Lời nói đầu
Hơn 10 năm qua Việt nam đã đạt được những thắng lợi to lớn về kinh tế - xã hội. Từ một nước cái gì cũng thiếu nay đã dư thừa. Từ chỗ lạc hậu về cơ sở hạ tầng nay đã từng bước xây dựng hiện đại, đường xá, bến cảng, cầu cống, sân bay ...Việc phát triển kinh tế đã tạo điều kiện thuận lợi để nước ta giải quyết tốt hơn những vấn đề xã hội. Tuy nhiên, để thu hẹp khoảng cách giữa Việt nam với các nước phát triển còn rất nhiều vấn đề chúng ta phải giải quyết mà trong đó lao động, việc làm l
31 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1477 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xuất khẩu lao động ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à một sức ép lớn.
Nước ta là một nước nông nghiệp, hơn 70% dân số đang làm việc trong khu vực nông nghiệp và nông thôn, song diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp nên lao động trong nông nghiệp hiện nay đang dư thừa rất nhiều. Chính. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến vấn đề giải quyết việc làm và đề ra nhiều chủ trương, chính sách, nhằm mục tiêu tạo việc làm cho người lao động . Một trong số các chủ trương, chính sách đó là XKLĐ . XKLĐ không những giải quyết việc làm cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên mà còn hy vọng qua việc đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài chúng ta sẽ có đội ngũ công nhân kỹ thuật đã tiếp thu được những kỹ thuật, công nghệ tiên tiến và cán bộ , chuyên gia được nâng cao về trình độ khoa học, kinh nghiệm quản lý Đất nước ... Từ những mục tiêu trên mà XKLĐ đã đạt được rất nhiều kết quả đáng kể. Tuy nhiên nó vẫn còn tồn tại không ít vấn đề cần phải giải quyết và khi giải quyết tốt những hạn chế đó thì hiệu quả của XKLĐ đem lại sẽ ngày càng to lớn, do vậy nên em quyết định chọn đề tài “ Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác XKLĐ ở Việt nam “
Với mục đích phân tích, đánh giá các hạn chế của công tác XKLĐ từ đó đưa ra các giải pháp và một số kiến nghị để giải quyết các vấn đề đó.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài bao gồm :
Phương pháp tiếp cận thu thập, xử lý thông tin.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
Và một số phương pháp khác.
Các tiêu thức đo chỉ tiêu hiệu quả :
Chất lượng của nguồn lao động cho xuất khẩu .
Số lượng của nguồn lao động cho xuất khẩu .
Lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội mà XKLĐ đem lại.
...
Cấu trúc bài viết bao gồm ba phần:
Phần thứ nhất: Lý luận và mục đích của vấn đề nghiên cứu .
Phần thứ hai: phân tích thực trạng.
Phần thứ ba: Các giải pháp và một số kiến nghị.
Phần thứ nhất :
lý luận và mục đích của vấn đề nghiên cứu.
1. Một số khái niệm liên quan
a. Định nghĩa nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là một bộ phận của dân số trong độ tuổi nhất định theo quy định của luật pháp có khả năng tham gia lao động .
Nguồn nhân lực được biểu hiện trên hai mặt : về số lượng đó là tổng số những người trong độ tuổi lao động và thời gian làm việc có thể huy động được của họ . Việc quy định cụ thể độ tuổi lao động của mỗi nước ( kể cả cận trên và cận dưới ) rất khác nhau tuỳ theo yêu cầu của trình độ phát triển của nền kinh tế xã hội trong từng giai đoạn . ở Việt Nam , trước đây độ tuổi lao động quy định từ 16 đến 60 tuổi ( với nam ) và 16 đến 55 tuổi ( với nữ ) . Hiện nay theo Bộ luật Lao động quy định lại là 15 đến 60 tuổi ( với nam ) và 15 đến 55 tuổi ( với nữ ) .Về chất lượng nguồn nhân lực , đó chính là trình độ chuyên môn và sức khỏe của người lao động .
b. Định nghĩa nguồn lao động
Nguồn lao động ( hay lực lượng lao động ) là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định thực tế có tham gia lao động ( đang có việc làm ) và những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm .
Cũng như nguồn nhân lực , nguồn lao động được biểu hiện trên hai mặt số lượng và chất lượng .Như vậy theo khái niệm nguồn lao động thì có một số người được tính vào nguồn nhân lực nhưng lại không phải là nguồn lao động . Đó là những người lao động không có việc làm nhưng không tích cực tìm kiếm việc làm ; những người đang đi học ; những người đang làm việc nội trợ trong gia đình mình và những người thuộc tình trạng khác (nghỉ hưu trước tuổi theo quy định ).
