Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Đống Đa HN

lời mở đầu ở Việt Nam, từ khi nền kinh tế chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhu cầu về kiểm toán đã trở nên tất yếu, một điều không thể phủ nhận. Những đóng góp quan trọng của kiểm toán Nhà nước, kiểm toán độc lập kể từ khi thành lập đối với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta, hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới ngày càng được khẳng định. Năm 1991, Chính phủ đẫ ban hành ng

doc112 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1347 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Đống Đa HN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hị định 07/CP công bố: "Quy chế kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân" và đến 11-7-1994, Chính phủ lại ban hành nghị định 70/ CP về “Thành lập cơ quan kiểm toán Nhà nước, và 24-1-1995, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định 61/ TTG “Ban hành điều lệ tổ chức kiểm toán nhà nước". Đây là những văn bản pháp quy đầu tiên của Nhà nước khẳng định vị trí, vai trò và tạo hành lang pháp lý cho hoạt động kiểm toán. Chúng ta nhận thức được rằng, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, hoạt động kiểm toán đã thực sự trở thành một nghề, một lĩnh vực hoạt động nghiệp vụ độc lập. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, số người quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp đã mở rộng, cùng với sự quan tâm đến các thông tin tài chính, họ cũng đòi hỏi các thông tin này phải dược cung cấp một cách chính xác, song mỗi người lại quan tâm đến một lĩnh vực không giống nhau và với các mục đích khác nhau. Để đáp ứng tất cả các yêu cầu về thông tin với các khía cạnh khác nhau, kiểm toán cũng bao gồm nhiều loại hình khác nhau như:kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán báo cáo tài chính. Ngân hàng thương mại (NHTM) là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, dưới hình thức nhận tiền gửi và cho vay, cung cấp các dịch vụ tài chính khác, nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận và góp phần ổn định, phát triển nền kinh tế, thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Cũng như các loại hình doanh nghiệp khác, hoạt động của NHTM cũng cần phải được kiểm toán bởi các chủ thể khác nhau. Hơn nữa kinh doanh ngân hàng là một lĩnh vực đặc biệt nhạy cảm và có nhiều rủi ro, nên việc kiểm toán mà nhất là kiểm toán hoạt động đối với NHTM càng là một yêu cầu cấp thiết, là chức năng chủ yếu của kiểm toán nội bộ. Kiểm toán nội bộ trong NHTM là một bộ phận hoạt động độc lập, nhằm kiểm tra tính hiệu lực, hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ và các mục tiêuquan trọng khác. Nhận xét, đánh giá tính trung thực, chính xác của các thông tin kinh tế, các báo cáo tài chính, giúp ban quản lý ngân hàng có quyết định kinh doanh đúng đắn . Kiểm toán nội bộ là cần thiết và vô cùng quan trọng, trong đó kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng là bộ phận kiểm toán chủ yếu của NHTM, vì hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanhn chủ yếu có ảnh hưởng quyết định đến kết quả kinh doanh của ngân hàng. Mục đích của kiểm toán tín dụng là nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro có thể xảy ra, góp phần nâng cao chất lượng nghiệp vụ tài sản có của ngân hàng, bảo vệ an toàn tài sản và ổn định hoạt động các ngân hàng thương mại. Nhận thức vè tầm quan trọng của kiểm toán, kiểm toán nội bộ nói chung và kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng tại các NHTM nói riêng, trong thời gian thực tập tốt nghiệp tại Chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa, em đã chọn đề tài: "Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng tại Chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa -Hà Nội. Nội dung khoá luận gồm 3 chương: (ngoài lời nói đầu và kết luận) Chương 1:Những vấn đề cơ bản về kiểm toán kinh tế và kiểm toán nội bộ trong hoạt động ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng tại Chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa. Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng tại Chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa. Bản khoá luận được sự cộng tác và giúp đỡ nhiệt tình của: Thầy giáo, phó khoa kế toán, kiểm toán HVNH, Th.S: Lê Văn Luyện. Các cán bộ ngân hàng phòng kiểm tra, kiểm toán nội bộ, phòng kinh doanh chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo, các cán bộ NHCTĐĐ để bản khoá luận được hoàn thiện. Đây là lĩnh vực mới và phức tạp, nguồn tài liệu tham khảo rất ít, với khả năng và thời gian có hạn, bản khoá luận sẽ không tránh khỏi những hạn chế nhất định, mong được sự góp ý của các cán bộ ngân hàng công thương Đống Đa, các Thầy Cô giáo, và bạn đọc để bản khoá luận hoàn thiện hơn. Chương i Những vấn đề cơ bản về kiểm toán kinh tế và kiểm toán nội bộ tronghoạt động ngân hàng thương mại. I. Cơ sở lý luận chung về kiểm toán 1. Sự hình thành và phát triển của toán trên thế giới và ở Việt nam. Kiểm toán là hoạt động khá mới mẻ ở Việt Nam. Trên thế giới, kiểm toán đã xuất hiện trong xã hội loài người từ rất lâu, vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước công nguyên. Thuật ngữ “Audit”có một ý nghĩa lịch sử và phù hợp với hoàn cảnh ra đời của nó, vào thời kỳ đó chímh quyền La - Mã đã tuyển dụng các quan chức chuyên môn để kiểm tra về tình hình tài chính và thuyết trình lại kết quả kiểm tra này. Chính vì vậy từ “Audit” theo tiếng La Tinh có nghĩa là “người nghe” (one who hears). Kiểm toán đã dần hình thành và gắn liền với sự phát trển của kế toán. Và trong suốt thời kỳ trung đại đến trước khi cuộc cách mạng công nghiệp ra đời, kiểm toán thực sự chỉ giới hạn ở việc xác định xem liệu cá nhân giữ trọng trách trong một tổ chức hoạt động kinh doanh hoặc trong chính phủ có thực hiện đúng trách nhiệm và có báo cáo đúng sự thật không. Trong suốt thời kỳ cách mạng công nghiệp, số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tăng mạnh về quy mô, người chủ sở hữu vốn, tài sản bắt đầu phải đi thuê các nhà quản lý cho các chi nhánh, cơ sở của mình. Với sự tách biệt về chủ sở hữu và việc quản lý nên phải tăng cường kiểm tra để bảo vệ tài sản của họ, nhằm chống lại nguy cơ sai phạm không chủ đích hoặc những gian lận do người quản lý và nhân viên làm công gây ra. Các chủ nhà băng với tư cách là người bên ngoài, sử dụng các báo cáo tài chính, khi cho vay tiền cũng chú ý đến việc xem xét các báo cáo tài chính có bị lệch lạc do sai phạm và gian lận không? Từ những năm 1930, sự phá sản của các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp trong điều kiện khủng hoảng kinh tế, suy thoái về tài chính, là dấu hiệu chứng minh điểm yếu của kế toán và kểm tra trước tình hình mới. Kiểm toán viên trở nên có trách nhiệm hơn với các cơ quan chức năng của Chính phủ, Sở giao dịch chứng khoán, các nhà đầu tư cũng như các bên khác sử dụng thông tin tài chính. Sự trung thực của báo cáo tài chính trở thành vấn đề tiên quyết có tầm quan trọng to lớn trong qúa trình lựa chọn các quyết định đầu tư tài chính. Khi các doanh nghiệp ngày càng có quy mô lớn, ở Ca- na- da, Anh, Mỹ... kiểm toán viên bắt đầu thực hiện lựa chọn mẫu các nghiệp vụ hơn là kiểm tra các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Kiểm toán viên và các nhà quản lý dần dần đi đến một chấp nhận chung mà một cuộc kiểm tra kỹ lưỡng các nghiệp vụ theo chọn mẫu sẽ đưa ra các chỉ số tin cậy, có hiệu quả về sự chính xác của các nghiệp vụ tương tự đã được phản ánh trong các báo cáo tài chính. ở Mỹ, sau cuộc khủng hoảng nặng nề về tài chính vào 1929, bắt đầu từ năm1934, Uỷ ban bảo vệ và trao đổi tền tệ (SEC) đã được thành lập và quy chế về kiểm toán viên bên ngoài bắt đầu có hiệu lực. Đồng thời, trường đào tạo kế toán viên công chứng của Mỹ (AICPA) đã in ra mẫu chuẩn đầu tiên về baó cáo kiểm toán tài khoản của công ty . Từ những năm 1950, xuất hiện nhiều tổ chức kiểm toán của Chính phủ trong các lĩnh vực quân đội, hành chính và các xí nghiệp công cộng. Một tổ chức quan trọng là văn phòng kế toán trưởng (GAO: GERNERAL ACCOUNTING OFFICE) đã có vai trò quyết định trong việc mở rộng phạm vi kiểm toán. Chuẩn mực GAO vào năm 1972 (rà soát lại năm 1981), một mặt đã khẳng định lợi ích kiểm toán trong khu vực phi thương mại, mặt khác đã khẳng định quan điểm chuẩn mực và phương pháp mới để đánh giá hiệu quả của các nghiệp vụ phi thương mại. Đạo luật về công ty thương mại của Pháp ngày 24-7-1966, đã xác định công việc và các chuẩn mực hoạt động của kiểm toán viên bên ngoài một cách độc lập. Đồng thời, kiểm toán viên nội bộ cũng đã xuất hiện một cách chính thức ở Pháp vào năm 1960. Trong các công ty, chi nhánh của các tập đoàn ngoại quốcvà các tổ chức Ngân hàng và được phát triển cùng với sự mở rộng quy mô của các công ty nhằm tăng cường sự ổn định và hiệu quả của các xí nghiệp. Năm 1965, hội kiểm soát viên nội bộ của Pháp được thành lập, sau trở thành viện nghiên cứu của kiểm toán viên và kiểm soát viên nội bộ của Pháp (IFACI) vào năm 1973. Trong lĩnh vực công cộng, kiểm toán cũng có nhiều bước phát triển. Lúc đầu, kiểm toán nằm trong Uỷ ban đối chiếu tài khoản của các xí nghiệp công, đến năm 1976, Toà thẩm kế công bố đạo luật tài chính sửa đổi ngày 22-6-1976, giao việc đối chiếu các tài khoản và quản lý các xí nghiệp công. ở Việt Nam, kiểm toán còn là hoạt động rất mới mẻ. Khái niệm kiểm toán mới chỉ được nhắc đến nhiều và sử dụng từ đầu thập niên 90 của thế kỷ 20. Sau khi Việt Nam chuyển đổi cơ chế kinh tế, kiểm toán độc lập đã được hình thành. Sau đó kiểm toán Nhà nước cũng được thành lập. Tuy nhiên, tiền thân của hoạt động này là kiểm tra kế toán đã có từ ngày thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Ngày 23-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh 64/SL thành lập tổ chức thanh tra đặc biệt trực thuộc Chính phủ, tiếp đó là sắc lệnh 57/SL ngày 4-6-1946 quy định tổ chức bộ máy các bộ, mà trong đó lập ra các ban thanh tra. Sắc lệnh 76/SL ngày 25-8-1946 về tổ chức bộ máy tài chính và nha thanh tra tài chính thuộc bộ, khi đó đã quyết định nhiệm vụ của cơ quan tài chính. Hoạt động kiểm toán ra đời và phát triển gắn liền với bước trưởng thành của kế toán Việt Nam trong cơ chế thị trường. Năm 1989, trước nhu cầu biến đổi có tính chất cách mạng trong cơ chế quản lý, cơ chế kinh tế của đất nước, sự thừa nhận một cách tất yếu của nền sản xuất hàng hoá, kinh tế thị trường và một cách quản lý tương đối phù hợp với nó, trong đó có việc sử dụng ngày càng hiệu quả các công cụ hạch toán và kiểm tra, kiểm soát, chế độ kế toán mới đã được ban hành thay thế cho chế độ kế toán cũ đã lạc hậu. Thực tế, từ năm 1989 đến năm 1990, Bộ tài chính kết hợp với một số ngành hữu quan lần lượt cải tiến và ban hành một hệ thống các chế độ và văn bản pháp quy về kế toán mới theo tinh thần kế thừa thành tựu của các chế độ kế toán trước đây. