Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn tại Ngân hàng công thương Thanh Xuân

Lời nói đầu Trong nền kinh tế hiện nay NHTM đã trở thành một trung gian tài chính đáng tin cậy, giúp nền kinh tế khơi tăng vốn, dẫn vốn từ những người thừa sang những người thiếu. Nền kinh tế chỉ có thể phát triển với tốc độ cao nếu có một hệ thống Ngân hàng lành mạnh, điều này đòi hỏi từng Ngân hàng phải phát triển tương xứng. Khác với loại hình doanh nghiệp khác, NHTM là loại hình doanh nghiệp kinh doanh đặc biệt, sản phẩm chủ yếu của nó là tiền, kinh doanh chủ yếu dựa vào nguồn vốn huy động

doc57 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1319 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn tại Ngân hàng công thương Thanh Xuân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
từ bên ngoài, vốn chủ sở hữu chiếm tỉ lệ rất nhỏ trong tổng Nguồn vốn. Mục tiêu kinh doanh của Ngân hàng là lợi nhuận, phần lớn lợi nhuận của NHTM là thu từ hoạt động tín dụng. Trong quá trình chuyển quyền sử dụng vốn NHTM luôn phải đối mặt với nhiều rủi ro trên cả phương diện huy động và sử dụng vốn, do đó trước kia NHTM chỉ trú trọng quản lý tài sản có để đầu tư vào đâu để có lợi nhuận cao nhất. Việt Nam sau nhiều năm đổi mới, nền kinh tế đã có nhiều khởi sắc, cơ chế thị trường tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, nhu cầu về vốn cho nền kinh tế ngày càng cao. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh là tất yếu, các NHTM cũng không nằm ngoài quy luật đó, sự cạnh tranh giữa các NHTM trong việc tìm kiếm nguồn vốn hoạt động đã đặt ra câu hỏi cho những nhà quản lý Ngân hàng là làm thế nào để có đủ vốn, với một cơ cấu tối ưu và chi phí thấp nhất trong môi trường cạnh tranh. Để góp phần và giải quyết câu hỏi trên, sau một thời gian thực tập tại chi nhánh NHCT Thanh Xuân em đã chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn tại NHCT Thanh Xuân”. Với thời gian có hạn, kinh nghiệm thực tế chưa nhiều, chuyên đề tốt nghiệp không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự giúp đỡ của các thầy cô giáo! Chương I phương pháp đánh giá hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thương mại I. ngân hàng Thương mại và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường. 1. Ngân hàng Thương Mại: Sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường tất yếu sẽ dẫn đến việc hình thành thị trường tài chính và sự ra đời của các trung gian tài chính trong đó chủ yếu là các ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại xuất hiện từ lâu ở nhiều nước trên thế giới và cùng với các trung gian tài chính khác nó có một vai trò đặc biệt quan trọng góp phần thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá tiền tệ phát triển. ở Việt Nam đến năm 1990 hệ thống ngân hàng hai cấp thực sự hoạt động: * Ngân hàng trung ương: là cơ quan quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc quyền phát hành giấy bạc vào lưu thông. Ngân hàng này không trực tiếp giao dịch với các doanh nghiệp và các cá nhân. * Các ngân hàng Thương mại: Những ngân hàng đóng vai trò là các doanh nghiệp thực hiện kinh doanh tiền tệ. Có nhiều loại hình ngân hàng thương mại: - Ngân hàng Thương mại quốc doanh là ngân hàng Thương mại được thành lập 100% vốn ngân sách Nhà nước. - Ngân hàng Thương mại cổ phần là ngân hàng Thương mại được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần. - Ngân