ.
V. kết quả và hiệu quả đầu tư.
1. Kết quả của hoạt động đầu tư.
Kết quả của hoạt động đầu tư được biểu hiện ở khối lượng vốn đầu tư đã được thực hiện, ở các tài sản cố định được huy động hoặc năng lực sản xuất kinh doanh phục vụ tăng thêm.
ở đây khối lượng vốn đầu tư thực hiện bao gồm tổng số tiền đã chi để tiến hành các hoạt động của công cuộc đầu tư như là các chi phí cho công tác chuẩn bị đầu tư, xây dựng nhà cửa và các cấu trúc hạ tầng, mua sắm thiết bị máy móc, để tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và chi phí khác theo quy định của thiết kế dự toán và được ghi trong dự án đầu tư.
Còn tài sản cố định huy động được hiểu là từng công trình hay hạng mục công trình, đối tượng xây dựng có khả năng phát huy tác dụng độc lập (làm ra sản phẩm, hay hàng hoá hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ cho xã hội đã được ghi trong dự án đầu tư), đã kết thúc quá trình xây dựng, mua sắm, đã làm xong thủ tục nghiệm thu sử dụng có thể đưa vào hoạt động được ngay.
Cuối cùng, năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm là khả năng đáp ứng nhu cầu sản xuất phục vụ của các tài sản cố định đã được huy động vào sử dụng để sản xuất ra sản phẩm hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ theo quy định được ghi trong dự án đầu tư.
Trong nền kinh tế hàng hoá, hai yếu tố tài sản cố định huy động và năng lực sản xuất kinh doanh phục vụ sản xuất tăng thêm chính là hai chỉ tiêu giá trị và hiện vật của kết quả vốn đầu tư. Sự liên kết chắt chẽ có tính chất, khoa học giữa hai chỉ tiêu giá trị và hiện vật của kết quả đầu tư sẽ đảm bảo cung cấp một cách toàn diện nhưng luận cứ nhằm xem xét và đánh giá tình hình thực hiện vốn đầu tư trên cơ sở đó có thể đề ra biện pháp để đẩy mạnh tốc độ thực hiện đầu tư, tập trung hoàn thành dứt điểm các hạng mục công trình đưa vào hoạt động. Đồng thời việc sử dụng hai chỉ tiêu này sẽ phản ánh kịp thời quy mô tài sản cố định trong các ngành, vùng và toàn bộ nên kinh tế quốc dân.
Nhưng nếu chỉ nghiên cứu kết quả đầu tư thồi thì chưa đủ, nó mới phản ánh được mặt lượng, để nghiên cứu được mặt chất của quá trình sử dụng vốn đầu tư chúng ta phải nghiên cứu hiệu quả kinh tế của vốn đầu tư.
2. Hiệu quả kinh tế của đầu tư.
Hiện quả kinh tế của vốn đầu tư là kết quả hữu ích do sự phát huy tác dụng của kết quả đầu tư mang lại cho nền kinh tế quốc dân.
Hiệu quả kinh tế là mối quan tâm và là mục tiêu của các ngành vùng và toàn bộ nền kinh tế.
Trên góc độ nền kinh tế quốc dân (quản lý vĩ mô) hiệu quả vốn đầu tư là mức độ đáp ứng những nhiệm vụ kinh tế - xã hội, chính trị đã đề ra khi thực hiện đầu tư kết quả của hoạt động đầu tư rất đa dạng, do đó để phản ánh hiệu quả kinh tế vốn đầu tư phải dùng một hệ thống chỉ tiêu để đánh giá và phân tích.
Công thức biểu hiện hiệu qủa kinh tế vốn đầu tư như sau:
Hiệu quả kinh tế vốn đầu tư =
Xác định hiệu quả kinh tế vốn đầu tư là một công việc quan trọng đối với phương thức quản lý kinh tế trên giác độ vĩ mô, đây là một trong chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch hoá đầu tư trên giác độ nền kinh tế, vấn đề này còn có ý nghĩa thiết thực và cụ thể nhằm nâng cao chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh ở tầm vĩ mô của đơn vị cụ thể.
chương II
Thực trạng đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây bắc trong những năm qua
I. Vài nét về đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội vùng Tây Bắc.
1. Vị trí của vùng Tây Bắc trong nền kinh tế quốc dân
Vùng Tây Bắc gồm ba tỉnh Hoà Bình, Sơn La và Lai Châu; với diện tích tự nhiên là 3.610.140 ha (chiếm 10,9% so với cả nước). Dân số khoảng 2052 nghìn người (chiếm 2,8% so với cả nước) với gần 30 dân tộc anh em sinh sống, trong đó các dân tộc Thái, Mường, Kinh, Mông chiếm đa số (90,62%).
Tây Bắc là vùng đất rộng người thưa, có nhiều tiềm năng thế mạnh về đất đai, khoáng sản, động thực vật rừng phong phú và đa dạng là những tiền đề quan trọng để phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN , góp phần quan trọng vào việc phát triển nền kinh tế của cả nước.
Tấy Bắc là đầu nguồn của 4 con sông lớn, đó là sông Đà, sông Mã, sông Mê Kông và sông Bôi. Do bắt nguồn từ vùng núi cao dốc, nên các sông suối Tây Bắc đều có tiềm năng lớn về thuỷ điện (riêng sông Đà đã chiếm 30% tổng tiềm năng thuỷ điện của cả nước). Hiện nay ở Tây Bắc đã có nhà máy thuỷ điện Hoà Bình với công suất 1920 MW, là nhà máy thuỷ điện lớn nhất nước ta và các nước Đông Nam á. Trong thời gian tới, nhà máy thuỷ điện Sơn La với công suất khoảng 3600 MW sẽ được xây dựng cùng với nhiều công trình thuỷ điện khác ... cung cấp nguồn điện cho Tổ quốc, góp phần thay đổi cục diện kinh tế - xã hội của khu vực và thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hóa đất nước.
Ngoài nguồn thuỷ điện, Tây Bắc còn có nhiều khoáng sản có giá trị như vàng, đất hiếm, đồng, niken, pirit, than đá, nước khoáng, đá vôi làm nguyên liệu để sản xuất vật liệu xây dựng ... Có thể khai thác sử dụng, phục vụ phát triển kinh tế đất nước và xuất khẩu.
Sự chia cắt xâm thực mạnh của sông, suối và tác dụng phong hoá trong điều kiện khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều tập trung theo mùa đã hình thành các bề mặt đất đai của vùng Tây Bắc theo từng loại độ cao rất thuận lợi đối với nhiều loại cây trồng, vật nuôi tạo nguồn sản phẩm hàng hóa cung cấp cho thị trường ... Đây là những tiềm năng, thế mạnh để phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Bắc và đất nước.
Bảng 1: Tỷ trọng một số loại tài nguyên của vùng Tây Bắc so với cả nước
Loại tài nguyên
Tây Bắc
1. Tiềm năng thuỷ điện
56
2. Đất hiếm
100
3. Đồng - Niken
70
4. Nhựa cánh kiến đô
70
5. Gỗ pơmu
60
6. Các loại dược liệu chính
40
7. Đồng cỏ chăn nuôi bò sữa
25
Nguồn: Các dữ liệu cơ bản vùng Tây Bắc - Bộ kế hoạch và đầu tư.
2.Đặc điểm về địa lý, địa hình
Miền núi Tây Bắc Việt Nam có toạ độ địa lý 20°47’ - 22°40’ vĩ độ Bắc và 102°09’ - 105°52’ kinh độ đông; phía Bắc giáp với Trung Quốc với đường biên giới dài 310 km. Phía Tây và Tây Nam giáp với Lào với đường biên giới dài 560 km. Phía Đông giáp với các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Vĩnh Phú; phía Nam và Đông Nam giáp với các tỉnh Thanh Hoá, Ninh Bình, Hà Tây.