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số nhược điểm của chế độ ban hành năm 1989, chưa bắt kịp với tình hình phát triển của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Do vậy, sau một thời gian soạn thảo, nghiên cứu và thử nghiệm, tháng 12-1995, Thủ tướng Chính phủ cho phép Bộ tài chính ban hành hệ thống kế toán tài chính doanh nghiệp, hệ thống kế toán tài chính này bước đầu đã đáp ứng được yêu cầu quản lý vĩ mô của Nhà nước. Đồng thời hoà nhập được thông lệ phổ biến của kế toán quốc tế, có tính đến điều kiện của Việt Nam. Trong thời gian này, hệ thống kế toán ngân hàng, mà trước hết là kế toán của ngân hàng Nhà nước cũng được đổi mới căn bản phù hợp với yêu cầu của Ngân hàng thế giới (WORLD BANK-WB) và quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF). Trong điều kiện đó, kiểm toán cũng có điều kiện xuất hiện như một tất yếu khách quan, công tác nội kiểm và kiểm toán đã thể hiện những hạn chế lịch sử của nó, một chủ thể kiểm tra tách ra, đứng độc lập với hệ thống tài chính, kế toán để giám định trở lại, qúa trình kiểm toán phải được hình thành và phát triển theo đúng ý nghĩa, bản chất của nó, và cần có một hệ thống tổ chức thích đáng. Cho đến nay, hoạt động kiểm toán đã dần đi đúng quỹ đạo của nó và phát triển rất mạnh ở hầu khắp các nước trên thế giới. Hiện nay, trên thế giới có những hãng kiểm toán, liên đoàn, Hội kiểm toán xuyên Quốc gia như: cơ quan kiểm toán tối cao Châu ASEAN ( ASOSAI), cơ quan kiểm toán tối cao Quốc tế (INTOSAI), và INCOSAI, hoạt động nổi tiếng vì đạt đến chuẩn mực nghiệp vụ, và kỹ năng nghề nghiệp trong kiểm toán. Việt Nam đang trên con đường phát triển đất nước tiến tới hiện đại hoá - công nghiệp hoá, công tác kiểm toán cần được tăng cường và phát huy vai trò của nó, việc học hỏi kinh nghiệm kiểm toán của các tổ chức kiểm toán phát triển trên thế giới là một việc làm thiết thực, đưa kinh tế Việt Nam phát triển, hoà nhập với nền kinh tế thế giới. 2. Bản chất của kiểm toán. - Khái niệm kiểm toán: Theo tác giả ALVIN AREN và JAMES K. LOE Bbecker, phát biểu trong giáo trình kiểm toán hiện đại của mình: "Kiểm toán là quá trình mà theo đó một cá nhân độc lập, có thẩm quyền thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin có thể định lượng có liên quan đến một tổ chức kinh tế cụ thể, nhằm mục đích xác định và báo cáo mức độ phù hợp giữa các thông tin số lượng đó với các chuẩn mực đã được thiết lập ". Còn theo liên đoàn kế toán Quốc tế (IFAC ) đã định nghĩa: “Kiểm toán là việc các kiểm toán viên độc lập kiểm tra và trình bày ý kiến của mình về bản báo cáo tài chính”. -Theo quan điểm chung nhất về kiểm toán, thể hiện tính đầy đủ về kiểm toán của các nhà kiểm toán chuyên nghiệp thế giới như sau: "Kiểm toán là một chức năng quản lý, là một quá trình mà trong đó, các kiểm toán viên có thẩm quyền, những người được đào tạo để có trình độ thích hợp, tiến hành một cách độc lập việc thu thập, xác minh, đánh giá các bằng chứng về các thông tin số lượng liên quan đến các hoạt động kinh tế - tài chính của một đơn vị và tổ chức kinh tế, nhằm xác định và báo cáo mức độ phù hợp của các thông tin số lượng đó với các chuẩn mực về kinh tế, về tài chính và kế toán đã được thiết lập và được pháp luật thừa nhận”. - Từ định nghĩa trên đây, ta đi phân tích một số cụm từ chủ yếu để nói lên bản chất của kiểm toán . + Thông tin số lượng và chuẩn mực đã được xây dựng: Thông tin số lượng có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức như: thông tin định lượng, thông tin về báo cáo tài chính của một công ty, lượng thời gian mà một công nhân cần để hoàn thành nhiệm vụ được giao, tổng chi phí theo một hợp đồng xây dựng của Nhà nước và bản khai thuế cá nhân có thể tiến hành kiểm toán được. Chuẩn mực để đánh giá thông tin số lượng cũng là những nguyên tắc, thể lệ, quy định pháp luật, chuẩn mực kế toán, các chuẩn mực được chọn sẽ sử dụng phụ thuộc vào các mục tiêu của cuộc kiểm toán. + Tổ chức kinh tế: đối tượng kiểm toán của các kiểm toán viên bao giờ cũng được xác định, đó là phải kiểm toán tổ chức kinh tế nào, trong hầu hết các trường hợp tổ chức kinh tế cũng là những pháp nhân như: một công ty cổ phần, một ngân hàng thương mại, tuy nhiên cũng có trường hợp là cá nhân, các phân xưởng...Vì vậy kiểm toán viên cần phải xác định đơn vị, tổ chức kinh tế được kiểm toán là ai để có phương pháp và cách thức kiểm toán phù hợp. - Thu thập và đánh giá bằng chứng: Bằng chứng được định nghĩa là mọi tài liệu thông tin mà kiểm toán viên đã sử dụng làm cơ sở để xác định xem thông tin số lượng đang được kiểm toán có được trình bày phù hợp với các chuẩn mực đã xây dựng hay không. Bằng chứng được tồn tại dưới nhiều hình thức, có thể là những thông tin, lời khai của chính đối tượng được kiểm toán, cũng có khi là của bên ngoài, và có thể là nhận xét của kiểm toán viên. Việc thu thập đủ số lượng, chất lượng bằng chứng là rất quan trọng để thoả mãn các mục đích kiểm toán. Quá trình thu thập và đánh giá bằng chứng phù hợp với các chuẩn mực đã xây dựng rất cần thiết của mọi cuộc kiểm toán . - Cá nhân độc lập có đủ khả năng chuyên môn và thẩm quyền: Tính độc lập là tiên quyết phải được đảm bảo khi kiểm toán. Mặc dù tính độc lập chỉ là tương đối song nó phải là mục tiêu hướng tới của kiểm toán viên. Kết quả kiểm toán thực sự không có ý nghĩa nếu một cá nhân có đủ thẩm quyền mà không vô tư thu thập chứng cứ. Ngược lại, một kiểm toán viên phải có đủ thẩm quyền để được phép trong bất kỳ trường hợp nào cũng có thể kiểm toán. - Báo cáo: Khâu cuối cùng của quá trình kiểm toán là báo cáo kiểm toán - bản thông báo về các phát hiện cho người đọc báo cáo. Báo cáo có thể khác nhau về hình thức, bản chất, trong mọi trường hợp chúng đều phải thông tin cho người đọc về mức độ phù hợp giữa các thông tin số lượng và chuẩn mực đã xây dựng. Để hiểu một cách đầy đủ và toàn diện hơn về bản chất của kiểm toán. Hãy đi phân tích mối quan hệ và sự khác nhau căn bản của kiểm toán trong mối quan hệ với kế toán, thanh tra. * Mối quan hệ giữa kiểm toán với kế toán. -Kế toán: là quá trình ghi sổ, phân loại và tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế một cách có hệ thống, nhằm mục đích cung cấp thông tin tài chính cho quá trình ra quyết định. Kế toán - với tư cách là một công cụ để quản lý nền tài chính Quốc gia nói chung và công tác tài chính trong một doanh nghiệp , một tổ chức kinh tế nói riêng, hạch toán kế toán đã đem lại những tác dụng to lớn trong việc tăng thu nhập, tiết kiệm chi phí trong quản lý kinh doanh, kinh tế tài chính có hiệu quả. Chức năng của hạch toán kế toán là cung cấp thông tin số lượng một số loại nhất định mà nhà quản lý và những người khác có thể sử dụng để ra quyết định. - Mặc dù các thông tin kinh tế mà hạch toán kế toán đã đưa ra là cơ sở cho việc ra quyết định của chủ doanh nghiệp, cơ sở cho việc hoạch định và thực thi các chính sách kinh tế, cơ sở cho các bộ phận bên ngoài doanh nghiệp quan tâm để ra quyết định kinh doanh. Song thông tin nào là đúng đắn, là có căn cứ, có độ chính xác cao, điều này lại hoàn toàn phụ thuộc vào hệ thống kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán Nhà nước, kiểm toán nội bộ cũng như hệ thống kiểm toán độc lập. Điều này để lên giữa kiểm toán và kế toán có mối quan hệ hữu cơ với nhau, ở chỗ, nếu kế toán là quá trình ghi chép, phản ánh, tổng hợp và phân tích các nghiệp vụ kinh tế phát sinh thì kiểm toán lại là quá trình phân tích, nhận định, đánh giá, kiểm định, kết luận về độ chính xác của các thông tin đó. Xét trên một khía cạnh nào đó của mối quan hệ này thì nhận thấy rằng: sẽ không có quá trình kiểm toán nếu không có kế toán, mặt khác những thông tin mà kế toán đã đưa ra thông qua quá trình hạch toán các nghiệp vụ kinh tế phát sinh không được kiểm toán viên kiểm tra, xác nhận tính trung thực, đúng đắn thì những thông tin ấy chưa hẳn đã đảm bảo tính pháp lý, hợp thức cao của nó. Hiện nay, hoạt động kiểm toán còn rất mới mẻ cho nên việc lầm lẫn giữa hai khái niệm này là không thể tránh khỏi. Vì vậy thông qua quá trình nghiên cứu và phân tích có hệ thống, có khoa học thì sẽ đảm bảo được sự hiểu biết chính xác về hai loại công cụ quản lý kinh tế này. * Sự khác biệt giữa kiểm toán với thanh tra: Mặc dù hai hoạt động: thanh tra, kiểm toán đều là một trong những yếu tố cấu thành sự lãnh đạo và quản lý của Nhà nước, có chức năng kiểm tra, kiểm soát, xác nhận sự đúng đắn trong hoạt của đối tượng kiểm tra, tuy nhiên về cách thức tổ chức hoạt động và về bản chất cơ bản là khác nhau, cụ thể: - Về cách thức tổ chức: + Thanh tra: hệ thống thanh tra kế toán tài chính được tổ chức theo ngành dọc từ Trung ương đến địa phương và gắn liền với các tổ chức tài chính, gồm: ./ Thanh tra Nhà nước: là cơ quan của Chính phủ. ./ Thanh tra tài chính: là một ban từ Trung ương xuống địa phương và nằm trong ngành tài chính. ./ Trong tổ chức của Đảng và công đoàn cũng có hệ thống kiểm tra từ Trung ương đến địa phương nằm trong các tổ chức đó. ./ Thanh tra của các ngành quản lý. + Kiểm toán: hệ thống kiểm toán được tổ chức theo hướng tập trung thống nhất, bao gồm: ./ Hệ thống kiểm toán Nhà nước với mục đích là kiểm tra tài chính công, trong đó chủ yếu kiểm tra tính đúng đắn, hợp pháp của các hoạt động thu, chi ngân sách và chi tiêu tài chính do ngân sách cấp, qua đó xác nhận số liệu báo cáo làm cơ sở cho các cấp thanh quyết toán, thu chi ngân sách. ./ Hệ thống kiểm toán độc lập: cung cấp các dịch vụ kiểm toán theo yêu cầu của khách hàng với nhiều mục đích khác nhau. hoạt động của kiểm toán độc lập có tác dụng lớn giúp cho các đơn vị thực hiện tốt công tác tài chính kế toán, đảm bảo tính khách quan, trung thực của số liệu, tài liệu kế toán và quyết toán. ./ Hệ thống kiểm toán nội bộ: là việc kiểm toán trong nội bộ từng ngành, từng đơn vị do bộ máy kế toán của ngành, đơn vị tiến hành đối với các đơn vị và bộ phận trực thuộc nhằm đảm bảo yêu cầu quản lý và hạch toán của bản thân ngành và đơn vị. -Về mặt bản chất: Xuất phát từ chức năng và nhiệm vụ chính: + Thanh tra: ./ Kiểm tra nghiêm ngặt việc chấp hành chính sách, luật lệ, chế độ tài chính Nhà nước tại các cơ quan chính quyền, các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước, các doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, các tổ chức đoàn thể, trên cơ sở đó nhanh chóng phát hiện các vụ việc vi phạm, sai phạm, tham ô, lãng phí vật tư tài sản, tiền vốn của Nhà nước để trình các cơ quan có thẩm quyền xử lý nghiêm minh, đảm bảo kỷ cương phép nước trong hoạt động kinh doanh, hoạt động kinh tế - xã hội, làm lành mạnh tài chính doanh nghiệp, và tài chính Quốc gia. ./ ĐIều tra công việc, vụ việc có liên quan đến các vấn đề về tài chính kế toán trước khiếu nại, khiếu tố của công dân, hoạt động chủ yếu của thanh tra là thanh tra theo vụ việc. ./ Lập các biên bản nhằm chấn chỉnh công việc tài chính kế toán của các đơn vị, ngành, cơ quan các cấp. + Kiểm toán: nội dung trực tiếp của kiểm toán là phân tích và nghiên cứu thực trạng tình hình tài chính kế toán của đối tượng kiểm toán, từ đó đi đến xác minh, kết luận mang tính thuyết phục làm cho những người quan tâm có sự tin tưởng vào những kết luận kiểm toán. Như vậy, về mặt bản chất kiểm toán không phải là thanh tra nhưng thanh tra, kiểm tra lại là chức năng cơ bản của kiểm toán. Nếu thanh tra được tiến hành theo vụ việc, theo yêu cầu thì kiểm toán là hoạt động có tính chất thường xuyên hơn, mọi công việc kiểm toán đều được tổ chức theo một trình tự khái quát từ việc chuẩn bị, đến lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán, và được thực hiện bởi những kiểm toán viên trong hệ thống bộ máy kiểm toán. Mặc dù việc thực hiện các biện pháp quản lý sai phạm không thuộc chức năng, nhiệm vụ của kiểm toán, nhưng chức năng kiểm tra, xác nhận, đánh giá và kết luận về đối tượng kiểm toán lại xác lập cho hoạt động kiểm toán tính độc lập, chủ động và khách quan rất cao. Từ đó có những kiến nghị thoả đáng với cấp có thẩm quyền để có quyết định đúng đắn trong quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh. 3. Vai trò của kiểm toán trong nền kinh tế thị trường. Hoạt động của bất kỳ một Quốc gia, một tổ chức kinh tế nào đều nhằm tiến tới sự hoàn thiện và sự phát triển cao , tuy nhiên đây là một lý tưởng, bởi lẽ sự biến động