hàng nước ngoài là ngân hàng được thành lập bằng vốn góp của bên ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, hoạt động theo pháp luật Việt Nam. - Ngân hàng liên doanh là ngân hàng được thành lập bằng vốn góp của bên ngân hàng Việt Nam và bên ngân hàng nước ngoài có trụ sở tại Việt Nam. Trong thực tế, hiện nay hệ thống NHTM QD đã và đang hoạt động như là lực lượng chủ đạo trên thị trường tiền tệ, tín dụng. Hệ thống NHTM đảm nhiệm hầu hết các chức năng trung gian tài chính bao quát toàn bộ nền kinh tế quốc dân trên lĩnh vực tài chính, tín dụng. 2. Vai trò của ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế thị trường: NHTM là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ, do đó nó đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế, một nền kinh tế muốn phát triển thì cần phải có một hệ thống ngân hàng mạnh. Sức sản xuất của xã hội ngày càng tăng, quy mô sản xuất ngày càng mở rộng, điều này làm cho nhu cầu về vốn tăng, nếu chỉ dựa vào nguồn vốn tích luỹ của bản thân các doanh nghiệp thì không thể đáp ứng được về mặt số lượng và thời gian. NHTM với hoạt động của mình đã giúp các doanh nghiệp khắc phục những hạn chế trên, nguồn vốn của các ngân hàng cung cấp đã trở nên phổ biến và chiếm tỷ trọng cao trong kết cấu tài sản nợ của các doanh nghiệp. Điều này đã tạo ra sức sống cho nền kinh tế. NHTM giúp việc sử dụng vốn có hiệu quả hơn, việc sử dụng vốn có hiệu quả không chỉ đối với người có tiền đầu tư mà đối với cả người vay tiền để đầu tư Người có tiền nhàn rối nhận thức rõ giá trị thời gian của tiền mà họ đang nắm giữ. Đồng tiền sẽ không sinh lời nếu đem cất giữ trong két hoặc gối đầu giường, ngân hàng sẽ giúp họ tạo ra thu nhập từ số tiền nhàn rỗi đó nếu gửi tại ngân hàng. Với chức năng làm trung gian thanh toán, các NHTM đóng vai trò như một thủ quỹ của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp ngày nay không phải cần tiền để trao đổi cho người bán, cũng như không cần phải đếm tiền khi nhận các khoản chi trả, mọi công việc này được thực hiện bằng cách mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng và trên cơ sở đó yêu cầu ngân hàng thực hiện các khoản chi trả đồng thời uỷ nhiệm cho ngân hàng thu nhận các khoản tiền, điều này góp phần thúc đẩy thương mại nội địa và thương mại quốc tế phát triển. Hệ thống NHTM thực hiện chức năng “tạo tiền”, đã góp phần quan trọng đối với việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Như vậy với các hoạt động của mình, NHTM đã đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế. Nó giúp vốn được dẫn từ những người thừa không có cơ hội đầu tư sang những người thiếu song có cơ hội đầu tư, giúp nâng cao năng suất và hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. NHTM hoạt động hữu hiệu và đa dạng sẽ cải thiện đời sống kinh tế xã hội. II. nghiệp vụ huy động vốn và hiệu quả công tác huy động vốn tại NHTM. 1. Vốn, vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương mại . Nguồn vốn của ngân hàng thương mại gồm một phần lớn bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối, tiêu dùng mà người chủ sở hữu của chúng gửi vào ngân hàng với mục đích khác nhau. Nói cách khác, những người này chỉ có quyền sở hữu còn quyền sử dụng vốn tiền tệ, họ nhượng cho ngân hàng để rồi ngân hàng phải nhượng cho họ một khoản thu nhập. Và như vậy, ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung, phân phối lại vốn dưới hình thức tiền tệ, làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, phục vụ và kích thích mọi hoạt động kinh tế phát triển. Đồng thời, chính các hoạt động đó lại quyết định đến sự tồn tại phát triển hoạt động kinh doanh của NHTM. Nhìn chung vốn chi phối toàn bộ các hoạt động và quyết định đối với thực hiện các chức năng của NHTM. 1.1. Cơ cấu nguồn vốn của NHTM . 