Tây Bắc có 29 huyện, thị xã và 526 xã, phường. Trong đó được thống kê theo các đơn vị hành chính như sau:
Bảng 2 : Một số dữ liệu vùng Tây Bắc (theo đơn vị hành chính)
Tỉnh
Diện tích (ha)
Tỷ lệ (%)
Tổng số dân (người)
Tỷ lệ (%)
Số huyện
Số xã
Lai Châu
1714200
47,5
520600
25,4
9
147
Sơn La
1421000
39,4
802000
39,1
10
180
Hoà Bình
474940
13,1
729400
32,5
10
199
Tổng
3610140
100,0
2052000
100,0
29
526
Nguồn: Các dữ liệu cơ bản vùng Tây Bắc - Bộ kế hoạch và đầu tư.
Tây Bắc là miền núi cao dốc nhất của Việt Nam, bao gồm cả núi cao, núi trung bình, đồi gò và cao nguyên, sơn nguyên ...
Phía Bắc là những dãy núi cao, phân định biên giới Việt - Trung, phía Đông và Đông Bắc là dãy Hoàng Liên Sơn hùng vĩ (180 km) dọc theo hữu ngạn sông Thao; Phía Tây và Tây Nam là các dãy núi cao kế tiếp nhau, phân định biên giới Việt - Lào. Nằm giữa vùng Tây Bắc là dòng sông Đà chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Hai bên sông Đà là các sơn nguyên và cao nguyên, đã vôi kế tiếp nhau từ Sìn Hồ (Lai Châu) đến Mai Châu (Hoà Bình). Lưu vực sông Đà và sông Mã đã tạo cho Tây Bắc như những lòng máng khổng lồ xung quanh là núi cao và cao nguyên, đã hình thành một vùng tự nhiên độc đáo, với nhiều tiểu vùng khí hậu, đất đai và thực vật rừng phong phú nhiều hình, nhiều vẻ, thích hợp với phát triển kinh tế hàng hóa hướng tới thị trường tiêu biểu cho vùng núi cao Miền Bắc Việt Nam
Tuy nhiên do có địa hình cao dốc, chia cắt phức tạp, nên việc mở mang xây dựng và giao lưu với bên ngoài rất khó khăn.
3. Vai trò của vùng Tây Bắc đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, đối với an ninh quốc phòng và sự ổn định chính trị của đất nước cũng như việc bảo vệ môi trường của đất nước.
3.1. Vai trò của Tây Bắc đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Với đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội như đã trình bày, vùng Tây Bắc giữ vai trò hết sức quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cụ thể:
Thứ nhất, Tây Bắc là nơi chủ yếu cung cấp gỗ và các sản phẩm của rừng cho nhu cầu sản xuất, tiêu dùng của nhân dân trong nước cũng như phục vụ xuất khẩu.
Thứ hai, Tấy Bắc là nơi sản xuất và cung cấp cho thị trường trong nước cũng như quốc tế nhiều loại nông sản có giá trị kinh tế cao.
Thứ ba, Đại bộ phận các loại khoáng sản của nước ta tập trung ở Tây Bắc. Bởi vậy, có thể nói đây là khu vực giữ vị trí quyết định đối với sự phát triển của ngành công nghiệp khai khoáng của đất nước.
Thứ tư: Tây Bắc là đầu nguồn của bốn con sông lớn ở nước ta với khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, độ dốc của các dòng sông lớn, đã tạo cho vùng này một tiềm lực to lớn về thuỷ năng có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển nghành công nghiệp năng lượng của đất nước.
Thứ năm, về khía cạnh tiêu dùng, Tây Bắc với diện tích tự nhiên chiếm 10,9% diện tích cả nước, với tiềm năng phát triển phong phú và đa dạng của nhiều ngành, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và dịch vụ với 2052 nghìn người thuộc nhiều dân tộc khác nhau chắc chắn đây là một thị trường không nhỏ đối với đất nước và quốc tế.
Thứ sau: Tây Bắc tuy chỉ chiếm 2,8% dân số của cả nước nhưng đồng bào ở đây lại thuộc nhiều dân tộc khác nhau, mỗi dân tộc có một phong tục tập quán riêng. Bởi vậy, việc phát triển mạnh mẽ khu vực này chẳng những tạo điều kiện thuận lợi để cải thiện nhanh chóng đời sống vật chất của đồng bào các dân tộc ở đây, giúp họ phát huy được nét đẹp của nền văn hoá dân tộc mình, hạn chế tập tục lạc hậu, góp phần làm cho tình hình xã hội của đất nước thêm lành mạnh và ổn định.
3.2. Vai trò của vùng Tây Bắc đối với nền an ninh quốc phòng và sự ổn định chính trị của đất nước.
Vùng Tây Bắc nước ta có đường biên giới với nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa dài 310 km, với Cộng hoà Nhân dân Lào dài 560 km. Với đường biên giới cộng với địa hình cao, chia cắt và hết sức phức tạp đã tạo cho Tây Bắc có vị trí đặc biệt quan trọng đối với nền an ninh quốc phòng của đất nước.
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta suốt mấy nghìn năm qua đã cho thấy Tây Bắc vừa là cửa ngõ, là tuyến đầu của phòng thủ quốc gia song nó là căn cứ địa, là hậu phương vững chắc của các cuộc cách mạng hoặc các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm.
Phòng thủ đất nước, chống giặc ngoại xâm là điều cực kỳ quan trọng, song thực tiễn của thế giới những năm gần đây còn cho thấy chiến tranh sắc tộc, chiến tranh tôn giáo cũng nguy hiểm không kém. Chính những cuộc chiến tranh đó đã đẩy một số quốc gia vào con đường tan rã, chia cắt, đẩy những dân tộc đó vào con đường đau khổ lầm than, thù oán lẫn nhau.
Hiểu rõ vị trí của Tây Bắc như vậy nên kẻ thủ của nhân dân ta cũng luôn tìm mọi cách để xâm nhập vào vùng Tây Bắc nói riêng và miền núi nói chung. Chúng xâm nhập vào đồng bào các dân tộc ở Tây Bắc nước ta và móc nối với các phần tử xấu, xây dựng cơ sở, xây dựng lực lượng để chống Đảng, chính phủ và nhân dân ta.
Bởi vậy, lúc này hơn lúc nào hết chúng ta phải thấy rằng xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở Tây Bắc, tăng cường và duy trì sự đoàn kết giữa các dân tộc chính là yếu tố quyết định đảm bảo nền an ninh quốc phòng và sự ổn định chính trị của đất nước.
3.3. Vai trò của vùng Tây Bắc đối với việc đảm bảo môi trường của đất nước.
Nước ta nhìn chung là hẹp, đồng bằng nhỏ nhưng núi lại cao, độ dốc lớn, địa hình phức tạp vùng núi Phía Bắc và Tây Nguyên có thể coi là mái nhà của đồng bằng Bắc bộ, duyên hải miền Trung và Đông Nam bộ. Đã thế lượng mưa ở Tây Bắc cũng khá cao, khoảng 1500 mm/năm. Chủ yếu tập trung vào mùa hạ. Do đó sự xói mòn diễn ra hết sức quyết liệt. Nếu rừng đặc biệt là rừng đầu nguồn ở vùng Tây Bắc không còn thì chẳng những các nguồn tài nguyên ở đây bị tàn phá mà môi trường sống của đất nước, đặc biệt là đồng bằng Bắc bộ, duyên hải miền Trung và các tỉnh Đông Nam bộ cũng sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Thời tiết khí hậu ở vùng này luôn thay đổi theo chiều hướng ngày càng bất lợi, bão, lũ lụt, hạn hán sẽ thường xuyên xảy ra, sản xuất và đời sống của nhân dân sẽ luôn bị đe doạ.
Tóm lại, có thể khẳng định Tây Bắc nước ta có vị trí hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, chính trị, an ninh quốc phòng và bảo vệ môi trường của đất nước.