của môi trườg kinh tế - xã hội là tất yếu xảy ra và có tác động tích cực hay tiêu cực tới kết quả hoạt động của quốc gia, của tổ chức kinh tế đó. Nói như vậy để khẳng định rằng, những kết quả và những hậu quả của một quá trình hoạt động và phát triển của một pháp nhân, một chủ thể kinh tế là tất yếu. Sự thất thoát tài sản, sự xụp đổ một chế độ, đổ vỡ chiến lược kinh doanh và những thành tựu kinh tế đạt được là hai mặt đối lập luôn tồn tại trong một thể thống nhất. Vấn đề đặt ra là, làm thế nào để hạn chế tới mức thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra đối với các chủ thể kinh tế trong hoạt động và phấn đấu trên con đường tiến tới mục đích của mình. Câu hỏi này được đặt ra không chỉ đối với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà là vấn đề quan tâm chung của toàn xã hội. Nhận thức được điều này, các nhà quản lý và hoạch định chính sách kinh tế ở tầm Quốc gia và xuyên Quốc gia đã xây dựng và áp dụng các công cụ quản lý kinh tế - xã hội. Trong đó, kiểm toán là một công cụ quan trọng không thể thiếu trong hệ thống các công cụ quản lý nền tài chính, tiền tệ, ổn định chính trị xã hội Quốc gia, Quốc tế. Nhìn vào hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính, tiền tệ ở khu vực Đông Nam á, nhiều nhà kinh tế, đặc biệt là các chuyên gia kinh tế của ngân hàng phát triển Châu á, ngân hàng thế giới, đã đưa ra một số nhận định liên quan đến công tác quản lý và tổ chức hoạt động của các công ty kiểm toán. Họ cho rằng các doanh nghiệp có thị trường xuất khẩu lớn ở hầu hết các nước thuộc khu vực Đông Nam á, do bị mất thị phần dẫn đến doanh thu giảm và lâm vào tình trạng khủng hoảng về tài chính nhưng đã không bị phát hiện qua kiểm toán, và không được cảnh báo kịp thời để có giải pháp khoanh vùng điều trị cho đến khi căn bệnh này lây lan đến các doanh nghiệp khác qua các kênh: liên kết đối tác, bạn hàng, quan hệ tín dụng mua bán trả chậm, vay nợ lẫn nhau và khi các doanh nghiệp này vay ngân hàng để kinh doanh bất động sản hay vay tín dụng Quốc tế bằng ngoại tệ mạnh để đổi ra nội tệ cho vay hưởng chênh lệch lãi xuất thì việc phát hiện ra của các cơ quan kiểm toán đã trở nên quá muộn và vô phương cứu chữa. Họ cho rằng nếu các “mầm bệnh” ban đầu được khoanh vùng sớm, rất có thể không nổ ra khủng hoảng kinh tế ở khu vực kinh tế Đông Nam á. Tuy nhiên, các nhận định trên có hoàn toàn đúng hay không, điều này chưa thể xác định được. Điều quan trọng hơn cả là xuyên suốt quá trinh tồn tại và phát triển của kiểm toán, phải nhìn thấy việc ra đời của kiểm toán là phù hợp với nhu cầu thực tế của toàn xã hội, những kết quả, thành tựu của kiểm toán phải được trân trọng và những hạn chế của nó cần phải được khắc phục và chấn chỉnh kịp thời . Ta hãy nhìn vào những kết quả thực tế mà kiểm toán đã đạt được kể từ khi kiểm toán Nhà nước nói riêng và nghành kiểm toán nói chung ra đời ở Việt Nam. Trong lễ kỷ nệm 5 năm kiểm toán Nhà nước (từ ngày 11- 7- 1994 đến ngày 11-7-1999), trong bài phát biểu của đồng chí Nguyễn Tấn Dũng - Phó Thủ tướng nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam có đoạn viết: “Tính từ khi thành lập đến nay, thông qua kiểm toán đã phát hiện nhiều sai phạm và kiến nghị tăng thu và giảm chi cho ngân sách Nhà nước khoảng 2500 tỷ đ, trong đó thực hiện số chi tiêu sai chế độ, để ngoài quyết toán ngân sách 1747 tỷ đ. Qua đó đã giúp các cơ quan địa phương, đơn vị chấn chỉnh các thiếu sót, sai phạm, ngăn ngừa lãng phí, chống tham ô, giữ gìn kỷ cương, quản lý tài sản công quĩ. Đồng thời, kiểm toán Nhà nước đã cung cấp cho Quốc hội và Chính phủ những báo cáo, thông tin trung thực, khách quan về tình hình quản lý kinh tế, tài chính, giúp cho việc chỉ đạo và có những quyết sách kịp thời. Những kết quả đạt được đã giúp cho kiểm toán Nhà nước từng bước khẳng định được vai trò, vị trí của mình, đó là những thành tích rất đáng khích lệ cần khẳng định và tiếp tục phát huy". Như vậy, kiểm toán là hoạt động tất yếu phải tồn tại, là công cụ quản lý hữu hiệu của Nhà nước, là một trong các công cụ quản lý quan trọng trong các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, là phương tiện không thể thiếu của bên thứ ba khi sử dụng để đưa ra quyết định kinh doanh đúng đắn cho mình. Hoạt động kiểm toán là cần thiết, đảm bảo hiệu quả trong mọi công tác kinh tế cũng như phi kinh tế trong xã hội. 4. Các loại hình kiểm toán và các bước cơ bản để tiến hành một cuộc kiểm toán 4.1. Các loại hình kiểm toán Có rất nhiều tiêu thức để phân loại kiểm toán, phổ biến là hai tiêu thức: phân loại kiểm toán theo chức năng và phân loại kiểm toán theo chủ thể tiến hành. a. Phân loại kiểm toán theo chức năng: Toàn bộ các công việc kiểm toán hiện nay thực hiện theo ba chức năng: kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán báo cáo tài chinh. a1, Kiểm toán hoạt động: - Khái niệm: kiểm toán hoạt động là việc đánh giá mức độ hiệu lực và tính hiệu quả trong hoạt động của một bộ phận trực thuộc hay toàn bộ đơn vị. Mức độ hiệu lực nói lên khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao và mục tiêu của đơn vị. Tính hiệu quả là đạt được kết quả cao nhất với chi phí là thấp nhất. - Mục tiêu của kiểm toán hoạt động: như định nghĩa đã nêu rõ, kiểm toán hoạt động nhằm đánh giá mức độ hiệu lực và tính hiệu quả trong hoạt động của một bộ phận trực thuộc hay toàn bộ hoạt động của đơn vị. - Đối tượng của kiểm toán hoạt động rất đa dạng, liên quan đến nhiều lĩnh vực, từ chính sách kinh tế, phương án kinh doanh, quy trình công nghệ, cho đến vấn đề kỹ thuật, nghiệp vụ kế toán. Do vậy kiểm toán hoạt động vượt ra ngoài phạm vi công tác tài chính, kế toán và liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau. a2. Kiểm toán tuân thủ. - Khái niệm : kiểm toán tuân thủ là xem xét việc tuân thủ các thủ tục, các nguyên tắc, các quy định pháp lý của Nhà nước, của cơ quan có thẩm quyền hoặc những nội quy tự đề ra của đơn vị. - Mục tiêu của kiểm toán tuân thủ: kiểm toán tuân thủ được tiến hành nhằm xem xét việc thực hiện những qui định pháp lý của đơv vị, đồng thời đề xuất những giải pháp, xử lý khi phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật. a3, Kiểm toán báo cáo tài chính. - Khái niệm: Kiểm toán báo cáo tài chính là kiểm tra, xác định tính kịp thời, đầy đủ khách quan, trung thực và hợp lý của các báo cáo tài chính, đồng thời xem xét và đánh giá báo cáo tài chính có được xây dựng phù hợp với các nguên tắc, chuẩn mực kiểm toán được thừa nhận không? - Đối tượng: Kiểm toán báo cáo tài chính tiến hành kiểm toán bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ và bảng thuyết minh báo cáo tài chính. - Tác dụng: Kiểm toán báo cáo tài chính có tác dụng rất quan trọng trong việc giúp cho người sử dụng thông tin có cơ sở đáng tin cậy để đưa ra quyết định kinh tế phù hợp. - Mục tiêu: Kiểm toán báo cáo tài chính nhằm: xác nhận tính trung thực của số liệu báo cáo tài chính, từ đó có những kiến nghị, đảm bảo tính phù hợp cân đối của bảng báo cáo tài chính. - ý nghĩa: Kiểm toán báo cáo tài chính: có ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi chính tầm quan trọng của báo cáo tài chính, bảng báo cáo tài chính là cơ sở cho việc tính thuế nộp ngân sách Nhà nước, là căn cứ cho các quyết định đầu tư, nó ảnh hưởng đến giá cả chứng khoán của doanh nghiệp, của đơn vị đó trên thị trường. Do đó kiểm toán báo cáo tài chính thuộc về chức năng cơ bản và quan trọng của hệ thống kiểm toán độc lập. b. Phân loại kiểm toán theo chủ thể tiến hành. Theo tiêu thức này kiểm toán được phân ra làm 3 loại: kiểm toán Nhà nước, kiểm toán độc lập, và kiểm toán nội bộ. b1, Kiểm toán Nhà nước. - Khái niệm: kiểm toán Nhà nước là việc kiểm toán do cơ quan kiểm toán Nhà nước tiến hành. - Phạm vi: tiến hành các cuộc kiểm tra tuân thủ, xem xét việc chấp hành các chính sách, luật lệ, chế độ của Nhà nước và đánh giá sự hữu hiệu, hiệu quả hoạt động tại các đơn vị sử dụng vốn và kinh phí của Nhà nước. -Vị trí: cơ quan kiểm toán Nhà nước là một tổ chức trong bộ máy quản lý của nhà nước, kiểm toán viên Nhà nước là các viên chức Nhà nước. - Mục tiêu, nhiệm vụ: kiểm toán Nhà nước hoạt động với nhiệm vụ kiểm tra xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của tài liệu và số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của các cơ quan Nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, đơn ._.vị kinh tế nhà nước và các đoàn thể quần chúng, tổ chức xã hội sử dụng kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp. Kiểm toán Nhà nước còn phải kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trướckhi trình Quốc hội. Kiểm toán Nhà nước cũng phải kiểmtoán báo cáo của các bộ, cơ quan thuộc Quốc hội, toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội có sử dụng kinh phí của Nhà nước, báo cáo quyết toán của các doanh nghiệp Nhà nước... Khi thực hiện kiểm toán, kiểm toán viên Nhà nước có quyền yêu cầu các đơn vị kiểm toán sửa chữa những sai phạm và kiến nghị với các cấp có thẩm quyền xử lý các vi phạm, đế xuất với Chính phủ những sửa đổi, cải tiến cơ chế quản lý tài chính, kế toán cần thiết. b2, Kiểm toán độc lâp. - Khái niệm: kiểm toán độc lập là hình thức được tiến hành bởi các kiểm toán viên độc lập hành nghề trong các công ty, các hãng kiểm toán của các văn phòng kiểm toán chuyên nghiệp. - Phạm vi: kiểm toán độc lập hoạt động chủ yếu là kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán độc lập thực hiện theo yêu cầu của khách hàng và còn có thể thực hiện các dịch vụ tư vấn tài chính, kế toán và thuế. Mặt khác, một cuộc kiểm toán được tiến hành bởinhững kiểm toán viên độc lập còn nằm trong kế hoạch, chủ chương của Nhà nước khi có yêu cầu. b3, Kiểm toán nội bộ. - Khái niệm : kiểm toán nội bộ là công việc kiểm toán do kiểm toán viên nội bộ của đơn vị tiến hành theo yêu cầu của giám đốc doanh nghiệp, đơn vị đó hoặc thủ trưởng đơv vị. - Phạm vi: kiểm toán các báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị của doanh nghiệp và các đơn vị thànhviên, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động. - Bô máy tổ chức: kiểm toán nội bộ có thể trực thuộc Ban Gám đốc, hoặc hội đồng quản trị, tuỳ theo yêu cầu, quy mô và lĩnh vực kinh doanh, mục đích hoạt động của từng doanh nghiệp, từng tổ chức kinh tế. - Nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ: + Kiểm tra và đánh giá tính phù hợp, hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ, trong tổ chức kinh tế. + Kiểm tra và xác nhận chất lượng, độ tin cậy của các thông tin kinh tế, tài chính của báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị doanh nghiệp trước khi trình ký duyệt và công bố. + Kiểm tra và đánh giá sự tuân thủ các nguyên tắc hoạt động, quản lý kinh doanh đặc biệt sự tuân thủ luật pháp, các chính sách, chế độ kế toán, các nghị quyết, quyết định của hội đồng quản trị, Ban Giám đốc của tổ chức kinh tế đó. + Phát hiện những sơ hở, yếu kém, gian lận trong quản lý và trong bảo vệ tài sản, đề xuất các giải pháp nhằm cải tiến, hoàn thiện hệ thống quản lý điều hành kinh doanh của doanh nghiệp. Phụ lục các công ty kiểm toán độc lập ở Việt Nam và bảng kê phận loại kiểm toán. Các công ty kiểm toán độc lập ở Việt Nam. Công ty 100% vốn nước ngoài. Công ty liên doanh Công ty của Việt Nam Nhà nước Trách nhiệm hữu hạn -ERNZT and YOUNG (E&Y-1991). -KPMG(1993) -PRiCE WATERHOUSE(1993) -ARTHUR ANDESEN(1995) -VACO-DTTI(1995-1997) -C&L&AISC(1995) VACO(1991) -AASE(1991). -AFSC(1994). -DAC(1994). -HALO CO -Công ty Thuỷ Chung. -HBP. -Hoaàng gia. Phân biệt các loại kiểm toán. Chỉ tiêu Kiểm toán Nhà nước kiểm toánđộc lập kiểm toán nội bộ Chủ thể