Mục lục
Trang
A - phần mở đầu
Sở hữu là một phạm trù kinh tế, phản ánh sự thống nhất biện chứng giữa sở hữu với tư cách là hình thức pháp lý, là điều kiện cần thiết của sản xuất, với sở hữu được thực hiện về mặt kinh tế, mặt kết quả thực tế trong quá trình sản xuất và tái sản xuất.
Nước ta thực hiện con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về bản chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qu
22 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1612 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiếu hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, do đó xuất hiện nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế. Đại hội Đảng lần thứ IX vừa qua đã xác định 6 hình thức sở hữu ở nước ta hiện nay, bao gồm: sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư bản tư nhân, sở hữu cá thể, tiểu chủ, sở hữu hỗn hợp và một hình thức sở hữu mới là sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài. Tương ứng là 6 thành phần kinh tế: nhà nước, tập thể, cá thể tiểu chủ, tư bản tư nhân, tư bản nhà nước, đầu tư nước ngoài cùng song song tồn tại và phát triển trong nền kinh tế. Các loại hình thức kinh tế này rất đa dạng, không cùng chung quyền lợi nên việc theo dõi, kiểm tra và kết hợp các loại hình này trong cùng một nền kinh tế gặp khó khăn. Do đó cần thiết phải nghiên cứu các phạm trù sở hữu và thành phần kinh tế nhằm xác định, tách biệt rõ quyền lợi, nhiệm vụ của từng phạm trù và từng thành phần kinh tế trong nền kinh tế. Việc nghiên cứu này giúp nhà nước điều hoà các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế để từ đó đưa ra chính sách phù hợp cho phát triển và kết hợp phát triển các thành phần kinh tế, các phạm trù sở hữu, nhanh chóng đưa nền kinh tế nước ta tăng trưởng và phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
B- Nội dung
I- sở hữu và cơ cấu sở hữu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1. Sở hữu và tầm quan trọng của sở hữu về tư liệu sản xuất
1.1. Sở hữu
Trong các tác phẩm của Mác luôn xuyên suốt một quan điểm: sở hữu - đó không phải là vật dụng mà con người có quyền sở hữu nó, càng không phải là quan hệ của con người với vật dụng. Sở hữu là mối quan hệ xã hội tồn tại khách quan giữa người với người trong quá trình sản xuất.
Theo Mác: “ Nơi nào không có một hình thái sở hữu nào cả thì ở đó cũng không thể có một nền sản xuất nào cả, do đó, cũng không có một xã hội nào cả”. Sở hữu - đó là những quan hệ về các điều kiện khách quan của sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng những của cải vật chất. Hình thức, mức độ và phạm vi sở hữu phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong từng thời kì lịch sử nhất định. Sự thay đổi các hình thức sở hữu trong lịch sử không do ý chí của con người quyết định mà là quá trình phát triển lịch sử tự nhiên.
Để hiểu rõ hơn về sở hữu ta cần xác định các khái niệm :
Chủ thể sở hữu (hay chủ sở hữu): là người có quyền chiếm hữu đối tượng (hay khách thể) sở hữu . Chủ thể sở hữu bao giờ cũng là một người cụ thể hoặc một cộng đồng người cụ thể.
Đối tượng sở hữu (hay khách thể sở hữu): là thực thể vật chất biểu hiện dưới dạng tự nhiên, đất đai, năng lượng, thông tin, của cải, trí tuệ... hoàn toàn hay một phần thuộc về chủ thể sở hữu.
Quan hệ sở hữu: bao gồm quan hệ giữa chủ thể sở hữu và đối tượng sở hữu, và quan hệ giữa các chủ thể sở hữu với nhau. Những quan hệ này mang tính chất kinh tế - xã hội, quyết định các hình thức phân phối tài sản, sản phẩm, thu nhập, giá trị giữa các chủ thể sở hữu.
Quyền sở hữu: nó tương đối ổn định, tĩnh tại nhưng đôi khi chỉ là quyền danh nghĩa. Đó là trường hợp chủ thể sở hữu không thực hiện nó, không sử dụng nó mà lại giao nó cho người khác và chỉ giữ quyền thu nhập về sở hữu.
