Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển cho sự nghiệp CNH -HĐH nông nghiệp, nông thôn Việt Nam

Chương I: Những vấn đề lý luận về đầu tư phát triển, CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn I. lý luận chung 1. Khái niệm, đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển 1.1. Khái niệm Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sả

doc39 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1321 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển cho sự nghiệp CNH -HĐH nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế-xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. 1.2. Đặc điểm Hoạt động đầu tư phát triển có các đặc điểm khác biệt với các loại hình đầu tư khác là: - Hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một số vốn lớn và để nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Đây là cái giá phải trả khá lớn của đầu tư phát triển. - Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiều biến động xảy ra. - Thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi đủ vốn đã bỏ ra đối với các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh thường đòi hỏi nhiều năm tháng và do đó không tránh khỏi sự tác động 2 mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế... - Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài nhiều năm, có khi hàng trăm, hàng ngàn năm thậm chí tồn tại vĩnh viễn như các công trình kiến trúc nổi tiếng thế giới (Kim Tự Tháp cổ Ai Cập, Nhà thờ La Mã ở Rôm, Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc, Ăngco Vát của Campuchia...). Điều này nói lên giá trị lớn lao của các thành qủa đầu tư phát triển. - Các thành quả của hoạt động đầu tư là các công trình xây dựng sẽ hoạt đông ở ngay nơi mà nó được tạo dựng nên. Do đó, các điều kiện về địa hình tại đó có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác dụng sau này của các kết quả đầu tư.Thí dụ: Quy mô đầu tư để xây dựng nhà máy sàng tuyển than ở khu vực có mỏ than tuỳ thuộc rất nhiều vào trữ lượng than của mỏ. Nếu trữ lượng than của mỏ ít thì quy mô nhà máy sàng tuyển cũng không nên lớn để đảm bảo cho nhà máy hàng năm hoạt động hết công suất với số năm tồn tại của nhà máy theo dự kiến trong dự án. Đối với các nhà máy thủy điện, công suất phát điện tuỳ thuộc nhiều vào nguồn nước nơi xây dựng công trình sự cung cấp điện đều đặn thường xuyên phụ nhiều vào tính ổn định của nguồn nước. Không thể di chuyển nhà máy thủy điện như di chuyển những chiếc máy tháo rời do các nhà máy sản xuất ra từ địa điểm này đến địa điểm khác. Việc xây dựng nhà máy ở nơi địa chất không ổn định sẽ không đảm bảo an toàn trong quá trình hoạt động sau này, thậm chí cả trong quá trình xây dựng công trình. - Mọi thành quả và hậu quả của quá trình thực hiện đầu tư chịu ảnh hưởng nhiều của các yếu tố không ổn định theo thời gian và điều kiện địa lý của không gian. 2. Đầu tư phát triển cho CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn 2.1. Khái niệm về CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn Theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và Hội nghị Trung ương lần thứ VII (Khoá VII), CNH nông thôn là quá trình phát triển kinh tế-xã hội mà nội dung chủ yếu của nó là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với việc đổi mới căn bản về công nghệ và kỹ thuật ở nông thôn theo hướng công nghiệp và dịch vụ là ngành kinh tế ngày càng chiếm vị trí quan trọng và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn, tạo nền tảng cho việc phát triển nhanh, bền vững theo hướng nâng cao hiệu quả kinh tế ở nông thôn, góp phần phát triển bền vững nền kinh tế quốc dân với tốc độ cao. Về mặt định tính, CNH nông thôn được biều hiện trên các mặt: - Phát triển cơ sở hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn (thủy lợi, giao thông, cung cấp điện, bưu chính viễn thông, giáo dục, đào tạo, y tế...) phù hợp với việc đưa công nghệ và thiết bị vào nông nghiệp và nông thôn. - áp dụng tiến bộ kỹ thuật, đưa phương pháp sản xuất công nghiệp máy móc vào trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn (dùng máy trong các khâu làm đất, tưới tiêu, vận chuyển, bảo quản chế biến, áp dụng giống mới, phương pháp canh tác mới) để thay thế lao động thủ công. - áp dụng phương pháp quản lý hiện đại tương ứng với công nghệ và thiết bị vào nông nghiệp và nông thôn. - Phát triển công nghiệp (bao gồm cả xây dựng) và dịch vụ ở nông thôn. - Phát triển các ngành gắn với đầu vào của nông nghiệp (sản xuất và sửa chữa nông cụ), đầu ra của nông nghiệp (sản xuất nguyên liệu) và các ngành tận dụng lao động, vốn tay nghề ở nông thôn để sản xuất ra các mặt hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Về mặt định lượng, để đánh giá trình độ CNH nông thôn có thể sử dụng các chỉ tiêu sau: - Tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu kinh tế nông thôn. - Tỷ lệ thu nhập của cân cư từ hoạt động phi nông nghiệp trong tổng thu nhập của dân cư. - Tỷ lệ cơ khí hóa, các khâu làm đất, tưới tiêu, thu hoạch, chế biến. - Năng suất trong nông nghiệp và sự tác động của các biện pháp kỹ thuật tới năng suất. - Tỷ suất hàng hóa, tỷ trọng sản phẩm nông nghiệp được chế biến công nghiệp - Tổ chức sản xuất và tính chất sản xuất nông nghiệp: tập trung chuyên canh sản xuất nông nghiệp, sản xuất hàng hóa hay tự cung tự cấp. Như vậy CNH nông thôn không có nghĩa là chỉ phát triển công nghiệp ở nông thôn, mà bao gồm cả việc phát triển toàn bộ các hoạt động, các lĩnh vực sản xuất-dịch vụ và đời sống văn hóa tinh thần ở nông thôn phù hợp với nền sản xuất công nghiệp ở nông thôn và cả nước nói chung. CNH nông nghiệp là một bộ phận của CNH nông thôn. Nội dung chủ yếu là đưa máy móc thiết bị, ứng dụng các phương pháp sản xuất kiểu công nghiệp, các phương pháp và hình thức tổ chức kiểu công nghiệp vào các lĩnh vực của sản xuất nông nghiệp. CNH nông nghiệp còn bao hàm cả việctạo ra sự gắn bó chặt chẽ giữa sản xuất công nghiệp với sản xuất nông nghiệp nhằm khai thác triệt để lợi thế của nông nghiệp, nâng cao hàm lượng chế biến sản phẩm của nông nghiệp để tăng giá trị của chúng, mở rộng thị trường cho chúng. HĐH là quá trình liên tục nâng cao trình độ khoa học- kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất và đời sống ở nông thôn, cải tiến và hoàn thiện tổ chức sản xuất và tổ chức đời sống ở nông thôn, tạo ra một nền sản xuất trình độ càng cao, cuộc sống ngày càng văn minh, tiến bộ. HĐH nông thôn không chỉ bao gồm CNH, nâng cao trình độ kỹ thuật-công nghệ và tổ chức trong các lĩnh vực khác của sản xuất vật chất ở nông thôn, mà còn bao gồm cả việc không ngừng nâng cao đời sống văn hoá-tinh thần, phát triển hệ thống cơ sở han tầng xã hội, hệ thống giáo dục, đào tạo, y tế, và các dịch vụ phục vụ đời sống khác ở nông thôn. Về bản chất, HĐH là quá trình phát triển toàn diện có kế thừa ở nông thôn. HĐH hoàn toàn không có nghĩa là xoá bỏ toàn bộ những gì đã tạo dựngtrong quá khứ, càng không có nghĩa là phải đưa toàn bộ công nghệ, thiết bị tiên tiến và hiện đại vào nông nghiệp, nông thôn ngay một lúc, mà là tận dụng, cải tiến, hoàn thiện, từng bước nâng cao trình độ khoa học công nghệ và tổ chức, quản lý nền sản xuất và đời sống xã hội ở nông thôn lên ngang tầm nới trình độ thế giới. HĐH nông nghiệp là quá trình không ngừng nâng cao trình độ khoa học-kỹ thuật-công nghệ, trình độ tổ chức và quản lý sản xuất nông nghiệp. Đây cũng là quá trình cần được thực hiện một cách liên tục vì luôn có những tiến bộ kỹ thuật mới xuất hiện và được ứng dụng trong sản xuất. HĐH là phạm trù có tính tương đối: một loại công nghệ nào đó là hiện đại so với Việt nam nhưng chưa chắc hiện đại so với thế giới. Với ý nghĩa như vậy, quá trình CNH và HĐH có liên quan mật thiết với nhau, có những nội dung đan xen vào nhau, CNH sẽ gắn liền với HĐH và HĐH chỉ thực hiện được khi tiến hành CNH. 2.2. Nội dung của đầu tư phát triển CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn CNH-HĐH là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Song từ thực trạng kinh tế hiện nay phải coi CNH-HĐH nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất ở những năm trước mắt. Văn kiện Đại hội Đảng giữa nhiệm kỳ (khoá VII) và Đại hội VIII đã chỉ rõ: Từ nay đến cuối thập kỷ phải rất quan tâm CNH-HĐH nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Đây là một trong những biện pháp cơ bản để rút ngắn khoảng cách kinh tế giữa nông thôn và thành thị và giữa nước ta với các nước tiên tiến trên thế giới. Nội dung của công cuộc đầu tư phát triển CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn bao gồm: Một là: Từng bước thực hiện cơ khí hoá, tự động hoá, hoá học hoá, tin học hoá trong các ngành sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản. Cơ giới hoá và đa dạng hoá phương tiện và các thành phần kinh tế tham gia khâu vận tải để chuyên chở hàng hoá và hành khách nhằm mở rộng giao lưu kinh tế-xã hội ở các vùng nông thôn. Đầu tư phát triển công nghiệp chế biến và các hoạt động dịch vụ trên địa bàn nông thôn để phá vỡ trạng thái khép kín, trì trệ, lạc hậu vốn có của nền nông nghiệp nhỏ nước ta. Hai là: Tiến hành đồng thời với từng bước thực hiện cơ khí hoá, hiện đại hoá phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp từ cơ cấu lạc hậu, què quặt, phân tán, manh mún sang cơ cấu kinh tế hữu cơ, hợp lý theo hướng sản xuất hàng hoá. Phải dựa vào thế mạnh từng vùng để từng bước xây dựng cơ cấu kinh tế vừa đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH trong những năm trước mắt vừa khai thác tốt các tiềm năng để tăng trưởng kinh tế nhanh. Hướng đi trong những năm trước mắt đối với cả nước và từng vùng là: - Đầu tư phát triển sản xuất lương thực, chủ yếu là lúa nước và đi vào chuyên canh, thâm canh. - Phát triển các ngành chăn nuôi đại gia súc, tiểu gia súc và gia cầm, coi trọng việc cải tạo giống và chế biến để có năng suất, chất lượng sản phẩm tốt, tăng giá trị cho tiêu dùng và xuất khẩu. - Phát triển trồng cây, gây rừng để vừa đảm bảo môi trường sinh thái, vừa tăng các loại lâm sản hàng hoá cho xuất khẩu. - Mở rông quy mô nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thuỷ, hải sản; phát triển thương mại, hoàn thiện các dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp dưới nhiều hình thức để phục vụ tốt sản xuất và đời sống ở nông thôn. Ba là: Đầu tư phát triển hiện đại hoá hệ thống thuỷ lợi, giải quyết tốt về nhu cầu tưới tiêu khoa học cho nông nghiệp. Thuỷ lợi phát triển tốt, bảo đảm được yêu cầu nước cho trồng trọt và chăn nuôi sẽ đưa năng suất nông nghiệp lên cao, tạo điều kiện tiên quyết để làm giàu, cải thiện đời sống dân cư nông thôn. Bốn là: Đầu tư phát triển tiến bộ khoa học công nghệ sinh hoá vào nông nghiệp, áp dụng rộng rãi công nghệ và các biện pháp sinh học trong các khâu chính của quá trình sản xuất nông-lâm-ngư nghiệp, đặc biệt là công nghệ sinh học trong giai đoạn sau thu hoạch nhằm nâng cao giá trị nông sản phẩm tiêu dùng và xuất khẩu. Năm là: Đầu tư xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hệ thống giao thông, thông tin liên lạc. Đây là tiền đề quan trọng để phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn hiện nay. Cơ sở hạ tầng được phát triển và hiện đại sẽ tạo điều kiện mở rộng sự giao lưu kinh tế, xã hội giữa nông thôn và thành thị, giũa các vùng với nhau, kích thích kinh tế hàng hoá phát triển đồng đều, mở rộng thị trường trong nước với thị trường thế giới, phục vụ tốt các nhu cầu đòi hỏi phát triển kinh tế nói chung và phát triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Sáu là: Ưu tiên đầu tư vốn cho sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn. Cần phải tạo vốn và đầu tư mạnh cả từ nhiều phía: nhà nước, viện trợ và nông dân để có thể thu hút tối đa những nguồn vốn hiện có và còn tiềm ẩn trong nền kinh tế quốc dân đưa vào phát triền nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Phát huy thế mạnh của các nguồn vốn để đem lại hiệu quả cao cho phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn hiện nay. Bảy là: Đầu tư nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật nông nghiệp, phát triển hệ thống truyền thanh, truyền hình, xây dựng