tiến hành Cơ quan kiểm toán Nhà nước Công ty kiểm toán Bộ phận kiểm toán trong doanh nghiệp, tổ chức kinh tế,tổ chức tín dụng Kiểm toán viên Viên chức Nhà nước Hành nghề độc lập. Công nhân viên của doanh nghiệp, cơ quan. Đối tượng kiểm toán chủ yếu Kiểm toán tuân thủ,kiểm toán hoạt động. Kiểm toán báo cáo tài chính. Kiểm toán hoạt động. Phương thức tiến hành kiểm toán Bắt buộc. Thoảthuận(Hợp đồng) hoặc theo yêu cầu Theo yêu cầu của GĐ Kinh phí kiểm toán Không có. Có kinh phí. không có. Trách nhiệm Với Nhà nước. Với bên thứ ba. với GĐ Báo cáo (trình cho) Nhà nước. Công khai cho các đơn vị liên quan đến doanh nghiệp Dành cho GĐ. 4.2. Các bước tiến hành một cuộc kiểm toán. Khi tiến hành một cuộc kiểm toán, dù cuộc kiểm toán được tiến hành bởi chủ thể nào thì cũng phải tuân theo một trình tự nhất định của cuộc kiểm oán, phải đảm bảo tính khoa học và logic kể từ khi xuất hiện yêu cầu kiểm toán đến khi kết thúc cuộc kiểm toán. Chuẩn mực về trình tự một cuộc kiểm toán chung áp dụng ở Việt Nam chưa được thông qua mặc dù trình tự kiểm toán Nhà nước và kiểm toán nội bộ đã được phê chuẩn, tuy nhiên nhận thức được tầm quan trọng của chất lượng kiểm toán ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới những quyết định trong quản lý, trong kinh doanh cũng như trong đầu tư của các bên quan tâm, trình tự kiểm toán phải đảm bảo được những nguyên tắc sau cơ bản sau: - Đảm bảo đầy đủ công việc để kiểm toán một nội dung nào đó. - Phải đảm bảo trình tự các công việc của cuộc kiểm toán kể từ khi có quyết định kiểm toán đến khi kết thúc cuộc kiểm toán và những công việc sau kiểm toán. Trình tự cuộc kiểm toán phải khoa học, logic, phù hợp với nội dung kiểm toán và đối với từng đối tượng được kiểm toán. Việc tuân thủ những nguyên tắc trên, không những đảm báo chất lượng cuộc kiểm toán mà còn đảm bảo cho cuộc kiểm toán đó đạt được tính kinh tế, tính hiệu quả nhất định và đây là yêu cầu cao nhất của bất kỳ một chủ thể nào khi tiến hành kiểm toán. Từ sự phân tích trên đây thì quy trình một cuộc kiểm toán bao gồm 4 bước như sau: - Lập kế hoạch và chương trình kiểm toán. - Tiến hành kiểm toán. - Lập báo cáo kiểm toán. - Theo dõi sau kiểm toán. Lập kế hoạch và chương trình kiểm toán: - Mục đích và tác dụng: trợ giúp cho công tác kiểm toán đạt chất lượng, đúng thời hạn, kế hoạch kiểm toán thích hợp sẽ giúp cho kiểm toán viên xác định đúng trọng tâm vấn đề cần thiết, có những chú ý và tránh được sai sót, tiết kiệm thời gian và tạo điều kiện tổ chức, phối hợp công việc giữa các thành viên tham gia kiểm toán cũng như sử dụng hiệu quả kinh nghiệm các chuyên gia, cho phép thu thập đầy đủ những bằng chứng để đưa ra các ý kiến xác đáng. - Nội dung của kế hoạch, chương trình kiểm toán : + Tiến hành điều tra và phân tích rủi ro. + Xác định mục đích, yêu cầu của cuộc kiểm toán. + Xác định nội dung và phạm vi của cuộc kiểm toán. + Xác định phương pháp, kỹ thuật kiểm toán, xác định thời gian kiểm toán từ khi bắt đầu đến khi lập báo cáo kiểm toán. + Chuẩn bị nhân sự cho kiểm toán. - Các bước lập kế hoạch và chương trình kiểm toán. + Kế hoạch sơ bộ. + Kế hoạch tổng thể và kế hoạch chi tiết. + Chương trình kiểm toán. Chương trình kiểm toán là một bước rất quan trọng của quá trình lập kế hoạch kiểm toán vì chương trình kiểm toán chính là việc rà soát lại những nội dung, những vấn đề của một cuộc kiểm toán, sắp xếp các nội dung đó theo một trình tự nhất định đảm bảo tính đầy đủ và khoa học của kế hoạch kiểm toán, tạo những tiền đề cơ bản cho bước thực hiện kiểm toán để cuộc kiểm toán đạt chất lượng cao. Nội dung của chương trình kiểm toán với những vấn đề theo trình tự sau: - Thu thập thông tin về các bộ phận và phác thảo chương trình kiểm toán. - Đối chiếu lại với kế hoạch kiểm toán xem có thích hợp không. - Lựa chọn trình tự kiểm toán. - Đánh giá xem lựa chọn trình tự kiểm toán có đúng đắn không. - Lập chương trình kiểm toán cụ thể. b. Thực hiện kiểm toán: - Sau các công việc chuẩn bị cho cuộc kiểm toán, kiểm toán viên dựa vào kế hoạch chương trình kiểm toán đã hoạch định, vận dụng các phương pháp, kỹ thuật để tiến hành kiểm toán. Quá trình kiểm toán thực chất là quá trình kiểm toán viên vận dụng thực hiện các nội dung của phương pháp và kỹ thuật kiểm toán nhằm thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán có độ tin cậy cao và có giá trị để làm cơ sở cho việc lập báo cáo kiểm toán. Mặt khác, việc kết hợp với các nhận thức cơ bản trong kiểm toán cũng làm tăng chất lượng cuộc kiểm toán lên rất nhiều, nhận thức đó là: + Tuân thủ pháp luật, chuẩn mực kiểm toán và quy chế hoạt động của đoàn kiểm toán. + Tuân thủ quy trình kiểm toán chung và quy trình kiểm toán chuyên ngành. + Chấp hành nghiêm chỉnh kế hoạch, chương trình kiểm toán đã được duyệt. + Phải ghi chép, tập hợp các kết quả cụ thể của từng bước công việc vào hồ sơ kiểm toán. + Định kỳ phải tổng hợp kết quả kiểm toán. c. Hoàn tất và lập báo cáo kiểm toán. Lập và công bố báo cáo kiểm toán và lưu trữ hồ sơ kiểm toán: là quá trình kiểm toán viên tổng hợp công bố và lưu trữ những kết quả làm việc của đoàn kiểm toán về những nội dung kiểm toán trên cơ sở những bằng chứng kiểm toán thu thập được, những vấn đề phát hiện được, những ý kiến, nhận xét và đánh giá, kết luận đồng thời đưa ra các kiến nghị đối với đơn vị được kiểm toán cũng như đối với các cơ quan quản lý Nhà nước trong quản lý kinh tế nhằm hoàn chỉnh và đổi mới cơ chế, chính sách của Nhà nước. Báo cáo kiểm toán: là sản phẩm của quá trình kiểm toán, vì vậy, khi lập báo cáo kiểm toán phải tuân thủ những tiêu chuẩn, chuẩn mực nhất định, trong đó, yêu cầu của báo cáo kiểm toán phải lập thành văn bản, một báo cáo kiểm toán phải có đầy đủ các yếu tố cơ bản sau: ./ Tiêu đề ./ Địa chỉ gửi báo cáo đi (gửi cho ai?) ./ Căn cứ pháp lý của cuộc kiểm toán. ./ Xác định nội dung công việc kiểm toán (kiểm toán về vấn đề gì). ./ Xác định đối tượng kiểm toán (phòng nào, bộ phận nào trong cơ quan). Kết quả kiểm toán trên các nội dung, ý kiến nhận xét và các kiến nghị của kiểm toán viên. Ký tên, ngày ký và lập báo cáo kiểm toán. - Các bước lập báo cáo kiểm toán: + Chuẩn bị lập báo cáo kiểm toán: thu thập, tổng hợp bằng chứng kiểm toán. + Soạn thảo báo cáo kiểm toán thông qua dự thảo báo cáo. + Xét duyệt và công bố kết quả kiểm toán. + Phát hành BCKT. + Lưu trữ hồ sơ BCKT . * Các loại báo cáo kiểm toán: Báo cáo chấp nhận toàn bộ. - Báo cáo chấp nhận từng phần. - Báo cáo ý kiến đối ngược. - Báo cáo ý kiến từ bỏ. d. Theo dõi sau kểm toán: Theo dõi sau kiểm toán là quá trình kiểm tra đơn vị được kiểm toán thực hiện kiến nghị của đoàn kiểm toán hoặc bộ phận kiểm toán nội bộ như thế nào? Có coi trọng các kiến nghị này hay không và đã làm đến đâu? Bằng các phương pháp điều tra trực tiếp hay điều tra gián tiếp để kiểm toán viên có kết luận về tính chủ động, trách nhiệm trong công việc, tính quy củ trong hoạt động sau kiểm toán của đơn vị. - Bước này là bước rất quan trọng vì nó quyết định đến tính hiệu lực, hiệu quả hay không của cuộc kiểm toán. Trên đây là các bước, các nội dung của quy trình một cuộc kiểm toán. Tuân thủ theo quy trình, các nguyên tắc áp dụng trong quy trình kiểm toán sẽ tránh được các rủi ro kiểm toán, loại bỏ những nhân tố ảnh hưởng xấu đến chất lượng một cuộc kiểm toán, nâng cao hiệu quả cuộc kiểm toán, tiết giảm các chi phí không cần thiết. 4.3. Các phương pháp, kỹ thuật sử dụng trong quá trình kiểm toán. Khi tiến hành cuộc kiểm toán, các kiểm toán viên và các đoàn kiểm toán có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để thu thập bằng chứng kiểm toán, xác minh và đánh giá các thông tin kinh tế, sau đây là một số phương pháp kiểm toán chủ yếu có thể lựa chọn trong quá trình kiểm toán để đạt được mục tiêu của cuộc kiểm toán. a. Phương pháp kiểm toán cơ bản: Khái niệm: là phương pháp dùng để thu thập bằng chứng về mức độ trung thực, hợp lý của những số liêu kế toán. Phương pháp này bao gồm hai bộ phận: phương pháp phân tích và phương pháp kiểm tra chi tiết nghiệp vụ và số dư. a1. Phương pháp phân tích: là việc so sánh các thông tin, nghiên cứu các mối quan hệ bằng các tỷ lệ, các chỉ số để phát hiện và nghiên cứu về các trường hợp bất thường, chẳng hạn mối quan hệ: + Vốn bằng tiền và tài sản lưu động của đơn vị được kiểm toán, tỷ suất này > 0.1 và < 0.5 thì đảm bảo tồn quỹ tiền mặt không quá lớn mà vẫn đảm bảo khả năng thanh khoản. + Mối quan hệ giữa thông tin tài chính và thông tin phi tài chính: chi phí nhân công và số lượng lao động. + Sử dụng phương pháp phân tích để kế hoạch kiểm toán khoa học, giúp kiểm toán viên sử dụng thông tin tài chính và phi tài chính, có phạm vi rộng về việc thu thập các bằng chứng để phân tích, nhận xét và củng có thông tin nhằm đưa ra ý kiến xác đáng trong báo cáo kiểm toán. Sử dụng phương pháp phân tích để xét lại tổng thể các thông tin từ đó đi đến kết luận một cách tổng quát về tính hợp lý của các thông tin đó. - Phương pháp kiểm tra chi tiết nghiệp vụ và số dư. Phương pháp này thường được sử dụng để kiểm tra các đối tượng riêng lẻ nhằm nhấn mạnh vào chiều sâu của các vấn đề hoặc các dfdối tượng có quy mô nhỏ, cá nghiệp vụ không phức tạp, tuy nhiên phương pháp này có thể xảy ra những rủi ro nằm trong mối tương quan giữa các đối tượng, đồng thời tốn kém về nhân lực và thời gian. b. Phương pháp kiểm tra, kiểm soát: Khái niệm: là phương pháp thực hiện các thử nghiệm để thu thập các bằng chứng kiểm toán, đảm bảo rằng hệ thống kiểm soát nội bộ mà kiểm toán viên dựa vào để kiểm ttoán là một hệ thống có hiệu quả. Phương pháp này được sử dụng dựa vào hệ thống kiểm soát nội bộ là chủ yếu, để kiểm tra tính hiệu lực, hiệu quả của hệ thống này, tồn tại có phải chỉ là hình thức hay không để từ đó những ý kiến, những kiến nghị phù hợp. c. Phương pháp kiểm toán cân đối: - Khái niệm: là phương pháp dựa trên các cân đối kế toán và các cân đối khác để kiểm toán các mối quan hệ nội tại của các yếu tố cấu thành các quan hệ cân đối đó. d. Phương pháp đối chiếu: Bao gồm phương pháp đối chiếu trực tiếp và phương pháp đối chiếu logic. - Phương pháp đối chiếu trực tiếp: là phương pháp kiểm toán mà kiểm toán viên tiến hành so sánh đối chiếu về mặt lượng của cùng một chỉ tiểu trên các tài liệu khác nhau (các chứng từ kiểm toán ) để tìm ra các sai sót, gian lận về chỉ tiêu đó. - Phương pháp đối chiếu logic: là việc nghiên cứu các mối liên hệ bản chất giữa các chỉ tiêu có quan hệ với nhau thông qua việc xem xét mức biến động tương ứng về trị số của các chỉ tiêu có quan hệ kinh tế trực tiếp, song có thể có mức biến động khác nhau theo các hướng khác nhau. đ. Phương pháp kiểm kê: Phương pháp kiểm kê là phương pháp kiểm tra hiện vật các loại tài sản nhằm thu thập các thông tin về số lượng, giá trị của tài sản đó. Để đảm bảo hiệu quả của công tác kiểm kê, kiểm toán viên cần vào tính chất của các loại vật tư, tài sản: số lượng, giá trị, đặc tính kinh tế. - Kỹ thuật sử dụng phương pháp này: kiểm kê toàn diện hoặc kiểm kê điển hình, kểm kê chọn mẫu. e. Phương pháp điều tra: Là phương pháp kiểm toán mà theo đó bằng các cách khác nhau, kiểm toán viên tiếp cận đối tượng kiểm toán nhằm tìm hiểu, thu thập các thông tin cần thiết về tình huống, thực chất, thực trạng của một số sự vụ, bổ sung căn cứ cho viẹc đưa ra những đánh giá, nhận xét hay kết luận kiểm toán. f. Phương pháp thực nghiệm (còn gọi là phương pháptrắc nghiệm). Là phương pháp tái diễn các hoạt động hoặc các nghiệp vụ để xác minh lại kết quả của một quá trình, một sự việc đã qua hoặc sử dụng thủ pháp kỹ thuật, nghiệp vụ để tiến hành phép thử nhằm xác định một cách khách quan chất