1.1.1. Vốn tự có: Vốn tự có của NHTM là vốn thuộc sở hữu của Ngân hàng. Vốn này chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng, song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi bắt đầu thành lập một ngân hàng. Do tính chất thường xuyên ổn định, ngân hàng có thể sử dụng nó vào các mục đích khác nhau như trang bị cơ sở vật chất, tạo tài sản cố định phục vụ cho bản thân ngân hàng, đặc biệt là tham gia đầu tư góp vốn liên doanh. Mặt khác với chức năng bảo vệ, vốn tự có được coi như tài sản đảm bảo, gây lòng tin với khách hàng, duy trì khả năng thanh toán trong trường hợp ngân hàng gặp thua lỗ. Nó còn là một trong những căn cứ quyết định đối với quy mô và khối lượng vốn huy động của ngân hàng. Quy mô và sự tăng trưởng của vốn tự có sẽ quyết định đến năng lực và phát triển của NHTM. Vốn tự có của ngân hàng gồm: - Vốn tự có cơ bản: Vốn pháp định (Vốn điều lệ) Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập ngân hàng, do pháp luật quy định. Vốn điều lệ là vốn do các bên tham gia đóng góp và được ghi vào điều lệ hoạt động của ngân hàng. Theo quy định, vốn điều lệ tối thiểu phải bằng vốn pháp định. Đối với ngân hàng tư nhân đây là vốn sở hữu riêng từ ban đầu và vốn được hình thành sau một quá trình tích tụ tập trung. Đối với các NHTM QD được phép hoạt động trên cơ sở vốn ban đầu do ngân sách nhà nước cấp. Đối với các ngân hàng cổ phần vốn điều lệ do các cổ đông đóng góp dưới hình thức mua cổ phiếu. Đối với các ngân hàng liên doanh, vốn điều lệ do các bên đóng góp. - Vốn tự có khác gồm: * Quỹ bổ sung vốn điều lệ: có mục đích tăng cường vốn điều lệ ban đầu. * Quỹ dự trữ đặc biệt: để dự phòng bù đắp rủi ro. * Ngoài các quỹ trên, vốn tự có bổ sung còn bao gồm phần lợi nhuận chưa phân bổ hoặc các quỹ nghiệp vụ khác. 1.1.2. Nguồn vốn huy động: bao gồm hai loại chính: Tiền gửi(thông thường): Là nguồn vốn mà ngân hàng huy động được từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán, các nghiệp vụ kinh doanh khác. Bản chất tiền gửi là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau. Ngân hàng chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu, có trách nhiệm hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi khi đến hạn hoặc khi khách hàng có nhu cầu rút vốn chi trả. Vốn huy động chiếm một tỷ lệ lớn và đóng vai trò rất quan trọng đối với mọi hoạt động kinh doanh của NHTM. Vốn huy động gồm tiền gửi của các tổ chức kinh tế, tiền gửi tiết kiệm : Tiền gửi của các tổ chức kinh tế (có kỳ hạn) và tiền gửi tiết kiệm chủ yếu là hình thức huy động vốn tạm thời nhàn rỗi. Người gửi tiền sẽ nhận được một khoản tiền lãi, (giá của vốn) khi giao quyền sử dụng vốn cho ngân hàng. Ngân hàng sẽ sử dụng vốn này cho những đơn vị có nhu cầu kinh doanh vay lại. Tiền gửi không kỳ hạn của doanh nghiệp chủ yếu dùng để các đơn vị thực hiện thanh toán, chi trả qua ngân hàng. Các tài khoản tiền gửi này một mặt làm phát triển hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt, tiết kiệm chi phí lưu thông, mặt khác