Cũng cần chú ý là trong nguồn lao động chỉ có bộ phận những người đang tham gia lao động là trực tiếp góp phần tạo ra thu nhập của xã hội .
c. Định nghĩa xuất khẩu lao động
Qua tìm hiểu các sách báo và tạp chí nhưng vẫn chưa tìm được một khái niệm chính xác về xuất khẩu lao động nên em mạnh dạn đưa ra một khái niệm tương đối như sau :
Xuất khẩu lao động là hoạt động tổ chức đưa người lao động trong nước đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài thông qua các hợp đồng cung ứng nhằm giải quyết việc làm cho ngườo lao động đồng thời tạo nguồn thu cho đất nước .
Việc đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài thể hiện tính quy luật của sự di chuyển nguồn lao động trong phạm vi quốc tế . Đây chính là một hình thức phân công lao động , là cơ sở để tăng thu nhập cho người lao động , làm cho đời sống của họ dễ chịu hơn và góp phần tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước .
d. Hiệu quả và hiệu quả kinh tế
Hiệu quả là thuật ngữ dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các mục tiêu hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó trong những điều kiện nhất định .
Hiệu quả kinh tế là hiệu quả nếu chỉ xét về khía cạnh kinh tế của vấn đề , là một nội dung đặc biệt của hiệu quả tổng hợp có ý nghĩa quyết định trong hoạt động kinh tế của các chủ thể khác nhau .
Hiệu quả kinh tế mô tả mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế mà chủ thể nhận được và chi phí bỏ ra để nhận được lợi ích kinh tế đó .
2. Cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu .
Tuy hoạt động xuất khẩu lao động là một hình thức xuất khẩu đặc biệt vì đối tượng xuất khẩu là người lao động nhưng nó cũng giống như các hoạt động xuất khẩu hàng hoá khác do đó để nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài em xin đứng trên giác độ của một nhà Marketing là chủ yếu để nghiên cứu .
Hoạt động xuất khẩu lao động của các tổ chức kinh tế là hoạt động dịch vụ . Do đó , việc nghiên cứu các đặc trưng Marketing của sản phẩm dịch vụ này sẽ góp phần giúp các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả hoạt động của mình và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài .
Đặc trưng của sản phẩm dịch vụ xuất khẩu lao động
Có 4 nhân tố đồng nhất trong sản phẩm dịch vụ
Tính chất vô hình : dịch vụ có đặc điểm không hiện hữu , nó không tồn tại dưới dạng vật thể , không thể sờ mó , tiếp xúc hay nhìn thấy được khi ra quyết định mua xắm . Tuy nhiên , mức độ hiện hữu này có mức độ biểu lộ khác nhau với từng loại dịch vụ , nó có mối quan hệ tới chất lượng dịch vụ và tiêu dùng của khách hàng . Đối với lĩnh vực xuất khẩu lao động , yếu tố không hiện hữu là các thủ tục trước và sau khi làm việc ở nước ngoài diễn ra thuận tiện , đảm bảo uy tín , chất lượng cũng như trợ giúp người lao động hoà nhập với chủ sử dụng lao động hay các hoạt động đào tạo nghề nghiệp , ngoại ngữ , phong tục tập quán lối sống , luật pháp và cả hoạt động BHXH , bảo đảm quyền lợi của người lao động trước khi cũng như sau khi về nước .
Tính chất không xác định : Dịch vụ có tính không đồng nhất , sản phẩm dịch vụ tiêu chuẩn hoá , có giá trị cao . Do đặc trưng cá biệt hoá và cung ứng tiêu dùng dịch vụ , Marketing dịch vụ đang tự thách thức bởi chất lượng dịch vụ thường không xác định bởi vì các dịch vụ phụ thuộc vào con người cung cấp chúng . Tính chất không xác định dịch vụ dẫn đến Marketing dịch vụ có rất nhiều vấn đề cần giải quyết hơn trong Marketing sản xuất vật chất. ở lĩnh vực xuất khẩu lao động cũng vậy , các hoạt động Marketing cũng có sự khác biệt hơn so với Marketing ở các ngành khác, như Marketing xã hội , Marketing đạo đức... Bởi vì, ngành xuất khẩu lao động là một ngành có đặc thù riêng, đối tượng là con người, mục tiêu XKLĐ vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội nên hoạt động này rất nhạy cảm .
Tính không thể chia cắt: Sự khác nhau thứ ba giữa hàng hoá và dịch vụ liên quan tới vấn đề không xác định là tính chất không thể phân chia dịch vụ từ người phân phối dịch vụ hay từ một sự sắp đặt mà trong đó dịch vụ xuất hiện. Việc tiêu dùng sản phẩm dịch vụ từ người phân phối dịch vụ hay từ một sự sắp đặt mà trong đó dịch vụ xuất hiện. Việc tiêu dùng sản phẩm dịch vụ song song với việc cung ứng dịch vụ , vì thế sản phẩm dịch vụ được tiêu dùng ở mọi thời điểm với sự tham gia trực tiếp của người tiêu dùng, các hoạt động đào tạo hướng dẫn người lao động diễn ra cùng lúc với sản phẩm được cung cấp.
