lời mở đầu
Lịch sử và phát triển của hệ thống Ngân hàng cho thấy Ngân hàng luôn giữ một vai trò quan trọng trong hoạt động của nền kinh tế. Trọng trách to lớn, riêng có mà lịch sử đã đặt lên vai hệ thống Ngân hàng đó là phải làm thật tốt trung tâm tiền tệ - tín dụng và thanh toán cho mọi hoạt động kinh tế - xã hội. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, vai trò trung gian thanh toán của Ngân hàng ngày càng tỏ rõ tính ưu việt và sự linh hoạt của nó.
Ngày nay, khi nói tới thanh toán không dùng
78 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1426 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại Sở Giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiền mặt là nói đến một mật nghiệp vụ, hoạt động mạnh mẽ và quan trọng của Ngân hàng.Thanh toán không dùng tiền mặt có vai trò to lớn góp phần đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân, thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển từ đó góp phần ổn định và tăng trưởng kinh tế.
Với tầm quan trọng như vậy, việc tìm các giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt là một việc làm cần thiết đối với không riêng Ngân hàng nào.
Trên cơ sở những luận điểm đã trình bày, qua quá trình thực tế tại Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, em lựa chọn đề tài: "Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam " cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Ngoài lời mở đầu và kết luận, nội dung của chuyên đề được kết cấu như sau :
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM)
Chương 2: Thực trạng công tác TTKDTM tại Sở giao dịch NHNo và PTNT Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác TTKDTM.
Do thời gian có hạn, trình độ và kinh nghiệm thực tế còn hạn chế, bài viết của em không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, vì vậy, em kính mong nhận được sự góp ý bổ sung của các thầy cô giáo, các cán bộ Sở giao dịch cùng toàn thể các bạn để em có thể hoàn thiện hơn kiến thức của mình
Em xin chân thành cảm ơn !
nội dung
chương 1: những vấn đề cơ bản về
thanh toán không dùng tiền mặt
1.1 Sự cần thiết khách quan và vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế thị trường
1.1.1 Sự cần thiết khách quan của thanh toán không dùng tiền mặt
Như chúng ta đã biết, sự ra đời và phát triển của lưu thông tiền tệ gắn liền với quá trình ra đời và phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Sở dĩ như vậy là do yêu cầu của quá trình trao đổi hàng hoá mà tiền tệ đã ra đời với vai trò làm trung gian trao đổi các loại hàng hoá được thực hiện dễ dàng, nhanh chóng góp phần thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển.
Quá trình tái sản xuất xã hội là một quá trình liên hoàn và không ngừng mở rộng, trong đó tồn tại các quan hệ trao đổi, mua bán hàng hoá dịch vụ do đó không thể không có hoạt động thanh toán.
Khi nền sản xuất còn ở trình độ thấp, thanh toán tiền tệ chỉ bó hẹp trong phạm vi và khối lượng nhỏ, việc thanh toán được thực hiện bằng việc chi trả tiền mặt, sự vận động của vật tư hàng hoá gắn liền với sự vận động của một khối lượng tiền mặt nhất định. Thanh toán bằng tiền mặt lúc này tỏ ra là phương thức thanh toán hữu hiệu nhất, nó được thực hiện rất linh hoạt tuỳ theo thoả thuận giữa hai bên mua bán mà ít gặp trở ngại.
Tuy nhiên, khi sản xuất hàng hoá phát triển ở trình độ cao hơn, khối lượng sản phẩm sản xuất nhiều hơn thì trao đổi hàng hoá không chỉ bó hẹp trong phạm vi một vùng mà mở rộng ra cả nước và quốc tế.
Lúc này, thanh toán bằng tiền mặt đã bộc lộ những hạn chế nhất định như chi phí tốn kém trong việc in ấn, bảo quản, vận chuyển, kiểm đếm, không đáp ứng các nhu cầu thanh toán lớn, ở xa và nó trở nên không an toàn. Chính vì vậy, đòi hỏi phải có một hình thức thanh toán mới để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, thanh toán không dùng tiền mặt ra đời.
Thanh toán không dùng tiền mặt ( TTKDTM ) là sự vận động của tiền tệ qua chức năng phương tiện thanh toán nhằm phục vụ các quan hệ thanh toán giữa các tổ chức kinh tế và cá nhân trong xã hội bằng cách trích chuyển vốn tiền tệ từ tài khoản này sang tài khoản khác, bằng cách bù trừ lẫn nhau thông qua vai trò trung gian của Ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng khác.
TTKDTM ra đời là kết quả tất yếu của quá trình phát triển ngày càng cao của quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá, nó nhanh chóng chiếm ưu thế và trở thành một phần không thể thiếu được trong nền kinh tế thị trường. TTKDTM ra đời đã khắc phục được nhược điểm của thanh toán bằng tiền mặt. Có thể nói, TTKDTM mang lại hiệu quả cao, thể hiện một nền kinh tế đã và đang phát triển, các mối quan hệ về kinh tế, tài chính đã mở rộng, hoạt động của hệ thống Ngân hàng ngày càng đa dạng và phong phú. Việc phát triển các hình thức TTKDTM và hiện đại hoá các nghiệp vụ ngân hàng là minh chứng hiện thực cho sự tồn tại và phát triển hợp logic cũng như vai trò, vị trí của hệ thống Ngân hàng trong nền kinh tế quốc dân.
Như vậy, có thể nói TTKDTM là phương tiện thanh toán không thể thiếu được, nó là nấc thang phát triển tất yếu của các quan hệ thanh toán trong nền kinh tế thị trường và chính nó đã, đang và sẽ đáp ứng tối đa yêu cầu của nền kinh tế hiện đại.
1.1.2 Vai trò của TTKDTM trong nền kinh tế thị trường
Ngày nay, TTKDTM là một phần không thể tách rời các doanh nghiệp, các cá nhân và các tổ chức đoàn thể. Trong nền kinh tế thị trường, TTKDTM được thực hiện trôi trảy sẽ đem lại hiệu quả thiết thực cho tất cả các đối tác tham gia cũng như cho toàn xã hội.
- TTKDTM góp phần tăng nhanh tốc độ vận động của vật tư, hàng hoá và tiền vốn, qua đó thúc đẩy quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Như chúng ta đã biết, bất kỳ một chu kỳ sản xuất nào cũng đều bắt đầu và kết thúc bằng khâu thanh toán- từ việc mua các yếu tố đầu vào đến việc tiêu thụ các yếu tố đầu ra. Việc đẩy nhanh tốc độ thanh toán qua Ngân hàng giúp khách hàng rút ngắn được thời gian trong khâu lưu thông do đó rút ngắn thời được thời gian qua một vòng chu chuyển vốn, tăng nhanh tốc độ của quá trình sản xuất.
- Tăng tỷ trọng TTKDTM sẽ góp phần làm giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông từ đó tiết kiệm được chi phí của xã hội và của Ngân hàng. Cụ thể đó là những chi phí trong việc in ấn, vận chuyển, bảo quản, kiểm đếm tiền mặt… Nhờ vậy, có thể sử dụng các nguồn vốn tiết kiệm được để đầu tư mở rộng sản xuất, xây dựng Cơ sở hạ tầng nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, TTKDTM còn góp phần hạn chế đến mức thấp nhất các tệ nạn xã hội như tham ô, hối lộ, trộm cắp…, ngăn chặn hoạt động "rửa tiền", làm tiền giả hay đầu cơ, tích trữ…
-TTKDTM tạo điều kiện để Ngân hàng thu hút nguồn vốn nhàn rỗi mở rộng tín dụng và phát triển dịch vụ Ngân hàng.
Như chúng ta đã biết, nghiệp vụ tín dụng và nghiệp vụ thanh toán luôn có mối quan hệ ràng buộc hữu cơ với nhau, chỉ khi thực hiện tốt mối quan hệ này thì Ngân hàng mới có điều kiện phát triển được. TTKDTM đòi hỏi các doanh nghiệp phải có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng và số dư trên tài khoản tiền gửi phải đảm bảo khả năng thanh toán khi cần thiết. Các tổ chức kinh tế và cá nhân mở tài khoản tiền gửi thanh toán ở Ngân hàng có quyền sử dụng toàn bộ số tiền đó vào bất cứ lúc nào và Ngân hàng phải có trách nhiệm thoả mãn nhu cầu đó. Tuy nhiên, có sự không ăn khớp giữa những người có nhu cầu rút tiền và gửi tiền vào, do đó hình thành một số dư tương đối lớn và ổn định về nguồn vốn ngắn hạn cho Ngân hàng. Mặt khác, Ngân hàng hoàn toàn có kế hoạch một cách tương đối chính xác nhu cầu rút tiền mặt của khách hàng trong từng thời kỳ. Như vậy, ngoài phần dự trữ tiền mặt để đảm bảo khả năng chi trả, thanh toán kịp thời cho khách hàng, số còn lại, Ngân hàng có thể sử dụng để đầu tư, mở rộng tín dụng của mình. Thực tế, khối lượng tiền gửi thanh toán chiếm tỷ trọng khá cao trong toàn bộ nguồn vốn của Ngân hàng, tạo thuận lợi cho Ngân hàng trong việc giảm lãi suất cho vay. Bản chất của nguồn vốn này không phải gửi vào Ngân hàng để lấy lãi mà để sử dụng một cách chủ động, kịp thời trong thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ giữa các đơn vị và cá nhân . Làm tốt công tác thanh toán qua Ngân hàng, thu hút nhiều khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng để thanh toán là điều kiện tốt để mở rộng khối lượng tín dụng với lãi suất thấp.