kiểm soát được hoạt động của các doanh nghiệp. Trong quá trình làm trung gian thanh toán, NHTM cũng tạo được một khoản vốn trong thanh toán: vốn trên tài khoản mở thư tín dụng, tài khoản tiền gửi séc bảo chi.. . các khoản tiền tạm thời trích khỏi tài khoản này nhập vào tài khoản khác chờ sử dụng, nên được coi là tiền nhàn rỗi. NHTM cũng thu hút được một lượng vốn đáng kể trong quá trình thu hoặc chi hộ khách hàng, làm đại lý cho tổ chức tín dụng khác nhận và chuyển vốn hay một dự án đầu tư. 1.1.3 Nguồn vốn huy đông thông qua phát hành chứng chỉ có giá. Đây là hình thức huy động thông qua phát hành các kỳ phiếu, trái phiếu. Vốn đi vay này là sự chủ động của từng ngân hàng, là các khoản vay có bảo đảm chứ không phải là khoản tiền gửi đơn thuần. Mục đích các khoản vay này là là để đáp ứng nhu cầu thanh khoản tuy nhiên chi phí các khoản vay này bao giờ cũng cao hơn mức chiết khấu của NHTW. 1.1.4 Nguồn vốn khác: Vốn đi vay của NHTM là vốn được hình thành do ngân hàng chủ động đi vay từ thị trường và từ Ngân hàng TW. Vốn đi vay chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số vốn kinh doanh của NHTM. Nó đáp ứng nhanh chóng nhu cầu thiếu vốn tạm thời của ngân hàng. Ngân hàng có thể chủ động sử dụng vốn theo kế hoạch của mình. + Vay của các NHTW và các tổ chức tín dụng khác: Việc vay này có đặc điểm là không cần dự trữ bắt buộc do vậy nó giảm chi phí trong việc đi vay của các ngân hàng. Vì vậy các ngân hàng rất ưa chuộng vay các tổ chức tín dụng khác. + Vay của các ngân hàng nước ngoài: + Vay Ngân hàng TW: (Vay qua cửa sổ chiết khấu) Ta phải trả một mức lãi suất chiết khấu do Ngân hàng TW qui định. Mức lãi suất này có thể cao hay thấp hơn lãi suất thị trường là do tuỳ thuộc vào chính sách tiền tệ nới lỏng hay thắt chặt của Nhà nước. Các ngân hàng thương mại chỉ vay Ngân hàng TW trong trường hợp thiếu hụt vống tạm thời trong thanh toán và việc này chỉ diễn ra trong thời gian ngắn. 1.1.5. Nguồn vốn khác: - Vốn trong thanh toán, chênh lệch thanh toán liên hàng. - Vốn từ nghiệp vụ đại lý, uỷ nhiệm ngân hàng làm đại lý bán cổ phiếu cho doanh nghiệp. Ngân hàng bán cổ phiếu và thu tiền của khách hàng mua hàng ngày nhưng ngân hàng nộp trả tiền cho doanh nghiệp theo định kỳ nên tạo ra nguồn vốn cho ngân hàng sử dụng. 1.2 Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại Việt Nam: 1.2.1 Huy động tiền gửi thanh toán của doanh nghiệp, cá nhân: Đây là lượng tiền được tạm thời giải phóng khỏi quá trình sản xuất, và lưu thông hàng hoá của các doanh nghiệp. Do nhu cầu về thu chi thường xuyên khác nhau về thời gian nên trên tài khoản tiền gửi luôn có số dư. Số dư đó được ngân hàng sử dụng để hình thành nguồn vốn cho vay. Tiền gửi của các tổ chức kinh tế gồm hai loại : - Tiền gửi không kỳ hạn: Để thực hiện thanh toán, chi trả không dùng tiền mặt, các tổ chức kinh tế mở tài khoản tại ngân hàng. Đây là số tiền nằm trong tài khoản vãng lai hoặc tài khoản thanh toán và có thể rút ra bất cứ lúc nào. Hai tài khoản này khác nhau ở chỗ: Nếu để ở tài khoản tiền gửi thì chủ tài khoản chỉ sử dụng số thực có của mình, nếu để ở tài khoản vãng lai thì chủ tài khoản có thể rút ra bất cứ lúc nào hoặc tạm vay trong thời hạn nhất định (Vì tài khoản vãng lai có thể dư có hoặc dư nợ). Song trên thực tế hoạt động của ngân hàng, sự khác nhau ấy dần dần bị xoá nhòa. Hiện nay, trên các tài khoản tiền gửi cũng có thể dư nợ (nếu có sự