các trọng tâm khuyến nông, chuyển giao khoa học-kỹ nghệ nông lâm-ngư nghiệp. Tám là: Đầu tư phát triển nguồn nhân lực, nâng cao trình độ tri thức và trình độ khoa học-kỹ thuât, trình độ quản lý. Đây là một điều kiện không thể thiếu để đảm bảo sự thành công của sự nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp và phát triển nông thôn. Xuất phát từ đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển và với điểm xuất phát thấp như nước ta, để thực hiện công cuộc đầu tư phát triển CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn, vốn luôn là vấn đề được đặt lên hàng đầu. Các nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn Việt nam bao gồm: Nguồn đầu tư từ ngân sách Nhà nước: Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho nông nghiệp và nông thôn chiếm hơn 12% vốn đầu tư toàn xã hội cho lĩnh vực này. Vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước chủ yếu tập trung vào cho xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế cho nông nghiệp và nông thôn, nhất là các công trình thuỷ lợi, giao thông. Đây chính là điều kiện quan trọng để phát huy những mặt mạnh của các yếu tố khác nhằm phát triển sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Hơn nữa, đây cũng là lĩnh vực cần nhiều vốn đầu tư, khả năng thu hồi vốn chậm hoặc không có khả năng thu hồi vốn, vì vậy những thành phần kinh tế khác không có khả năng hoặc không muốn đầu tư. Vốn đầu tư từ ngân sách có tác dụng to lớn trong việc tăng năng lực sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, hình thành nên các vùng chuyên canh. Nguồn vốn đầu tư từ các doanh nghiệp: Vốn đầu tư từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vào lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp đạt mức tương đương với các doanh nghiệp nhà nước. Cùng với chính sách động viên vào ngân sách nhà nước ở mức độ vừa phải, bảo đảm cho các doanh nghiệp có điều kiện tích tụ vốn cho tái đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới trang thiết bị; chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cho phát triển sản xuất... lượng vốn đầu tư từ các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần cho nông nghiệp và nông thôn có xu hướng tăng. Vốn đầu tư của dân cư: Bao gồm vốn đầu tư của bản thân nông thôn, vốn đầu tư của những người sống ở đô thị vào nông thôn và vốn đầu tư từ kiều bào. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài: -Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài là một nguồn vốn lớn, rất cần đối với đất nước ta trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt là đốivới công cuộc CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên do những hạn chế của lĩnh vực nông nghiệp và khu vực nông thôn nên số lượng các dự án và vốn đầu tư vào khu vực này còn ít, chỉ chiếm 10% số dự án với số vốn đầu tư khoảng 6% tổng số vốn đầu tư nước ngoài vào Việt nam. Hầu hết các dự án đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn là những dự án nhỏ, những dự án mang tính nhân đạo. -Nguồn vốn ODA: Nguồn vốn ODA chủ yếu để hỗ trợ cho việc phát triển nông nghiệp, nông thôn và miền núi thông qua các dự án phát triển sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và nông thôn, các chương trình hỗ trợ cho lĩnh vực y tế-xã hội, giáo dục-đào tạo... Nguồn vốn tín dụng: Hiện nay đang có nhiều tổ chức tín dụng với các hình thức tín dụng khác nhau cùng đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho nông nghiệp và nông thôn, cụ thể là hệ thống các ngân hàng thương mại quốc doanh, một số ngân hàng cổ phần, hệ thống các quỹ tín dụng nhân dân, ngân hàng người nghèo và các quỹ cho vay theo chương trình 120, 327, 773... Trong số các tổ chức tín dụng nêu trên thì Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam là người cung cấp tín dụng chủ yếu cho đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn. 2.3. Hiệu quả của đầu tư phát triển CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn Để đánh giá hiệu quả của đầu tư phát triển CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn, ta