Sự tồn kho: Việc tạo ra sản phẩm dịch vụ và tiêu dùng dịch vụ là một thể thống nhất, sản phẩm dịch vụ tiêu dùng trực tiếp và chóng hỏng, không có khả năng cất trữ lưu kho. Với các dịch vụ, sự lưu kho kéo theo chi phí rất lớn và có nhiều khó khăn hơn liên quan tới sản phẩm dư thừa đó là khi việc cung cấp dịch vụ đã sẵn sàng nhưng thị trường lại không có nhu cầu. Chi phí tồn kho của XKLĐ là thời gian. Chậm thời gian các chuyến bay, ở khâu làm thủ tục hợp đồng là làm mất thời gian, cơ hội cho người lao động cũng bị ảnh hưởng tới thu nhập và lợi nhuận của họ, đương nhiên cũng làm ảnh hưởng tới công ty.
Những đặc trưng cơ bản của hoạt động Marketing trong lĩnh vực xuất khẩu lao động .
Nghiên cứu thị trường, tìm đối tác, đàm phán ký kết hợp đồng lao động. Quá trình này cần sự tổng hợp các kiến thức Marketing dịch vụ trong lĩnh vực Marketing quan hệ nhằm nghiên cứu, khai thác và hoàn thiện quy trình đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Tổ chức thực hiện đầy đủ các thủ tục về kinh tế, hành chính, luật pháp để đưa người lao động đi ra nước ngoài làm việc.
Thiết lập mạng lưới quản lý lao động tuân thủ hợp đồng cung ứng lao động của cả người lao động và người nhập khẩu sức lao động .
Trên đây là những nội dung cơ bản của xuất khẩu lao động . Trên thực tế để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động cần phải có sự ứng dụng linh hoạt các kiến thức của Marketing vào lĩnh vực đầy nhạy cảm này: Marketing dịch vụ, Marketing quốc tế, Marketing quan hệ, Marketing giao dịch, Marketing pháp luật , Marketing xã hội...
Các chiến lược Marketing quốc tế trong kinh doanh dịch vụ cung ứng lao động nước ngoài là :
a. Lựa chọn thị trường xuất khẩu
Việc chọn một chính sách mở rộng thị trường là chiến lược chủ chốt được chọn trong Marketing xuất khẩu . Các chiến lược mở rộng thị trường giải quyết các vấn đề là làm thế nào Công ty nhận biết và phân tích lựa chọn thị trường xuất khẩu qua thời gian, xác định số lượng thị trường. Nhìn chung có hai chiến lược lớn để xâm nhập thị trường là tập trung thị trường và phân tán thị trường. Tất nhiên đối với nhà Marketing xuất khẩu để lựa chọn chiến lược nào thì cũng phải xem xét các nhân tố, như sản phẩm, hoàn cảnh, và khả năng của doanh nghiệp. Chẳng hạn trong lĩnh vực Marketing XKLĐ thì tuỳ vào “ sản phẩm” là sức lao động , người lao động là lao động phổ thông hay chuyên gia. Nếu như lao động phổ thông thì Công ty sẽ chọn chiến lược phân tán vì nó tốn kém ít về chi phí đào tạo và cũng như quản lý. Ngược lại, nếu xuất khẩu chuyên gia thì công ty lại chọn chiến lược tập trung vào một số thị trường trọng điểm. Nhân tố hoàn cảnh cũng tác động không nhỏ tới việc lựa chọn thị trường, đó là đặc tính của từng loại thị trường ( ví dụ như phạm vi, sự tăng trưởng, tính ổn định, mức độ bất ổn định của thị trường cũng như tính không thống nhất của nhu cầu, sự tín nhiệm của khách hàng đối với công ty), tiềm năng thị trường lớn với những đặc tính ổn định và hoàn thiện thì chiến lược tập trung thị trường sẽ chiếm ưu thế nhưng trái lại, tiềm năng nhỏ, thị trường chưa ổn định lại hợp với chiến lược phân tán. Đồng thời khi lựa chọn thị trường, công ty phải ước lượng được thị trường cũng như cơ sở để quyết định các khu vực thị trường quốc tế thích hợp. Cụ thể như khi lượng lao động chủ yếu là lao động phổ thông, công nhân, thuyền viên,... thì nhà Marketing phải lựa chọn những nước có nhu cầu phát triển, có thu nhập cao ( do lao động dân bản địa không muốn làm những công việc này ). Ngược lại, những nước đang phát triển thì thị trường của công ty sẽ là chuyên gia vì ở những nước này các công việc cần kỹ thuật, trình độ tay nghề cao nhưng ở trong nước thiếu.
b. Chiến lược xâm nhập thị trường xuất khẩu
Chiến lược xâm nhập vào thị trường ngoài nước phải được xem như là một chiến lược toàn diện . Phải đặt ra những mục tiêu , những thủ đoạn về chính sách để hướng dẫn những hoạt động của Công ty trong một thời gian dài. Khi phát triển chiến lược xâm nhập cần phải nhớ rằng mỗi một thị trường– mục tiêu duy nhất là một vài cách thức xâm nhập và mỗi sản phẩm đều có thị trường duy nhất cần đến nó . Bởi vậy , người làm Marketing quốc tế phải lập kế hoạch cho mỗi loại sản phẩm ở mỗi thị trường nước ngoài .