- Thông qua TTKDTM, tạo điều kiện để NHTW xây dựng và điều hành CSTT một cách thuận lợi. Sở dĩ như vậy là do yêu cầu bắt buộc chủ thể tham gia TTKDTM phải có tài khoản tại NH, vì thế thông qua tình hình biến động số dư trên tài khoản của các khách hàng, Ngân hàng sẽ thu thập những thông tin cần thiết về tình hình tài chính, tình hình thanh toán của khách hàng cũng như những thông tin về dòng lưu chuyển tiền tệ… Từ đó, Ngân hàng có thể thực hiện việc quản lý và điều hành CSTT một cách thuận lợi bằng việc đưa ra những chính sách phù hợp trong từng thời kỳ.
Như vậy, TTKDTM là rất cần thiết trong nền kinh tế thị trường khi mà Ngân hàng Thương mại và các doanh nghiệp thực sự kinh doanh tự chủ bởi khi đó tính năng động, sáng tạo và yếu tố hiệu qủa luôn đặt đúng vị trí của nó.
1.2 Những quy định mang tính nguyên tắc trong TTKDTM
Muốn tổ chức và và thực hiện công tác TTKDTM trong nền kinh tế, ngoài tổ chức Cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ làm công tác thanh toán cần phải nghiên cứu sâu sắc lý luận xã hội, chế độ thể lệ thanh toán khoa học, thực tiễn đảm bảo công tác thanh toán được thực hiện thuận tiện, an toàn, chính xác và nhanh chóng. Hiện nay, TTKDTM được thực hiện trên cơ sở: Nghị định số 30/CP ngày 09.05.1996 của Chính phủ ban hành về quy chế phát hành và sử dụng séc; Thông tư số 07/TT- NH1 ngày 27.12.1996 của Ngân hàng Nhà nước Việt nam hướng dẫn thực hiện Nghị định số 30/CP; Quyết định số 371/1999/QĐ- NHNN1 ngày 19.10.1999 của Thống đốc NHNN Việt nam về việc ban hành, sử dụng và thanh toán thẻ Ngân hàng và Nghị định số 64/2001/NĐ-CP ngày 20.09.2001 của Chính phủ về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. Nội dung của văn bản pháp quy được tóm tắt thành những quy định có tính nguyên tắc sau:
1.2.1 Mở và sử dụng tài khoản thanh toán
- Mở tài khoản thanh toán:
Tài khoản thanh toán là tài khoản do người sử dụng dịch vụ thanh toán mở tại các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán để thực hiện giao dịch thanh toán theo quy định của NHNN.
Người sử dụng dịch vụ thanh toán có quyền tự lựa chọn Ngân hàng hoặc các tổ chức khác được phép cung cấp dịch vụ thanh toán để mở tài khoản và thực hiện giao dịch thanh toán.
- Sử dụng tài khoản và uỷ quyền
+ Chủ tài khoản có quyền sử dụng số tiền trên tài khoản thanh toán phù hợp với quy định của NHNN và pháp luật khác có liên quan.
+ Chủ tài khoản có nghĩa vụ tuân thủ các quy định của Nghị định này và pháp luật khác có liên quan trong việc sử dụng tài khoản thanh toán.
+ Chủ tài khoản được uỷ quyền cho người khác bằng văn bản sử dụng tài khoản theo quy định của pháp luật. Người được uỷ quyền có quyền hạn và nghĩa vụ như chủ tài khoản trong phạm vi uỷ quyền và không được uỷ quyền lại cho người thứ ba.
- Sử dụng và uỷ quyền sử dụng của đồng chủ tài khoản
Ngoài các quy định về sử dụng tài khoản và uỷ quyền sử dụng tài khoản, việc sử dụng tài khoản của đồng chủ tài khoản còn phải tuân theo các quy định sau:
+ Mọi giao dịch thanh toán chỉ được thực hiện khi có sự chấp thuận của tất cả những người là đồng chủ tài khoản.
+ Đồng chủ tài khoản được uỷ quyền cho người khác sử dụng tài khoản trong phạm vi quyền và nghĩa vụ của mình. Việc uỷ quyền phải được lập thành văn bản theo quy định của pháp luật.
- Điều kiện, thủ tục mở và sử dụng tài khoản thanh toán: Loại tài khoản, tính chất tài khoản, điều kiện, thủ tục mở và sử dụng tài khoản thanh toán do tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán quy định phù hợp với quy định của NHNN và các quy định khác của Pháp luật.
Ngoài những quy định trên, tài khoản thanh toán còn có thể bị phong toả hoặc đóng trong một số trường hợp đã được quy định rõ do có sự thoả thuận giữa hai bên hoặc do những nguyên nhân khách quan bên ngoài. Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán được quyền quyết định việc đóng tài khoản khi chủ tài khoản vi phạm pháp luật trong thanh toán hoặc vi phạm thoả thuận với tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán hoặc khi tài khoản có số dư thấp và không hoạt động trong một thời gian nhất định theo quy định của tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
1.2.2 Đảm bảo khả năng thanh toán
Người sử dụng dịch vụ phải đảm bảo có đủ tiền trên tài khoản thanh toán mà mình đã lập trừ trường hợp có thoả thuận thấu chi với tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
1.2.3 Thực hiện lệnh thanh toán
Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ, kịp thời lệnh thanh toán phù hợp với quy định hoặc thoả thuận của tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán đối với người sử dụng dịch vụ thanh toán nhưng không trái pháp luật.
1.2.4 Phí dịch vụ thanh toán
Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán được quyền thu phí của người sử dụng dịch vụ thanh toán.
1.2.5 Chứng từ thanh toán
Tất cả các chứng từ thanh toán của chủ thể thanh toán đều phải lập trên mẫu in sẵn do Ngân hàng in và nhượng bán. Những chứng từ đó phải lập đủ liên, viết rõ ràng, không tẩy xoá và phải nộp vào Ngân hàng theo đúng quy định. Các Ngân hàng có quyền từ chối thanh toán hoặc không chấp nhận thanh toán trong trường hợp chủ thể thanh toán vi phạm một trong những quy định của chế độ thanh toán hiện hành.
1.2.6 Trách nhiệm của Ngân hàng
Các Ngân hàng có trách nhiệm hướng dẫn cho khách hàng làm các thủ tục thanh toán, giám sát khả năng chi trả của khách hàng, cung ứng đầy đủ và kịp thời các loại giấy tờ cần thiết cho khách hàng theo chế độ quy định. Các Ngân hàng có trách nhiệm thông báo và đối chiếu thường xuyên với các chủ tài khoản về số dư tài khoản tiền gửi.
Khi nhận được các chứng từ thanh toán của khách hàng gửi đến, các Ngân hàng phải kiểm tra khả năng thanh toán của chủ tài khoản trước khi thực hiện thanh toán và có quyền từ chối thanh toán nếu tài khoản không đủ tiền. Ngân hàng phải thanh toán kịp thời, nhanh chóng và đảm bảo an toàn tài sản cho khách hàng. Nếu do thiếu sót gây thiệt hại cho khách hàng thì Ngân hàng phải bồi thường vật chất cho bên bị hại và tuỳ theo mức độ vi phạm có thể bị xử lý theo luật định. Khi thực hiện dịch vụ thanh toán cho khách hàng, Ngân hàng được thu phí theo quy định của Thống đốc NHNN .
Trên đây là một số quy định có tính nguyên tắc cơ bản nhằm mục đích vừa đảm bảo cho quá trình thanh toán được thực hiện đúng đắn, vừa đảm bảo cho sự kiểm soát bằng đồng tiền của hệ thống Ngân hàng đối với các hoạt động của chủ thể thanh toán có hiệu qủa.
1.3 Sơ lược về quá trình phát triển TTKDTM ở Việt nam
Xuất phát từ nhận thức sâu sắc về sự cần thiết khách quan cũng như vai trò của TTKDTM trong nền kinh tế nên ở nước ta ngay từ khi hệ thống Ngân hàng mới ra đời, TTKDTM đã được tổ chức thực hiện. Tuy nhiên, trong thời kỳ bao cấp, hệ thống Ngân hàng nước ta hoạt động hoàn toàn mang tính chất hành chính, không quan tâm đến hiệu quả kinh tế nên TTKDTM cũng được thực hiện bằng các biện pháp hành chính, áp đặt và quan liêu, thể hiện ở chỗ:
- Buộc các đơn vị, tổ chức kinh tế phải mở tài khoản ở một Ngân hàng duy nhất, phải tập trung thanh toán qua Ngân hàng .
- Kỹ thuật công nghệ thanh toán lạc hậu, hình thức đơn điệu, kém hiệu quả.
Vì vậy, TTKDTM ở thời kỳ này không phát huy được tác dụng, tốc độ luân chuyển vốn chậm, tâm lý người dân không thích thanh toán chuyển khoản mà thích thanh toán bằng tiền mặt.
Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, chính phủ, NHNN đã có nhiều biện pháp nhằm cải tiến cơ bản TTKDTM, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền…Sau mười năm thực hiện công cuộc đổi mới, hoạt động Ngân hàng nói chung và công tác thanh toán nói riêng đặc biệt là TTKDTM đã đạt được những thành tích đáng khích lệ. Đó là từng bước hiện đại hoá, quốc tế hoá hoạt động thanh toán theo chương trình đổi mới công nghệ Ngân hàng, bao gồm chương trình trước mắt và chương trình lâu dài.
- Hiện đại hoá hoạt động thanh toán thông qua việc cải tiến đồng loạt các nghiệp vụ thanh toán của hệ thống Ngân hàng, áp dụng rộng rãi công nghệ tin học trong thanh toán ở tất cả các cấp Ngân hàng.
- Về hình thức thanh toán đã dần đa dạng hoá cho phù hợp với kinh tế thị trường như séc, UNC, UNT …
- Hiện nay, đã thực hiện việc nối mạng thông tin thanh toán trong hệ thống Ngân hàng thương mại quốc doanh và một phần Ngân hàng thương mại cổ phần. Nối mạng thông tin giữa các Ngân hàng thương mại với Ngân hàng Nhà nước. Xây dựng dự án phát triển các hệ thống thanh toán bao gồm thanh toán bù trừ, thanh toán chuyển tiền liên ngân hàng …
Tuy nhiên, công tác TTKDTM còn nhiều hạn chế và yếu kém đó là :
- Thanh toán tiền mặt trong nền kinh tế còn chiếm tỷ trọng lớn. Sự buông lỏng trong tổ chức TTKDTM cùng với chế độ quản lý chứng từ chưa nghiêm đã là những sơ hở cho tệ tham nhũng và lãng phí trong chi tiêu, làm ảnh hưởng không nhỏ đến tiềm lực phát triển kinh tế của đất nước.