có thể dùng một số chỉ tiêu sau: Tỷ trọng đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn: Theo nguyên tắc trao đổi ngang giá trong học thuyết kinh tế thì tỷ trọng đầu tư vốn cho mỗi ngành nói chung và cho nông nghiệp nói riêng phải tương đương với tỷ trọng GDP do ngành đó tạo ra cho nền kinh tế của đất nước. Từ lâu các nhà kinh tế đã quan tâm và đầu tư nghiên cứu vai trò của vốn đầu tư trong tăng trưởng kinh tế. Tỷ suất vốn (ICOR) là một trong những chỉ tiêu đo lường quan hệ đó, có thể vận dụng vào nông nghiệp. Cả hai phương pháp trao đổi ngang giá và hệ số ICOR đều cho một đáp số gần như nhau: tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp Việt nam phải từ 25 đến 30% mới đáp ứng được yêu cầu tăng trưởng bền vững. Mức độ tập trung đầu tư cho các vùng sản xuất trọng điểm: Chỉ tiêu này được thể hiện ở tỷ lệ vốn đầu tư cho khoa học, kỹ thuật phục vụ nông nghiệp để khơi dậy những tiềm năng chất xám nhằm mục đích tăng trưởng nông nghiệp với nhịp độ ổn định và cao hơn như đầu tư cho việc nghiên cứu, lai tạo và nhập nội giống cây con có năng suất và chất lượng tốt; đầu tư cho mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, cơ cấu sản xuất nông nghiệp; đầu tư cho ngành nghề và dịch vụ phi nông nghiệp... Hiệu quả đầu tư theo chỉ tiêu này được biểu hiện qua tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và cơ cấu ngành nghề trong nội bộ nông nghiệp. Tỷ lệ vốn đầu tư nước ngoài cho nông nghiệp và nông thôn: Trong điều kiện nguồn vốn trong nước có hạn thì thu hút vốn đầu tư nước ngoài có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc khắc phục tình trạng thiếu vốn trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn thể hiện ở số lượng dự án và khối lượng vốn đầu tư nước ngoài cho lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. Thực tế đã chứng minh, để công cuộc CNH-HĐH đất nước nói chung và CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn nói riêng đi tới thành công, trước hết ta phải huy động được đầy đủ các nguồn lực cần thiết cho quá trình thực hiện, mà nguồn lực quan trọng cần huy động ở đây chính là vốn, phát huy nội lực là chính đồng thời tranh thủ mọi nguồn lực huy động được từ bên ngoài. Nhưng vấnđề đặt ra là khi có nguồn lực rồi thì phải sử dụng các nguồn lực đó như thế nào sao cho có hiệu quả nhất.Vì vậy vấn đề hiệu quả luôn được đặt lên hàng đầu. II. Tính tất yếu khách quan của đầu tư phát triển cho CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn 1. Đặc điểm phát triển của nông nghiệp, nông thôn Việt nam 1.1. Những đặc trưng cơ bản của kinh tế nông nghiệp, nông thôn Nông nghiệp là một ngành kinh tế quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, có những đặc thù khác biệt các ngành kinh tế khác: - Nông nghiệp là ngành kinh tế chịu tác động và chi phối mạnh mẽ của các quy luật và các điều kiện tự nhiên cụ thể của từng vùng, từng tiểu vùng như: đất đai, thổ nhưỡng, khí hậu, thuỷ văn, sinh vật... - Sản xuất nông nghiệp khác với các ngành công nghiệp vì trong quá trình lao động, con người còn lệ thuộc vào các hoạt động của các sinh vật sống, có quy luật vận động, phát triển riêng. Nhân tố này giữ vai trò quyết định đến sản phẩm cuối cùng của nông nghiệp. - Sản xuất nông nghiệp có tính liên ngành và diễn ra trong phạm vi không gian rộng lớn từ cung ứng các điều kiện sản xuất đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Đặc điểm này làm tăng thêm tính phức tạp của công tác quản lý, bố trí đầu tư. - Lao động trong khu vực nông nghiệp đông nhưng trình độ hiểu biết về khoa học, kỹ thuật và kinh doanh rất hạn chế, nhất là ở các nơi có điều kiện khó khăn, chậm phát triển. - Là nguồn cung cấp lao động cho các ngành kinh tế khác. Đối với nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, ngoài những đặc trưng tổng quát nêu trên còn có những đặc trưng riêng sau: Thứ nhất, là quốc gia đất ít người đông (nhất là diện tích đất phục vụ cho sản xuất nông nghiệp), bình quân đất sản xuất theo đầu người thuộc loại thấp nhất thế