Nhìn chung , để xâm nhập vào một thị trường lao động nước ngoài thì cần phải có thời gian dài dựa trên sự phân tích về tiềm năng thị trường cũng như xác định vị trí thị trường lâu dài . Nếu đứng trên góc độ Marketing thì chiến lược xâm nhập thị trường xuất khẩu là một sự quyết định kênh . Công ty luôn luôn phải cố gắng lựa chọn được kênh xuất khẩu tốt nhất , nhằm thoả mãn mục tiêu khách hàng cũng như phù hợp với mục tiêu tổng thể của Công ty . Sự hình thành , phát triển XKLĐ ở nước ta còn kém , chủ yếu là các Công ty XKLĐ vẫn chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của chiến lược xâm nhập thị trường cũng như phương thức thâm nhập thị đó như thế nào ?
Các phương thức xâm nhập thị trường xuất khẩu
Trong hoạt động xuất khẩu thường có hai phương thức thâm nhập thị trường: phương thức gián tiếp và phương thức trực tiếp .
Phương thức xuất khẩu gián tiếp : là hình thức khi doanh nghiệp xuất khẩu thông qua những tổ chức độc lập trong nước để tiến hành xuất khẩu hàng hoá của mình . Các Công ty thường bắt đầu từ xuất khẩu gián tiếp . Có 4 kiểu trung gian mà Công ty có thể lựa chọn :
Xuất khẩu thông qua hãng xuất khẩu trong nước : người trung gian này mua sản phẩm của nhà sản xuất rồi bán chúng ra nước ngoài .Xuất khẩu thông qua đại lý xuất khẩu .
Xuất khẩu thông qua hiệp hội xuất khẩu .
Xuất khẩu thông qua việc sử dụng kênh - phương pháp thông qua người thứ 3 đã tồn tại để tiêu thụ sản phẩm .
Phương thức xuất khẩu trực tiếp: là hình thức mà Công ty trực tiếp xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Công ty có thể thực hiện theo một số cách:
Tổ chức một bộ phận xuất khẩu riêng của Công ty.
Thành lập một chi nhánh xuất khẩu ở nước ngoài.
Sử dụng văn phòng đại diện ở nước ngoài.
Ký kết hợp đồng với các hãng phân phối nước ngoài.
Nhìn chung thì phương thức xuất khẩu gián tiếp , trực tiếp đều có những ưu nhược điểm của nó, như xuất khẩu trực tiếp cho phép công ty có lợi nhuận cao, có lợi thế về định vị nhãn hiệu của Công ty trên thị trường. Hoặc Công ty sẽ chủ động nắm bắt được nhu cầu, mong muốn của khách hàng tốt hơn. Ngược lại, Công ty sẽ phải đầu tư tài chính nhiều và chịu rủi ro cao... lĩnh vực XKLĐ thường mang đặc tính ở phương thức xuất khẩu gián tiếp. Xuất khẩu dựa trên quan hệ giao dịch ngoại giao giữa hai nước hay qua trung gian môi giới vì bản thân chủ sử dụng lao động không đủ điều kiện về tài chính, kinh nghiệm cũng như thời gian so với các Công ty trong nước.
Marketing là một khoa học mới phát triển ở Việt Nam trong những năm gần đây ; Marketing trong lĩnh vực XKLĐ lại càng mới đối với chúng ta và với các doanh nghiệp XKLĐ. Do đó việc nghiên cứu một cách thấu đáo các đặc trưng của Marketing của lĩnh vực xuất khẩu lao động là tương đối khó khăn nhưng đó là cần làm và cấp thiết đối với mọi tổ chức, cá nhân tham gia xuất khẩu lao động nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động.
3. Tình hình chung xuất khẩu lao động của Việt Nam & Thái Lan, nghiên cứu & so sánh
ở các nước đang phát triển , tỷ lệ tăng dân số hàng năm vẫn còn cao , giải quyết việc làm cho người đến tuổi lao động là một gánh nặng cho các quốc gia . Do đó , xuất khẩu lao động trở thành vấn đề cấp thiết. ở mỗi nước có các chính sách khác nhau , nghiên cứu so sánh này sẽ cung cấp những thông tin về các chính sách và giải pháp xuất khẩu lao động của Việt Nam và Thái Lan , từ đó tìm kiếm những bài học có ích cho Việt Nam trong thời gian tới .
a. Xuất khẩu lao động của Việt Nam .