1.2. Tầm quan trọng của sở hữu về tư liệu sản xuất trong đời sống kinh tế - xã hội.
Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng cơ cấu, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi nhiều cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế, xã hội. Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.
Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.
Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
2. Cơ cấu sở hữu ở nước ta hiện nay
ở nước ta, nhiều năm trước đây đã ồ ạt xoá bỏ chế độ tư hữu, xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất dưới hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Đại hội lần thứ VI của Đảng đã phát hiện và kiên quyết thông qua đổi mới để khắc phục sai lầm đó, bằng cách thừa nhận vai trò và sự tồn tại của chế độ tư hữu trong tính đa dạng các hình thức sở hữu. Đây là một bước ngoặt về mặt nhận thức lý luận mang tầm vóc chiến lược mới, thể hiện sự đổi mới từ gốc của Đảng ta.
Hiện nay, cơ cấu sở hữu ở nước ta bao gồm 6 hình thức:
2.1. Sở hữu nhà nước.
Trước đây chúng ta thường dùng khái niệm sở hữu toàn dân, một khái niệm rất trừu tượng, mơ hồ.Sở hữu toàn dân có nghĩa là vô chủ, không thuộc ai cả, cũng không có cơ chế nào để thực hiện cơ chế đó. Vì vậy đòi hỏi thay đổi khái niệm thành “sở hữu nhà nước”.
Sở hữu nhà nước bao gồm tất cả các lực lượng kinh tế vật chất trong các doanh nghiệp nhà nước. Trong các ngân hàng, kho bạc, ngân sách, dự trữ quốc gia... mà nhà nước là chủ sở hữu. Trong các xã hội còn tồn tại nhà nước tất yếu tồn tại sở hữu nhà nước. Dưới chủ nghĩa tư bản cũng có sở hữu nhà nước, bởi vậy nó không phải là hình thức sở hữu riêng có của chủ nghĩa xã hội. Sự khác nhau giữa hai hình thức sở hữu nhà nước XHCN và tư bản chủ nghĩa là do tính chất của nhà nước và tính chất của quan hệ phân phối khác nhau quyết định.
Trong tính đa dạng của các hình thức sở hữu, sở hữu nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Khái niệm sở hữu nhà nước có nội dung và phạm vi rộng lớn, trong đó có doanh nghiệp nhà nước. Do vậy, không phải duy nhất chỉ có doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò chủ đạo mà là kinh tế nhà nước trong đó doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận giữ vai trò chủ đạo.
Sở hữu nhà nước có thể tồn tại dưới các hình thức doanh nghiệp 100% vốn của nhà nước, dưới hình thức doanh nghiệp mà vốn của nhà nước nắm đa phần hay nắm tỉ trọng cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt, hoặc có cổ phần trong các hình thức doanh nghiệp khác với tỉ trọng chưa nhiều.
2.2. Sở hữu tập thể
ở nước ta trước đây, hình thức sở hữu tập thể chủ yếu tồn tại dưới hình thức hợp tác xã (gồm cả hợp tác xã nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp), với nội dung là cả giá trị lẫn giá trị sử dụng của đối tượng sở hữu đều là của chung, mà các xã viên là chủ sở hữu. Chính vì vậy mà với các hình thức sở hữu này, quyền mua, bán hoặc chuyển nhượng tư liệu sản xuất, trong thực tế sản xuất và lưu thông ở nước ta đã diễn ra hết sức phức tạp. Tuy nhiên, hợp tác xã là một hình thức sở hữu kinh tế tiến bộ trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.Vì vậy chúng ta cần phải duy trì và phát triển hơn nữa hình thức sở hữu này khi xây dựng chủ nghiã xã hội . “ Chế độ của những xã viên hợp tác xã văn minh là chế độ xã hội chủ nghĩa”.