- Nhìn chung, các thể thức thanh toán hiện hành ở nước ta vẫn còn mang dáng dấp, nội dung của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, một số hình thức thanh toán còn phiền hà về thủ tục, chậm chễ trong luân chuyển hay sự an toàn chưa cao …
- Những năm qua chúng ta đã hình thành một số thể thức thanh toán mới như thẻ thanh toán nhưng còn hạn chế nếu không muốn nói là hình thức. Việc đổi mới công nghệ thanh toán có sự chuyển biến mạnh mẽ về nội dung lẫn cơ sở vật chất thế nhưng tác dụng chưa tương xứng với chi phí bỏ ra, số liệu thông tin còn chậm chế, sai sót còn nhiều, chưa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng.
Từ những thực trạng trên, đòi hỏi ngành Ngân hàng không ngừng đổi mới hơn nữa theo hướng phát huy ưu thế sẵn có đồng thời đưa vào áp dụng những phương thức, hình thức, kỹ thuật thanh toán mới, hiện đại nhằm đáp ứng một cách tốt nhất các yêu cầu về : an toàn, nhanh chóng, chính xác và đảm bảo quyền lợi của các bên tham gia. Từ đó phát huy mạnh mẽ vai trò của TTKDTM trong nền kinh tế thị trường và hoà nhập mau chóng vào công nghệ thông tin của thế giới.
1.4 Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt
Hiện nay, trên thế giới đã nghiên cứu và áp dụng nhiều hình thức TTKDTM rất đa dạng và phong phú. Nhưng ở mỗi nước tuỳ theo mô hình kinh tế, trình độ quản lý, tuỳ theo mức độ hoàn thiện và hiệu năng của hệ thống Ngân hàng người ta lựa chọn một số hình thức và cụ thể hoá cho phù hợp với điều kiện, đặc thù của mỗi nước.
Ơ nước ta hiện nay, nền kinh tế cơ bản đã chuyển sang nền kinh tế thị trường. Vị trí, vai trò và chức năng của doanh nghiệp, của Ngân hàng thương mại, của Ngân hàng Nhà nước đã thay đổi theo mô hình kinh tế thị trường. Chính vì vậy, chế độ TTKDTM cũng được hoàn thiện hơn để phù hợp với thực tiễn.
TTKDTM được quy định trong Nghị định số 64/ 2001/ NĐ - CP ngày 20.9.2001 của Chính phủ bao gồm những hình thức sau :
1. Hình thức thanh toán bằng séc
2. Hình thức thanh toán bằng UNC - chuyển tiền
3. Hình thức thanh toán bằng UNT
4. Hình thức thanh toán bằng thư tín dụng
5. Hình thức thanh toán bằng thẻ thanh toán
1.4.1 Thanh toán bằng séc
Séc là một thể thức thanh toán quan trọng không thể thiếu được trong TTKDTM hiện nay. Mặc dù đã ra đời từ rất sớm và ngày càng có nhiều công cụ thanh toán hiện đại nhưng thanh toán bằng séc vẫn giữ vị trí quan trọng trong các thể thức TTKDTM .
Theo Nghị định số 30/ CP : Séc là lệnh trả tiền của chủ tài khoản được lập trên mẫu do Ngân hàng Nhà nước quy địn yêu cầu Ngân hàng phục vụ mình trích tiền từ tài khoản tiền gửi của mình để trả cho người thụ hưởng có tên trên tờ séc hay người cầm tờ séc đó.
Séc là loại chứng từ thanh toán được áp dụng rộng rãi ở tất cả các nước trên thế giới, quy định sử dụng séc đã được chuẩn hoá trên Luật thương mại quốc gia và Công ước quốc tế.
Theo Nghị định số 30/ CP quy định rõ ở Việt nam được phép lưu hành các loại séc vô danh vá séc ký danh được phép chuyển nhượng thông qua thủ tục ký hậu chuyển nhượng. Nghị định số 30/ CP ra đời đã đánh dấu một bước chuyển biến có ý nghĩa kinh tế lớn trong việc sử dụng séc ở Việt nam. Theo quy định này, séc không còn là một công cụ chuyển khoản đơn thuần mà còn phát huy được vai trò là một công cụ lưu thông.
Séc được dụng để thanh toán tiền hàng, dịch vụ, nộp thuế, trả nợ … hoặc được dùng để rút tiền mặt tại các chi nhánh Ngân hàng. Tất cả các khách hàng mở tài khoản tại Ngân hàng đều có quyền sử dụng séc để thanh toán. Thời hạn hiệu lực của séc là 15 ngày kể từ ngày chủ tài khoản phát hành séc đến ngày người thụ hưởng nộp séc vào Ngân hàng ( gồm cả ngày chủ nhật và ngày lễ ). Trường hợp nếu ngày kết thúc thời hạn hiệu lực của tờ séc là ngày nghỉ, ngày lễ thì thời hạn đó được lùi vào ngày làm việc kế tiếp.
Ơ Việt Nam hiện nay có 2 loại séc thanh toán : Séc chuyển khoản và Séc bảo chi.
. Séc chuyển khoản
Séc chuyển khoản là lệnh trả tiền của người phát hành séc đối với Ngân hàng phục vụ mình về việc trích một khoản tiền nhất định từ tài khoản của mình để trả cho người được hưởng có tên trong tờ séc.
Séc chuyển khoản chỉ được áp dụng trong phạm vi thanh toán giữa các khách hàng có tài khoản ở cùng một chi nhánh nhưng các chi nhánh này có tham gia giao nhận chứng từ trực tiếp cho nhau theo quy định hiện hành (thanh toán bù trừ ), thời gian hiệu lực của tờ séc tối đa là 10 ngày làm việc.Khác với séc lĩnh tiền mặt, khi phát hành séc thanh toán chuyển khoản, chủ tài khoản phải gạch hai đường song song chéo góc hoặc viết chữ "chuyển khoản " ở góc phía trên bên trái mặt trước tờ séc trước khi giao người thụ hưởng.
Về nguyên tắc, séc chuyển khoản phải được phát hành trên cơ sở số dư tài khoản tiền gửi hiện có tại Ngân hàng. Nếu tài khoản tiền gửi không đủ để thanh toán, séc sẽ bị Ngân hàng từ chối thanh toán, chủ tài khoản phải chịu trách nhiệm thanh toán tờ séc đó và những khoản tiền phạt chi phí phát sinh liên quan đến việc khiếu nại và khởi kiện.
- Sơ đồ luân chuyển séc chuyển khoản:
+ Thanh toán giữa khách hàng mở tài khoản ở cùng một Ngân hàng
Người thụ hưởng
Người trả tiền
1
3 2 4
Ngân hàng phục vụ
(1): Người trả tiền phát hành séc và giao cho người thụ hưởng.
(2): Người thụ hưởng tiếp nhận séc, sau khi kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của tờ séc sẽ lập 3 liên bảng kê nộp séc cùng tờ séc nộp vào Ngân hàng xin thanh toán.
(3): Ngân hàng kiểm tra tờ séc, nếu đủ điều kiện thì tiến hành trích tài khoản tiền gửi của người trả tiền và báo Nợ cho họ.
(4): Ngân hàng ghi Có vào tài khoản của bên thụ hưởng và báo Có cho họ.
+ Thanh toán khác Ngân hàng có tham gia thanh toán bù trừ trên địa bàn
1
Người thụ hưởng
Người trả tiền
2’
4
2
6
3
Ngân hàng phục vụ
người thụ hưởng
Ngân hàng phục vụ người trả tiền
5
(1): Người trả tiền phát hành séc giao cho người thụ hưởng.
(2): Người thụ hưởng sau khi kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của tờ séc sẽ lập 3 liên bảng kê nộp séc cùng tờ séc nộp vào Ngân hàng phục vụ mình xin thanh toán ( Người thụ hưởng cũng có thể nộp trực tiếp bảng kê nộp séc kèm theo tờ séc vào Ngân hàng phục vụ người trả tiền để đòi tiền).
(3): Ngân hàng sẽ tiến hành kiểm tra ( Nếu lập bảng kê có gì sai sót hoặc có các tờ séc không hợp lệ, quá thời hạn hiệu lực thanh toán thì từ chối thanh toán) sau đó chuyển các tờ séc và bảng kê nộp séc cho Ngân hàng phục vụ người trả tiền.
(4): Ngân hàng phục vụ người trả tiền sau khi kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của tờ séc và số dư tài khoản tiền gửi của chủ tài khoản sẽ tiến hành trích tài khoản của người trả tiền và báo Nợ cho họ.
(5): Ngân hàng phục vụ người trả tiền dùng các liên bảng kê nộp séc lập chứng từ thanh toán bù trừ và chuyển cho Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng để thanh toán cho người thụ hưởng.
(6): Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng tiếp nhận các bảng kê nộp séc ( thông qua thanh toán bù trừ ) sẽ ghi Có vào tài khoản cho người thụhưởng và báo cho họ.
. Séc bảo chi
Séc bảo chi là một loại séc thanh toán được Ngân hàng đảm bảo khả năng chi trả bằng cách trích trước số tiền trên tờ séc từ tài khoản tiền gửi của người trả tiền sang tài khoản " Đảm bảo thanh toán séc " nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của tờ séc đó.