giới (0,1 ha), do đó sản xuất nông nghiệp ở Việt nam có ít khả năng mở rộng quy mô. Thứ hai, do vị trí địa lý nằm ở khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, có thảm động, thực vật phong phú và đa dạng, có tiềm năng sinh khối lớn, có khả năng tăng vụ và quay vòng đất đai nhanh nên nếu biết bố trí sử dụng lao động và công cụ sản xuất tốt hơn để thâm canh sẽ đem lại hiệu quả cao. Thứ ba, trong nông nghiệp Việt Nam, sản xuất lương thực chủ yếu là cây lúa nước. Đây là đặc trưng cần chú ý khi phát triển sản xuất trong điều kiện trên Thế giới việc cơ giới hoá và hiện đại hoá sản xuất lúa nước còn phân tán và chưa có nhiều kinh nghiệm. Thứ tư, chuyển nền nông nghiệp Việt Nam sang sản xuất hàng hoá, vân động theo cơ chế thị trường từ một nền sản xuất nhỏ, lạc hậu, phân tán, công nghiệp nông thôn kém phát triển, vốn hạn chế, đòi hỏi phải có sự tính toán, lựa chọn các bước đi thật thích hợp cho từng giai đoạn và từng vùng cụ thể. Thứ năm, trình độ công nghệ, kỹ năng sản xuất và các điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật rất không đồng đều giữa các vùng làm cho công tác quản lý, đầu tư phát triển tăng thêm độ phức tạp. Thứ sáu, nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thường gắn liền với những làng nghề truyền thống nhất định, đặc biệt là khu vực miền Bắc. Đặc điểm nay đòi hỏi phải tìm những hướng đi phù hợp cho nông nghiệp, nông thôn khi tiến hành CNH-HĐH. Trên đây là những đặc trưng quan trọng về nông nghiệp, nông thôn Việt Nam cần quan tâm khi xây dựng nội dung CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn cũng như trong việc hoạch định các chính sách phát triển sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn nước ta trong thời kỳ mới. 1.2. Thực trạng phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam ở những nước nông nghiệp nói chung và ở Việt nam nói riêng, nông nghiệp, nông thôn luôn là khu vực nảy sinh nhiều vấn đề mới bức xúc và phức tạp. Lực lượng sản xuất trong nông nghiệp đang tồn tại nhiều bất cập so với yêu cầu sản xuất hàng hóa tập trung trên quy mô lớn theo quy hoạch vùng, tiểu vùng... Nhìn chung cơ sở vật chất-kỹ thuật và kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam còn thấp kém và phân bố không đồng đều, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa và vùng duyên hải. Các nhu cầu về xây dựng đường, điện, trường, trạm y tế, dịch vụ sản xuất và đời sống... phổ biến ở địa bàn xã còn chưa được đáp ứng. Việc trang thiết bị cơ khí, nông cụ và áp dụng, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật sinh học, đổi mới giống cây trồng, vật nuôi, đặc biệt là bảo quản, chế biến hàng hoá nông phẩm... tuy đã được quan tâm song chưa triển khai rộng khắp trong cả nước một cách thống nhất, một số nơi có tiến hành nhưng hiệu quả chưa cao. Năng suất lao động chung trong nông nghiệp thấp gắn liền với bình quân đất canh tác trên đầu người giảm sút, trong lúc còn nhiều đất đai để hoang hoá hoặc bị sử dụng bất hợp lý, lãng phí và số lao động thiếu việc làm trong nông nghiệp gia tăng là biều hiện tập trung nhất những khó khăn trong nông nghiệp. Quan hệ sản xuất trong nông nghiệp cũng nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp do việc triển khai mô hình hợp tác hoá mới gặp nhiều trở ngại. Phong trào hợp tác hoá mới có nguy cơ dậm chân tại chỗ. Nhiều hợp tác xã chưa phát huy được vai trò, chức năng là tổ chức tập thể tự nguyện, đảm nhận việc kinh doanh tổng hợp, dẫn dắt nông dân làm ăn, cùng gắn bó lợi ích, đáp ứng yêu cầu cung cấp mọi dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. Một số đông hộ nông dân chưa thực sự chuyển sang sản xuất hàng hoá. Quá trình phân công lao động ở nông thôn còn kém. Ba hình thức phân công lao động: phân công giữa trồng trọt và chăn nuôi, phân công giữanông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, phân công giữa nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương nghiệp chưa rõ ràng hoặc đã được triển khai nhưng không được duy trì liên tục. Vì thế ở nước ta chậm hình