thoả thuận trước đối với ngân hàng về vấn đề này). Trên thực tế các chủ tài khoản thường không sử dụng hết tiền của mình tại ngân hàng đó, luôn tồn tại số dư trên tài khoản. Số dư này được ngân hàng sử dụng để mở rộng các nghiệp vụ cho vay kiếm lời. Tiền gửi không thời hạn cũng được trả lãi nhưng lãi suất thấp phụ thuộc vào sự thoả thuận của chủ tài khoản và ngân hàng. - Tiền gửi có kỳ hạn: Tiền gửi có kỳ hạn chủ yếu nhằm mục đích kiếm lợi cao. Đối với ngân hàng, thời hạn tiền gửi càng dài thì càng được lãi suất cao. Về cơ bản, tiền gửi có kỳ hạn không được dùng để thanh toán. Nguồn này được chia làm hai loại: - Loại tới hạn được lấy ra: Là loại tới hạn trả thì chủ tài khoản mới được rút ra để sử dụng. Đối với số tiền lúc đầu là tiền gửi có thời hạn nhưng đến hạn trả nó vẫn chưa được rút ra thì sau đó người gửi có thể sử dụng số tiền ấy vào bất cứ lúc nào. - Loại lấy ra phải báo trước: Là loại tiền gửi có thời hạn muốn rút ra phải báo trước cho ngân hàng như đã thoả thuận khi gửi. Trên thực tế, phần lớn tiền gửi có thời hạn là tiền gửi báo trước. Theo thông lệ lãi suất tiền gửi này do hai bên ngân hàng và người gửi thoả thuận. 1.2.2. Huy động tiết kiệm: Tiền gửi tiết kiệm là tiền để dành của dân cư gửi vào ngân hàng chủ yếu nhằm mục đích hưởng lãi. Hiện nay trong các NHTM ở Việt Nam, tiền gửi tiết kiệm chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng nguồn huy động (khoảng 60 - 70%). Tiền gửi tiết kiệm có các loại chủ yếu sau. - Tiết kiệm không kỳ hạn. ( bao gồm cả nội tệ và ngoại tệ ) Người gửi có thể rút ra một phần hoặc toàn bộ số tiền gửi vào bất cứ lúc nào theo yêu cầu. Không giống như tài khoản cá nhân, người gửi không được hưởng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Tiền gửi trên tài khoản cá nhân và tiết kiệm không kỳ hạn tuy không được coi là những nguồn vốn có thời hạn dài nhưng chúng có một sự ổn định tương đối, do vậy vẫn có thể được ngân hàng sử dụng cho mục đích có kỳ hạn dài ở một mức nhất định. - Tiết kiệm có kỳ hạn (nội tệ và ngoại tệ): Đây là loại tiền được gửi vào ngân hàng trên cơ sở có sự thoả thuận về thời hạn, lãi suất giữa khách hàng và ngân hàng. Với loại tiết kiệm này, mục đích chính của người gửi là kiếm lời cho nên vấn đề lãi suất là rất quan trọng. Còn đối với ngân hàng thì đây là nguồn vốn khá ổn định. Nhằm mục đích phục vụ cho các nhu cầu khác nhau của khách hàng cũng như nhu cầu về vốn của ngân hàng, các ngân hàng thường áp dụng các loại tiết kiệm với kỳ hạn 3, 6, 9 tháng, 1 năm, 2 năm. Với mỗi thời hạn, ngân hàng áp dụng các mức lãi suất thích hợp với từng thời kỳ, theo nguyên tắc thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao. -. Tiết kiệm có đảm bảo giá trị theo vàng: Đây là một trong những hình thức hấp dẫn để huy động vốn trung hạn và dài hạn vì nó loại bỏ tâm lý lo sợ đồng tiền mất giá của người dân. Theo hình thức này thì số tiền khách hàng gửi vào ngân hàng sẽ được quy ra giá trị vàng tương đương. Khi hết hạn, khách hàng sẽ nhận lại số tiền tương đương với giá trị vàng đó cộng thêm phần lãi tính bằng tiền theo số vàng. Hình thức này có ưu điểm ở chỗ người dân được bảo đảm về giá trị vốn gốc của mình đồng thời vẫn có lãi. - Tiết kiệm đảm bảo giá trị theo USD: Hình thức tiết kiệm này về nguyên tắc cũng giống như tiết kiệm đảm bảo theo vàng, nhưng vốn gốc được đảm bảo giá trị theo USD. Với đặc điểm của thị trường tiền tệ của nhiều