Séc bảo chi có phạm vi thanh toán rộng hơn séc chuyển khoản. Ngoài việc sử dụng để thanh toán giữa các chủ thể mở tài khoản tại cùng một chi nhánh Ngân hàng hoặc hai Ngân hàng có tham gia thanh toán bù trừ trên cùng địa bàn séc bảo chi còn được sử dụng để thanh toán giữa khách hàng mở tài khoản tại các chi nhánh trong cùng hệ thống trong phạm vi cả nước.
- Sơ đồ luân chuyển thanh toán toán séc bảo chi
+ Trường hợp hai chủ thể thanh toán mở tài khoản tại cùng một chi nhánh Ngân hàng
2
Người thụ hưởng
Người trả tiền
5
4
3
1
Ngân hàng phục vụ
(1) : Người trả tiền làm thủ tục bảo chi séc ( lập hai liên giấy "Yêu cầu bảo chi séc" kèm tờ séc đã ghi đủ các yếu tố nộp vào Ngân hàng để xin bảo chi séc ). Ngân hàng đối chiếu giấy yêu cầu và tờ Séc, số dư tài khoản của người phát hành, nếu đủ điều kiện thì tiến hành trích tiền từ tài khoản tiền gửi chuyển vào tài khoản " Đảm bảo thanh toán Séc". Sau đó đóng dấu "Bảo chi" lên tờ séc và giao séc cho khách hàng.
(2): Người trả tiền giao Séc cho người thụ hưởng để nhận hàng hoá, dịch vụ.
(3): Người thụ hưởng lập bảng kê nộp Séc kèm các tờ Séc nộp vào Ngân hàng xin thanh toán.
(4): Ngân hàng kiểm tra ký hiệu mật trên tờ séc và các yếu tố cần thiết khác, tiến hành ghi Có vào tài khoản của người thụ hưởng và báo Có cho họ.
(5): Ngân hàng tất toán tài khoản " Đảm bảo thanh toán Séc"
+ Trường hợp hai chủ thể thanh toán mở tài khoản khác Ngân hàng có tham gia thanh toán bù trừ
Về cơ bản, quy trình luân chuyển chứng từ trong trường hợp này giống như Séc chuyển khoản, tuy nhiên có sự khác nhau về tài khoản hạch toán:
Nếu hai đơn vị mở tài khoản ở khác Ngân hàng, khác hệ thống có tham gia thanh toán bù trừ thì tại Ngân hàng phục vụ, đơn vị thụ hưởng sau khi kiểm soát đủ điều kiện sẽ hạch toán:
Nợ TK Thanh toán bù trừ Ngân hàng thành viên
Có TK Tiền gửi của người thụ hưởng
Trường hợp thanh toán khác Ngân hàng, cùng hệ thống và khác địa bàn hạch toán:
Nợ TK Liên hàng đi
Có TK Tiền gửi của người thụ hưởng
Tại Ngân hàng phục vụ đơn vị phát hành séc ( đơn vị mua) khi nhận được các chứng từ kèm séc bảo chi từ Ngân hàng khác chuyển đến thì sẽ hạch toán
Nợ TK Tiền gửi đảm bảo thanh toán séc bảo chi
Có TK Liên hàng đến
(hoặc TK thanh toán bù trừ)
1.4.2 Thanh toán bằng UNC- chuyển tiền
UNC ra đời từ khá sớm, cùng với tiến bộ Khoa học kỹ thuật, nó được sử dụng ngày một rộng rãi với các ưu thế nổi bật: an toàn, hiệu quả và đặc biệt thuận tiện dưới sự trợ giúp của các thành tựu phát triển trong lĩnh vực Công nghệ tin học ( UNC có thể được xử lý dưới dạng các chứng từ điện tử).
Đơn vị trả tiền sau khi nhận được hàng hoá, dịch vụ cung ứng, trong thời gian nhất định phải lập các UNC gửi đến Ngân hàng để trích tài khoản chuyển trả cho đơn vị thụ hưởng. Tuỳ theo phạm vi và tổ chức thanh toán, đơn vị phải lập từ 3-4 liên với đâỳ đủ nội dung và các yếu tố cần thiết. Khi lập và nộp UNC vào Ngân hàng, đơn vị trả tiền phải đảm bảo đủ số dư trên tài khoản để đảm bảo chi trả. Nếu chứng từ hợp lệ, tài khoản đủ tiền, trong phạm vi một ngày làm việc, Ngân hàng phải hoàn tất UNC đó. Nếu chứng từ không hợp lệ, hợp pháp, tài khoản không đủ số dư thì Ngân hàng không thanh toán.
- Quy trình thanh toán: trường hợp hai chủ thể mở tài khoản ở hai Ngân hàng khác nhau.
HH, DV
Người thụ hưởng
Người trả tiền
3
2
1
Ngân hàng phục vụ
người thụ hưởng
Ngân hàng phục vụ
người trả tiền
2’
(1): Người trả tiền lập 4 liên UNC nộp vào Ngân hàng phục vụ mình để trích tài khoản của mình trả tiền cho người thụ hưởng.
(2): Ngân hàng kiểm tra thủ tục lập UNC, số dư tài khoản tiền gửi của khách hàng, nếu đủ điều kiện thanh toán thì tiến hành trích tài khoản tiền gửi của người trả tiền, báo Nợ cho họ và chuyển tiền sang Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng để thanh toán cho người thụ hưởng.
(3): Khi nhận được chứng từ thanh toán do Ngân hàng phục vụ người trả tiền chuyển đến, Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng dùng các liên UNC để ghi Có vào tài khoản tiền gửi của người thụ hưởng và báo Có cho họ.
Trường hợp bên thụ hưởng không có tài khoản tiền gửi thì Ngân hàng phục vụ bên thụ hưởng ghi Có TK "Chuyển tiền phải trả" và báo cho bên thụ hưởng đến nhận tiền.
1.4.3 Uỷ nhiệm thu (UNT)
UNT là giấy uỷ nhiệm đòi tiền do người thụ hưởng lập và gửi vào Ngân hàng phụcvụ mình nờ thu hộ tiền theo số lượng hàng hoá đã giao, dịch vụ đã cung ứng.
UNT được sử dụng rộng rãi trong việc thanh toán các hoá đơn định kỳ cho người cung ứng dịch vụ công cộng như điện, nước, điện thoại … bởi nó thường được dùng cho các giao dịch thanh toán có giá trị nhỏ nên các UNT chiếm tỷ lệ không đáng kể trong tổng các giao dịch TTKDTM.
UNT được áp dụng thanh toán giữa các khách hàng mở tài khoản trong cùng một chi nhánh Ngân hàng hoặc các chi nhánh Ngân hàng cùng hệ thống hoặc khác hệ thống. Khách hàng mua và bán phải thống nhất thoả thuận dùng hình thức UNT đối với những điều kiện cụ thể đã ghi trong hợp đồng kinh tế, đồng thời phải thông báo bằng văn bản cho Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng biết làm căn cứ để thực hiện các UNT. Sau khi giao hàng hoặc hoàn tất dịch vụ cung ứng, bên thụ hưởng lập giấy UNT theo mẫu của Ngân hàng, kèm theo hoá đơn gửi tới Ngân hàng phục vụ mình hoặc gửi trực tiếp đến Ngân hàng phục vụ bên trả tiền yêu cầu thu hộ. Khi nhận được giấy UNT trong vòng một ngày làm việc, Ngân hàng bên trả tiền trích tài khoản của khách hàng mình trả ngay cho bên thụ hưởng để hoàn tất việc thanh toán.
- Quy trình thanh toán UNT ( trường hợp các chủ thể thanh toán mở tài khoản tại 2 chi nhánh Ngân hàng cùng hoặc khác hệ thống )
Người thụ hưởng
Người trả tiền
5
1
3
2
Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng
Ngân hàng phục vụ người trả tiền
4
(1): Sau khi giao hàng hoăc cung ứng dịch vụ, người thụ hưởng lập 4 liên UNT kèm chứng từ giao hàng nộp vào Ngân hàng phục vụ mình nhờ thu hộ tiền ( Bên thụ hưởng cũng có thể nộp trực tiếp UNT vào Ngân hàng phục vụ bên trả tiền để đòi tiền ).
(2): Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng sau khi nhận được bộ chứng từ do người thụ hưởng gửi đến sẽ tiến hành ký tên, đóng dấu ghi vào sổ theo dõi UNT và gửi bộ chứng từ này cho Ngân hàng phục vụ người trả tiền.
(3): Ngân hàng phục vụ người trả tiền sau khi nhận được bộ chứng từ sẽ kiểm tra các yếu tố cần thiết và làm thủ tục trích tài khoản tiền gửi của bên trả tiền và báo Nợ cho họ.
(4): Ngân hàng phục vụ người trả tiền chuyển tiền đến Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng để thanh toán cho người thụ hưởng.
(5): Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng ghi Có vào tài khoản của người thụ hưởng và báo Có cho họ.
1.4.4 Thư tín dụng (TTD)
TTD là hình thức thanh toán theo sự thoả thuận giữa hai bên bán và mua trong điều kiện bên bán đòi hỏi bên mua phải có đủ tiền để chi trả phù hợp với giá trị hàng hoá mà bên bán đã giao._. theo hợp đồng hay đơn đặt hàng đã ký.
TTD thường dùng để thanh toán giữa các khách hàng có tài khoản ở hai Ngân hàng khác nhau, có thể cùng hoặc khác hệ thống ( trường hợp khác hệ thống thì nơi Ngân hàng bên bán đóng trụ sở phải có Ngân hàng cùng hệ thống với Ngân hàng mở TTD và tham gia thanh toán bù trừ với Ngân hàng bên bán). Mỗi TTD chỉ được dùng để thanh toán cho một người thụ hưởng. Thời hạn hiệu lực của một TTD là 3 tháng kể từ ngày Ngân hàng bên mua nhận mở TTD. Mức tiền tối thiểu cuả một TTD là 10 triệu đồng.