thành các vùng sản xuất chuyên canh có quy mô nhất định để tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng các thành tựu sinh học trong sản xuất, tạo ra nhiều nông sản hàng hoá cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Sự phát triển không đồng đều giữa các vùng kinh tế nông thôn là một đặc điểm ngày càng rõ rệt do quan hệ phân phối tạo ra. Các vùng nông thôn gần các đô thị và các khu công nghiệp chịu sự tác động và sức hút của công nghiệp thì đều phát triển nhanh. Những nơi kém phát triển sản xuất còn mang nặng tính tự cung tự cấp, đời sống nông dân gặp nhiều khó khăn. Quan hệ cơ cấu kinh tế giữa công nghiệp với nông nghiệp chưa được hình thành rõ ràng. Tuy đã qua nhiều năm chuyển sang cơ chế thị trường nhưng vẫn chưa tạo lập được quan hệ tái sản xuất ổn định và mở rộng của một thị trường vùng và quốc gia. Tính chất địa phương, hành chính trong kinh doanh và quản lý còn nặng nề đã tạo ra tình hình tách rời nhau giữa công nghiệp với nông nghiệp, thành thị với nông thôn, gây ra bất lợi cho cả hai phía... Từ những đặc điểm trên về quá trình phát triển của nông nghiệp, nông thôn Việt nam, chúng ta nhận thấy rằng để rút ngắn khoảng cách giữa nông thôn và thành thị, để đưa nông nghiệp, nông thôn tiếp tục phát triển và ngày càng tiên tiến so với các quốc gia trong khu vực cũng như trên thế giới, chúng ta phải chú trọng đầu tư cho sự nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn, tạo cơ sở vững chắc, tạo cái cốt vật chất để thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn Việt nam ngày càng tiến xa. 2. Vai trò của đầu tư phát triển cho CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn 2.1. Vị trí, vai trò của nông nghiệp, nông thôn Nông nghiệp là một trong những ngành kinh tế quan trọng và phức tạp. Nó không phải là một hệ thống kinh tế đơn thuần mà là một hệ thống sinh vật-kỹ thuật. Chúng phát triển theo quy luật sinh vật nhất định, con người không thể ngăn cản các quy trình phát sinh, phát triển và diệt vong của chúng mà phải dựa trên nhận thức đúng đắn các quy luật để có những giải pháp tác động nhằm thích nghi với chúng và có sự can thiệp theo mục đích nghiên cứu và sử dụng nhất định. Nông nghiệp có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế, nhất là ở các nước đang phát triển nơi có trình độ phát triển thấp kém với đại bộ phận dân chúng sống bằng nghề nông. Tuy nhiên, điều đó không đồng nghĩa với việc phủ nhận vai trò của nông nghiệp trong nền kinh tế của các nước có nền công nghiệp phát triển. Mặc dù tỷ trọng giá trị sản lượng nông nghiệp không lớn nhưng khối lượng sản phẩm nông nghiệp vẫn không ngừng tăng lên và giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Cụ thể là: Nông nghiệp, nông thôn có vai trò quan trọng trong việc cung cấp các yếu tố đầu vào cho công nghiệp và khu vực thành thị. Nhà kinh tế học Lewis đã xây dựng mô hình chuyển dịch lao động từ khu vực nông nghiệp sang công nghiệp. Ông coi đó là quá trình tạo ra tiết kiệm, thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, việc chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang khu vực công nghiệp còn khắc phục được tình trạng lạc hậu về kinh tế, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam (không di cư mà di chuyển ngành nghề làm việc). Khu vực nông nghiệp còn cung cấp nguồn nguyên liệu quý cho công nghiệp, chủ yếu là công nghiệp chế biến nông sản, nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng thu nhập, nâng cao trình độ công nghệ, từng bước CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. Nông nghiệp, nông thôn là thị trường tiêu thụ rộng lớn của công nghiệp. ở hầu hết các nước đang phát triển, sản phẩm công nghiệp bao gồm tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng chủ yếu dựa vào thị trường trong nước mà trước hết là khu vực nông nghiệp, nông thôn. Sự thay đổi về cầu trong khu vực nông nghiệp, nông thôn sẽ có tác động trực tiếp đến sản lượng ở khu vực phi nông nghiệp. Phát triển mạnh nông nghiệp, nâng cao thu nhập cho dân cư nông thôn sẽ làm cầu