Về điều này, Nghị quyết 22 của Bộ chính trị ngày 27/11/1989 đã ghi:
“ vùng Tây Bắc chiếm 10,9% diện tích tự nhiên của nước ta là nơi sinh sống lâu đời của phần lớn các dân tộc thiểu số, có tiềm lực kinh tế to lớn, có nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng bao gồm đất, rừng, sinh vật, thuỷ văn, khoáng sản, cây công nghiệp ... Với địa thế cao, dốc và thảm thực vật lớn, Tây Bắc đóng vai trò quyết định đối với môi trường sinh thái của cả nước, nằm dọc biên cương phía Bắc và phía Tây của Tổ quốc. Tây Bắc lại có nhiều cửa ngõ thông thương giữa nước ta với thế giới và các nước trong khu vực cho nên có vị trí đặc biệt quan trọng về quốc phòng và an ninh”
4. Hiện trạng phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Bắc.
Nhìn chung trong những năm gần đây, nhất là những năm 1994-1998 nền kinh tế vùng Tây Bắc đã có những chuyển biến và khởi sắc. Sản suất đã phát triển theo hướng tạo ra những hàng hóa có chất lượng và đa dạng và ngày càng thể hiện vị trí của mình trên thị trường, đã xuất hiện những nhân tố mới, những mô hình làm ăn khá trong nông nghiệp đã tạo đà để tiếp tục đổi mới và phát triển ở giai đoạn sau.
- Về sản xuất nông nghiệp đã có những tiến bộ rõ rệt sản xuất lương thực được chú trọng phát triển theo hướng thâm canh, tăng vụ áp dụng nhiều giống mới có năng suất cao, diện tích nương rãy giảm. Cùng với chủ trương mở cửa tự do lưu thông lương thực, hàng hóa, nên đã khuyến khích đồng bào các dân tộc Tây Bắc chuyển dần diện tích làm lương thực kém hiệu quả sang trồng những cây có giá trị cao như cây công nghiệp, cây ăn quả, cây làm thuốc.
Cùng với phát triển trồng trọt, chăn nuôi cũng được phát triển, nhất là đầu trâu, bò bước đầu đã khai thác được thế mạnh của miền núi về chăn nuôi.
- Về lâm nghiệp, thực hiện chủ trương giao đất khoán rừng, theo chương trình 327, chuyển sản xuất lâm nghiệp theo hướng xã hội hoá, gắn lâm nghiệp với công tác định cư nên diện tích rừng tự nhiên đã được bảo vệ có hiệu quả, diện tích đất trống, đồi trọc đã được thu hẹp dần do công tác khoanh nuôi rừng tái sinh và trồng rừng mới có nhiều tiến bộ. Trong lâm nghiệp xuất hiện ngày càng nhiều mô hình vườn rừng, vườn đồi, gắn phát triển cây lấy gỗ với phát triển cây công nghiệp, cây ăn quả và chăn nuôi; thực hiện phương châm lấy ngắn nuôi dài, canh tác đa tầng, lâm gắn với nông nên đã tạo được vốn để phát triển và sử dụng đất đai có hiệu quả hơn. Về công nghiệp, nhìn chung là còn rất nhỏ bé, nhưng đã bước đầu chuyển hướng sản xuất đi vào khai thác thế mạnh của vùng, đáp ứng nhu cầu về hàng hóa tốt hơn trước. Các ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến nông sản, lâm sản, công nghiệp nông thôn ... đang từng bước phát triển.
- Các hoạt động văn hoá -xã hội đã có những chuyển biến tích cực, sự nghiệp giáo dục, y tế được tăng cường; ngoài hệ thống giáo dục phổ thông, các trường nội trú, năng khiếu dành cho con em các dân tộc ít người được hình thành, góp phần tạo nguồn cán bộ cho các dân tộc ít người. Công tác y tế từ tỉnh đến cơ sở đã được củng cố, tăng cường về cơ sở vật chất, dụng cụ, thuốc men và cán bộ y tế ... nên việc khám chữa bệnh cho dân cơ bản đã được đáp ứng. Việc hỗ trợ các huyện, xã được chú ý hơn. Vấn đề xoá đói giảm nghèo, chống suy dinh dưỡng cho trẻ em bước đầu được củng cố.
- Do sản xuất phát triển, khối lượng hàng hóa ra khỏi vùng ngày một tăng, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào được cải thiện, tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc ngày càng được củng cố, diện du canh ,du cư ngày càng thu hẹp.
Bên cạnh những thành tựu mà cán bộ, nhân dân các dân tộc Tây Bắc đạt được, tình hình kinh tế - xã hội vùng Tây Bắc còn bộc lộ nhiều yếu kém, thật sự chưa tạo được những tiền đề quan trọng để tạo đà cho giai đoạn sau phát triển nhanh. Cụ thể như sau:
Tổng GDP năm 1998 toàn vùng đạt 7748,16 tỷ đồng chiếm 2,1% GDP của cả nước. Nền kinh tế đang ở điểm xuất phát thấp, nhịp độ tăng trưởng GDP còn thấp và kéo dài nhiều năm. Riêng giai đoạn từ 1995 đến nay nhịp độ tăng trưởng có khá hơn, đạt 9,1% trên năm, nhưng cũng mới bằng 74,4% nhịp độ tăng trưởng của cả nước. Dân số vẫn tăng ở mức cao trên 3% /năm. Nên GDP bình quân đầu người bao gồm cả thuỷ điện Hoà Bình cũng mới đạt khoảng 156,2 USD bằng 72,4% so với mức bình quân trung của cả nước. Nhưng nếu tách thuỷ điện Hoà Bình ra thì GDP bình quân theo đầu người ở Tây Bắc còn thấp hơn và vào loại thấp nhất so với các vùng trong cả nước. Cuộc sống vật chất tinh thần của đồng bào các dân tộc tuy đã được cải thiện nhưng chưa được bao nhiêu, thực sự còn gặp nhiều khó khăn thiếu thốn.
GDP bình quân đầu người đã thấp nhưng lại phân bổ không đồng đều giữa các tiểu vùng và giữa các dân tộc; số có thu nhập cao hơn thường tập trung ở khu vực thị xã, thị trấn, huyện lỵ, dọc theo trục đường 6 tầng lớp dân cư có thu nhập cao là người Kinh, người Mường và người Thái, thu nhập trong khu vực thuần tuý nông nghiệp rất thấp.
Cơ cấu kinh tế nhìn chung có chuyển biến, nhưng còn chậm, còn nặng về nông - lâm nghiệp, các ngành công nghiệp xây dựng và dịch vụ tăng chậm, so với cả nước thì còn thua kém rất nhiều được thể hiện như sau:
Bảng 3: Cơ cấu chuyển dịch GDP vùng Tây Bắc và cả nước
Hạng mục
Tây bắc
Cả nước
1990
1998
1990
1998
ồGDP
100,0
100,0
100,0
100,0
Công nghiệp
30,0
25
18,8
26,32
Xây dựng
6,1
7,6
3,8
6,38
Nông-lâm nghiệp
48,4
37,8
37,5
25,98
Dịch vụ
15,5
29,6
39,9
41,32
Nguồn: Tổng cục thống kê
Công nghiệp còn nhỏ bé trang thiết bị lạc hậu, máy móc cũ kỹ, sự tác động của công nghiệp vào nông nghiệp và các ngành kinh tế khác không rõ và sự đóng góp vào nền kinh tế còn ít ... Khi thực hiện đường lối đổi mới, chuyển nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường thì gặp nhiều lúng túng, sản phẩm kém sức cạnh tranh, số sản phẩm mới phù hợp với người tiêu dùng thì còn quá ít; chưa khai thác được tiềm năng thế mạnh sẵn có của vùng như khoáng sản, nông lâm sản ... Các ngành nghề thủ công truyền thống và ngành mới chưa phát triển.