- Sơ đồ luân chuyển chứng từ thanh toán TTD
Người thụ hưởng
Người trả tiền
4a
5
4b
3
7
1
2
Ngân hàng phục vụ
người thụ hưởng
Ngân hàng mở
Thư tín dụng
BNNg
6
(1): Người trả tiền lập 5 liên giấy mở TTD yêu cầu Ngân hàng phục vụ mình trích tài khoản tiền gửi (hoặc vay Ngân hàng ) một số tiền bằng tổng giá trị hàng hoá, dịch vụ đặt mua để lưu ký vào một tài khoản riêng gọi là tài khoản " Đảm bảo thanh toán TTD "
(2): Ngân hàng phục vụ bên trả tiền mở TTD cho người trả tiền và chuyển ngay 2 liên TTD cho Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng để báo cho người thụ hưởng biết.
(3): Khi nhận được 2 liên giấy mở TTD do Ngân hàng phục vụ bên trả tiền gửi đến, Ngân hàng phục vụ bên thụ hưởng tiến hành kiểm tra thủ tục mở TTD như: ký hiệu mật, chữ ký của Ngân hàng mở TTD . Sau khi ghi ngày nhận, ký tên, đóng dấu đơn vị lên các liên giấy mở TTD sẽ gửi 1 liên cho bên thụ hưởng để làm căn cứ giao hàng ( còn một liên lưu lại và mở sổ theo dõi TTD đến.
(4a): Bên thụ hưởng phải đối chiếu với hợp đồng kinh tế hay đơn đặt hàng, nếu đầy đủ các yếu tố cần thiết thì giao hàng và yêu cầu người nhận hàng ký vào hoá đơn giao hàng.
(4b): Căn cứ vào hoá đơn, chứng từ giao hàng, bên thụ hưởng lập 4 liên bảng kê hoá đơn, chứng từ giao hàng nộp vào Ngân hàng phục vụ mình để xin thanh toán.
(5): Khi nhận được bộ chứng từ do bên thụ hưởng nộp vào, Ngân hàng kiểm tra thủ tục lập bảng kê hoá đơn, chứng từ giao hàng , thời hạn hiệu lực của TTD, số tiền bên thụ hưởng đề nghị thanh toán, sau đó, tiến hành ghi Có cho tài khoản tiền gửi người thụ hưởng và báo Có cho họ.
(6): Căn cứ vào bảng kê hoá đơn, chứng từ giao hàng, Ngân hàng bên thụ hưởng lập giấy báo Nợ liên hàng để ghi Nợ TK Liên hàng đi và gửi cho Ngân hàng phục vụ bên trả tiền để xin thanh toán.
(7): Ngân hàng phục vụ bên trả tiền tất toán tài khoản " Đảm bảo thanh toán TTD "
1.4.5 Thẻ thanh toán
Việc áp dụng hình thức thanh toán bằng thẻ được thực hiện theo quyết định số 371/ 1999/QĐ- NHNN1 ngày 19.10.1999 của Thống đốc NHNN Việt nam.
Thẻ thanh toán là một công cụ thanh toán do Ngân hàng phát hành và bán cho khách hàng của mình để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, thanh toán công nợ hay lĩnh tiền mặt tại các Ngân hàng đại lý thanh toán hay các quầy trả tiền mặt tự động. Ơ một số nước, các hãng hay các Công ty kinh doanh lớn cũng phát hành thẻ thanh toán để thu tiền bán hàng của mình. Thẻ thanh toán có nhiều loại nhưng có một số loại thẻ sau được sử dụng phổ biến:
- Thẻ ghi Nợ: Người sử dụng loại thẻ này không phải lưu ký tiền vào tài khoản " Đảm bảo thanh toán thẻ". Căn cứ để thanh toán thẻ là số dư tài khoản tiền gửi của chủ sở hữu thẻ tại Ngân hàng và hạn mức thanh toán tối đa do Ngân hàng phát hành thẻ quy định. Hạn mức của thẻ được ghi vào bộ nhớ của thẻ nếu là thẻ điện tử hoặc được ghi vào dải băng từ nếu là thẻ từ.
Ơ Việt nam, thẻ ghi Nợ được quy định là thẻ loại A, loại thẻ này áp dụng cho những khách hàng có quan hệ tốt, thường xuyên và có tín nhiệm với Ngân hàng.
- Thẻ ký quỹ thanh toán : là loại thẻ mà để được sử dụng thẻ, khách hàng phải lưu ký một số tiền nhất định vào tài khoản " Đảm bảo thanh toán thẻ" thông qua việc tính tiền gửi hoặc nộp tiền mặt. Số tiền ký quỹ là hạn mức của thẻ và được ghi vào bộ nhớ của thẻ. Thẻ này quy định là thẻ loại B, áp dụng rộng rãi cho mọi khách hàng.
- Thẻ tín dụng: áp dụng với những khách hàng có đủ điều kiện được Ngân hàng đồng ý cho vay tiền để mua thẻ. Mức tiền cho vay được coi như hạn mức tín dụng và được ghi vào bộ nhớ của thẻ, khách hàng chỉ được thanh toán số tiền trong phạm vi hạn mức tín dụng đã được Ngân hàng chấp thuận.
Thẻ thanh toán dù dưới hình thức nào cũng phải có đầy đủ các yếu tố: Tên chủ thẻ, tên Ngân hàng phát hành thẻ, số thẻ, nhãn hiệu thương mại và thời hạn sử dụng thẻ.
Trong thanh toán thẻ bao gồm các chủ thể sau:
- Ngân hàng phát hành thẻ: là Ngân hàng bán thẻ cho khách hàng và chịu trách nhiệm thanh toán số tiền do người sử dụng trả cho người thụ hưởng. Ngân hàng phát hành thẻ có thể uỷ nhiệm cho một số chi nhánh Ngân hàng phát hành và quản lý thẻ.
- Người sử dụng thẻ: là người trực tiếp mua thẻ tại Ngân hàng và dùng thẻ để mua hàng hoá, dịch vụ.
- Người tiếp nhận thẻ thanh toán bằng thẻ: là các doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ cho người sử dụng thẻ.
- Ngân hàng đại lý thanh toán : là các chi nhánh Ngân hàng do Ngân hàng phát hành thẻ quy định, Ngân hàng đại lý thanh toán có trách nhiệm thanh toán cho người tiếp nhận thanh toán bằng thẻ khi nhận được biên lai thanh toán.
3
Quy trình thanh toán thẻ:
Cơ sở tiếp nhận thẻ
Chủ sở hữu thẻ
2
5
4
1a
1b
1a
6
Ngân hàng đại lý
thanh toán thẻ
Ngân hàng phát hành
thẻ
(1a): Khách hàng lập và gửi đến Ngân hàng phát hành thẻ giấy đề nghị phát hành thẻ thanh toán ( Nếu là thẻ ký quỹ thanh toán, khách hàng phải nộp thêm UNC trích tài khoản của mình hoặc nộp tiền mặt để lưu ký tiền vào tài khoản thẻ thanh toán tại Ngân hàng phát hành thẻ).
(1b): Căn cứ với đề nghị phát hành thẻ của khách hàng, sau khi kiểm tra thủ tục lập chứng từ và các điều kiện sử dụng thẻ của khách hàng, nếu thấy đủ điều kiện, Ngân hàng sẽ phát hành thẻ để cấp cho khách hàng và hướng dẫn khách hàng sử dụng thẻ khi thanh toán. Ngân hàng phát hành thẻ phải quản lý và giữ bí mật tuyệt đối mật mã sử dụng thẻ của khách hàng.
(2): Chủ sở hữu thẻ giao thẻ cho cơ sở tiếp nhận thẻ để kiểm tra, đưa thẻ vào máy thanh toán thẻ, máy tự động ghi số tiền thanh toán và in biên lai thanh toán .
(3): Cơ sở tiếp nhận thẻ giao thẻ và một biên lai thanh toán cho chủ sở hữu thẻ.
(4): Cơ sở tiếp nhận thanh toán thẻ lập bảng kê biên lai thanh toán và gửi cho Ngân hàng đại lý thanh toán để thanh toán.
(5): Ngân hàng đại lý thanh toán thẻ với Ngân hàng phát hành thẻ qua thủ tục thanh toán giữa các Ngân hàng.
Người sử dụng thẻ có thể rút tiền mặt nhưng mỗi lần không quá 5 triệu đồng và mỗi ngày thẻ chỉ rút một lần. Nếu mất thẻ, người sử dụng phải thông báo ngay bằng văn bản cho Ngân hàng phát hành thẻ biết để thông báo cho Ngân hàng đại lý thanh toán thẻ báo cho cơ sở tiếp nhận thẻ biết. Khi sử dụng hết hạn mức hoặc hết thời hạn sử dụng của thẻ, nếu có nhu cầu, người sử dụng thẻ phải đến Ngân hàng phát hành thẻ làm thủ tục sử dụng tiếp. Trong phạm vi 10 ngày làm việc, kể từ ngày viết hoá đơn cung ứng hàng hoá, dịch vụ, người tiếp nhận thẻ phải nộp biên lai vào Ngân hàng đại lý để đòi tiền, nếu quá thời hạn trên, Ngân hàng không chấp nhận thanh toán. Trong phạm vi 1 ngày làm việc, kể từ khi nhận được biên lai thanh toán, Ngân hàng đại lý phải thanh toán cho người tiếp nhận thanh toán thẻ.
Như vậy, ta thấy rằng TTKDTM với rất nhiều hình thức, có vị trí và vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế thị trường. Vấn đề đặt ra là trong công tác thanh toán còn một số tồn tại đòi hỏi ta phải xem xét tuỳ từng Ngân hàng cụ thể để có thể đưa ra những biện pháp hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả của công tác TTKDTM .