Hợp tác xã là nhu cầu thiết thân của kinh tế hộ gia đình, của nền sản xuất hàng hoá. Khi lực lượng sản xuất trong nông nghiệp và công nghiệp nhỏ phát triển tới một trình độ nhất định, nó sẽ thúc đẩy quá trình hợp tác. Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hoá, các nhu cầu kinh tế về vốn, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm... đòi hỏi các hộ sản xuất phải hợp tác với nhau mới có khả năng cạnh tranh và phát triển. Chính nhu cầu đó đã liên kết người lao động lại với nhau và làm nảy sinh quan hệ sở hữu tập thể. Thực tiễn cho thấy, ở nước ta hiện nay, đã có những hình thức hợp tác xã kiểu mới ra đời do nhu cầu tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường. Đó là hình thức hợp tác xã được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên, phân phối theo kết quả lao động và theo cổ phần, mỗi xã viên có quyền như nhau đối với công việc chung. Điều này cho thấy, kết cấu bên trong của sở hữu tập thể đã thay đổi phù hợp với thực tiễn ở nước ta hiện nay.
2.3. Sở hữu tư bản tư nhân
Hiện nay, ở nước ta kinh tế tư bản tư nhân đang hình thành và được phép phát triển. Đây là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, sở hữu tư bản tư nhân, bao gồm cả doanh nghiệp của các nhà tư sản và các đơn vị kinh tế mà phần lớn vốn do một hoặc một số tư nhân góp lại, thuê lao động sản xuất kinh doanh dưới hình thức xí nghiệp tư doanh hoặc công ty cổ phần tư nhân. Nó cũng bao gồm cả hình thức kinh tế tư bản tư nhân nước ngoài đầu tư 100% vốn, hoặc nắm giữ tỷ lệ vốn khống chế. Trong thời kỳ quá độ, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không còn nguyên vẹn nữa. Bởi thế, kinh tế tư bản tư nhân ở nước ta chỉ hoạt động với tư cách là một thành phần kinh tế trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, được bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp.
2.4. Sở hữu cá thể tiểu chủ
Trước đây, kinh tế cá thể, tiểu chủ ở nước ta chủ yếu có tính chất tự cấp, tự túc, lại bị trói buộc bởi cơ chế quản lý. Hiện nay, nó đang được khuyến khích phát triển và đang có xu hướng phát triển thuận lợi. Kinh tế cá thể, tiểu chủ có mối quan hệ chặt chẽ với kinh tế hợp tác xã, vì thế hình thức sở hữu cá thể cũng liên quan mật thiết với hình thức sở hữu tập thể. Kinh tế cá thể, tiểu chủ bao gồm những đơn vị kinh tế và những hoạt động kinh doanh dựa vào nguồn vốn và sức lao động của mỗi cá nhân, nhóm nhỏ là chủ yếu đang chiếm một vị trí quan trọng trong nhiều ngành nghề ở nông thôn cũng như ở thành thị. Nó có điều kiện phát huy nhanh và có hiệu quả tiềm năng về vốn, sức lao động, tay nghề của từng nhóm và từng người dân. Tại Đại hội toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã chỉ rõ: “ Kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng, lâu dài. Giúp đỡ kinh tế cá thể, tiểu chủ giải quyết các khó khăn về vốn, về khoa học và công nghệ, về thị trường tiêu thụ sản phẩm. Hướng dẫn kinh tế cá thể, tiểu chủ, vì lợi ích thiết thân và nhu cầu phát triển của sản xuất, từng bước đi vào làm ăn hợp tác một cách tự nguyện, hoặc làm vệ tinh cho các doanh nghiệp nhà nước hay hợp tác xã”.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ thực chất là thành phần kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ. Nó được coi là sở hữu tư nhân, nhưng không phải là một chế độ sở hữu độc lập. Bởi vậy, nó không thể tạo ra quan hệ sản xuất, hoặc đại diện cho một quan hệ sản xuất mà chỉ là kết quả tất yếu của quan hệ sản xuất đang tồn tại và phản ánh bản chất của quan hệ sản xuất đó.Thành phần kinh tế này cũng luôn chịu tác động của những quy luật kinh doanh và luôn bị phân tán, vì thế cần phải có các biện pháp kinh tế để tác động, hướng dẫn và cải biến nó theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.5. Sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài
Loại hình sở hữu này mới được thừa nhận, được đưa ra nhằm khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài đầu tư vào nước ta. Cùng với việc chấp nhận hình thức sở hữu này, nhà nước đã từng bước thống nhất khung luật pháp, chính sách và điều kiện kinh doanh áp dụng cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Hiện nay, số lượng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam khá lớn và ngày càng gia tăng, cơ cấu các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng cao. Trong 5 năm 1996 - 2000, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào thực hiện đạt khoảng 10 tỷ USD, gấp 1,5 lần so với 5 năm trước. Năm 2000, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra 34% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp, khoảng 23% kim ngạch xuất khẩu (chưa kể dầu khí) và đóng góp trên 12% GDP của cả nước. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã thu hút trên 35 vạn lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp làm việc trong các ngành xây dựng, thương mại, dịch vụ liên quan; góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ công nghệ, trình độ quản lý và mở rộng thị trường.