lượng công việc, mức độ chi phí. - Phương pháp này thường được áp dụng khi đã thu thập một lượng thông tin nhất định về đối tượng kiểm toán và thường được sử dụng kết hợp với các phương pháp khác như: điều tra, kiểm kê. g. Phương pháp chọn mẫu kiểm toán : Phương pháp này cũng có thể coi là một kỹ thuật điển hình khi kiểm toán. - Khái niệm: Chọn mẫu là việc kiểm toán viên chọn các phần tử "đại diện" có đặc điểm như tổng thể, đủ độ tiêu biểu cho tổng thể, làm cơ sở cho kiểm tra, đánh giá, rút ra kết luận về tổng thể. - Phương pháp áp dụng: chọn ngẫu nhiên, chọn theo xét đoán, ước tính, chọn hệ thống trên cơ sở phân cấp, có thể chọn bằng máy vi tính. Khi lựa chọn các phương pháp kiểm toán, không nhất thiết phải chọn một phương pháp mà kiểm toán viên có thể lựa chọn, quyết định sử dụng phối hợp một số các phương pháp kiểm toán để có được những kết quả cao nhất, tuy nhiên cũng phải nghiên cứu xem kết hợp phương pháp nào với phương pháp nào cho phù hợp, tránh sử dụng phương pháp kiểm kê với phương pháp chọn mẫu vì nếu chưa đủ độ tin cậy của các thông tin thì không nên sử dụng phương pháp chọn mẫu, trong khi đó, sử dụng phương pháp kiểm kê là để nắm bắt mọi thông tin về đối tượng kiểm toán. - Kiểm toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh: + Kiểm toán các khoản doanh thu: thu về hoạt động tín dụng, thu về dịch vụ thanh toán, ngân quỹ, thu từ các hoạt động khác như: thu lãi góp vốn, mua cổ phần, thu từ việc tham gia thị trường tiền tệ, thu từ nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối, thu từ các khoản thu nhập bất thường. + Kiểm toán các khoản chi phí: chi về hoạt động huy động vốn, chi về dịch vụ thanh toán, ngân quỹ, chi về nghiệp vụ trị trường mở, chi về kinh doanh ngoại hối, vàng bạc, chi nộp thuế và các khoản phí, lệ phí, chi cho nhân vien, chi cho hoạt động quản lý và công cụ, chi về tài sản, chi cho dự phòng, bảo toàn và bảo hiểm tiền gửi của khách hàng. + Kiểm toán kết quả kinh doanh bao gồm: kết quả hoạt động kinh doanh chính và kết quả hoạt động bất thường. - Kiểm toán tình hình thực hiện nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước: Kiểm toán lại số thuế và các khoản thanh toán với ngân sách Nhà nước của ngân hàng, đã được trình bày trên báo cáo tài chính có đúng, đầy đủ, kịp thời không? Tóm lại tất cả các hoạt động của ngân hàng đều có thể xảy ra rủi ro, rủi ro do khách quan, cũng có thể do chủ quan, vì thế tất cả các lĩnh vực, hoạt động ngân hàng đều phải được kiểm toán, để đảm bảo rằng một NHTM với tất cả các nghiệp vụ, các lĩnh vực của nó đều hoạt động đúng nguyên tắc, đúng quy chế, đúng pháp luật, góp phần đem lại hiệu quả kinh tế trong kinh doanh ngân hàng, để các NHTM ngày càng phát triển, khẳng định được vị thế và vai trò của mình trong nền kinh tế thị trường. II . KIểM TOáN ngân hàng thương mại TRONG NềN KINH Tế THị TRƯờNG: 1. Sự cần thiết phải kiểm toán ngân hàng : Theo pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và tổ chức kinh tế 23-5-1990, pháp lệnh quy định: - “NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nhiệm vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.’ Ngân hàng thương mại và những trung gian tài chính nói chung cũng như các doanh nghiệp khác tổ chức mọi hoạt động để kinh doanh kiếm lợi nhằm tồn tại, phát triển và thịnh vượng. Tuy nhiên, ngân hàng thương mại khác các tổ chức kinh tế khác ở chỗ nó kinh doanh một mặt hàng đặc biệt là tiền tệ và dịch vụ ngân hàng. Hoạt động của ngân hàng chứa rất nhiều rủi ro, không những là rủi ro mất vốn tự có của ngân hàng mà còn có rủi ro do mất vốn của khách hàng. Vì vậy, khi có rủi ro xảy ra đối với ngành ngân hàng cũng có nghĩa là rủi ro đối với cả kinh tế, bởi lẽ hoạt động của ngân hàng liên quan đến mọi đối tượng trong nền kinh tế, kết quả hoạt động của ngành ngân hàng chi phối đến kết quả, triển vọng của các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân liên đới với ngân hàng . Trong hoạt động ngân hàng, tổn thất trong kinh doanh là điều khó tránh khỏi. Việc bảo vệ an toàn vốn tiền gửi của khách hàng và đảm bảo an toàn vốn đầu tư không những đựơc các nhà kinh doanh tiền tệ quan tâm mà còn là mối quan tâm của toàn xã hội. Đứng trên tầm vĩ mô thì trách nhiệm của cơ quan quản lí Nhà nước là vô cùng lớn đối với sự an toan và phát triền của hệ thống ngân hàng và phát triển thưong mại. Vì lẽ đó, Nhà nước đã tăng cường càc công cụ quản lý của mình đối với các ngân hàng thưong mại bằng việc xây dựng hành lang pháp lý bảo vệ hoạt động ngân hàng, tổ chức các hoạt động kiểm tra kiểm soát các ngân hàng thương mại nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra. Mặt khác NHTM là các đơn vị được hoạt động được cấp vốn bởi ngân sách Nhà nước cho nên cũng là đối tượng thường xuyên phải kiểm toán của kiểm toán Nhà nước, kiểm toán nhà nước thường kiểm tra việc sử dụng nguồn vốn Nhà nước cấp cho các ngân hàng thương mại, tình hình chấp hành cơ chế quản lý tổ chức của Nhà nước, của pháp luật. Cũng xuất phát từ nhu cầu tìm hiểu thông tin về ngân hàng, là đối tương mà các chủ thể kinh tế muốn đầu tư, đảm bảo quyền lợi cho họ trong quan hệ giao dịch, liên doanh, liên kết, đòi hỏi phải dựa trên những thông tin có đủ độ tin cậy để giúp họ đưa ra những quyết định đúng đắn. Vì vậy kiểm toán ngân hàng là cần thiết, là một nhu cầu tất yếu được đáp ứng đối với các đối tượng quan tâm, là một công cụ quan trọng của nhà nước để quản lý và giám sát đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng, là cơ sơ cho việc thực thi, xây dựng các chính sách kinh tế của Nhà nước, là một mảng công việc của kiếm toán Nhà nước nhằm hoàn thành nhiệm vụ được giao trong năm ngân sách trong việc kiểm tra, kiểm toán việc sử dụng, quản lý ngân sách Nhà nước tại từng ngân hàng trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam. 2. Những hình thức kiểm toán trong ngân hàng thương mại. Ngày nay, một ngân hàng đang chịu sự chi phối của các hình thức kiểm toán sau: kiểm toán Nhà nước, kiểm toán độc lập, kiểm toán nội bộ. Sự tất yếu tồn tại kiểm toán Nhà nước tại các ngân hàng thương mại vì theo quyết định, chỉ thị của Chính phủ trong năm tài chính nhằm xem xét việc chấp hành các chính sách, luật lệ, chế độ của Nhà nước. Mặt khác kiểm toán Nhà nước còn có khả năng xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của tài liệu, số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của ngân hàng và định giá sự hữu hiệu, hiệu quả của hoạt động ngân hàng trong việc sử dụng vốn và kinh phí của ngân hàng. Từ đó, có những góp ý, yêu cầu ngân hàng xử chữa sai phạm, kiến nghị với cấp có thẩm quyền những mặt còn hạn chế trong quản lý Ngân hàng, có đề xuất với Chính phủ về việc sửa đổi, cải tiến cơ chế quản lý tài chính, kế toán cần thiết đối với ngân hàng . Như vậy, mọi hoạt động của ngân hàng phải tuân theo pháp luật, các chính sách của Nhà nước, các chế độ về quản lý tài chính, kế toán của Nhà nước ban hành. Việc đánh giá đúng đắn những quy định này phải dựa trên báo cáo kiểm toán của kiểm toán Nhà nước, từ đó đảm bảo mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của ngân hàng đúng đắn, hiệu quả và an toàn . Khi muốn có được những thông tin kế toán chính xác, trung thực, lãnh đạo ngân hàng không chỉ dựa vào những số liệu do bộ phận kế toán đưa ra, mà cần phải kết hợp với sự xác nhận một cách khách quan, trung thực về số liệu trên báo cáo tài chính đó của các hãng kiểm toán độc lập. Mặt khác, nếu cơ quan Nhà nước cấp trên muốn biết chính xác về những thông tin phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh của một ngân hàng thương mại nào đó, cơ quan Nhà nước đó có thể thuê một hãng kiểm toán độc lập tại địa bàn ngân hàng đó đang hoạt động hoặc một hãng kiểm toán độc lập ở một địa phương khác đến kiểm toán ngân hàng đó (thường là thuê hãng kiểm toán cùng địa bàn vì lượng thông tin nắm bắt về ngân hàng này sẽ lớn hơn, chính xác và tổng hợp hơn). Kinh phí thuê hãng kiểm toán này do cơ quan Nhà nước cấp trên đó chi trả . Các kiểm toán viên nội bộ, hệ thống kiểm soát nội bộ trong NHTM có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin theo yêu cầu của kiểm toán viên bên ngoài có thông qua ý kiến cấp lãnh đạo của NHTM đó. Bên cạnh hoạt động kiểm toán Nhà nước, kiểm toán độc lập diễn ra trong NHTM, một hoạt động kiểm toán không thể thiếu trong nội bộ một ngân hàng đó là kiểm toán nội bộ ngân hàng. Theo luật các tổ chức tín dụng thông qua trong Quốc hội khoá 10, kỳ họp thứ 2 (12-12-1997) quy định: “Tổ chức tín dụng phải lập hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ thuộc bộ máy điêù hành, giúp tổng Giám đốc hoặc Giám đốc điều hành thông suốt, an toàn và đúng Pháp luật mọi hoạt động nghiệp vụ của tổ chức tín dụng”. Vị trí và vai trò của kiểm toán nội bộ càng được khẳng định sau khi quyết định số 03-98 QĐ/NHNN3 (3-1-1998) của Thống đốc ngân hàng Nhà nước được ban hành vê quy chế: "Mẫu về tổ chức và hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ trong tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam". Trong điều 5 của quy định có nêu: “Tất cả các tổ chức tín dụng quy định tại điều 2, khoản 1 quy chế này phải thành lập bộ máy kiểm tra nội bộ chuyên trách tại trụ sở chính và các đơn vị thành viên. Bộ máy này trực thuộc tổng giám đốc hoặc Giám đốc”. Các tổ chức tín dụng quy định tại điều 2, khoản 1 quy chế này là: Ngân hàng quốc doanh (bao gồm cả ngân hàng phục vụ người nghèo và ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long), ngân hàng thương mại cổ phần, các công ty tài chính (bao gồm cả các công ty tài chính 100% vốn nước ngoài, công ty tài chính liên doanh với nước ngoài tại Việt Nam, công ty cho thuê tài chính), các ngân hàng liên doanh, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, quỹ tín dụng nhân dân Trung ương ... Như vậy, một ngân hàng thương mại phải chịu sự chi phối của các loại kiểm toán trên, cả 3 loại hình kiểm toán này đều đem lại những tác dụng nhất định cho hoạt động sản xuất kinh doanh của NHTM, giúp các ngân hàng hoạt động và phát triển một cách lành mạnh, an toàn và hiệu quả. 3. Những lĩnh vực kiểm toán chủ yếu trong Ngân hàng thương mại NHTM hoạt động với rất nhiều lĩnh vực, rất nhiều nội dung, xét một cách khoa học thì các lĩnh vực kiểm toán chủ yếu trong NHTM là : Kiểm toán tài sản và nguồn vốn, kiểm toán hoạt động tín dụng, kiểm toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh, kiểm toán tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước. - Trong Kiểm toán tài sản và nguồn vốn, kiểm toán các nội dung sau: + Kiểm toán các khoản tiền (số hiệu tài khoản:10), kiểm toán các khoản đầu tư (số hiệu tài khoản: 11,13), kiểm toán khoản phải thu (số hiệu tài khoản :36,37). + Kiểm toán các khoản phải trả (số hiệu tài khoản: 40,41,42,43, 44,46,47). + Kiểm toán các khoản cộng dồn dự thu (số hiệu tài khoản:117, 127,137,207, 217, 227, 237, 247, 257,277). + Kiểm toán công cụ lao động và vật liệu (số hiệu tài khoản: 311 ,312, 313). + Kiểm toán tài sản cố định. + Kiểm toán chi phí xây dựng cơ bản dở dang. + Kiểm toán nguồn vốn và các quỹ. ./ Nguồn vốn chủ sở hữu (số hiệu tài khoản: 60,61,63,69). ./ Nguồn kinh phí sự nghiệp (số hiệu tài khoản: 422). - Kiểm toán hoạt động tín dụng: + Mục đích: Xác định ảnh hưởng của nó đến kết quả tài chính và mức độ ảnh hưởng của phải được lượng hoá thành tiền. Mục tiêu này được cụ thể bằng những yêu cầu sau: ./ Rà soát, phản ánh mức độ phù hợp với các văn bản pháp quy trong quy chế, quy trình, thủ tục tín dụng của ngân hàng và ảnh hưởng của nó đến hiệu quả kinh doanh. ./ Phản ánh việc chấp hành các quy