Chương 2
Thực trạng công tác TTKDTM tại
sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam
2.1 Khái quát chung về hoạt động của Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam
2.1.1 Sự hình thành và phát triển của Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam
Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam ( trước đây được gọi là Sở kinh doanh Hối đoái) thành lập ngày 28.9.1994 theo quyết định số 129/QĐ- NHNo của Tổng giám đốc NHNo & PTNT Việt nam. Đến 13.5.1999, Sở kinh doanh Hối đoái được đổi tên thành Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam theo quyết định số 232/QĐ/HĐQT-02 của Chủ tịch Hội đồng quản trị NHNo & PTNT Việt nam.
Sở giao dịch là thành viên thực hiện chức năng trực tiếp kinh doanh đa năng và chức năng Sở đầu mối trong toàn hệ thống NHNo & PTNT Việt nam.
Sở giao dịch thực hiện các nghiệp vụ chủ yêú là: Điều hoà vốn nội, ngoại tệ trong hệ thống NHNo ; đầu mối thanh toán quốc tế, mua bán ngoại tệ cho các đơn vị thành viên trong toàn hệ thống NHNo và các doanh nghiệp là khách hàng của Sở giao dịch; Kinh doanh tiền tệ trên thị trường liên Ngân hàng, thị trường mở, tham gia thị trường chứng khoán; Nhận tiền gửi bằng đồng Việt nam và ngoại tệ với nhiều hình thức; Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn bằng VND và ngoại tệ; Thực hiện cơ chế ưa đãi lãi suất và dịch vụ Ngân hàng đối với khách hàng.
Sở giao dịch thực hiện các dịch vụ Ngân hàng như: thanh toán quốc tế; Chuyển tiền nhanh trong nước và nước ngoài qua mạng SWIFT và mạng máy tính trong hệ thống NHNo; Nhận chuyển tiền kiều hối; Mua bán ngoại tệ tiền mặt, bảo lãnh, uỷ thác, chiết khấu, tái chiết khấu bộ chứng từ; Máy rút tiền tự động (ATM), thanh toán thẻ; thực hiện quan hệ đại lý thanh toán và dịch vụ Ngân hàng đối với các Ngân hàng nước ngoài, đầu tư hùn vốn liên doanh, mua cổ phần và các hình thức đầu tư khác….
Trụ sở của Sở giao dịch được đặt tại số 2 Láng hạ, Quận Ba Đình, Hà nội.
- Mô hình tổ chức của Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam :
Trong những năm qua, dưới sự chỉ đạo sáng suốt của Ban giám đốc và sự phối hợp nhịp nhàng, có hiệu quả của các phòng nghiệp vụ, Sở giao dịch đã khẳng định vị trí, vai trò của mình trong hệ thống. Đứng vững và phát triển trong cơ chế mới, chủ động mở rộng mạng lưới giao dịch. Đa dạng hoá các mặt hàng kinh doanh, dịch vụ tiền tệ Ngân hàng, thường xuyên tăng cường vật chất kỹ thuật, từng bước đổi mới công nghệ, hiện đại hoá Ngân hàng.
2.1.2 Tình hình kinh doanh của Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam
Tiền thân là Sở kinh doanh Hối đoái, Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam ra đời và đi vào hoạt động từ tháng 5 năm 1999. Chỉ với một khoảng thời gian ngắn như vậy nhưng Sở giao dịch đã từng bước khẳng định được vị trí của mình trên địa bàn và ngày càng lớn mạnh cả về quy mô, số lượng và chất lượng các dịch vụ Ngân hàng, đáp ứng được các yêu cầu ngày càng cao của khách hàng.
Sở giao dịch đã đảm nhận tốt vai trò đầu mối thanh toán quốc tế, đảm bảo thanh toán an toàn, kịp thời, gây được lòng tin của khách hàng và sự tín nhiệm của các Ngân hàng nước ngoài. Quản lý các tài khoản về vốn của NHNo & PTNT Việt nam , đảm bảo khả năng thanh toán của toàn hệ thống. Thực hiện kinh doanh vốn thông qua thị trường liên Ngân hàng góp phần tăng cường năng lực tài chính, năng lực cạnh tranh của NHNo & PTNT Việt nam. Năm 2000, Sở giao dịch quản lý 4 tài khoản VND, 14 tài khoản ngoại tệ trong nước và 31 tài khoản NOSTRO (trong đó có 11 tài khoản USD) của NHNo & PTNT Việt nam. Năm 2001, Sở giao dịch đã có quan hệ với 702 Ngân hàng ở 89 nước trên thế giới. Cài đặt và thiết lập mạng SWIFT nội bộ, đến nay có 53 chi nhánh NHNo & PTNT Việt nam đã tham gia mạng SWIFT và thực hiện thanh toán quốc tế trực tiếp qua mạng SWIFT. Sở giao dịch cũng đã có nhiều cố gắng trong việc làm đầu mối mua bán ngoại tệ nên đã cơ bản đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho thanh toán Nhập khẩu các mặt hàng chiến lược: Xăng dầu, phân bón, thuốc trừ sâu… Thực hiện có kết quả việc mua bán ngoại tệ với các chi nhánh trong hệ thống theo quy định của NHNo.
Hoạt động kinh doanh đã đạt được những kết quả tích cực, thể hiện ở tốc độ tăng trưởng nguồn vốn và dư nợ, nợ quá hạn giảm; hoạt động thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ và dịch vụ đạt kết quả khả quan. Tài chính tăng trưởng vượt kế hoạch được giao.
Bên cạnh đó, Sở giao dịch đã có nhiều biện pháp tích cực cải tiến quy trình nghiệp vụ, đảm bảo an toàn, hiệu quả, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của khách hàng. Thái độ giao dịch với khách hàng, với chi nhánh đã được cải tiến góp phần đưa hoạt động của Sở giao dịch thông suốt, phục vụ tốt khách hàng, chi nhánh. Sở giao dịch cũng đã tích cực ứng dụng tin học vào hoạt động Ngân hàng, từng bước xây dựng Sở giao dịch theo hướng hiện đại như tham gia thanh toán điện tử, đưa hệ thống máy ATM vào hoạt động cải tiến báo cáo qua SWIFT, sử dụng mạng REUTERS để kinh doanh tiền gửi, mua bán ngoại tệ trên thị trường trong nước và quốc tế…
Với sự nỗ lực, cố gắng của ban lãnh đạo cũng như tập thể nhân viên mà tình hình hoạt động kinh doanh của Sở ngày càng khởi sắc. Để có cái nhìn cụ thể từng bước phát triển của Sở, ta có thể đi sâu nghiên cứu các hoạt động sau:
2.1.2.1 Hoạt động huy động vốn
Bảng 1: Tình hình huy động vốn tại Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam
(Đơn vị: triệu đồng)
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Số tiền
%
Số tiền
%
±9991/0002
Số tiền
%
±0002/1002
Số tiền
%
Số tiền
%
1.TG không kỳ hạn
95,880
17
372,000
23
276,120
288
1,018,000
46
646,000
173.65
2.TG có kỳ hạn
468,120
83
1,251,000
77
782,880
167
1,189,000
54
-62,000
-4.95
Tổng huy động vốn
564,000
100
1,623,000
100
1,059,000
188
2,207,000
100
584,000
36
Nguồn trích: Bảng cân đối kế toán 1999, 2000, 2001
Tính đến 31.12.2000, nguồn vốn huy động của Sở đạt 1.623.000 triệu đồng (tương ứng với mức tăng 1.059.000 triệu đồng và tỷ lệ tăng là 188% so với năm 1999). Nếu xét nguồn vốn theo kỳ hạn thì ta thấy tiền gửi không kỳ hạn chiếm 23% tổng nguồn vốn, số còn lại gồm tiền gưỉ có kỳ hạn dưới 12 tháng đạt 664.000 triệu chiếm 41% tổng nguồn vốn, tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng là 587.000 triệu chiếm 36% tổng nguồn vốn. Như vậy, với nguồn vốn ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao hơn (41% + 23%= 64%) trong tổng nguồn vốn đã làm tăng khả năng linh hoạt khi có sự thay đổi về lãi suất. Tuy nhiên, tỷ trọng nguồn vốn có kỳ hạn còn cao (chiếm 77%) nên chi phí huy động vốn của Sở giao dịch lớn.
Đến năm 2001, tổng nguồn vốn huy động đạt 2.207.000 triệu, tăng 584.000 triệu với tỷ lệ tăng 36% so với năm 2000. Nếu như năm 2000 tiền gửi có kỳ hạn cao làm tăng chi phí đầu vào thì trong năm 2001 tình hình này đã được cải thiện với 1.189.000 triệu, chiếm 54% trong tổng nguồn vốn, giảm 62.000 triệu so với năm 200. Trong khi đó, nguồn huy động từ tiền gửi không kỳ hạn lại tăng 646.000 triệu với tỷ lệ tăng 173,6% so với năm 2000.
Sở dĩ có được kết quả này là do Sở giao dịch đã áp dụng nhiều biện pháp như: Đa dạng hoá hình thức huy động và điều hành lãi suất để thu hút nguồn vốn, cụ thể là thường xuyên điều chỉnh phù hợp và đa dạng hoá các lãi suất kỳ hạn 1, 2, 3 tuần, lãi suất từ 1 tháng đến 24, 36, 60 tháng; phát hành kỳ phiếu huy động vốn trả lãi trước, bên cạnh đó còn huy động vốn dưới dạng các hợp đồng nhận vốn kỳ hạn với các đơn vị, tổ chức kinh tế, TCTD với nhiều cơ chế linh hoạt. Ngoài ra, Sở giao dịch còn tiếp nhận các đề án nối mạng thanh toán của NHNo & PTNT Việt nam với một số đơn vị như KBNN, các Ngân hàng nước ngoài để tập trung các khoản thanh toán , tranh thủ nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi. Tiếp cận và tạo được quan hệ tiền gửi với một số khách hàng quan trọng như Quỹ hỗ trợ phát triển, Bảo hiểm tiền gửi Việt nam …
Qua phân tích trên ta thấy nguồn vốn huy động được của Sở giao dịch trong những năm qua ngày càng lớn, cơ cấu vốn thay đổi theo hướng có lợi cho kinh doanh, thể hiện ở chỗ nguồn vốn huy động tăng trưởng nhanh, tạo điều kiện hạ thấp lãi suất đầu vào, chủ động cạnh tranh với các NHTM trên địa bàn. Nguồn vốn có kỳ hạn có xu hướng tăng, đảm bảo chủ động cân đối nguồn vốn đầu tư cho các dự án do cơ sở trực tiếp cho vay, đồng thời cũng tăng cường khả năng về vốn trung và dài hạn cho toàn bộ hệ thống NHNo & PTNT Việt nam.