- Sản xuất nông nghiệp có tiến bộ hơn trước nhưng so ._.
Hiện nay, Đảng và nhà nước ta đang tìm mọi cách để cân đối vốn đầu tư cho các tỉnh Vùng Tây Bắc. Để đảm bảo cho các tỉnh này đạt được kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội như kế hoạch đã đặt ra.
Theo Bộ kế hoạch và đầu tư việc cân đối khoản vốn thiếu hụt của các tỉnh Vùng Tây Bắc giai đoạn 2000 - 2005 sẽ phải thực hiện những chỉ tiêu sau:
* Ngân sách trung ương hỗ trợ cho các tỉnh Vùng Tây Bắc khoảng 3007 tỷ đồng bằng 27,2% tổng lượng vốn yêu cầu, trong đó riêng năm 2000 hỗ trợ 565,6 tỷ đồng.
*Huy động thêm từ nhân dân và các thành phần kinh tế khác trong nước 1239,3 tỷ đồng bằng 10,9 % tổng số vốn cần có.
* Vốn tín dụng đầu tư nước ngoài 2.740,2 tỷ đồng bằng 24,1% tổng lượng vốn yêu cầu.
Như vậy, so với giai đoạn 1994 - 1998, giai đoạn 2000 - 2005 các tỉnh miền núi Vùng Tây Bắc cần một lượng vốn nhiều gấp 2,2 lần, trong đó lượng vốn huy động ( kể cả trong và ngoài nước ) là 3979,5 tỷ đồng chiếm 35% tổng lượng vốn cần có.
Để huy động được một lượng vốn như vậy, rõ ràng nhà nước và địa phương phải có những chính sách thật hợp lý và thật khuyến khích các chủ đầu tư hăng hái bỏ vốn vào một vùng có cơ sở hạ tầng thấp kém như Vùng Tây Bắc.
2. Đổi mới phương thức đầu tư:
Đảng và nhà nước ta đã cho rằng “ Để việc đầu tư cho Vùng Tây Bắc đạt được hiệu quả thiết thực các công trình sớm được đưa vào sử dụng, góp phần làm cho kinh tế Vùng Tây Bắc phát triển nhanh, đời sống của đồng bào sớm được cải thiện. Muốn làm được điều này đòi hỏi phải có phương thức đầu tư cho vùng một cách hợp lý”.
Việc đầu tư theo các dự án sẽ tập trung được một lượng lớn vốn đầu tư nên hiệu quả sử dụng vốn cao, tiết kiệm được mọi chi phí chính vì vậy mà các nhà quản lý cho rằng “cần phải tính toán kỹ khi hoạch định các dự án đầu tư cho vùng không nên đề ra quá nhiều dự án cần phải chọn lĩnh vực đầu tư trọng điểm cho , tập trung đầu tư cho nó, làm cho lĩnh vực đó có sự biến đổi căn bản trong một thời gian ngắn. Khi một lĩnh vực nào đó được thay đổi về chất, nó sẽ là đòn bẩy các mặt khác của vùng phát triển. Các lĩnh vực đó là: giao thông, thuỷ lợi, lâm nông nghiệp, y tế, giáo dục. Cần phân bổ nguồn vốn cho các lĩnh vực này 1 cách phù hợp”.
Biểu 18: Dự báo vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng Vùng Tây Bắc giai đoạn 2000 - 2005
(Đơn vị : tỷ đồng)
Chỉ tiêu
2000 - 2005
Riêng 2000
Tổng số
% so với tổng số
Tổng số
% so với tổng số
1. Đầu tư vào mạng lưới giao thông
3214
35,225
842
41,6
- Quan trung ương
1928
648,7
- Trực tiếp cho địa phương
1286
194,3
2. Đầu tư cho hệ thống cấp thoát nước
406,5
4,45
81,2
4,01
- Quan trung ương
189,75
37,9
- Trực tiếp cho địa phương
216,74
43,2
3. Đầu tư cho mạng lưới điện
2256
24,73
451,2
22,29
- Quan trung ương
1053
210,6
- Trực tiếp cho địa phương
1203
240,6
4. Đầu tư cho bưu chính viễn thông
724,6
7,94
144,92
7,16
- Quan trung ương
437,2
87,44
- Trực tiếp cho địa phương
287,4
57,48
5. Đầu tư cho giáo dục đào tạo
1955
21,42
391
19,31
- Quan trung ương
578,6
115,7
- Trực tiếp cho địa phương
1376,3
275,2
6. Đầu tư cho y tế
567,9
113,58
- Quan trung ương
- Trực tiếp cho địa phương
567,9
6,22
113,58
5,61
Tổng số
9124
100
2024
100
Nguồn : Bộ kế hoạch và đầu tư
Riêng vốn tín dụng và đầu tư ngân sách và vốn ODA ưu tiên dành cho việc đầu tư biến đổi cơ cấu kinh tế Vùng Tây Bắc. Ước tính đến năm 2005 cơ cấu của ngành kinh tế trong GDP của vùng sẽ đạt như sau: công nghiệp xây dựng 22,9%, dịch vụ 13%, nông lâm nghiệp 6.6%.
3. Một số chính sách khuyến khích việc đầu tư phát triển kinh tế - xã hội Vùng Tây Bắc
Nhìn chung tồn tại lớn nhất trong mọi lĩnh vực để phát triển kinh tế - xã hội của vùng cho đến nay vẫn là:
- Các ngành trung ương và các tỉnh đã quan tâm và phát triển cho vùng Miền núi, nhưng chưa có sự chỉ đạo thống nhất, chưa có một tổ chức nào chịu trách nhiệm đối với phát triển toàn diện Vùng Tây Bắc.
- Nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của vùng là rất lớn từ trước tới nay. Song bản thân các tỉnh Vùng Tây Bắc lại rất nghèo chưa đủ khả năng tích luỹ để tự đầu tư. Chính vì vậy, cần phải huy động mọi nguồn vốn thuộc mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.
Năng lực của các cấp về phát triển nông thôn, Miền núi còn rất hạn chế.
Các chính sách để đẩy mạnh việc đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của vùng.
3.1. Chính sách về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng.
Hiện nay, Tây Bắc vẫn là miền núi khó khăn nhất ở nước ta do đó vấn đề đầu tư để giảm bớt sự chênh lệch với các vùng khác là vấn đề cần thiết, nhằm đảm bảo chủ trương công bằng xã hội mà nghị quyết TW lần thứ 8 đã đề ra.
Tuy nhiên, Tây Bắc là một vùng rộng lớn và ngân sách còn hạn chế, thì trọng tâm đầu tư phải được cân nhắc kỹ.
- Trước hết phải đầu tư vào xây dựng kết cấu hạ tầng có tác động tới phát triển kinh tế, phục vụ sản xuất sau đó mới xem xét tới phục vụ dân sinh nâng cao dân trí, ổn định an ninh. Vì vậy, chính sách đầu tư cho các nhóm xã được ưu tiên có thể như sau:
+ Các xã có tiềm năng kinh tế, thu nhập khá, nằm ở phần các điểm kinh tế phát triển, các xã có ảnh hưởng và là đầu mối kinh tế trong vùng. Với các loại xã này, hầu hết như kết cấu hạ tầng thiết yếu đã được xây dựng đầy đủ nên hướng đầu tư chủ yếu là các công trình, mở rộng quy mô nhất là đường liên thôn để xe vận tải vào được, mạng lưới điện ổn định, cấp thoát nước đầy đủ, hệ thống bến bãi , chợ...nhằm tạo điều kiện hấp dẫn cho nhân dân trong và ngoài xã đầu tư vào các cơ sở sản xuất, chế biến, sửa chữa dịch vụ.
Thông thường các xã này tự huy động vốn, nên nhà nước cần hỗ trợ chủ yếu là đầu tư vào các công trình mới, đồng thời có cơ chế thích hợp để khuyến khích xã tự phát triển.