Việt Nam đã thực hiện các hiệp định xuất khẩu lao dộng với các nước Liên Xô, Đông Âu và một số quốc gia châu phi vào những năm đầu thập kỷ 80. Các nước xã hội chủ nghĩa trước đây như Liên Xô, Cộng hoà dân chủ Đức, Bungari, Tiệp Khắc là những đối tác nhập khẩu lao động chính từ Việt Nam. Cuối thập kỷ 80 đầu thập kỷ 90 khi Liên Xô và các nước Đông Âu tan rã, các hiệp định xuất khẩu lao động của Việt Nam sang các nước này không còn hiệu lực. Phần lớn lao động Việt Nam chưa hết hợp đồng lao động đã phải trở về nước, hoặc ở lại bất hợp pháp .
Trong tình hình khó khăn đó , chính phủ Việt Nam vẫn kiên trì , mở rộng các hướng hợp tác lao động khác nhau để đưa lao động Việt Nam sang các quốc gia Châu á .Đầu thập kỷ 90 , các hiệp định về xuất khẩu lao động đã được khôi phục lại .Cho tới năm 1996 trở đi tình hình xuất khẩu lao động của Việt Nam mới bắt đầu được sáng sủa. Theo thống kê của cục Quản Lý Lao Động từ năm 1996 đến năm 2000, Việt Nam xuất khẩu sang các nước là 65.000 lao động . Mặc dù lao động Việt Nam đã xuất sang 38 thị trường nhưng các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam hiện nay là Đài Loan , Hàn Quốc , Nhật Bản và một số quốc gia Châu Phi như Libi . Lao động Việt Nam hoạt động trong 30 nhóm ngành, nhưng chủ yếu thuộc các lĩnh vực xây dựng , công nghiệp , dịch vụ, vận tải biển, chế biến thuỷ sản, chuyên gia về y tế, giáo dục và nông nghiệp.
Thu nhập bình quân của mỗi lao động vào khoảng 400 USD/ tháng.Tính từ năm 1996 đến năm 2000, hàng năm lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài đã chuyển về nước khoảng 220 triệu USD. Ngoài ra nếu tính cả 20 vạn lao động hết hợp đồng đang sinh sống, hoạt động trong nhiều lĩnh vực kinh doanh ở Liên Xô cũ và các nước Đông Âu, thì số tiền về nước hàng năm của lao động , các chuyên gia ... lên tới 1,25 tỷ USD. Tại hội nghị toàn quốc về xuất khẩu lao động được tổ chức tại Hà Nội trong hai ngày 8 và 9/6/2000, thủ tướng Phan Văn Khải nhấn mạnh :” xuất khẩu lao động và chuyên gia đối với chúng ta là một vấn đề có ý nghĩa chiến lược quan trọng “ . Bởi vì qua đó , có thể phất triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá , tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước , góp phần mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế văn hoá với các nước khác .
b. Xuất khẩu lao động của Thái Lan
Ngay từ đầu thập kỷ 70 , chính phủ Thái Lan đã khuyến khích các công dân Thái Lan tìm kiếm các cơ hội việc làm ở nước ngoài . Theo thống kê của Bộ Lao Động Thái Lan, trong thời kỳ 1996-1999 Thái Lan đã xuất khẩu được 270.000 lao động, hàng năm thu về 3 tỷ USD và lao động của Thái Lan chủ yếu đến ba khu vực chính trên thế giới .
Khu vực Trung Đông, trong thời kỳ 1990-1997 có khoảng 20.000 đến 22.000 lao động làm việc , chiếm tỷ trọng 12% tổng số lao động của Thái Lan xuất khẩu sang các nước . Isaren là nước nhập khẩu nhiều nhất lao động từ Thái Lan , chủ yếu là lao động nông nghiệp , khoảng 10.000 người. Ngoài Isaren , có một số nước khác nhập khẩu lao động từ Thái Lan như : Quata , Arập xê út , Libi . Trong thời kỳ 1995-1997 , cứ mỗi năm Thái Lan xuất khẩu sang các nước này từ 1.500 đến 2.000 lao động , họ làm công nhân xây dựng, lái xe , thợ hàn .
Khu vực Châu á, là khu vực thu hút số lượng lớn nhất lao động xuất khẩu của thái lan. Trong thời kỳ 1994-1999 , hàng năm thái lan xuất khẩu sang khu vực Châu á từ 150.000 đến 180.000 lao động chiếm tỷ trọng 86% tổng số lao động xuất khẩu của Thái lan sang các thị trường của thế giới . Trong số các nước lãnh thổ của Châu á , Đài loan là nước nhập khẩu nhiều nhất lao động từ Thái lan . Trong hai năm 1998-1999 , mỗi năm Đài loan nhập khẩu từ Thái lan khoảng 100.000 lao động , tại thị trường này có khoảng 70% lao động của Thái lan lao động trong các Xí nghiệp may , lắp ráp điện tử , giúp việc gia đình , xây dựng . Nước tiếp theo nhập khẩu nhiều lao động từ Thái lan sang trong 3 năm gần đây là Xingapo . Năm 1994 , số lao động của Thái lan tại Xingapo là 15.000 thì năm 1999 con số đó là 24.000 . Brunây , Malaixia là hai nước láng giềng nhập khẩu lao động từ Thái lan nhiều năm trước đây . Ngoài ra Nhật bản , Hồng kông cũng là những nước nhập khẩu số lượng khá lớn lao động từ Thái lan . Trong thời kỳ 1994-1998 , mỗi năm Nhật bản nhập khẩu từ 8.000 đến 10.000 lao động của Thái lan , Hồng kông nhập khẩu khoảng 1/2 số lượng lao động so với Nhật bản.