định trong các văn bản pháp quy về từng loại nghiệp vụ tín dụng. ./ Phản ánh số liệu chính xác về doanh số cho vay, thu nợ và số dư từng nghiệp vụ tín dụng. ./ Phân tích, đánh giá chính xác về chất lượng tín dụng, dự kiến mức độ rủi ro và trích lập dự phòng theo quy định. Quy trình kiểm toán phải thận trọng, trung thực, khách quan, thể hiện tính độc lập cao. + Nội dung : ./ Kiểm toán nghiệp vụ cho vay : Nhận về hồ sơ cho vay có đảm bảo tính pháp lý không, có đầy đủ không. Việc áp dụng đố tượng cho vay so với qui chế cho vay. Nhận xét bên cho vay về các điều kiện vay vốn, Nhận xét việc áp dụng các phương thức cho vay có phù hợp không. Nhận xét việc chấp hàng các qui định khác: mức cho vay, lãi suất, thời hạn cho vay. Nhận xét việc kiểm tra, kiểm soát trước, trong và sau cho vay, xử lý nợ có đúng qui định không, việc gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ có đúng nguyên nhân khách quan không ? ./ Kiểm toán nghiệp vụ bảo lãnh : Kiểm tra tổng số dư bảo lãnh của ngân hàng có vượt mức quy định so với qũi bảo lãnh không ? Có trích qũi bảo lãnh không? Các quy định áp dụng khi bảo lãnh cho vay vốn nước ngoài, bảo lãnh trong nước có được thực hiện đúng và đầy đủ không? ./ Đối với nghiệp vụ cho thuê tài chính : Nhận xét bên thuê có đủ điều kiện không ? Kiểm tra, nhận xét hồ sơ xin thuê có đầy đủ không? Kiểm tra tính chất phù hợp của thời hạn thuê. Kiểm tra việc tuân thủ quy định về sử dụng nguồn vốn của công ty cho thuê tài chính (Nguồn vốn vay không quá 20 lần vốn tự có, tổng giá trị tài sản cho thuê một khách hàng không qúa 30% vốn tự có). ./ Đối với dịch vụ cầm đồ: Kiểm tra: "Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ cầm đồ" do chi nhánh ngân hàng Nhà nước cấp cho chi nhánh ngân hàng thương mại, nếu trong điều lệ tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại không có dịch vụ này . ./ Đối với nghiệp vụ chiết khấu : Kiểm tra, nhận xét việc chấp hành các quy định về chiết khấu, trong đó chú ý kiểm tra luật lưu thông hối phiếu, giấy tờ có giá có được tuân thủ không. Tóm lại tất cả các hoạt động của ngân hàng đều có thể xảy ra rủi ro, rủi ro do khách quan cũng có thể do chủ quan, vì thế tất cả các lĩnh vực hoạt động ngân hàng đếu phải tiến hành kiểm toán, để đảm bảo rằng một Ngân hàng thương mạivới tất cả các lĩnh vực của nó đều hoạt động đúng nguyên tắc, đúng quy chế, đúng pháp luật, góp phần đem lại hiệu quả kinh tế trong kinh doanh cho ngân hàng để các Ngân hàng thương mại ngày càng phát triển, khẳng định được vị thế và vai trò của mình trong nền kinh tế thị trường. III. KIểM TOáN NộI Bộ ĐốI VớI HOạT ĐộNG TíN DụNG TạI các NGÂN HàNG thương mại trong nền kinh tế thị trường: 1. Một số nét cơ bản về kiểm toán nội bộ trong các tổ chức kinh tế : a. Sự hình thành và phát triển kiểm toán nội bộ trên Thế giới và ở Việt Nam: - Mọi hoạt động kiểm tra, kiểm toán xuất phát từ nhu cầu quản lý. Kiểm toán phải đảm bảo tính khách quan, độc lập của nó. Do vậy không một định chế nào bắt buộc phải thành lập kiểm toán nội bộ trong các cơ quan, đơn vị kinh tế. Tuy nhiên, xuất phát từ những thực tế khách quan, kiểm toán nội bộ đuợc tồn tại như một tất yêú. bởi những đóng góp to lớn cuả kiểm toán nội bộ đối với sự nghiệp tồn tại và phát triển lâu dài của các đơn vị kinh tế trong nền kinh tế đã chứng tỏ điều đó. Để nói rõ một cách đầy đủ hơn về những đóng góp của kiểm toán nội bộ, chúng ta hãy ngiên cứu sự ra đời và phát triển của kiểm toán nội bộ. Theo lý thuyết và thực nghiệm chặt chẽ, chức năng kiểm toán nội bộ nảy sinh khi một người bất kỳ ngồi lại và kiểm tra xêm mình làm các công việc đã đúng chưa và liệu có cách nào tốt hơn không? Một người khác muốn tham gia vào sự kiểm tra này, vì theo quan điểm chung sự đánh giá khách quan bao giờ cũng cho những hiệu quả cao hơn,chính xác hơn. Mở rộng quy mô, chúng ta xét quá trình quản lý của một doanh nghiệp nhỏ người lãnh đạo không thể kiểm soát được hết các công việc của các bộ phận trong doanh nghiệp mình chức năng kiểm toán nội._., xây dựng lại quan điểm để hệ thống hoạt động tốt hơn. f. Thực hiện đầy đủ chức năng của kiểm toán nội bộ. - Giải quyết khó khăn này không chỉ thuộc trách nhiệm của kiểm toán viên tín dụng, của lãnh đạo ngân hàng mà còn tuỳ thuộc rất nhiều vào sự quản lý của Nhà nước, các văn bản liêm quan đến lĩnh vực này cũng chưa đề cập cụ thể, vì vậy đòi hỏi các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải tạo hành lang pháp lý đầy đủ để chức năng của kiểm toán phát huy hết tác dụng. Về phía các cán bộ kiểm toán tín dụng phải áp dụng các kiến thức, kỹ thuật kiểm toán của các đoàn thanh tra, kiểm toán khi kiểm tra các mặt nghiệp vụ của ngân hàng để tổ chức một cuộc kiểm toán tín dụng thực sự khoa học trên cơ sở quy trình kiểm tra tín dụng đã được ban hành và đang áp dụng. Đảm bảo thực hiện đầy đủ các bước kiểm toán sau: - Xác định đối tượng, mục tiêu của cuộc kiểm toán. - Xác định rủi ro trọng yếu khi kiểm toán . - Lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán. - Kiểm toán vấn đề trọng tâm như thé nào và rà soát ra sao. - Việc áp dụng điện toán như thế nào khi kiểm toán. - Lập báo cáo kiểm toán, cơ sở là chế độ báo cáo của Nhà nước quy định. d. Giải pháp cho các vấn đề khác. Đối với khó khăn trong phối hợp với ngân hàng trong việc xử lý tài sản thế chấp, nợ tồn đọng để thu nợ cho Ngân hàng. Việc xử lý tài sản của khách hàng qua đời để lại di sản thừa kế, gây những tranh chấp không đáng có. -Trước tiên các kiểm toán viên tín dụng cần phải được khẳng định rằng: các lĩnh vực trên thuộc trách nhiệm, thẩm quyền được tham gia vào quá trình xử lý. Họ không thể làm ngơ khi các lĩnh vực này thuộc đối tượng của nghiệp vụ tín duụng mà không thuộc đối tượng của kiểm tra tín dụng. -Biện pháp cụ thể: cán bộ kỉem tra muốn tham gia kỉem tra lĩnh vực này phải có cái nhìn đúng đắn, có nhận thức và kiến thức đầy đủ hơn đối với những khía cạnh đó. +, Đối với việc xử lý tài sản thế chấp, nợ tồn đọng (bao gồm nợ khó đòi và nợ quá hạn) để thu nợ cho ngân hàng. Theo điều 32, khoản 1 cua nghi định 178 của chính phủ ngày 29-12-1999 có nêu: "Sau thời hạn 60 ngày kể từ khi đến hạn trả nợ mà tài sản thế chấp tiền vay chưa được xử lý theo thoả thuận thì Ngân hàng có quyền xử lý tài sản đảm bảo tiền (TSĐB) vay để thu nợ ". Tuy nhiên nghị định này chưa phải đã được áp dụng triệt để để ngân hàng có thể thu hồi được vốn bằng cáh bán các TSĐB tiền vay đó. Bởi lẽ trong trường hợp khách hàng cố tình không trả nợ, không ký giấy uỷ quyền bán tài sản cho trung tâm phát mại hoặc cơ quan đấu giá thì trung tâm phát mại không dám (vì về nguyên tắc là không đủ thẩm quyền ) bán TSĐB đó (Vì chưa chuyển quyền sở hữu), cho nên Ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình phát mại tài sản. Hiện Ngân hàng Đống Đa đang gặp một số trường hợp như trên với giá trị vốn vay khá lớn cũng đang chờ tiếng nói của các cơ quan pháp luật để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mình bằng việc ra các văn bản tầm luật để thi hnàh được điều 32 NĐ 178 và các thông tư liên quan ( Thông tư 08, 06 ngày 4-4-2001). + Đối với việc xử lý tài sản của những KH qua đời để lại di sản hừa kế tại ngân hàng. Trong trường hợp khách hàng qua đời để lại di chúc ghi rõ việc phân chia tài sản, tổng giá trị tài sản tại ngân hàng thì lại là vấn đề bình thường mà các Ngân hàng vẫn gặp phải và các cơ quan pháp luật, toà án có thể giải quyết được. Vấn đề cần bàn ở đây là trường hợp khách hàng không ghi rõ trong di chúc là để lại cho ai và đặc biệt là trường hợp giá trị di chúc lớn hơn tà sản khách hàng gửi tại Ngân hàng (chủ yếu là sổ tiết kiệm và tàI khoản tiền gửi cá nhân). Vậy thi việc xử lý của Ngân hàng như thế nào? Liệu các luật vể giải quyết tố tụng, tranh chấp áp dụng cho các trường hợp trên đã đảm bảo thoả đáng cho các bên hay chưa? Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, bộ luật dân sự do Quốc hội nước CHXHCNVN ban hành ngày 28- 10- 1995 được coi là cơ sở duy nhất quyết định về việc thừa kế, nhưng còn nhiều khó khăn, bất cập trong xử lý. Đơn cử như trong trường hợp người chết đã lập di chúc nhưng sau đó lập di chúc khác thay thế di chúc trước thì di chúc trước bị huỷ bỏ (điều 665 bộ luật dân sự). Nhưng luật không nói rõ và quy định thế nào là di chúc đủ tính pháp lý, cho nên ngân hàng khó có thể xác định được bản di chúc nào là cuối cùng và có hiệu lực? Hay Ngân hàng phải chú ý, kiểm tra người lập di chúc còn có những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc hay không ngoài việc căn cứ váo nội dung di chúc. Bởi vậy nếu Ngân hàng có những sơ xuất nhỏ trong việc phân chia di sản thừa kế thì hậu quả xảy ra sẽ không lường hết được. Việc Ngân hàng cử người tham gia quan hệ tố tụng và đại diện trước các cơ quan pháp luật chỉ là tình thế bắt buộc mà các Ngân hàng không muốn xảy ra. Nâng cao trình dộ không những về lĩnh vực tín dụng, kiểm tra, kiểm toán mà kiến thức về pháp luật trong xử lý các vụ việc hư trên cũng thuộc trách nhiệm và quyền hạn của kiểm toán viên tín dụng. Những khó khăn trước mắt của ngân hàng về các vấn đề nếu trên không chỉ là vấn đề nhận thức mà còn là vấn đề có tính cấp thiết phải giải quyết đòi hỏi mỗi cán bộ phải chung sức đồng tâm. * Đối với khó khăn trong kiểm tra, kiểm toán đối với nghiệp vụ bảo lãnh, đặc biệt là bảo lãnh trong nước trong Quyết định còn nhiều bất cập. Trong quyết định 283 của NHNN chưa đề cập đến việc khách hàng phải ký quỹ bảo lãnh hay việc trích quỹ bảo lãnh còn chưa được đề cập cụ thể dẫn đến việc Ngân hàng rất lúng túng khi thực hiện nghiệp vụ này. Đây cũng là khó khăn của kiểm toán viên tín dụngkhi tiến hành kiểm tra, kiểm toán đối với nghiệp vụ này. Thực tế này cho thấy tổ KTKTNB tín dụng phải có biện pháp, cách thức kiểm toán trong kiểm tra việc thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh theo quy chế bảo lãnh hiện hành, đồng thời có những kiến nghị với cấp lãnh đạo Ngân hàng cấp trên trong việc sửa đổi quy chế tạo điều kiện cho Ngân hàng CTĐĐ thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh thông suốt và hiệu quả. * Đối với khó khăn: thiếu kinh nghiệm của kiểm toán viên tín dụng trong kiểm tra quá trình thẩm định các dự án vay vốn lớn của khách hàng liên quan đến xây dựng và đổi mới quy trình công nghệ hoặc cho vay đầu tư bất động sản ( BĐS ). -Về cho vay đầu tư BĐS ở Ngân hàng rất ít tuy nhiên không phải là không có, cho nên khi kiểm toán, kiểm toán viên cần chú ý những yếu tố sau: + Địa điểm đầu tư kinh doanh. + Giá cả, khả năng có thể thu nhập được từ việc tài trợ cho kinh doanh BĐS của khách hàng. + Kiểm tra dự kiến cho thuê BĐS của khách hàng có hợp lý và khả thi không? + Tình hình kinh tế- xã hội hiện nay có cho phép đầu tư kinh doanh BĐS không? Thị trường BĐS có nhộn nhịp, sôi động không? + Quy luật lên xuống cung cầu về sử dụng và đầu tư bất động sản. + Kinh nghiệm của nhà nhà kinh doanh đầu tư, tài trợ BĐS. + Chú ý sử dụng thẩm định viên từ bên ngoài. - Thẩm định các dự án vay vốn lớn của khách hàng liên quan đến xây dựng và đổi mới quy trình công nghệ. + Phải nắm chắc quy luật của khoa học, kỹ thuật và công nghệ thường bị lạc hậu hoá trong điều kiện nền khoa học hiện đại ngày nay. + Công nghệ thông tin, khoa học hiện đại là một nhu cầu không thể thiếu song cũng phải nắm được rủi ro lớn do chính ngành công nghiệp ấy mang lại. + Việc thẩm địnhcác luận các luận chứng kỹ thuật của cán bộ tín dụng về các công trình xây dựng phải được kiểm tra xát sao và kỹ càng hơn. Tuy nhiên, muốn làm được điều này, phải nắm và hiểu thật sâu về các yếu tố tham gia vào một dự án xây dựng: chẳng hạn yếu tố xây