nước mà nội tệ thường bị mất giá thì huy động nội tệ đảm bảo bằng USD sẽ có sức hấp dẫn hơn . Vì vậy nếu các ngân hàng huy động vốn đảm bảo giá trị theoUSD thì rất khuyến khích được người dân gửi tiền. - Tiết kiêm xây dựng nhà ở: Tiết kiệm xây dựng nhà ở là một hình thức tiết kiệm của các tầng lớp dân cư do ngân hàng áp dụng nhằm hỗ trợ cho dân sớm có nhà ở, rút ngắn được thời gian chờ đợi đủ vốn, góp phần vào việc thực hiện chính sách nhà ở của Đảng và Nhà nước. Đối với ngân hàng, loại tiết kiệm này tạo nguồn vốn ổn định, có thể phát triển thành các khoản cho vay, đầu tư trung và dài hạn đối với các chương trình phát triển nhà ở đô thị hay nông thôn theo hướng quy hoạch của nhà nước. Theo hình thức này, mọi công dân có nhu cầu mua sắm, cải tạo nâng cấp nhà ở đều có thể gửi tiền tiết kiệm có thời hạn ít nhất một năm trở lên và được ngân hàng cho vay vốn để cùng với số tiền tiết kiệm tạo được để làm nhà ở. Tiền gửi tiết kiệm được ngân hàng trả lãi. Tiền vay người vay phải trả lãi. Lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay dựa trên nguyên tắc bình đẳng đảm bảo lợi ích của người gửi vàđảm bảo bù đắp chi phí của ngân hàng. 1.2.3. Huy động thông qua hình thức phát hành chứng chỉ có giá - Kỳ phiếu có mục đích: Khi các ngân hàng muốn có khoản tài chính dồi dào để tài trợ cho các dự án có quy mô lớn, nhằm phát triển kinh tế địa phương, chuyển dịch cơ cấu kinh tế hoặc phát triển kinh doanh như kinh doanh vàng bạc, ngoại tệ, liên doanh với một số tổ chức khác mà nguồn vốn hiện tại chưa đáp ứng được, ngân hàng có thể phát hành kỳ phiếu để tạo nguồn vốn có thời hạn tương đối lâu dài, đầu tư cho các hoạt động này. - Trái phiếu: Trái phiếu ngân hàng thực chất là một giấy nhận nợ của ngân hàng với khách hàng. Phát hành trái phiếu ngân hàng nhằm tập trung vốn trung hạn và dài hạn để tài trợ cho các dự án lớn, theo yêu cầu phát triển kinh tế trên địa bàn hoặc tập trung vốn tài trợ cho các dự án được chính phủ chỉ định.Trái phiếu khác với kỳ phiếu có mục đích ở chỗ kỳ phiếu có mục đích thường được sử dung linh hoạt hơn, ví dụ như có thể phát hành ở từng chi nhánh với lãi suất, thời gian phát hành riêng biệt. Còn trái phiếu thường được phát hành với quy mô lớn hơn và đồng loạt trongcả hệ thống ngân hàng. - Vốn vay từ các tổ chức tài chính tín dụng và các loại vốn khác: Để đa dạng hoá các kênh khai thác, nhằm tập trung vốn đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, Ngân hàng không những đi vay của các tổ chức kinh tế dân cư mà còn chú trọng khai thác nguồn vốn từ NHTW và các tổ chức tín dụng khác. Vốn đi vay là vốn hình thành từ quan hệ vay mượn giữa NHTM với NHNN hoặc giữa NHTM với nhau hay với các tổ chức tín dụng khác. Các NHTM sẽ đi vay để bổ sung vào vốn hoạt động của mình khi ngân hàng đã sử dụng hết vốn khả dụng mà vẫn không đủ vốn hoạt động hay nói cách khác ngân hàng tạm thời thiếu vốn khả dụng. Trong trường hợp ngân hàng đã vay trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng mà vẫn không đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn của mình thì Ngân hàng sẽ vay của Ngân hàng Nhà Nước. Tuỳ theo mục đích sử dụng và hình thức vay vốn, vốn vay của Ngân hàng nhà nước đựơc chia thành các loại: Vốn vay ngắn hạn bổ sung: là hình thức mà NHTM xin vay bổ sung vốn ngắn hạn của mình. Trong hình thức vay này, các NHTM chỉ được vay khi còn hạn mức tín dụng mà ngân hàng đó đã thoả