Khu vực thứ ba, nhập khẩu lao động của Thái lan là các nước công nghiệp như Hoa kỳ, Anh, Đức, Đan mạch, Ôxtrâylia. Trong thời kỳ 1995-1999, bình quân mỗi năm Thái lan xuất khẩu sang các thị trường này hơn 3.000 lao động. Chủ yếu là lao động trong các ngành công nghiệp, dịch vụ .
Phần đông lao động của Thái lan xuất khẩu sang các nước có trình độ văn hoá thấp, không có tay nghề, chủ yếu xuất thân từ nông thôn. Những người có trình độ văn hoá cao, hầu như có thể tìm kiếm việc làm ở trong nước. Không vì thế mà những người có trình độ chuyên môn ở Thái lan không rời bỏ tổ quốc ra đi. Do hoàn cảnh lịch sử Thái Lan và Hoa Kỳ có quan hệ kinh tế, văn hoá với nhau lâu, hiện tại có nhiều gia đình Thái lan đang định cư tại Hoa kỳ, đó là nguyên nhân thôi thúc một số lao động Thái lan xin nhập cư tại Hoa kỳ và hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Thái lan thực hiện chính sách tự do hoá xuất khẩu lao động, năm 1997 ở Thái lan có hơn 200 Công ty có giấy phép hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu lao động. Đạo luật năm 1983 của Thái Lan cho phép các Công ty tư nhân tuyển mộ lao động, xuất khẩu lao động ra nước ngoài, đồng thời đạo luật này cũng không ngăn cấm người Thái Lan tự do đi ra nước ngoài theo cách riêng của họ. Có 5 con đường khác nhau đi tự đi, thông qua dịch vụ của Bộ lao động; đi cùng với người chủ ( người nước ngoài đến Thái Lan tuyển mộ); thông qua các Công ty tư nhân; đi học tập nghiên cứu và tham quan khảo sát . Nhiều người Thái Lan thích dùng dịch vụ xuất khẩu lao động của các Công ty tư nhân bởi vì khả năng ra đi nhanh chóng , đến nơi mà lao động cần đến . Tuy nhiên giá cả dịch vụ lại khá cao. Thí dụ muốn sang Nhật bản, lao động phải chi trả dịch vụ 4.000 USD, sang Đài Loan 2.000 USD. Tất nhiên hầu hết lao động phải huy động vốn từ gia đình bạn bè, bà con. Nhưng để hỗ trợ cho lao động Thái Lan , chính phủ có ba ngân hàng giải quyết yêu cầu của lao động xuất khẩu như cho vay với lãi suất thấp, vay dài hạn. Giống như Việt Nam, cũng có nhiều Công ty không thực hiện được các hợp đồng xuất khẩu lao động .ở Thái lan , trong những năm gần đây đã có một số Công ty bị thu hồi giấy phép , năm 1996-1997 con số các Công ty bị thu hồi giấy phép là 10 . Không riêng gì Việt Nam , tình trạng lao động Thái Lan bỏ việc , định cư bất hợp pháp để làm việc cho các Công ty khác có thu nhập cao hơn là phổ biến . Theo báo cáo của Cục xuất khẩu lao động , trong hai năm 1997-1999 đã có hơn 70 lao động bị trrả về nước . Trong những năm gần đây do việc áp dụng quy chế miễn thị thực trong nội bộ khối ASEAN , đã làm cho di cư lao động bất hợp pháp từ Thái Lan sang các nước ASEAN có xu hướng gia tăng , đặc biệt qua Malayxia , nước có chung biên giới với Thái Lan .
c. Những đánh giá so sánh
Việt Nam và Thái Lan là hai nước Châu á , trong ASEAN nhưng so với Thái Lan , Việt Nam có mức độ phát triển chậm hơn hai thập kỷ . Nghĩa là cơ cấu lao động của Thái Lan so với Việt Nam là khác biệt , cụ thể là lao động trong các ngành công nghiệp của Thái Lan cao hơn Việt Nam . Tuy nhiên nhu cầu xuất khẩu lao động của Thái Lan trong tương lai vẫn lớn . Bởi vì nếu tăng số lượng lao động xuất khẩu , sẽ giúp giảm áp lực di cư lao động từ nông thôn vào thành phố . Băng Cốc là thành phố 10 triệu dân , nhưng có hơn 2 triệu dân di cư từ nông thôn đến , họ làm đủ các nghề để kiếm sống . ở các thành phố lớn của Việt Nam như Hà Nội , thành phố Hồ Chí Minh , Hải Phòng tình hình cũng xảy ra tương tự . Như vậy xuất khẩu lao động trở thành vấn đề không chỉ có ý nghĩa kinh tế mà còn cả vấn đề xã hội rất bức bách của Việt Nam .