+ Các xã nghèo vùng sâu, vùng xa thu nhập thấp, tiềm năng hạn chế. Do các xã không có khả năng huy động nên nhà nước tập trung đầu tư. Xây dựng đủ các hạng mục kết cấu hạ tầng thiết yếu để đảm bảo nâng cao đời sống nhân dân, phục vụ cho an ninh và ổn định xã hội. Tuy nhiên, khi xác định dự án đầu tư trong xã nghèo, ngoài nhu cầu cấp thiết nhất ra, phải ưu tiên cho các công trình nào có khả năng mang lại sự phát triển nhất xã.
- Đối với mỗi xã, đầu tư chủ yếu để xây dựng đầy đủ kết cấu hạ tầng cho các khu dân cư tập trung, các khu tái định cư, khu quy hoạch nhằm tăng giá trị đất và nhanh chóng nâng cao điều kiện sống ở đây để thu hút người dân sống tập trung, hạn chế và xoá dần các cụm nhà lẻ.
Về cấp công trình và chất lượng công trình phải bền vững hết sức hạn chế làm bằng nhà tạm tranh tre, phải đáp ứng các yêu cầu về kỹ thuật và vệ sinh khi sử dụng, chỉ đầu tư vào những công trình nào mà dân có thể sử dụng, vận hành và bảo quản, do đó ngay khi lập dự án phải trù liệu chi phí vận hành, sửa chữa và giao cho cộng đồng dân cư đảm nhiệm.
3.2. Chính sách về đầu tư đào tạo cán bộ và nâng cao trình độ đầu tư.
Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ và trình độ dân trí là khâu then chốt giải quyết mọi vấn đề. Là yếu tố quyết định khả năng thu hút và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư. Do trong vùng trình độ dân trí còn thấp, tỷ lệ mù chữ vẫn còn chiếm tỷ lệ cao. Chính vì vậy, đòi hỏi nhà nước cần phải có chính sách đầu tư ưu tiên phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo cho đồng bào các dân tộc miền núi. Muốn vậy trước hết nhà nước và địa phương cần phải mở rộng nhiều hình thức đào tạo qua nhiều kênh, nhiều cấp đào tạo, qua các tổ chức Đảng, Đoàn, quần chúng. Đồng thời cần xây dựng kế hoạch tổng thể về đào tạo phù hợp với cơ cấu ngành nghề và kế hoạch của vùng. Đối tượng đào tạo cần tuyển chọn những người có đủ năng lực và phẩm chất thực sự gắn liền với thôn bản, với từng dân tộc. Ngoài ra, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ người dân tộc thiểu số và các chuyên gia, các nhà khoa học, các tri thức trẻ phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội Miền núi Vùng Tây Bắc cần được ưu đãi đặc biệt.
3.3. Chính sách khuyến khích các tổ chức đoàn thể xã hội trong việc đầu tư cho miền núi Vùng Tây Bắc.
Muốn làm được điều này đòi hỏi nhà nước và địa phương phải có sự phối hợp nhịp nhàng trong việc kêu gọi, lập và quản lý các trương trình, dự án đầu tư phát triển. Trước hết, tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi để khuyến khích sự đầu tư của các tổ chức, các đoàn thể xã hội; thứ đến, có một chính sách ưu đãi đặc biệt đối với các tổ chức , đoàn thể có số lượng vốn đầu tư lớn vào Miền núi Vùng Tây Bắc. Tiếp theo, thực hiện các thủ tục về đầu tư cho các chủ đầu tư phải diễn ra một cách nhanh chóng, thuận lợi trên cơ sở hai bên đều có lợi. Và cuối cùng là tạo mọi điều kiện cần thiết để cho các chủ đầu tư có thể tin tưởng hơn và đầu tư một cách có hiệu quả vào nhiều lĩnh vực trong vùng.
3.4. Chính sách thuế.
Để tăng thêm nguồn thu cho ngân sách, đồng thời khuyến khích các thành phần kinh tế và dân cư đầu tư vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh vào vùng, thì chính sách thuế ở miền núi cần phải được bổ sung hoàn thiện theo hướng giảm tiếp mức thu các loại thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế doanh thu, thuế công thương nghiệp...Điều đó góp phần tích cực thu hút các chủ thể sản xuất kinh doanh bên ngoài đầu tư vào Vùng Tây Bắc, tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế của vùng, hạn chế cách biệt giữa Vùng Tây Bắc với các vùng khác trong cả nước.
III - Các giải pháp để nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển kinh tế - xã hội Vùng Tây Bắc
Thứ nhất. Phải có quan điểm và tầm nhìn chiến lược trong đầu tư cho Vùng Tây Bắc.
Vùng Tây Bắc hiện tại là nơi có cơ sở hạ tầng thấp kém, kinh tế chậm phát triển, dân trí còn thấp và đời sống của người dân đang hết sức khó khăn. Trước thực trạng đó không ít người cho rằng không nên đầu tư nhiều cho vùng, bởi lẽ hiệu quả đầu tư mang lại rất thấp. Nếu có đầu tư thì chỉ là đầu tư để trợ giúp đồng bào các dân tộc khỏi đói kém mà thôi.
Nhận thấy rằng đây là cách nhìn không đúng. Như ở phần trên đã trình bày, Vùng Tây Bắc là nơi có tiềm năng phát triển to lớn về mọi mặt, sản phẩm xuất khẩu của vùng tuy không được lớn lắm nhưng cũng góp phần không nhỏ vào GDP của vùng cũng như của cả nứơc. Trong tương lai sẽ còn nhiều loại mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế cao về mặt số lượng và chất lượng. Rồi đây, khi cơ sở hạ tầng phát triển, khoa học kỹ thuật cũng phát triển, đời sống xã hội được nâng cao chắc chắn đây sẽ là nơi cư trú của phần đông dân cư trong nước.
Nhận thấy rằng nếu có sự đầu tư thoả đáng và với đúng nghĩa của nó không có tư tưởng xấu của cán bộ quản lý hoạt động đầu tư, và có sự giám sát, kiểm tra của người có chức có quyền...thì khi ấy Vùng Tây Bắc sẽ bùng lên sự phát triển mạnh mẽ và làm thay đổi hẳn cục diện bộ mặt kinh tế - xã hội không những trong vùng mà của cả đất nước.
Thứ hai. Phải thấy rằng việc đầu tư cho vùng không phải chỉ vì đồng bào Vùng Tây Bắc.
Vùng Tây Bắc có quan hệ hết sức mật thiết với các vùng khác trong cả nước trên mọi phương diện. Miền núi phía Bắc là mái nhà che trở cho đồng bào Sông Hồng. Còn Tây Nguyên là mái nhà của Đồng bằng duyên hải miền trung và đông Nam Bộ. Nếu như môi trường của vùng núi bị phá vỡ, rừng bị tàn phá bừa bãi sẽ không chỉ ảnh hưởng đến điện cho sản xuất, sinh hoạt và đời sống của mọi người dân trong vùng mà nó còn ảnh hưởng trực tiếp đến khí hậu, thời tiết đất đai và nguồn nước cho các vùng khác trong cả nước. Hạn hán, lũ lụt, gió bão mấy năm vừa qua xảy ra liên miên dồn dập với cường độ lớn đã làm cho chúng ta thấm thía sâu sắc hơn về điều này.
Do đó, phải thấy rằng việc đầu tư phát triển kinh tế - xã hội Vùng Tây Bắc, bảo vệ môi trường của vùng không phải là dành riêng cho đồng bào sinh sống ở khu vực này mà là cho cả nước.
Thứ ba. Đầu tư tập trung có trọng điểm và hoàn thành dứt điểm từng hạng mục.