các sản phẩm công nghiệp tăng, thúc đẩy công nghiệp phát triển, từng bước nâng cao chất lượng để có thể cạnh tranh với thị trường Thế giới. Nông nghiệp được coi là ngành đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn, nơi cung cấp nguồn vốn đầu tư quan trọng cho đất nước. Các loại nông, lâm, thuỷ sản dễ dàng gia nhập thị trường quốc tế hơn các sản phẩm công nghiệp. Vì thế, ở các nước đang phát triển nguồn thu chủ yếu dựa vào các loại nông, lâm, thuỷ sản. Xu hướng chung của các nước thực hiện CNH-HĐH ở giai đoạn đầu, giá trị xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản chiếm tỷ lệ cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Khu vực nông nghiệp, nông thôn có vai trò quan trọng và là cơ sở cho sự phát triển bền vững của môi trường. Hiện nay, một thực trạng đang diễn ra là sản xuất thường gắn liền với tác động phá huỷ môi trường sinh thái còn các nhà sản xuất thì coi đó là kết quả tất yếu nên ít có biện pháp xử lý và chịu trách nhiệm, đặc biệt là trong sản xuất công nghiệp. Riêng khu vực nông nghiệp, nông thôn là khu vực có thể đảm bảo cho sự phát triển bền vững của môi trường sinh thái do đặc tính kinh tế, kỹ thuật của nó. Với vị trí quan trọng như vậy, trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế đất nước, Đảng và Nhà nước luôn xác định rõ nhiệm vụ đầu tư phát triển CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn để nông nghiệp, nông thôn Việt Nam được nâng lên một bước phát triển mới xứng với vai trò chủ đạo của nó và làm nền tảng để hình thành một cơ cấu công-nông nghiệp vững mạnh. 2.2. Vai trò của đầu tư phát triển CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn CNH-HĐH là quy luật phổ biến của tất cả các nước tiến lên một nền kinh tế xã hội hiện đại và phát triển. Đó là con đường tất yếu mà mọi quốc gia không thể bỏ qua để đạt được thành quả phát triển về kinh tế xã hội và thoát khỏi nguy cơ tụt hậu. Do xuất phát điểm từ một nước nông nghiệp với hơn 80% dân số và 76,9% lực lượng lao động sống và làm việc ở nông thôn, Việt nam coi CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn là vấn đề đầu tiên và là trọng tâm. Đây vừa là mục tiêu vừa là động lực cho sự phát triển nền kinh tế xã hội của đất nước. Kinh nghiệm ở nhiều nước trên thế giới, nhất là ở Inđônêxia và Thái Lan trong khủng hoảng về kinh tế năm 1997-1998 cho thấy, nếu nông nghiệp và nông thôn không được ưu tiên phát triển thì nền kinh tế xã hội sẽ lâm vào tình trạng khủng hoảng và bế tắc. Nếu tách rời nông nghiệp và nông thôn ra khỏi sự nghiệp CNH-HĐH đất nước thì hậu quả để lại sẽ là một nền nông nghiệp lạc hậu, những vùng nông thôn nghèo nàn, môi sinh bị tàn phá, phân hoá giàu nghèo rõ nét và những bất cập về các tệ nạn xã hội. Đối với nước ta, CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn còn có ý nghĩa quan trọng để tăng tích luỹ vốn cho phát triển công nghiệp và dịch vụ, mở rộng thị trường trong nước và quốc tế, giải quyết việc làm cho người lao động, giảm bớt sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội và những áp lực làm chậm quá trình phát triển của đất nước. Với ý nghĩa đó, đầu tư phát triển sự nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn giữ một vai trò hết sức quan trọng và trở thành một yêu cầu cấp bách. 3. Đầu tư phát triển cho CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn là một yêu cầu cấp bách Hội nghị 6 (lần 1) Ban chấp hành Trung ương (khoá VIII) đã khẳng định: “Tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; nhất là công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn”. CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn nước ta trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa quan trọng. Một là, nước ta hiện nay có khoảng 76,9 triệu người, trong đó hơn 80% dân số sống ở nông thôn và hơn 70% lực lượng lao động xã hội làm nông nghiệp. Tốc độ tăng dân số ở nông thôn vẫn cao (khoảng 1,4 triệu người/năm). Ruộng đất bình quân của cả nư._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35195.doc
Tài liệu liên quan