Hiện tại Việt Nam có dân số lớn hơn Thái Lan 18 triệu , tỷ lệ tăng trưởng dân số hàng năm 1,7% trong khi Thái Lan đã đạt được mức sinh thay thế . Trong thời kỳ 1996-1999 , Việt Nam chỉ xuất được 65.000 lao động , nhưng Thái Lan đã xuất được 270.000 lao động ( gấp 4 lần ) trong cùng thời kỳ . Đến tháng 10 năm 2000 Việt Nam đã xuất sang Hàn Quốc hơn 6.000 , Đài Loan hơn 7.000 , Nhật Bản 13.000 , Libi gần 1.000 , các con số này quá thấp . Theo kế hoạch từ năm 2000 đến năm 2005 , Việt Nam phải xuất được 50.000 lao động và chuyên gia , năm 2005 đến năm 2010 , hàng năm phải xuất khẩu được 150.000 đến 200.000 lao động và chuyên gia do đó thực hiện được mục tiêu này không phải là dễ dàng .
4. Lợi ích của xuất khẩu lao động
Xuất khẩu lao động hiện nay đang là một vấn đề quan trọng của Đất nước ta. Lợi ích trước hết của việc xuất khẩu lao động là giải quyết việc làm cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên, đồng thời qua việc đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài chúng ta sẽ có đội ngũ công nhân kỹ thuật, công nghệ tiên tiến và cán bộ , chuyên gia được nâng cao về trình độ khoa học, kinh nghiệm quản lý trở về góp phần xây dựng và phát triển Đất nước. Mặt khác, phần lớn những người đi XKLĐ trong thời gian vài năm có thể xây dựng được nhà cửa, cải thiện được đời sống gia đình và có tiền đầu tư phát triển nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xí nghiệp vừa và nhỏ... nhằm xoá đói giảm nghèo, tạo thêm công ăn việc làm cho những người khác. Trong tình hình sản xuất hàng xuất khẩu còn khó khăn của nước ta hiện nay, 1 tỷ USD của những người đi làm việc ở nước ngoài gửi về là nguồn quan trọng và nếu chúng ta tổ chức tốt thì nguồn ngoại tề thu được từ XKLĐ sẽ ngày càng tăng.
Phần thứ hai
Phân tích thực trạng
1. Công tác xuất khẩu lao động qua các năm
ở nước ta, công tác XKLĐ những năm qua đã đạt một số thành tích đáng kể. Theo số liệu của Bộ lao động -Thương binh và Xã hội, số thị trường lao động ngoài nước mà lao động nước ta đến làm việc thời gian qua tăng khá nhanh. Nếu năm 1992 Việt Nam chỉ XKLĐ sang 12 nước thì đến năm 1999 đã tăng lên 38 nước. Năm 2000, lao động Việt Nam đã có mặt ở trên 40 quốc gia và vùng lãnh thổ. Số lượng lao động đưa đi tăng đều hàng năm và có xu hướng tiếp tục gia tăng. Năm 2000 nước ta đã xuất khẩu được trên ba vạn lao động. Tỷ trọng lao động có tay nghề trong tổng số lao động đi làm việc ở nước ngoài ngày càng tăng, hiện nay đã đạt gần 65 %. Về cơ cấu nghề nghiệp mà lao động Việt Nam đảm nhận có tới 45% làm trong nghề công nghiệp nhẹ, 26% trong xây dựng, 20% nghề cơ khí, 6% nghề nông nghiệp và chế biến thực phẩm... XKLĐ thời gian qua cũng mang lại hiệu quả kinh tế đáng khích lệ, góp phần quan trọng trong việc cải thiện đời sống cho người lao động và tăng thu ngoại tệ cho Nhà nước ( xem bảng 1)
Riêng 4 năm 1991 - 1994, 14.000 lao động được các tổ chức dịch vụ hợp tác lao động đưa đi đã thu về cho Nhà nước khoảng 300 triệu USD. Hai năm 1996 - 1997 Việt Nam có khoảng 50.000 lao động làm việc ở nước ngoài đã gửi về nước 350 triệu USD. Nếu tính cả số lao động của ta đi theo các hình thức khác nhau đang làm việc ở nước ngoài thì con số lao động vào khoảng 250 nghìn, thu nhập hàng năm lên tới khoảng 1 tỷ USD. Đây là con số mà chỉ một số ít ngành sản xuất đạt được
Bảng 1. Kết quả hoạt động xuất khẩu lao động giai đoạn 1991-1999 .