Những số liệu trên cho thấy đầu tư nước ngoài đã trở nên cần thiết, là thành phần không thể thiếu trong quá trình phát triển kinh tế nước ta. Vì vậy, hình thức sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài là một trong 6 hình thức sở hữu chính cần quan tâm , cần có sự chỉ đạo của Nhà nước .
2.6. Sở hữu hỗn hợp
Đây là hình thức sở hữu có sự tham gia của nhiều loại chủ thể khác nhau về tính chất. Có thể nói đây là một loại hình kinh tế trung gian, có tính chất đan xen giữa thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa và thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện nền kinh tế thế giới hiện đang có nhiều biến đổi, nhìn chung các nước trên thế giới, trong đó có nước ta, thường có ba loại chủ thể kết hợp với nhau để tạo ra các hình thức sở hữu hỗn hợp khác nhau. Đó là sự kết hợp, liên kết giữa các chủ thể: nhà nước, tập thể và tư nhân để tạo nên các dạng sở hữu sinh động như: nhà nước và nhân dân; nhà nước và tập thể; nhà nước, tập thể và tư nhân; tập thể và tư nhân...
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, chúng ta còn phải sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, hay hình thức kinh tế tư bản nhà nước làm phương tiện và cứu cánh để phát triển. Bởi chủ nghĩa tư bản nhà nước, theo V.I.Lênin, là một hình thức phổ biến trong thời kỳ quá độ, và sự tồn tại của nó là thực sự cần thiết. Đây là một hình thức tổ chức kinh tế, trong đó có phần tham dự của nhà nước và tư nhân với nhiều hình thức cụ thể, trên mọi lĩnh vực sản xuất, lưu thông, dịch vụ, tín dụng...
ở nước ta hiện nay, kinh tế tư bản nhà nước bao gồm các hình thức hợp tác, liên doanh giữa kinh tế với tư bản tư nhân trong nước và hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản nước ngoài. Nó có ưu thế mạnh hơn so với tư bản tư nhân ở chỗ nó đã kết hợp được sức mạnh tổng hợp của hai thành phần kinh tế có tiềm lực lớn nhất trong thời kỳ quá độ. Bởi vậy, hình thức sở hữu hỗn hợp ở nước ta là cái có khả năng thực hiện tập trung hoá, chuyên môn hoá sản xuất và tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, có sức cạnh tranh lớn trên thị trường trong và ngoài nước.
Hiện nay, chúng ta đang chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, đó chính là một giải pháp nhằm phát triển kinh tế tư bản nhà nước, đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Tuy nhiên, vấn đề cổ phần hoá ở nước ta còn quá mới mẻ, cần phải nhận thức một cách đầy đủ, áp dụng từng bước, bắt đầu bằng thí điểm việc bán cổ phần cho người nước ngoài.
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, mỗi hình thức sở hữu nói trên có vị trí và vai trò riêng của chúng. Địa vị lịch sử của chúng phụ thuộc vào sự phát triển của lực lượng sản xuất, vào trình độ quản lý, vào tiến trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa .
II- Cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta
1. Tính tất yếu tồn tại các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Theo Lênin, vận dụng vào kinh tế, thời kỳ quá độ có nghĩa là chế độ hiện tại có những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, Lênin khẳng định trong thời kỳ quá độ nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nền kinh tế quá độ.