Để đảm bảo nhanh chóng tạo cho vùng Tây Bắc có cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như có cơ sở vật chất xã hội tốt sớm đưa kinh tế - xã hội của vùng phát triển kịp với các vùng khác trong cả nước. Rút kinh nghiệm của các giai đoạn đầu tư trước trong giai đoạn 2000 - 2005 cần thực hiện việc tập trung đầu tư có trọng điểm cho vùng Tây Bắc. Tất nhiên để có được sự đầu tư có trọng đIểm này thì nhà nước cần bỏ ra một số kinh phí ban đầu và huy động một số cán bộvà các nhà khoa học giúp các tỉnh trong vùng đIều tra, khảo sát , xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn của tỉnh cũng như các dự án tiền khả thi về phát triển các nghành, các lĩnh vực kinh tế - xã hội ở các tỉnh trong vùng.
Khi nhà nước đã duyệt các dự án nào của vùng Tây Bắc rồi thì tập trung kinh phí vào dự án đó, để công trình sớm được hoàn thành và đưa vào sử dụng, góp phần làm thay đổi bộ mặt của vùng.
Trong những năm tới muốn cho vùng có thể tiến kịp với các vùng khác trong cả nước thì trước hết cần đầu tư có trọng điểm vào các lĩnh vực sau: cơ sở hạ tầng, giao thông, điện, thuỷ lợi, giáo dục và các ngành sản xuất, lâm nghiệp, nông nghiệp và khai khoáng.
Thứ tư, phải huy động mọi nguồn vốn để đầu tư cho vùng Tây Bắc
Việc phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Bắc cần rất nhiều vốn song bản thân các tỉnh trong vùng thì lại rất nghèo, chưa đủ khả năng tích luỹ để tự đầu tư. Chính vì thế việc huy động mọi nguồn vốn thuộc mọi thành phần kinh tế ở trong và ngoài nước để đầu tư cho Tây Bắc là hết sức cần thiết.
Nhà nước cần nghiên cứu và ban hành các chính sách nhằm khuyến khích mọi tầng lớp dân cư đầu tư vào Tây Bắc. Đặc biệt là việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, trồng rừng, phát triển sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Tất nhiên, rất cần thu hút vốn đầu tư của nước ngoài nhưng điều trước hết cần phải làm là ưu tiên khuyến khích những người Việt Nam, các doanh nghiệp Việt Nam có vốn bỏ vào đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Bắc.
Chính sách khuyến khích của nhà nước có nhiều loại nhưng để phát huy tốt khả năng của vùng thì đòi hỏi nhà nước cần quan tâm đặc biệt đến chính sách đất đai, chính sách miễn giảm thuế và chính sách nhập khẩu.
Trong việc huy động vốn đầu tư cho vùng Tây Bắc thì nhà nước cần phải nghiên cứu, tính toán để trích một phần lợi nhuận của các công trình được xây dựng trong vùng hoặc lấy nguyên vật liệu có thể có của vùng đó sản xuất, đầu tư trở lại cho vùng. Chẳng hạn lợi nhuận của nghành điện do các nhà máy thuỷ điện mang lại, lợi nhuạn của nhà máy giấy...
Hàng vạn hộ nông dân phải từ bỏ nhà cửa, ruộng vườn để xây dựng các hồ chứa nước cho nhà máy thuỷ điện. Trong khi đó lợi nhuận do các nhà máy làm ra thì người dân trong vùng không được hưởng là điều không hợp lý.
Thứ năm, phải kết hợp hài hoà hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội.
Không ít người cho rằng trong cơ chế thị trường việc đầu tư phải luôn luôn lấy mục tiêu hiệu quả kinh tế làm đầu. Đối với vùng Tây Bắc điều này hoàn toàn đúng. Tuy nhiên, bên cạnh hiệu quả về kinh tế hiệu quả về xã hội đối với vùng Tây Bắc cũng không kém phần quan trọng. Do vị trí của vùng(biên giới, địa hình cao và phức tạp, dân tộc thiểu số sinh sống là chính...) vùng Tây Bắc có vai trò hết sức quan trọng về mặt an ninh, quốc phòng về chính trị và bảo vệ môi trường của đất nước. Bởi thế việc đầu tư cho miền núi không chỉ đơn thuần đặt vấn đề về hiệu quả kinh tế mà phải gắn chặt giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Thậm chí có một số lĩnh vực đầu tư phải đặt hiệu quả xã hội lên trên.
Thứ sáu, nhà nước nên đầu tư theo từng khu vực cụ thể của Vùng miền núi Tây Bắc.
Vùng Tây Bắc hiện tại vẫn được chia làm ba khu vực.
Khu vực I: gồm các trung tâm đô thị, thị trấn, và các trung tâm công nghiệp, đây là các khu vực phát triển cao của vùng.
Khu vực II: gồm các khu vực là vùng đệm giữa các đô thị, các trung tâm công nghiệp và vùng sâu, vùng xa, vùng cao. Đây là vùng có điều kiện phát triển nông nghiệp hàng hoá tập trung quy mô lớn.
Khu vực III: là khu vực vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Đây là khu vực về mọi mặt còn đang gặp nhiều khó khăn.
Việc đầu tư phát triển kinh tế - xã hội trong tương lai phải căn cứ vào tình hình và đặc điểm cụ thể của từng khu vực. Đối với khu vực I cần đầu tư theo chiều sâu để đẩy nhanh sự phát triển cuả nó đảm bảo cho khu vực này có sự tăng trưởng cao hơn bình quân chung cả nước, lấy khu vực I lôi kéo các khu vực khác trong vùng phát triển .
Tuy nhiên, do kinh tế khu vực I phát triển khá, nên vốn đầu tư cho nó chủ yếu là huy động nguồn vốn trong dân, vốn của các doanh nghiệp, vốn liên doanh với các đơn vị trong và ngoài nước và vốn tín dụng, Ngân sách trung ương và tỉnh chỉ hỗ trợ một phần xây dựng hệ thống đường giao thông, đường điện đến huyện, một số bệnh viện, trường học quan trọng.
Khu vực II trong tương lai sẽ là vùng sản xuất hàng hoá lớn, bởi vậy cần phải dành một số lượng lớn vốn đầu tư thoả đáng của ngân sách cho khu vực này để xây dựng kết cấu hạ tầng, một số công trình phúc lợi và thực hiện chính sách xã hội đối với đồng bào các dân tộc trong vùng.
Đối với khu vựcIII, nhà nước cần tập trung vốn ngân sách đầu tư theo các chương trình tổng hợp và cần có sự can thiệp của nhà nước tập trung đầu tư cho giao thông, bưu điện, thương mại, xây dựng trạm xá, trường học, cung cấp nước sạch... để từng bước thay đổi bộ mặt của khu vực này. mặt khác, cũng cần đầu tư giúp đồng bào xoá đói giảm nghèo và phòng trừ bệnh dịch.
Thứ bẩy: cần thay đổi cơ bản phưong thức quản lý hoạt động đầu tư theo hướng áp dụng cách quản lý đặc thù đối với vùng miền núi tây bắc về tất cả các chương trình đầu tư trừ một số lĩnh vực đầu tư(giao thông, bưu điện) tất cả các nguồn đầu tư của nhà nước đều do một cơ quan mạnh được tổ chức thống nhất đặt tại cấp huyện triển khai thực hiện, các cơ quan trung ương xây dựng kế hoạch đầu tư từng chương trình thông qua kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội chung của từng tỉnh. Chủ tịch tỉnh trên cơ sở nguồn lực có được(bao gồm cả nguồn lực phân bổ từ trung ương và nguồn lực tại chỗ) thực hiện việc đầu tư trên địa bàn thông qua cơ quan đặt tại cấp huyện, đồng thời cùng cơ quan trung ương kiểm tra giám sát quá trình thực hiện, cơ quan triển khai thực hiện các trương trình ở cấp huyện lấy nhóm cán bộ kế hoạch-tài chính làm nòng cốt có bổ sung cán bộ tăng cường từ cấp tỉnh và trung ương, làm cho cơ quan đủ mạnh, đủ quyền lực, tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch đầu tư.