2.1.2.2 Hoạt động sử dụng vốn
Bảng 2: Tình hình sử dụng vốn tại Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam
( Đơn vị: triệu đồng)
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Số tiền
%
Số tiền
%
±9991/0002
Số tiền
%
±0002/1002
Số tiền
%
Số tiền
%
1. Cho vay ngắn
hạn
93,330
51
127,000
54
33,670
36.1
80,000
17.6
-47,000
-37
2. CV trung và dài hạn
89,670
49
109,000
46
19,330
21.6
374,000
82.4
265,000
243
Tổng sử dụng vốn
183,000
100
236,000
100
53,000
29
454,000
100
218,000
92
Nguồn trích: Bảng cân đối kế toán 1999, 2000, 2001
Tính đến 31.12.2000, tổng dư nợ đạt 236.000 triệu, tăng 29% (tương đương 53.000 triệu) so với năm 1999, trong đó: Dư nợ cho vay ngắn hạn là 127.000 triệu, chiếm 54%; dư nợ cho vay trung và dài hạn là 109.000 triệu, chiếm 46% tổng dư nợ. Theo báo cáo của Sở, doanh số thu nợ đạt 321.000 triệu, trong đó thu nợ quá hạn 4.100 triệu.
Đến năm 2001, tổng dư nợ cho vay là 454.000 triệu, tăng 92% (tương đương 218.000 triệu) so với năm 2000. Cơ cấu dư nợ đã có sự thay đổi lớn cả về lượng lẫn tỷ trọng so với năm 2000: dư nợ ngắn hạn là 80.000 triệu, chiếm 17,6% tổng dư nợ, dư nợ trung dài hạn là 347.000 triệu, chiếm 82,4% tổng dư nợ. Theo báo cáo, doanh số cho vay đã tăng lên là 830.000 triệu, tăng 95% so với năm 2000; doanh số thu nợ đạt 612.000 triệu, tăng 89% so với năm 2000. Trong đó thu nợ quá hạn 5.050 triệu, tăng 950 triệu so với năm 2000.
Đi đôi với việc mở rộng tín dụng, Sở giao dịch luôn quan tâm đến chất lượng và hiệu quả tín dụng, thể hiện ở chỗ: nợ quá hạn đến 31.12.2000 là 8.500 triệu, chiếm 3,6 % tổng dư nợ, giảm 17,7 % so với năm 1999 (30.500 triệu). Đến năm 2001, nợ quá hạn là 8.600 triệu, chiếm 1,9% tổng dư nợ.
Nhìn chung, hoạt động cho vay trong những năm qua có sự tăng trưởng về tất cả doanh số cho vay, doanh số thu nợ, dư nợ và chất lượng tín dụng được nâng cao. Ngoài việc duy trì và mở rộng tín dụng với các doanh nghiệp vay vốn đã có uy tín, trong năm 2001, Sở giao dịch đã tiếp cận và thiết lập quan hệ với các doanh nghiệp lớn như: Tổng công ty hàng hải Việt nam, Công ty XNK vật tư đường biển, Công ty than nội địa- Tổng công ty than Việt nam … Tiếp nhận và hoàn thiện hồ sơ vay đồng tài trợ dự án mở rộng Nhà máy thuỷ điện Uông Bí, dự án của CHINFON Hải Phòng… Các khoản cho vay mới được thực hiện đúng quy trình nghiệp vụ, thu hồi đủ nợ đến hạn cả gốc và lãi.
Với những con số trên đây cũng đủ thấy sự cố gắng lớn lao của Ban lãnh đạo và nhân viên trong Sở giao dịch trong những năm qua. Mặc dù mới ra đời và đi vào hoạt động, trên địa bàn còn có rất nhiều TCTD cùng kinh doanh nhưng Sở giao dịch đã biết phát huy thế mạnh của mình, tạo được niềm tin đối với khách hàng và không ngừng khẳng định vị trí của mình trong hệ thống Ngân hàng cũng như trong nền kinh tế quốc dân..
2.1.2.3 Công tác kế toán- thanh toán
Do đặc thù là sở đầu mối về thanh toán quốc tế thực hiện các nhiệm vụ hạch toán về vốn và các quỹ của trung tâm điều hành liên quan đến khách hàng của các chi nhánh thành viên trong hệ thống nên khối lượng nghiệp vụ tăng nhanh, bình quân 900 chứng từ / ngày. Công tác kế toán đã có nhiều cải tiến nên các nghiệp vụ phát sinh đều được hạch toán kịp thời, chính xác, đáp ứng yêu cầu của khách hàng và của chi nhánh.
Tính đến năm 2001, Sở giao dịch đã mở mới 1.106 tài khoản trong đó có 953 tài khoản cá nhân, 30 tài khoản ATM, 123 tài khoản các công ty, nâng tổng số tài khoản quản lý lên 2.028 tài khoản. Đặc biệt, sau khi NHNo & PTNT Việt nam ký hợp đồng thanh toán nhanh với các Ngân hàng nước ngoài như CITYBANK, ABN, AMRO… và KBNN TW mở tài khoản tại Sở giao dịch thì khối lượng thanh toán tăng nhanh nhưng công tác hạch toán, kế toán vẫn đảm bảo nhanh chóng, chính xác và an toàn.
Trong năm 2001, Sở giao dịch đã tham gia chương trình thử nghiệm thanh toán liên Ngân hàng đạt kết quả tốt, đóng góp tích cực vào đề án hiện đại hoá của Sở giao dịch. Bên cạnh đó, Sở giao dịch đã thực hiện dịch vụ thanh toán các dự án nước ngoài kịp thời, an toàn, chính xác. Công tác ứng dụng công nghệ tin học vào thanh toán, kế toán thực hiện tốt góp phần hạch toán nhanh chóng, chính sách, nâng cao năng suất lao động.
Trong 2 năm qua, Sở giao dịch đã nhận thêm dịch vụ chi trả tiền lương cho một số đơn vị qua hình thức tài khoản cá nhân nên công tác thanh toán từ đó cũng được mở rộng hơn.
2.1.2.4 Kết quả tài chính
Bảng 3: Tình hình kết quả tài chính của Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam
(Đơn vị: triệu đồng)
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Số tiền
Số tiền
±9991/0002
Số tiền
±0002/1002
Số tiền
%
Số tiền
%
1. Tổng thu nhập
124,988
126,238
1,250
1
292,300
166,062
132
2. Tổng chi phí
101,752
95,613
-6,139
-6
233,800
138,187
145
Chênh lệch thu chi
23,236
30,625
7,389
31.8
58,500
27,875
91
Nguồn trích: Bảng cân đối kế toán 1999, 2000, 2001
Năm 1999, Sở giao dịch có kết quả thu nhập lớn hơn chi phí 23.236 triệu. Năm 2000, con số này là 30.625 triệu và đến năm 2001 thì chênh lệch giữa thu nhập và chi phí là 58.500 triệu, tăng 91% so với năm 2000 và tăng 152 % so với năm 1999. Đây là kết quả nỗ lực, cố gắng không ngừng của toàn thể ban lãnh đạo và cán bộ công nhân viên Ngân hàng. Đặc biệt là trên địa bàn có hơn 50 NHTM quốc doanh, NHTM cổ phần, Ngân hàng nước ngoài…cùng hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng và trong giai đoạn cạnh tranh ngày càng gay gắt diễn ra không chỉ giữa các Ngân hàng với nhau mà còn giữa Ngân hàng với các tổ chức khác như Bảo hiểm, Bưu điện…thì đây là một thành công lớn trong hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch.
2.2 Thực trạng công tác TTKDTM tại Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam
2.2.1 Tình hình thanh toán chung
Hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng là một trong 4 định hướng lớn của Ban lãnh đạo NHNN đề ra cho toàn ngành. Thực hiện chủ trương đó trong lĩnh vực thanh toán, kế toán của hệ thống Ngân hàng đã đạt được những kết quả to lớn và rất cơ bản. Việc chuyển đổi toàn bộ hệ thống thanh toán, kế toán thủ công sang công tác điện tử, tin học đã góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy sự nghiệp đổi mới hoạt động Ngân hàng. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, của ngành Ngân hàng, Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam ngay từ khi mới đi vào hoạt động đã rất quan tâm hoàn thiện, cải tiến công tác trên các mặt nội dung, hình thức cũng như công tác phục vụ và đã thu được những kết quả khả quan, cụ thể: Các nguồn chu chuyển tiền tệ ngày càng được tập trung qua Ngân hàng nhiều hơn, thể hiện ở doanh số thanh toán qua Ngân hàng ngày càng tăng trong đó doanh số TTKDTM không ngừng được nâng lên, góp phần xoá đi tình trạng khan hiếm tiền mặt do tâm lý thích dùng tiền mặt của khách hàng, từ đó tiết kiệm chi phí cho việc in ấn, vận chuyển, bảo quản tiền mặt….
Để thấy được thực trạng công tác TTKDTM tại Sở giao dịch ta xem xét bảng sau:
Bảng 4: Tình hình thực hiện công tác thanh toán tại Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam
( Đơn vị: triệu đồng)
Nhìn vào bảng số liệu, ta thấy doanh số thanh toán qua Ngân hàng của Sở giao dịch tăng từ 194.533.302 triệu năm 1999 lên 373.782.012 triệu năm 2000 với mức tăng là 179.248.710 triệu tương đương 92,14%. Đến cuối năm 2001, tổng thanh toán đạt 489.098.994 triệu đồng, tăng 115.316.982 triệu so với năm 2000, tương đương với tỷ lệ tăng 30, 85%.