Trong bất cứ hình thái kinh tế - xã hội nào cũng có phương thức sản xuất giữ vị trí chi phối. Ngoài ra, còn có phương thức sản xuất tàn dư của xã hội trước và phương thức sản xuất mầm mống của xã hội tương lai. Các phương thức sản xuất này ở vào địa vị lệ thuộc, bị chi phối bởi phương thức sản xuất thống trị
2. Cơ cấu các thành phần kinh tế ở nước ta
2.1. Kinh tế nhà nước
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế bao gồm các doanh nghiệp nhà nước; các tài nguyên quốc gia và tài sản thuộc sở hữu nhà nước như đất đai, hầm mỏ, rừng, biển, ngân sách, các quỹ dự trữ ngân hàng nhà nước, hệ thống bảo hiểm, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; phần vốn nhà nước góp vào các doanh nghiệp thuộc những thành phần kinh tế khác.
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân thể hiện chủ yếu trên các mặt:
- Đi đầu về nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả, nhờ đó mà thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế quốc dân.
- Bằng nhiều hình thức hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa .
- Tăng cường sức mạnh vật chất làm chỗ dựa để nhà nước thực hiện có hiệu lực chức năng điều tiết, quản lý vĩ mô nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa .
- Cùng với kinh tế hợp tác (mà nòng cốt là các hợp tác xã) dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân và chế độ xã hội mới.
2.2. Kinh tế tập thể (hợp tác)
Thành phần kinh tế này với nòng cốt là các hợp tác xã là sự liên kết tự nguyện của những người lao động nhằm kết hợp sức mạnh của từng thành viên với sức mạnh tập thể để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề của sản xuất kinh doanh và đời sống.
Hiện nay, nước ta đang có xu hướng phát triển hình thức hợp tác xã kinh doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngành. Nhà nước sẽ giúp hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học công nghệ, nắm bắt thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã, giải quyết nợ tồn đọng. Ngoài ra còn khuyến khích việc tích luỹ, phát triển có hiệu quả vốn tập thể trong hợp tác xã.
Kinh tế hợp tác xã cũng như kinh tế nhà nước là những thành phần kinh tế trong đó người lao động làm chủ (mặc dù ở mức độ khác nhau) và sản xuất được tiến hành vì lợi ích của người lao động và toàn thể xã hội.
2.3. Kinh tế cá thể, tiểu chủ
Kinh tế cá thể là thành phần kinh tế tư hữu nhỏ mà thu nhập dựa hoàn toàn vào lao động và vốn của bản thân và gia đình. Kinh tế tiểu chủ cũng là hình thức kinh tế tư hữu nhưng có thuê lao động, tuy nhiên thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào sức lao động và vốn của bản thân và gia đình.
ở nước ta, kinh tế cá thể, tiểu chủ hiện đang có vị trí rất quan trọng trong nhiều ngành nghề ở nông thôn và thành thị, có ddieuf kiện phát huy nhanh và hiệu quả tiềm năng về vốn, sức lao động, tay nghề của từng gia đình, từng người lao động. Do dó, việc mở rộng sản xuất, kinh doanh của kinh tế cá thể và tiểu chủ không bị hạn chế.
Hiện nay, thành phần kinh tế này phần lớn hoạt dộng dưới hình thức hộ gia đình đang là một bộ phận đông đảo, có tiềm năng to lớn, có vị trí quan trọng lâu dài. Đối với nước ta, cần phát triển mạnh mẽ thành phần kinh tế này để vừa góp phần tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội, vừa giải quyết nhiều việc làm cho xã hội. Nhà nước đã và đang tạo điều kieenjvaf giúp đỡ để phát triển; khuyến khích các hình thức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển hơn nữa.
2.4. Kinh tế tư bản tư nhân
Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế mà sản xuất kinh doanh dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê.
Trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thành phần kinh tế này còn có vai trò đáng kể xét về phương diện phát triển lực lượng sản xuất, xã hội hoá sản xuất cũng như về phương diện giải quyết các vấn đề xã hội. Cho nên, chính sách của Đảng và Nhà nước ta là khuyến khích tư bản tư nhân bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất, khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động; liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước.
2.5. Kinh tế tư bản nhà nước
Thành phần kinh tế này bao gồm các hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản nước ngoài.
Trong thời kỳ quá độ ở nước ta, kinh tế tư bản nhà nước có vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý... của các nhà tư bản vì lợi ích của bản thân họ cũng như của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Do vậy, sự phát triển thành phần kinh tế này là một đòi hỏi khách quan. Ngày nay, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện một cách rộng rãi và lâu dài các hình thức kinh tế tư bản nhà nước để phát triển lực lượng sản xuất phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước xây dựng chủ nghĩa xã hội.Cụ thể: phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh.