Thứ tám: Đối với vấn đề giải ngân
nguồn vốn đầu tư cho vùng được chuyển qua ngân hàng đầu tư và ngân hàng nông nghiệp từ đó tiến hành giải ngân cho các dự án, không nên phân tán ở quá nhiều đầu mối như hiện nay, càng nhiều đầu mối thì thất thoát càng lớn
Thứ chín: Nhà nước cần phải có chính sách giúp các tỉnh làm nhanh việc quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội cũng như việc xây dựng các dự án phát triển cụ thể.
Thứ mười: Hình thành các thị trấn ,thị tứ
Để đảm bảo cho các vùng xâu, vùng xa, phải hình thành các mạng lưới thị trấn, thị tứ và các trung tâm cụm xã nhằm gắn các xã với mạng lưới đô thị quốc gia. các thị trấn ,thị tứ , trung tâm cụm xã là các trung tâm công nghiệp của tiểu vùng, thương nghiệp dịch vụ, khoa học kỹ thuật, y tế, giáo dục,văn hóa có tác dụng như hạt nhân thúc đẩy sự phát triển của vùng.
Việc phát triển thị trấn, thị tứ là quá trình đô thị hoá các khu cụm dân cư,là biện pháp quan trọng để dân không chuyển về các thành phố lớn đồng thời giảm dần khoảng cách giữa vùng trung tâm, các thị xã với các vùng khác của vùng tây bắc.
Để phát triển thị trấn, thị tứ trước hết đòi hỏi phải có quy hoạch mạng lưới thị trấn, thị tứ của vùng, có quy hoạch phát triển tổng thể, có chính sách đất đai chuẩn bị mặt bằng cho việc đô thị hoá các trung tâm này cũng như có chính sách huy động vốn cho đầu tư về cơ sở hạ tầng của vùng.
Việc hình thành các thị trấn, thị tứ sẽ giúp cho việc đầu tư phát triển kinh tế- xã hội ở vùng này diễn ra một cách dễ ràng, nguồn vốn tập trung vào khu vực này có hiệu quả cao hơn tạo điều kiện cần thiết cho các tổ chức trong và ngoài nước làm cơ sở để đưa ra các hướng đầu tư phát triển kinh tế phù hợp với đặc điểm, quy mô của vùng.
Thứ mười một: tăng cường các hoạt động về đầu tư khoa học, kỹ thuật phục vụ cho phát triển vùng tây bắc.
trong tình hình kinh tế - xã hội Tây Bắc hiện nay, hoạt động khoa học kỹ thuật phục vụ xây dựng nông thôn thực sự chưa được chú ý vì hầu như công nghệ dùng cho xây dựng nông thôn miền núi hiện nay nhình chung là công nghệ kỹ thuật thấp, rẻ tiền và dùng nhiều lao động phổ thông...không đòi hỏi đầu tư nghiên cứu lâu dài. Tuy nhiên do khối lượng kết cấu hạ tầng miền núi là rất lớn, phục vụ cho số đông dân cư với địa hình phức tạp, việc nâng cao chất lượng vật liệu cổ truyền, hạ giá thành sản phẩm và sử dụng hợp lý vật liệu xây dựng địa phương có ý nghĩa kinh tế rất lớn.
Đối với việc đầu tư vào kết cấu hạ tầng, hoạt động khoa học kỹ thuật cần nhấn mạnh vào các hướng:
Nghiên cứu để ứng dụng công nghệ thích hợp vào sản suất vật liệu xây dựng và thiết kế thi công công trình, công nghệ thích hợp phải được hiểu là loại công nhgệ khai thác được tối đa tiềm năng của địa phương như: sử dụng vật liệu xây dựng địa phương, nhân công địa phương , nâng cấp và hiện đại hoá các công nghệ truyền thống mang lại thu nhập cho dân nông thôn.
ở những nơi có điều kiện, khuyến khích sử dụng công nghệ hiện đại hoặc tạo được sản phẩm chất lượng cao, áp dụng thử nghiệm để xác định hiệu quả kinh tế xã hội của công nghệ mới trường hợp thực sự mang lại hiệu quả thì phải có biện pháp khuyến khích áp dụng, vì công nghệ mới bao giờ cũng mang tính năng động cao và nâng cao dân trí, trình độ nghề nghiệp cho khu vực.
Chuẩn hoá các công nghệ thông tin truyền thống và các công nghệ đã phổ biến trong dân để đảm bảo chất lượng công trình.
Thứ mười hai: Đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý.
Đào tạo là biện pháp nâng cao năng lực cán bộ địa phương và nâng cao chất lượng nguồn lực cho vùng. Việc phát triển kinh tế -xã hội là công việc không riêng một tổ chức, cá nhân nào có thể đảm nhiệm mà thực chất là công việc của chính quyền và nhân dân địa phương.
Tuy nhiên để tổ chức công việc từ trung ương đến các cấp địa phương lại đòi hỏi một khả năng tổng hợp và những kỹ năng về tổ chức quản lý và phát triển cộng đồng. Chính vì vậy, việc đào tạo là một nội dung quan trọng để nâng cao kết quả đầu tư phát triển, giúp cho đội ngũ cán bộ trong việc chỉ đạo thực hiện các chủ trương, chính sách, chương trình,dự án của Đảng và chính phủ một cách dễ dàng có khoa học. Muốn vậy đòi hỏi Nhà nước phải dành một khoản kinh phí để nghiên cứu soạn thảo nội dung trương trình đào tạo nâng cao kiến thức quản lý cho đội ngũ cán bộ từ cấp xã đến cấp huyện đồng thời mở những lớp ngắn hạn, đào tạo cán bộ quản lý ngay từ địa phương, tạo điều kiện cho cán bộ đương chức có điều kiện tham gia học tập đầy đủ.
Đưa nội dung đào tạo cán bộ công tác ở vùng dân tộc,vùng sâu, vùng xa về các lĩnh vực quản lý nhà nước, vận động quần chúng phát triển kinh tế-xã hội... vào các trường Đảng và các trường hành chính cấp tỉnh.
Coi trọng và tiến hành chính sách khuyến khích đào tạo con em các dân tộc thiểu số từ trung cấp đến đại học rồi trở về công tác tại địa phương.
Tất cả các dự án về đầu tư phát triến sản xuất của vùng Tây Bắc và đồng bào dân tộc đều phải có kinh phí dành cho đào tạo, tập huấn về chuyên môn và kỹ thuật cho các hộ tham gia dự án.
Cần nghiên cứu chế độ đãi ngộ cho cán bộ miền xuôi lên công tác ở miền núi và đồng bào các dân tộc thiểu số cho phù hợp để động viên cán bộ giỏi tham gia vào việc đẩy mạnh phát triển kinh tế -xã hội miền núi.
Cần chú trọng đào tạo về tổ chức huy động vốn và quản lý tài chính trong các dự án đầu tư phát triển kinh tế- xã hội của vùng cho các cấp tuỳ theo trách nhiệm của mình.
Thứ mười ba: Nhà nước kết hợp với địa phương để tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi khuyến khích vốn đầu tư của các tổ chức và tư nhân nước ngoài để sản xuất kinh doanh nông, lâm nghiệp, khai khoáng, công nghiệp chế biến, tiểu thủ công nghiệp, kết cấu hạ tầng, thương nghiệp dịch vụ và du lịch ở miền núi theo luật đầu tư nước ngoài của nhà nước,có ưu đãi đặc biệt đối với tổ chức và tư nhân nước ngoài có lượng vốn đầu tư lớn vào vùng.