( chỉ tính số thu ngoại tệ qua các tổ chức lao động đưa đi )
Nguồn : [4, tr.6] tạp trí Kinh Tế Châu á - TBD số 2(31), 4 -2001
Năm
Số lao động xuất khẩu
( người )
Số ngoại tệ thu về
( 1.000 USD )
1991
1.020
2.500
1992
810
6.800
1993
3.960
15.800
1994
9.230
43.100
1995
10.050
77.900
1996
12.660
100.800
1997
18.470
129.200
1998
12.240
148.300
1999
20.700
150.800
Tổng cộng
89.140
675.200
Sang năm 2000 chúng ta đã đưa được 31.468 người và thu về lợi nhuận ròng đạt 1,25 tỷ USD.
Năm 2001 chúng ta đưa đi được 42.151 ngưòi và thu về lợi nhuận ròng đạt 1.5 tỷ USD
Doanh thu từ XKLĐ chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu của những đơn vị hoạt động ở lĩnh vực này. Theo báo cáo của một số DN tỷ xuất lợi nhuận bình quân trên doanh thu của hoạt động XKLĐ đạt khoảng 15 -20%. Đối với Nhà nước, mức đầu tư chi phí quản lý Nhà nước bình quân cho một lao động mỗi năm khoảng 30 USD và thu về cho ngân sách khoảng 36,7 USD, quả là chưa có suất đầu tư nào có lợi như vậy. Tính chung người lao động đi làm ở nước ngoài bình quân thu nhập bằng 10 - 15 lần so với thu nhập trong nước. Do vậy, XKLĐ là cơ hội tốt để người lao động tích luỹ vốn, cải thiện đời sống và điều kiện làm việc của bản thân và gia đình họ.
XKLĐ thời gian qua đã tạo việc làm cho một bộ phận người lao động góp phần tích cực vào công tác giải quyết việc làm cho xã hội. Bình quân trong 10 năm 1980 - 1990 theo Hiệp định Chính phủ, hàng năm Việt nam đưa đi được khoảng 26.000 lao động chiếm khoảng gần 3% lực lượng lao động tăng hàng năm . Từ 1991 đến nay đã đưa đi được trên 66.000 người, nghĩa là đã giải quyết việc làm tạm thời cho họ cùng với hàng ngàn người khác qua các tổ chức kinh tế làm dịch vụ XKLĐ.
Đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài giúp Nhà nước giảm được khoản chi phí đầu tư đào tạo nghề và tạo chỗ làm việc mới cho người lao động . Ngoài ra, thông qua lao động ở nước ngoài, người lao động đã nâng cao được trình độ chuyên môn kỹ thuật, ngoại ngữ, tiếp thu được những công nghệ và tác phong sản xuất công nghiệp tiên tiến, do đó từng bước đáp ứng các yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước khi họ trở về.
Như vậy, hoạt động XKLĐ nước ta đã đem lại lợi ích kinh tế - xã hội không nhỏ, góp phần trực tiếp và gián tiép vào việc tăng tích luỹ vốn cho công nghiệp hoá.
2. Kết quả hoạt động của một số doanh nghiệp xuất khẩu lao động
Tính đến nay, cả nước có 136 doanh nghiệp được cấp giấy phép xuất khẩu lao động, trong đó có 79 doanh nghiệp thuộc Bộ, ngành, 46 doanh nghiệp thuộc các địa phương và 11 doanh nghiệp thuộc các đoàn thể trung ương. Trong số các đơn vị này thì một số hoạt động rất hiệu quả, điển hình là một số doanh nghiệp sau:
a. Hoạt động xuất khẩu lao động của công ty Xây dựng và Thương mại Giao thông Vận tải
Công ty Xây dựng và Thương mại Giao thông Vận tải ( gọi tắt là TRAENCO) là doanh nghiệp nhà nước độc lập trực thuộc Bộ Giao thông Vận tải. Công ty hiện đang hoạt động với ba chức năng lớn là: xây dựng công trình, sản xuất công nghiệp và xuất nhập khẩu trực tiếp, xuất khẩu lao động và chuyên gia. Trong đó chức năng xuất khẩu lao động và chuyên gia là non trẻ nhất với hơn ba năm tuổi nghề. Nhưng hoạt động này đang tăng trưởng ổn định, đạt tốc độ cao.Trong 8 tháng cuối của năm 2000, công ty đưa gần 1000 công nhân đi làm việc ở nước ngoài và năm 2001 công ty đã đưa 1460 công nhân đi làm việc, dự kiến năm 2002 công ty sẽ đưa khoảng 1500 người và ổn định ở mức quy mô trung bình là 1000 người hàng năm. Điều quan trọng là thương hiệu TRAENCO đang được hai trung tâm ở miền Bắc và miền Nam phát huy cao độ trong hoạt động xuất ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35384.doc