2.6. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Đây là thành phần kinh tế mới được đưa ra trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Thành phần kinh tế này bao gồm phần vốn đầu tư của nước ngoài vào các cơ sở sản xuất, kinh doanh ở nước ta. Chủ trương của ta là tạo điều kiện để thành phần kinh tế này phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng két cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm.
Trong chính sách phát triển các thành phần kinh tế, Đảng ta chủ trương phát triển các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nước và ngoài nước; phát triển hình thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn đầu tư xã hội; nhân rộng mô hình hợp tác, liên kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ nông thôn; phát triển các loại hình trang trại với quy mô phù hợp trên từng địa bàn.
3. Thực tiễn giải quyết quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế ở nước ta vừa qua
Đại hội Đảng lần thứ IX vừa qua đã có những đánh giá về kết quả thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội 1991 - 2000, đặc biệt trong việc giải quyết quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế ở nước ta với những thành tựu, hạn chế như sau:
Về thành tựu
Việc Nhà nước chú trọng phát triển mọi hình thức sở hữu đã thúc đẩy sự hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế; doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp lại một bước, thích nghi dần với cơ chế mới, hình thành những tổng công ty lớn trên nhiều lĩnh vực then chốt; kinh tế tập thể có bước chuyển đổi và phát triển đa dạng theo phương thức mới; kinh tế hộ phát huy tác dụng rất quan trọng trong nông nghiệp; kinh tế cá thể, tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh. Cơ chế quản lý và phân phối có nhiều đổi mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Cơ cấu thành phần kinh tế đã có sự dịch chuyển theo hướng sắp xếp lại và đổi mới khu vực kinh tế nhà nước, phát huy tiềm năng khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Đến năm 2000, tỷ trọng khu vực kinh tế nhà nước trong GDP vào khoảng 39%; khu vực kinh tế tập thể 8,5%; khu vực kinh tế tư nhân 3,3%; khu vực kinh tế cá thể 32%; khu vực kinh tế hỗn hợp 3,9% và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 13,3%.
Sau mấy năm đầu thực hiện chiến lược, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội với những kết quả thật khả quan: tổng sản phẩm trong nước sau 10 năm tăng hơn gấp đôi (2,07 lần). Tích luỹ nội bộ của nền kinh tế từ mức không đáng kể, đến năm 2000 đã đạt 27% GDP. Từ tình trạng hàng hoá khan hiếm nghiêm trọng, nay sản xuất đã đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nền kinh tế, tăng xuất khẩu và có dự trữ. Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội phát triển nhanh, cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch tích cực. Trong GDP, tỷ trọng nông nghiệp từ 38,7% giảm xuống 24,3%, công nghiệp và xây dựng từ 22,7% tăng lên 36,6%, dịch vụ từ 38,6% tăng lên 39,1%.
Từ chỗ bị bao vây, cấm vận, nước ta đã phát triển quan hệ kinh tế với hầu hết các nước, gia nhập và có vai trò ngày càng tích cực trong nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, chủ động từng bước hội nhập có hiệu quả với kinh tế thế giới. Nhịp độ tăng kim ngạch xuất khẩu gần gấp ba nhịp độ tăng GDP, thu hút được một khối lượng khá lớn vốn từ bên ngoài cùng nhiều công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
Ngoài ra, tăng trưởng kinh tế đã góp phần ổn định chính trị xã hội, nâng cao đời sống nhân dân và tiến bộ về văn hoá, xã hội.
Đạt được những thành tựu trên là do đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng cùng những cố gắng và tiến bộ trong công tác quản lý của Nhà nước đã phát huy được nhân tố có ý nghĩa quyết định là ý chí kiên cường, tính năng động, sáng tạo và sự nỗ lực phấn đấu của nhân dân ta.
Tuy nhiên, những thành tựu và tiến bộ đã đạt được chưa đủ để vượt qua tình trạng nước kém phát triển, chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước. Trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp xa so với mức trung bình của thế giới và kém nhiều nước xung quanh.