lấp, thiết bị, kỹ thuật cơ bản khác, nguồn vốn đầu tư xây dựng và lãi suất vay ngân hàng khi đầu tư xây đựng . Quy trình thực hiện dự án hết sức phức tạp, nằm ngay trong bản thân từng công đoạn và rủi ro tín dụng có thể xảy ra bất cứ lúc nào, do vậy tổ kiểm tra, kiểm toán tín dụng không được bỏ qua một khâu thẩm định nào, không những thế pghải biết được cán bộ tín dụng thẩm định như vậy đã đúng chưa, quy trình thẩm định này có phù với nội dung và đặc điểm của dự án không ? Thật vậy kiểm tra lại quá trình thẩm định các dự án, luận chứng kinh tế kỹ thuật của các công trình xây dựng của cán bộ tín dụng là việc làm hết sức quan trọng, việc kiểm tra như thế nào cho hiệu quả lại thực sự quan trọng hơn. Một biện pháp quan trọng xin được đề xuất đối với việc kiểm tra quy trình thẩm định của cán bộ tín dụng đối với các luận chứng kĩ thuật của cáccông trình xây dựng là: - Kiểm tra quy trình thẩm định: khi thẩm định phải tuân theo trình tự sau: Kiểm tra việc lập luận chứng kinh tế, việc duyệt thiết kế. Việc dự toán có hợp lí chưa; thực hiện dự án (như thế nào, có đúng không?); việc nghiệm thu thanh toán và thanh lí hợp đồng. Trong quy trình này chú ý trong khâu lập luận chứng kinh tế kỹ thuật: việc thiết kế bản vẽ đã đưược phê chuẩn chưa, tránh trường hợp khi lập là một bản vẽ, khi xây dựng và tính quyết toàn lại là một bản vẽ khác, trong trường hợp phát sinh chi phí do bản vẽ mới sẽ ảnh hưởng đến hạn mức tín dụng đã dược phê duyệt bởi lẽ nếu khách hàng yêu cầu cho vay thêm do bản vẽ thay đổi, liệu ngân hàng không cho vay đã dám chắc thu hồi nợ đầy đủ (hay ít nhất các tranh chấp sẽ không xảy ra?). Thứ hai, trong khâu dự toán, chú ý chi phí cho đấu thầu và các vấn đề liên quan đến đấu thầu. ./ Tổ chức dấu thâù Quốc tế hay trong nước, chi phí bao nhiêu, thủ tục, hợp đồng đấu thầu, các thông báo trúng thầu.Trong dự toán cũng chú ý đến việc áp dụng đơn giá thanh toán cho từng hạng mục công trình giữa nhà trúng thầu và nhà thầu (nhà tổ chức đấu thầu); kiểm tra các chi phí phát sinh trong thi công. Đặc biệt phải kiểm tra trình độ kĩ sư, cán bộ công nhân dược thuê (cả hiện tại và tương lai khi dự án đi vào hoạt động), kiểm tra thời gian bảo hành từng gói thầu, từng hạng mục, hay thời gian bảo hành công trình, có lớn hơn hoặc bằng thời gian cho vay thu nợ không? Theo kinh ngiiệm của những chuyên gia về lĩnh vực này cho rằng một dự án lớn với việc tổ chức đấu thâù có chất lượng có chi phí nhỏ hơn hoặc bằng giá trị dự toán của người đầu tư xây dựng thì dự án ấy khi cho vay có khả năng thu hồi nợ gần như caonhất so với các tiêu chí khác.Theo quan điểm cá nhân, tôi cho rằng quan diểm này là hợp lý, tuy nhiên cũng tuỳ từng điều kiện, từng dự án mà kiểm toán viên tín dụng xác định được quan điểm khoa học khi kiểm tra. Do lĩnh vực đầu tư xây dựng và công nghệ hiện đại là lĩnh vức có tính chất hết sức phức tạp, thẩm định của cán bộ tín dụng về lĩnh vực này là hết sức khó khăn, do mối quan hệ phức tạp giữa tín dụng, đầu tư tín dụng với đầu tư cho các lĩnh vực đó, nên chăng ngân hàng cần xây dựng tổ chức thêm một tổ chuyên đề chuyên nghiên cứu và kiểm toán về các vấn đề nêu trên, hoặc tổ tư vấn kỹ thuật. ngân hàng hỗ trợ cho bộ phận kiểm toán tín dụng nói riêng, phòng KTKTNB Ngân hàng nói chung hoạt động tốt hơn, hoặc cũng do điều kiện thực tế chưa cho phép có thể để bộ phận này trực thuộc quản lý của phòng kiểm tra, kiểm toán nội bộ Ngân hàng . Trên đây là một số biện pháp xin được đề xuất nhằm khắc phục, hạn chế những khó khăn, những vướng mắc, tồn tại của tổ kiểm tra, kiểm toán tín dụng trong hoạt động năm 2000, là cơ sở tiền đề cho Ngân hàng hoạt động kinh doanh tốt hơn trong những năm tiếp theo. III. Những kiến nghị cụ thể . Để giải quyết các tồn tại và thực hiện được các biện pháp đã được đề xuất ở trên, em xin đưa ra một số ý kiến sau: Trước hết các cán bộ kiểm toán viên tín dụng của Ngân hàng cần xác định được những tồn tại, những khó khăn vướng mắc chưa làm được của tổ kiểm toán tín dụng là do những nguyên nhân nào, yếu tố khách quan nào tác động đến, và đặc biệt trong bối cảnh kinh tế xã hội hiện tại, các tồn tại ấy có thể thực hiện, giải quyết ngay chưa hay phụ thuộc vào thời gian? Theo em, để khắc phục những tồn tại trên, để thực hiện được các biện pháp đã đề xuất, phụ thuộc rất lớn vào môi trương kinh tế xã họi- môi trường luật pháp hay cụ thể là các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, vào môi trường hoạt động của ngân hàng hay cụ thể là quan điểm của cấp lãnh đạo ngân hàng, vào cái nhìn của của các bộ phận nghiệp vụ khác. Và điều quan trọng hơn cả là đối với mỗi cán bộ kiểm toán viên, trang bị cho mình những hành trang gì, phương tiện nào để có thể đảm bảo sự tồn tại của mình không phải là hình thức, không chỉ là một công cụ qản lý bình thường mà phải thực sự là một yếu tố cấu thành của chi nhánh, mà thiếu nó, hiệu quả kinh doanh của chi nhánh không được bảo đảm. Em xin được đi vào từng vấn đề cụ thể như sau: 1, Đối với các cơ quan Nhà nước và Ngân hàng cấp trên. Trong bối cảnh chung của cả nước mặc dù đã hết sức đề cao vai trò của kiểm toán nội bộ nhưng công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ ở NHCTĐĐ còn gặp rất nhiều khó khăn và chưa đáp ứng được mục đích và yêu cầu đặt ra. Bởi lẽ, hoạt đọng kiểm toán còn là hoạt đng hết sức mới mẻ, khuôn khổ và môi trường pháp lý cho hoạt động kiểm tra, kiểm toán nói chung và kiểm toán nội bộ nói riêng đã được tạo dựng nhưng chưa đầy đủ và hoàn thiện. Các kỹ năng hướng dẫn cần thiết và kỹ năng kiểm toán chưa được hệ thống hoá, các văn bản pháp quy về kiểm toán đã được triển khai nhưng chưa đồng bộ nhất là đối với các doanh nghiệp Nhà nước và tổ chức tín dụng còn nhiều lúng túng, hệ thống văn bản pháp luật ở Việt Nam còn nhiều bất cập, cần xem xét và có những chỉnh sửa cho phù hợp. a. Kiến nghị với NHNN và các cấp có thẩm quyền về hoàn thiện cơ cấu tổ chức của hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ Theo quy chế hiện hành về tổ chức hoạt động của bộ máy kiểm tra, kiểm toán và xét khiếu tố NHCTVN của tổng giám đốc NHCTVN, các phòng (tổ) kiểm tra, kiểm toán nội bộ của các chi nhánh, đơn vị trong hệ thống, trong đó có chi nhánh NHCTĐĐ hoạt động chịu sự chỉ đạo thống nhất về mặt chuyên môn, nghiệp vụ của hệ thống bộ máy kiểm tra, kiểm toán và xét khiếu tố NHCTVN do tổng GĐ NHCTVN quản lý, chỉ đạo và điều hành. Tuy nhiên trên thực tế lợi ích của bộ phận này gắn liền với các Chi nhánh, đơn vị đó, cho nên có phần làm giảm tính độc lập và chủ động của các kiểm toán viên nội bộ. Mặt khác, những tháng đầu năm 2001, Thống đốc NHNN đã có chỉ thị cho vụ tổng kiểm soát xây dựng đề án về hoàn chỉnh xây dựng lại bộ máy với nội dung mọi phòng (tổ) kiểm tra, kiểm toán nội bộ của các Chi nhánh, đơn vị đóng tại các chi nhánh, đơn vị đó nhưng toàn bộ hoạt động đều chịu sự giám sát và quản lý trực tiếp của TƯ, vấn đề hưởng lương, thưởng cũng do Trung ương quyết định, đây là một việc làm hết sức có ý nghĩa làm tăng tính độc lập, mở rộng phạm vi quyền hạn và trách nhiệm cho bộ phận kiểm toán nội bộ Ngân hàng Về vấn đề này tôi xin được đưa ra kiến nghị sau: để đảm bảo tính độc lập và tự chủ, phát huy tính sáng tạo trong công tác của bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ ngân hàng, NHNN nên sớm có quyết định ban hành quy chế mới về cơ cấu tổ chức hoạt động của hệ bộ máy kiểm tra, kiểm toán và xét khiếu tố NHCTVN và có các văn bản hướng dẫn thực hiện đầy đủ, kịp thời, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động kiểm toán nội bộ phát huy được đầy đủ vai trò và chức năng của mình. b. Kiến nghị với các cấp lãnh đạo Ngân hàng cấp trên về việc trang bị thêm máy vi tính cho bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ NHCTĐĐ: Hiện nay, theo chỉ thị của Thống đốc NHNN, vụ tổng kiểm soát đã có chủ chương xây dựng phòng kiểm toán giám sát cộng nghệ thông tin của ngành ngân hàng, điều này cũng có nghĩa là mỗi phòng kiểm tra,kiểm toán nội bộ phải có một lượng máy tính nhất định và đều phảinối mạng trong hệ thống. Vì vậy, để chỉ thị này sớm được đi vào thực tế, đề nghị cấp lãnh đạo NHNN, NHCTVN có quyết định về bố trí số máy vi tính trong các phòng, tổ kiểm tra, kiểm toán nội bộ ngân hàng và trong quyết định có nói rõ nguồn kinh phí, tạo đIều kiện cho CNNHCTĐĐ nói riêng và các đơn vị ngân hàng khác nói chung thực hiện tôt công tác của mình. c. Kiến nghị với NHNN và các cấp về giải quyết TSTC thu hồi nợ tồn đọng. Hiện nay số dư nợ có tài sản thế chấp làm đảm bảo chiếm tỉ trọng rất lớn tại chi nhánh, tuy nhiên việc xử lý TSTC như thế nào, quy trách nhiệm cho các cơ quan có liên quan trong hỗ trợ Ngân hàng thu hồi nợ ra sao, còn là một dấu chấm lửng. Thực tế cho thấy đến nay chưa có văn bản nào của Nhà nước và Thành phố về trình tự thực hiện xử lý tài sản thế chấp đảm bảo nợ vay ngân hàng cũng như việc quy trách nhiệm, quyền hạn của các cấp chính quyền địa phương, các ngành trong việc hỗ trợ NH thu hồi nợ.Trước tình hình này, tôi đề nghị: - Đối với NHNNVN, các bộ: Sớm ban hành thông tư liên bộ NHNN - Bộ tài chính - Bộ tư pháp - Bộ công an - tổng cục địa chính...hướng dẫn thủ tục về thế chấp, cầm cố và bảo lãnh vay vốn Ngân hàng, đặc biệt là thủ tục và phương thức xử lý TSTC để làm căn cứ pháp lý cho chính quyến địa phương và các sở, ban ngành của các tỉnh, Thành phố có căn cứ pháp lý phối hợp giải quyết, xử lý TSTC (như: nhà, đất) để thu hồi nợ khi người vay, người bảo lãnh không trả được nợ vay cho Ngân hàng. - Đối với chính quyền địa phương Thành phố hà nội: đề nghị thành lập ban chỉ đạo của thành phố Hà nội xử lý TSTC ( nhà, đất) để thu hồi nợ cho ngân hàng. Ban chỉ đạo là do đại diện của uỷ ban nhân dân thành phố làm trưởng ban, kinh phí hoạt động có thể do các NHTM có nợ tồn đọng đóng góp. Mặt khác về việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu cho các cá nhân có nợ quá hạn ở ngân hàng đề nghị uỷ ban nhân dân các cấp, sở địa chính nhà đất nên ưu tiên hơn, hỗ trợ Ngân hàng thu hồi nợ nhanh chóng. - Đối với toà án: Đề nghị đẩy nhanh tiến độ xét xử các vụ án liên quan đến TSTC và xét xử dứt đIểm các vụ việc, không để dây dưa kéo dài. Riêng đối với cơ quan thi hành án: cần có cơ chế, trách nhiệm trong việc thực hiện thi hành án. d. Kiến nghị các cơ quan liên quan trong việc giải quyết thừa kế: Vấn đề này hiện nay đang làm đau đầu lãnh đạo ngân hàng, phòng kinh doanhtín dụng và bộ phận kiểm toán nội bộ của ngân hàng mà đặc biệt là tổ kiểm tra, kiểm toán nội bộ tín dụng. Trường hợp khách hàng đột ngột qua đời để lại một lượmh tài sản ở ngân hàng và với những người công dân thường xuyên lui tới ngân hàng, họ cho biết họ là người thân, là ruột thịt, là con nuôi... với chủ tài sản. Đó là khó khăn mà ngân hàng đang chờ đợi pháp luật của Nhà nước lên tiếng. Trong bối cảnh Quốc tế hoá và tốc độ phát triển của nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay, giá trị tài sản cá nhân ngày càng lớn và các mối quan hệ giửa ngân hàng và khách hàng ngày càng phức tạp, mối quan hệ đó không chỉ liên quan đến công dân Việt Nam mà còn cả với người nước ngoài đang sống ở Việt Nam và ở nước ngoài. Vì vậy nếu ngân hàng có những sơ xuất, những quyết định sai lầm trong giải quyết, xử lý di sản thừa kế của KH, thì hậu quả không biết sẽ ra sao. Vấn đề về đồng sở hữu đứng tên hai hoặc nhiều cá nhân trên tài khoản, pháp luật ngân hàng chưa có hướng dẫn cụ thể. Đứng trước khó khăn này, tôi đề nghị: các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sớm ban hành văn bản hướng dẫn thi hành bộ luật dân sự về vấn đề thừa kế, xử lý các tài sản thừa kế