Cán bộ và cơ quan quản lý dành ưu tiên quỹ viện trợ của các tổ chức quốc tế, các chương trình hợp tác quốc tế của mình cho miền núi và giúp đỡ các địa phương sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn này.
chỉ có thể phát triển một nền kinh tế -xã hội cho vùng. Chính vì vậy, đòi hỏi Nhà nước cần phải có chính sách cụ thể hợp lý để khuyến khích sự đầu tư phát triển kinh tế -xã hội cho vùng.
Thứ mười bốn: quy hoạch và bố trí dân cư,định canh ,định cư, xoá đói giảm nghèo.
quy hoạch và bố trú dân cư phải dựa vào quy hoạch phát triển hệ thống giao thông và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội thời kỳ 2000-2005 của địa phương, đối với vùng biên giới phải kết hợp phát triển kinh tế với an ninh quốc phòng để hình thành , bố trí các cụm dân cư ,các thị trấn, thị tứ, các trung tâm cụm xã, các vùng kinh tế hàng hoá cho phù hợp.
Đối với những nơi đã hình thành cụm dân cư, đã có đường giao thông, trường học, trạm xá thì tiếp tục hỗ trợ để ổn định lâu dài.
ở những nơi đồng bào còn đang sống rải rác, phân tán thì vận động đồng bào tự nguyện di chuyển vào các làng, bản gần đường giao thông và vùng đã được quy hoạch có điều kiện phát triển sản xuất nhất là dọc đường giao thông biên giới.
Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn cùng các tỉnh miền núi phải xác định số hộ còn du canh ,du cư trên địa bàn từng tỉnh, tổng kết công tác định canh đinh cư và kinh tế mới thời gian qua để có giải pháp cụ thể có hiệu quả theo hướng:
Quy hoạch lại đất đai gắn liền với quy hoạch và phát triển giao thông, nguồn nước nhất là những vùng còn nhiều đất đai, vùng biên giới để định canh, định cư trên địa bàn, lập dự án kinh tế mới lấy điều chỉnh nội bộ và tại chỗ là chính.
Bộ lao động thương binh và xã hội cùng Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn và các địa phương phải trên cơ sở điều tra phân loại các hộ nghèo, nguyên nhân nghèo đói tạo điều kiện để các hộ tự vươn lên khắc phục khó khăn, theo hướng:
Đối với những hộ nghèo đói vì thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm sản xuất, uỷ ban nhân dân các cấp cần tạo điều kiện giúp các hộ được vay vốn của ngân hàng phục vụ người nghèo bằng các hình thức vay vốn tự nguyện, tín chấp ... gắn việc vay vốn với hướng dẫn các biện pháp khuyến nông, khuyến lâm có hiệu quả.
Đối với những hộ nghèo vì thiếu sản xuất phải đi phá rừng làm rẫy trồng lương thực. Uỷ ban nhân dân các cấp cần có ngay biện pháp để các hộ có đất để sản xuất theo hưóng nông, lâm kết hợp, đồng thời hỗ trợ lương thực trong thời gian một vài năm đầu để các hộ có điều kiện tự sản xuất và ổn định đời sống.
Ngân hàng nhà nước việt nam phải dành đủ nguồn ngắn hạn và trung hạn tiến tới tăng nguồn vốn dài hạn bảo đảm nhu cầu vay vốn của dân cho phát triển sản xuất và phục vụ đời sống.
Đối với các hộ nghèo thuộc diện chính sách do không có sức lao động,Uỷ ban nhân dân các cấp cần có thống kê thật cụ thể đưa vào diện đối tượng trợ cấp xã hội hàng năm để có chính sách hỗ trợ lương thực cho các hộ này.
KếT LUậN
Trong xu thế phát triển hiện nay trong khu vực cũng như trên thế giới. nước Việt Nam của chúng ta cũng đang lỗ lực vươn lên hoà mình chung vào tiến trình phát triển đó thông qua con đường công nghiệp hoá- hiện đại hoá, xây dựng một nền kinh tế mở hướng ra bên ngoài, điều này thể hiện rất rõ qua các văn kiện đại hội đảng lần thứVII,VIII vừa qua. Trong đó Đảng ta đã xác định muốn đi lên thành một nước có nền kinh tế phát triển thì trước hết cần phải đảm bảo điều kiện về đời sống kinh tế -xã hội của người dân, phải đảm bảo phát triển cân đối các cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ,phát triển cần phải dựa trên các cơ sở đồng đều và một nền tảng vững chắc. Dựa trên quan điểm này của Đảng và Nhà nước ta đã tích cực chú trọng tới việc phát triển và cải thiện đời sống kinh tế- xã hội của người dân, đặc biệt là đồng bào các dân tộc miền núi và tạo điều kiện để phát triển kinh tế các vùng miền núi thông qua hỗ trợ và khuyến khích đầu tư ở các vùng này...Tây bắc là một vùng miền núi trong những năm qua đã được sự hỗ trợ của Đảng và nhà nước và cùng với sự nỗ lực của chính mình đã thực hiện tốt cải cách kinh tế tăng cường đầu tư phát triển kinh tế-xã hội của vùng và đã đạt được những thành tựu đáng kể ,rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa vùng Tây Bắc với các vùng kinh tế khác trong cả nước. Nhằm đảm bảo tính công bằng xã hội theo tinh thần của Đảng và Nhà nước trong công cuộc đổi mới công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
Với tinh thần đó, bài viết này chủ yếu tập trung vào việc xem xét tình hình đầu tư phát triển kinh tế-xã hội vùng Tây Bắc trong những năm qua với những kết quả đạt được do đầu tư mang lại và những hạn chế cơ bản của đầu tư cho vùng từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm tăng cường hiệu quả trong công tác đầu tư phát triển kinh tế- xã hội vùng Tây Bắc.
TàI LIệU THAM KHảO
I. sách tham khảo
1. văn kiện đại hôi đảng toàn quốc lần thứ VIII .
NXB. chính trị quốc gia. Hà nội năm 1996.
2. kinh tế đầu tư
3. chương trình đầu tư công cộng 5 năm 1999-2005 .
bộ kế hoạch và đầu tư .hà nội năm 1998
4. chương trình phát triển kinh tế xã hội vùng tây bắc .
năm(1996-2000) của uỷ ban dân tộc và miền núi
5. định hướng phát triển kinh tế xã hội đến năm 2005-2010 của vùng núi phía bắc.
tổ chiến lược kinh tế xã hội miền núi phía bắc
6 quyết định của thủ tướng chính phủ về định hướng dài hạn kế hoạch 5 năm 1996-2000 phát triển kinh tế xã hội các tỉnh miền núi phía bắc .
7 nghị quyết 22 của bộ chính trị (khoá 6 ngày 27/11/89)
8. một số vấn đề phát triển nông nghiệp ở miền núi -xây dựng nông thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số đến năm 2000 của uỷ ban dân tộc và miền núi.
9 định hướng giải quyết vấn đề công bằng xã hội trong quy hoạch phát triển kinh tế xã hội đến năm 2020 bộ kế hoạch và đầu tư, hà nội năm 1998
10. tổng hợp các phương án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội việt nam thời kỳ 1998-2010 bộ kế hoạch và đầu tư.
II. TạP CHí THAM KHảO.
11. tạp chí con số và sự kiện năm 1997 và tháng 1+2+3 năm 1998.
12. tạp chí kinh tế phát triển, năm 1997 và tháng1+2+3+4 năm 1998.
13. tạp chí nghiên cứu kinh tế năm 1997 và tháng1+2+3+4 năm 1998.
14. những vấn đề kinh tế thế giới.
15. tạp chí kinh tế dự báo năm 1997 và tháng1+2+3 năm 1998
16. tạp chí đông nam á ngày nay, năm 1998.
17. tạp chí ngân hàng năm 1998.
18. tạp chí công nghiệp nặng, năm 1998.
19. tạp chí cộng sản năm 1998.
20. tạp chí xây dựng năm1998.
21. tạp chí ngoại thương năm1998.
mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0048.doc