Về hạn chế
Nền kinh tế kém hiệu quả và sức cạnh tranh còn yếu, tích luỹ nội bộ và sức mua trong nước còn thấp, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, gắn sản xuất với thị trường, việc giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất. Chưa có chuyển biến đáng kể trong việc đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước; kinh tế tập thể phát triển chậm, việc chuyển đổi các hợp tác xã theo luật ở nhiều nơi còn mang tính hình thức, hiệu quả thấp. Các thành phần kinh tế khác chưa phát huy hết năng lực, chưa thực sự được bình đẳng và yên tâm đầu tư kinh doanh. Cơ chế quản lý, chính sách phân phối có mặt chưa hợp lý, chưa thúc đẩy tiết kiệm, tăng năng suất, kích thích đầu tư phát triển, chênh lệch giàu nghèo tăng nhanh.
Kinh tế vĩ mô còn những yếu tố thiếu vững chắc. Hệ thống tài chính, ngân hàng, kế hoạch đổi mới chậm, chất lượng hoạt động hạn chế, môi trường đầu tư, kinh doanh còn nhiều vướng mắc, chưa tạo điều kiện và hỗ trợ tốt cho các thành phần kinh tế phát triển sản xuất, kinh doanh.
Những mặt yếu kém, bất cập nói trên có phần do điều kiện khách quan, nhưng chủ yếu là do những khuyết điểm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, nổi lên là:
Công tác tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng, pháp luật và chính sách của Nhà nước chưa nghiêm, kém hiệu lực, hiệu quả. Sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành có phần thiếu nhanh nhạy, chưa thật chủ động tranh thủ thời cơ. Vai trò lãnh đạo của Đảng, chức năng quản lý, điều hành của Nhà nước ở các cấp chưa được phân định rành mạch và phát huy đầy đủ. Nguyên tắc tập trung dân chủ chưa được thực hiện tốt, trách nhiệm tập thể chưa được xác định rõ ràng, vai trò cá nhân phụ trách chưa được đề cao, kỷ luật không nghiêm.
Một số vấn đề về quan điểm như sở hữu và thành phần kinh tế, vai trò của nhà nước và thị trường, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, hội nhập kinh tế quốc tế... chưa được làm rõ, chưa có sự thống nhất trong nhận thức và thông suốt trong thực hiện, làm cho việc hoạch định chủ trương, chính sách và thể chế hoá thiếu dứt khoát, thiếu nhất quán, chậm trễ, gây trở ngại cho công cuộc đổi mới và công tác tổ chức thực hiện.
Công tác cải cách hành chính tiến hành chậm, thiếu kiên quyết cả về xây dựng và hoàn thiện thể chế, kiện toàn bộ máy, nâng cao năng lực và làm trong sạch đội ngũ cán bộ, công chức.
Công tác tư tưởng, công tác lý luận, công tác tổ chức cán bộ có nhiều yếu kém, bất cập. Việc tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận không theo kịp yêu cầu. Tổ chức bộ máy cồng kềnh, chồng chéo, kém hiệu lực và hiệu quả. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức thoái hoá, biến chất, thiếu năng lực. Tình trạng mất dân chủ, tệ quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, sách nhiễu dân, lãng phí còn nặng, đang là lực cản của sự phát triển và gây bất bình trong nhân dân.
Nhìn chung, việc giải quyết quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay rất có hiệu quả, hướng thực hiện là hoàn toàn đúng đắn và hợp lý. Tuy nhiên vẫn còn những yếu kém trong quá trình thực hiện mà Nhà nước cần có những giải pháp khắc phục, nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu xa hơn đối với các nước trong khu vực, đồng thời tranh thủ cơ hội để vươn lên.
III- Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế ở nước ta
1. Tiếp tục đổi mới kinh tế nhà nước
Kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế,là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế; tập trung đầu tư cho kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và một số cơ sở công nghiệp quan trọng. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt trong nền kinh tế; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật. Vì vậy, nên phát triển doanh nghiệp nhà nước trong những ngành sản xuất và dịch vụ quan trọng; xây dựng các tổng công ty nhà nước đủ mạnh để làm nòng cốt trong những tập đoàn kinh tế lớn, có năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế như dầu khí, than, điện, hàng không, đường sắt,vận tải viễn._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35244.doc