theo di chúc để lại của KH hoặc với những tài sản của những khách hàng qua đời đột ngột, việc quy trách nhiệm trong xử lý của các cấp có thẩm quyền liên quan. Giải quyết được vấn đề này thực sự có ý nghĩa rất lớn, đáp ứng được mong muốn của ngân hàng và những người quan tâm. e. Kiến nghị với NHNN liên quan đến việc ban hành quy chế bảo lãnh: Hiện nay việc ban hành quy chế bảo lãnh của NHNN đối với các NHTM còn rất nhiều bất cập làm cho ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn và rất lúng túng trong khi thực hiện nghiệp vụ này, đây cũng là những trăn trở của bộ phận kiểm tra, kiểm toán, đặc biệt là tổ kiểm toán tín dụng của ngân hàng. Xuất phát từ thực tế này, đề nghị: NHNN cần sớm ban hành quy chế mới về bảo lãnh, tái bảo lãnh và ký quỹ bảo lãnh cho cả hai nghiệp vụ bảo lãnh trong nước và bảo lãnh nước ngoài kết hợp với vấn đề đảm bảo an toàn cho hoạt động nghiệp vụ bảo lãnh theo quy định tại quyết định số 48/QĐ/NHNN ngày 8-2-1999 của Thống đốc NHNN, tạo đIều kiện cho Chi nhánh thực hiện tốt nghiệp vụ này. 2. Kiến nghị đối với lãnh đạo NHCTĐĐ. Quan điểm của người lãnh đạo có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc đảm bảo cho kiểm toán nội bộ phát huy được vai trò và thực hiện được đầy đủ chức năng của mình. Bởi vậy để đảm bảo cho bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ ở Chi nhánh NHCTĐĐ phát huy được năng lực,sáng tạo và đảm bảo tính độc lập trong hoạt động của mình, tôi xin đưa ra một số ý kiến đối với lãnh đạo chi nhánh NHCTĐĐ như sau: - Có chính sách về nhân sự cho bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ đúng đắn: Một chính sách đối đãi, thăng chức và đào tạo tốt sẽ đảm bảo cho hoạt động kiểm toán nội bộ thực hiện nghiêm túc và có hiệu lực, hiệu quả. - Bên cạnh đó, việc tuyển chọn, điều chuyển những cán bộ kiểm toán tín dụng có kinh nghiệm, có trình độ, có kỹ thuật kiểm toán là một việc làm rất khó khăn và phức tạp vì vậy lãnh đạo ngân hàng nên có một chính sách tuyển chọn khoa học, có hệ thống tiêu thức về trình độ nhất định khi tuyển chọn. - Có sự phân quyền, phân nhiệm khoa học, đảm bảo hoạt động của bộ máy kểm tra, kiểm toán nội bộ phát huy tính tự chủ, tính độc lập trong công tác. Bằng việc ban hành các văn bản, quy chế quyết định về quyền hạn và trách nhiệm tương đồng cho bộ phận này nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các sai phạm có thể xảy ra của cán bộ nghiệp vụ, ngăn ngừa và phòng tránh các loại rủi ro trong kinh doanh đặc biệt là rủi ro trong kinh doanh tín dụng . - Trang bị hệ thống máy vi tính và ứng dụng phần mềm trong kiểm tra, lập trình chương trình kiểm tra riêng là việc làm cần thiết của cán bộ lãnh đạo ngân hàng để đảm bảo tốt hoạt động của bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ, mặt khác đảm bảo an toàn thông tin trong ngân hàng. - Thường xuyên tổ chức những cuộc trao đổi, thảo luận một cách nghiêm túc giữa lãnh đạo và các phòng ban, bộ phận trong ngân hàng về lĩnh vực này, về các vấn đề nổi cộm cần giải quyết tại chi nhánh để thống nhất tư tưởng, tránh sự hiểu sai về công tác kiểm tra,kiểm toán nội bộ chỉ là "bới lông tìm vết" ở một số cán bộ Ngân hàng. - Đối với khó khăn trong công tác của kiểm toán viên tín dụng đối vơíi quy trình thẩm định các luận chứng kinh tế kỹ thuật, các dự án xây dựng lớn, dự án của khách hàng về đổi mới quy trình công nghệ của cán bộ tín dụng, với đề xuất về biện pháp xây dựng một tổ chuyên đề trong Ngân hàng chuyên nghiên cứu và kiểm toán lĩnh vực này, để đề xuất đó được đi vào thực tế, mong rằng ban lãnh đạo Ngân hàng Chi nhánh NHCTĐĐ có sự quan tâm, xem xét và phân tích tình hình thực tế của Ngân Hàng trên tất cả các khía cạnh, từ đó có quyết định đúng đắn, tạo điều kiện hỗ trợ cho bộ phận KTKTNB của chi nhánh NHCTĐĐ hoạt động hiệu quả hơn. Hiện nay theo chỉ thị của thống đốc NHNN, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ ngân hàng, vụ tổng kiểm soát đã xay dựng đề án về hoàn chỉnh, xây dựng lại bộ máy, bên cạnh đó có đề cập tới đề án thành lập phòng kiểm toán giám sát công nghệ công nghệ thông tin của ngành Ngân hàng, đề án dự kiến đi vào hoạt động vào năm 2002. Trước tình thế này Ngân hàng phải có chương trình đà tạo cán bộ một cách nghiêm túc, khoa học và hiệu quả để tránh xảy ra những điều không may, giảm vị thế và uy tín của Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.Đặc biệt, tại đại hội tổng kết kết quả của kiểm toán nhà nước 5 năm hoạt động, trong bàI phát biểu của mình, ông Trương Đình Song- vụ trưởng vụ tổng kểm soát NHNNVN nói "Từ 2001 trở đi sẽ tổ chức kiểm toán báo cáo tài chính ngay trước khi các đơn vị kết thúc năm tài chiính, đây là một bước cải tiến đáng kể, phù hợp với điều kiện, vai trò của kiểm toán nội bộ, giảm đến mức thấp nhất những sai sót trước khi báo cáo được phê chuẩn và tổng hợp báo cáo tài chính của NHNN trước khi kiểm toán nhà nước vào kiểm toán hàng năm". Đây phải chăng là một thách thức, cũng là cơ hội cho lãnh đạo Ngân hàng chứng tỏ tài năng, trình độ quản lý của mình. 3. Kiến nghị đối với kiểm toán viên tín dụng Ngân hàng CTĐĐ. Trước thực trạng về đội ngũ cán bộ kiểm tra, kiểm toán nội bộ hiện nay của NHCTĐĐ em xin có kiến nghị như sau: Cán bộ kiểm toán tín dụng không chỉ nghiên cứu và học tập đối với lĩnh vực chuyên trách mà còn phải tìm hiểu và nghiên cứu các lĩnh vực có liên quan. Cụ thể: -Những kiến thức về lĩnh vực tín dụng: + Nắm bắt quy chế cho vay, các quy chế liên quan đến td của Nhà nước và NH đảm bảo kiểm tra về mặt nguyên tắc của cán bộ tín dụng . + Nghiên cứu sâu hơn về nguyên tắc giải ngân (nguyên tắc bốn mắt); trình tự giải ngân, tập trung vào khâu thẩm định, đặc biệt là thẩm định luận chứng kinh tế kỹ thuật của các dự án liên quan đến xây dựng và quy trình công nghệ. + Nắm bắt về quy chế quy trình nghiệp vụ tín dụng và công tác kiểm toán tín dụng. Nhanh chóng nắm bắt những thay đổi của môi trường luật pháp, môi trường kinh doanh, kinh tế hiện nay. -Về trình độ chuyên môn: không ngừng nâng cao trình độ kiểm tra, kiểm toán, áp dụng và học hỏi kinh nghiệm của các đoàn kiểm tra, kiểm toán, thanh tra của Nhà nước, của NHNN vào công tác. Từ đó kết hợp với các phương pháp kỹ thuật, chương trình kiểm toán tại chi nhánh đang áp dụng để có hiệu quả kiểm tra hơn. -Về lĩnh vực tin học và tin học chuyên ngành kiểm toán phải nhanh chóng nghiên cứu, học tập và trang bị kiến thức cho mình. -Mạnh dạn đưa ra chính kiến của mình đối với mọi đối tượng có liên quan trong công tác: lãnh đạo, đối tượng kiểm tra, kiểm toán , cơ quan Nhà nước. Đây cũng là một đIều kiện, một tiêu chí để khẳng định ai là một kiểm toán viên thực thụ. -Trong công tác phải khéo léo, thông minh, có sáng tạo, tránh dập khuôn. Thường xuyên học tập và nghiên cứu trên các lĩnh vực khác. Trên đây là những ý kiến theo quan đIểm chủ quan dựa trên những nghien cứu thực tiễn tại Ngân hàng và trong bối cảnh nền kinh tế thị trường. Mong rằng những ý kiến này góp một phần nhỏ bé vào sự thay đổi diện mạo của bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ Ngân hàng theo đúng nghĩa tiích cực của nó nhằm hoàn thiện bộ máy kiểm tra, kiểm toán nội bộ tại các NHTM Kết luận Kiểm toán hình thành và phát triển trong bối cảnh chuyển đổi nền nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiến trình cải cách hành chính quốc gia thể hiện rất rõ một nhu cầu không thể thiếu được của kiểm toán đặc biệt là kiểm toán hoạt động, trong đó kiểm toán nội bộ chủ yếu thực hiện chức năng này. Kiểm toán nội bộ với vai trò là một bộ phận chức năng giúp Giám đốc và cấp lãnh đạo ngân hàng kiểm toán, xác nhận và đánh giá toàn bộ kết quả sản xuất kinh doanh của các bộ phận, phòng ban trong hệ thống. kiểm toán nội bộ trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam còn rất nhiều mới mẻ nhưng phù hợp với điều kiện mới của Quốc gia và thông lệ Quốc tế, nó thay thế cho hệ thống kiểm tra kế toán thời bao cấp trước đây nhưng nội dung và phương pháp nghiệp vụ chác chắn là toàn dện và tiên tiến hơn nhiều. Kiểm toán tín dụng là một bộ phận, một lĩnh vưc của kiểm toán nội bộ. vậy muốn khẳng định được tiếng nói của mình, kiểm toán nội bộ nói chung và kiểm toán tín dụng nội bộ ngân hàng nói riêng phải làm gi? Bằng mọi cách phát huy nội lực của mình, phải vận động hết mình, tăng cường trí tuệ, sáng tạo trong việc thâm nhập vào thế giới kiến thức hiện đại để làm chủ hành vi, tư duy, khả năng độc lập sẵn có của mình, khẳmg định vai trò của hệ thống kiểm toán nội bộ trong nền kinh tế thị trường. Việc một số doanh nghiệp nhà nước, một số công ty và các tổ chức kinh tế phải giải thể bộ máy kiểm toán nội bộ trongthời gian qua chứng tỏ việc chưa quan tâm đúng mức của Nhà nước, đặc biệt là việc tạo ra hành lang pháp lý chưa đủ mạnh và còn nhiều thay đổi, bên cạnh đó cũng chứng tỏ sự non kém trong trình độ và nhận thức của các cán bộ kiểm toán, sự thiếu bản lĩnh của cấp lãnh đạo đơn vị. Bởi lẽ quy luật cạnh tranh là tất yếu trong nền kinh tế thị trường do đó bất kì một chủ thể kinh tế nào thiếu bản lĩnh, thiếu can đảm và sáng suốt trong kinh doanh khó có thể giữ được vị thế và uy tín của mình trên thị trường. Trong thời gian thực tập tại phòng kiểm tra, kiểm toán nội bộ CHNHCTĐĐ, nhận thức được vai trò quan trọng của hoạt động này, em đã chọn đề tài" Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng tại chi nhánh NHCTĐĐ" Em mong rằng bài khoá luận này sẽ góp một phần nhỏ bé vào viẹc khẳng định tiếng nói của một kiểm toán viên tín dụng và vị trí cần tạo lập của hoạt động kiểm toán nội bộ trong các NHTM nói riêng và KTNB trong nền kinh tế thị trường nói chung. Tuy nhiên, để thực hiện được điều này, cần có sự đồng tâm, hiệp lực, ủng hộ của tất cả các đối tượng trong xã hội từ Trung ương đến địa phương, đến từng cán bộ kiểm toán tín dụng ngân hàng. Để những cống hiến, đóng góp của hoạt động này đối với sự phát triển Ngân hàng thực sự có ý nghĩa, cần phải được trân trọng và phát huy, mặt khác những tồn tại, hạn chế trong công tác này sẽ được tháo gỡ, loại bỏ. Các tài liệu tham khảo: 1. Các sách về kiểm toán: - Kiểm toán nội bộ, lý luận và hướng dẫn nghiệp vụ Kiểm toán nội bộ hiện đại. - Cẩm nang kiểm toán viên Nhà nước - Kiểm toán Auditing - Để trở thành Kiểm toán viên. - Những chuẩn mực và nguyên tắc kiểm toán quốc tế. 2. Các sách về nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng: Nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. Nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán. 3. Các sách về hạch toán kế toán Ngân hàng, hạch toán kế toán doanh nghiệp. 4. Các văn bản pháp quy của Nhà nước và pháp luật về hoạt động Ngân hàng và các tổ chức tín dụng. 5. Các văn bản, quy chế của Nhà Nước về hoạt động kiểm toán, tín dụng NH. 6. Các tạp chí ngân hàng, tạp chí kiểm toán, tạp chí thanh tra, kiểm tra. 7. Thời báo ngân hàng. 8. Các báo cáo, biên bản kiểm tra, kiểm toán của NHCTĐĐ, biên bản kiểm tra, phúc tra của kiểm toán Nhà nước, thanh tra Nhà nước. Báo cáo tổng kết hoạt động hệ thống kiểm tra, kiểm toán và xét khiếu tố NHCTVN. 9. Các tài liệu khác. Chi nhánh nhct đống đa cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------o0o--------- Bản nhận xét (Của đơn vị thực tập) Đơn vị thực tập : Chi nhánh Ngân hàng công thương Đống Đa. Sinh viên thực tập : Trương Thị Hà. Khoa : Tài chính Ngân hàng, ngành kế toán kiểm toán. Trường Đại học dân lập Đông Đô. ý kiến nhận xét của đơn vị thực tập: Hà Nội, ngày....tháng .......2001 Chữ ký của Giám đốc NH: Chữ ký của Trưởng phòng KTKT nội bộ Ngân hàng ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28218.doc
Tài liệu liên quan