Trong đó, ta thấy năm 1999 TTKDTM đạt doanh số 194.502.770 triệu, chiếm 99,73% tổng thanh toán. Đến cuối năm 2000, con số này là 372.904.689 triệu, chiếm 99,77% trong tổng thanh toán , tăng so với năm 1999 là 178.901.919 triệu , tương đương với tỷ lệ tăng 92,21%. Tính đến 31.12.2001, doanh số TTKDTM là 448.216.132 triệu, chiếm 99,8% tổng thanh toán, tăng 115.221.443 triệu so với năm 1999, tương đương với tỷ lệ tăng 30,9%. Điều này có nghĩa là thanh toán bằng tiền mặt đã giảm xuống cả về doanh số lẫn tỷ trọng trong tổng thanh toán.
Như vậy, qua số liệu mô tả ở trên thì TTKDTM luôn chiếm một tỷ trọng rất cao trong tổng thanh toán của Sở giao dịch, điều đó chứng tỏ hình thức TTKDTM đang ngày càng được sử dụng một cách phổ biến và dần khẳng định được chỗ đứng trong nền kinh tế. Đó cũng là kết quả tất yếu của việc đổi mới chính sách, chế độ của hệ thống Ngân hàng , kết hợp với đội ngũ cán bộ trẻ hoá, có năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức tốt và nhiệt tình với công việc.
Bên cạnh đó, qua số liệu Bảng 4, ta thấy tình hình công tác TTKDTM ở Sở giao dịch là lý tưởng với một tỷ lệ cao (luôn trên mức 99%) nhưng con số này không phản ánh tình hình TTKDTM của nền kinh tế. Nguyên nhân của khối lượng TTKDTM cao là do NHNo & PTNT Việt nam ký hợp đồng thanh toán nhanh với các Ngân hàng nước ngoài như CITYBANK, ABN, AMRO…. Đặc biệt, với nhiệm vụ là sở đầu mối trong toàn hệ thống thì ngoài khách hàng là các tổ chức kinh tế, các cá nhân, Sở giao dịch còn có quan hệ với các Ngân hàng trong và ngoài nước, hơn nữa, khách hàng của Sở giao dịch thường là khách hàng lớn do đó phần thanh toán nội bộ thường chiếm khoảng 70% tổng giá trị TTKDTM. Như vậy, có thể noí tình hình hoạt động TTKDTM của Sở cũng giống như các Ngân hàng lớn trên địa bàn Hà nội là đang trên đà phát triển, bước đầu đã có sự tăng trưởng đáng khích lệ. Góp phần vào thành công đó không thể không kể đến nỗ lực của bản thân Ngân hàng trong việc đổi mới công tác thanh toán, cải tiến và đa dạng hoá các thể thức thanh toán làm cho quá trình thanh toán không ngừng được hoàn thiện.
Tuy nhiên, trong kỳ, ta thấy thanh toán bằng tiền mặt giảm về số tương đối nhưng lại tăng lên về số tuyệt đối (Năm 2001 tăng 95.539 triệu so với năm 2000). Tỷ lệ này chủ yếu là thanh toán tiết kiệm cho dân cư, chi lương cho các đơn vị có tài khoản tiền gửi tại Sở giao dịch, đặc biệt là khách hàng mở tài khoản cá nhân vẫn sử dụng thanh toán bằng tiền mặt. Thực tế này cho thấy tâm lý ưa dùng tiền mặt trong nhân dân vẫn là hiện tượng phổ biến. Đây là vấn đề đòi hỏi ngành Ngân hàng nói chung và Sở giao dịch nói riêng phải quan tâm để giảm bớt tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt, tạo thói quen TTKDTM trong dân cư.
Trong quá trình hoạt động, quán triệt các quyết định, Nghị định, thông tư hướng dẫn của chính phủ, của NHNo cũng như sự chỉ đạo, điều hành cảu ban lãnh đạo Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam, phòng kế toán đã có nhiều cố gắng trong việc tổ chức thực hiện nghiệp vụ đem lại kết quả khả quan. Công tác TTKDTM được áp dụng rộng rãi, chiếm ưu thế trong thanh toán, phù hợp với điều kiện mới của nền kinh tế.
2.2.2 Tình hình vận dụng các hình thức thanh toán
Hiện nay, Sở giao dịch đã áp dụng hầu hết các thể thức TTKDTM. Đi sâu nghiên cứu, phân tích tình hình sử dụng các công cụ TTKDTM trong những năm qua của Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam ta có bảng số liệu sau:
Bảng 5: Tình hình áp dụng các thể thức TTKDTM tại Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam
Đơn vị: triệu đồng
Qua bảng số liệu, ta thấy rằng trong tổng doanh số TTKDTM thì thanh toán bằng UNC vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất chứng tỏ hình thức này được sử dụng phổ biến nhất thể hiện ở cả về doanh số lẫn số món thanh toán. Qua khảo sát thực tế tại Sở giao dịch cho thấy khách hàng rất ưa sử dụng hình thức thanh toán này. Ngược lại, ta lại thấy thể thức thanh toán bằng UNT đạt doanh số thấp nhất so với tổng TTKDTM . Về tình hình thanh toán Séc, tuy chiếm tỷ trọng không cao so với các thể thức TTKDTM khác nhưng nó tương đối ổn định qua các năm, điều đó chứng tỏ thanh toán bằng Séc luôn được khách hàng ưa chuộng và sử dụng một cách thường xuyên. NPTT cũng chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng giá trị TTKDTM. Trong khi đó, hai hình thức TTD và thẻ thanh toán lại hoàn toàn chưa được sử dụng nhưng nhìn chung về doanh số, TTKDTM luôn có chiều hướng tăng.
a). Tình hình sử dụng Séc
Hiện nay, tại Sở giao dịch sử dụng hai loại séc đó là séc chuyển khoản và séc bảo chi. Như ta đã biết, Séc là một trong những phương tiện TTKDTM rất hữu ích, nó được xem là một công cụ thanh toán tiến bộ nhất trong các hình thức thanh toán truyền thống của Ngân hàng vì thủ tục có phần đơn giản, thời gian nhanh, kịp thời, dễ sử dụng.
Bảng 6: Tình hình thanh toán séc tại Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam
Đơn vị: triệu đồng
Qua số liệu bảng (6) ta thâý: tổng doanh số thanh toán bằng Séc của năm 1999 là 19.372 triệu đồng, chiếm 0,001 % tổng số TTKDTM với số món là 786 món, chiếm 0,6% tổng số món. Đến năm 2000, thanh toán séc đã tăng thêm 936 món với số tiền là 23.678 triệu đồng đưa doanh số thanh toán séc của năm 2000 lên 43.050 triệu, chiếm 0,012% tổng doanh số TTKDTM với 1.722 món tương đương 0,76% tổng số món thanh toán. Năm 2001, thanh toán bằng séc tiếp tục tăng cả về số món và số tiền, cụ thể số món là 2.214 món, chiếm 0,79% tổng số món thanh toán, vượt 492 món so với năm 2000, đưa doanh số thanh toán lên 69.778 triệu, chiếm 0,014% tổng giá trị TTKDTM, tăng 26.728 triệu so với năm 2000, tương đương với tỷ lệ tăng là 62,1%.
Với những con số trên, ta nhận thấy, tình hình thanh toán séc của Sở giao dịch tương đối ổn định và đang dần khẳng định được vị trí xứng đáng của mình trong TTKDTM. Để có cái nhìn cụ thể hơn về hình thức này, xác định được hạn chế và nguyên nhân của nó trong việc sử dụng séc từ đó có những biện pháp khắc phục, ta sẽ đi phân tích từng loại séc:
a.1). Séc chuyển khoản
Đây là hình thức thanh toán đơn giản, thuận tiện và nhanh chóng; tuy nhiên, nó lại ít được sử dụng tại Sở giao dịch. Điều này được thể hiện rõ qua các số liệu sau:
Trong năm 2001, Sở giao dịch đã thực hiện được 980 món với tổng số tiền là 22.878 triệu đồng, chiếm 32,8% trong tổng doanh số thanh toán séc tại Sở và chiếm 0,005% tổng doanh số TTKDTM. Nếu so với năm 2000 thì doanh số thanh toán bằng séc chuyển khoản tăng 9.348 triệu với số món tăng lên là 242 món. So với năm 1999 thì năm 2001 tăng được 731 món với mức tăng về doanh số là 16.900 triệu tương ứng với tỷ lệ tăng là 282,7%.
Tỷ trọng thanh toán bằng séc chuyển khoản trong thanh toán bằng séc nói riêng và TTKDTM nói chung trong những năm qua còn thấp, tuy có chiều hướng gia tăng nhưng không lớn lắm. Qua khảo sát thực tế tại Sở giao dịch ta thấy, những món có giá trị cao, người bán không chắc chắn khả năng thanh toán của người mua thì họ thanh toán với nhau bằng các thể thức khác. Bởi lẽ:
- Séc chuyển khoản có thủ tục khá đơn giản: Do người mua phát hành và trả trực tiếp cho người thụ hưởng chứ không phải qua sự kiểm soát của Ngân hàng. Chính vì đơn giản như vậy nên khi xảy ra phát hành quá số dư thì quyền lợi của người thụ hưởng bị xâm phạm.
- Người thụ hưởng bị chiếm dụng vốn do nguyên tắc hạch toán ghi nợ trước, có sau của ngân hàng.
- Phạm vi thanh toán của séc chuyển khoản bị hạn chế
Cũng từ tính rủi ro cao cho người thụ hưởng như vậy nên tâm lý của người thụ hưởng ít khi chấp nhận than._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29158.doc