thuận. Vốn vay cho nhu cầu thanh toán: Các Ngân hàng thương mại vay Ngân hàng Nhà nước để bù đắp thiếu hụt tạm thời trong thanh toán bù trừ. Tái cấp vốn: NHNN cho các NHTM vay trên cơ sở chiết khấu, tái chiết khấu chứng từ có giá. Trên đây là các hình thức huy động vốn chính của ngân hàng. Vốn huy động là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, giữ vị trí quan trọng trong kinh doanh. Đồng thời NHTM phải mở tài khoản tại NHNN để duy trì DTBB và đảm bảo khả năng thanh toán chi trả. 1.3- Vai trò của nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM: Như mọi đơn vị sản xuất kinh doanh khác, muốn sản xuất kinh doanh một mặt hàng nào đó cần phải có tư liệu sản xuất. NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ nên trước hết phải có nguồn vốn mới kinh doanh được, bởi vì: 1.3.1. Tạo vốn để cho vay và đầu tư: Một Ngân hàng với nguồn vốn huy động dồi dào sẽ hoàn toàn chủ động trong hoạt động kinh doanh của mình, không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Nguồn vốn huy đông dồi dào cũng làm tăng khả năng của Ngân hàng chủ động đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh nhằm phân tán rủi ro thu được lợi nhuận cao nhất, đạt mục tiêu cuối cùng là an toàn và sinh lợi. 1.3.2 ảnh hưởng tới quy mô tín dụng, năng lực thanh toán và các hoạt động khác. Vốn huy động có ảnh hưởng to lớn đến việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín dụng cũng như các hoạt động khác. Thông thường so với các ngân hàng nhỏ, các ngân hàng lớn có khoản mục đầu tư cho vay đa dạng hơn, phạm vi và khối lượng cho vay của ngân hàng này cũng lớn hơn. Trong khi các ngân hàng lớn cho vay ở thị trường trong nước thậm chí trên thị trường quốc tế thì các ngân hàng nhỏ lại chủ yếu giới hạn trong phạm vi hẹp. Nếu khả năng của ngân hàng đó dồi dào thì chắc chắn ngân hàng sẽ mở rộng và đáp ứng được nhu cầu vay vốn, có đủ điều kiện để mở rộng thị trường tín dụng, tăng khả năng cung ứng các dịch vụ ngân hàng cho khách hàng 1.3.3. ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường để tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô hoạt động đòi hỏi các ngân hàng phải coi uy tín của mình trên thị trường là điều quan trọng, uy tín đó trước hết phải thể hiện ở khả năng sẵn sàng thanh toán, chi trả cho khách hàng. Mà khả năng thanh toán của ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng của ngân hàng càng lớn. Với tiềm năng vốn lớn, nguồn huy động dồi dào, ngân hàng có thể hoạt động kinh doanh với quy mô ngày càng mở rộng, tiến hành cạnh tranh có hiệu quả vừa giữ chữ tín, vừa nâng cao thanh thế của ngân hàng trên thị trường và vì vậy có thể thu được lợi nhuận cao. Do những vai trò quan trọng ấy của vốn mà ngoài vốn ban đầu cần thiết theo luật định, các ngân hàng phải chú trọng tới việc tăng trưởng nguồn vốn và huy động vốn và phải nâng cao hiệu quả công tác này. 2. Hiệu quả công tác huy động vốn ở NHTM: 2.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn. Đối với các NHTM thì hiệu quả công tác huy động vốn được xem xét qua các chỉ tiêu sau: 2.1.1. Khối lượng vốn lớn, tăng trưởng ổn định: Vốn huy động của ngân hàng phải có sự tăng trưởng ổn định về số lượng để thoả mãn nhu cầu tín dụng, thanh toán cũng như hoạt động kinh doanh khác ngày càng tăng của ngân hàng. Tuy nhiên vốn huy động được phải ổn định về mặt thời gian. Nếu ngân hàng huy động được một lượng vốn lớn nhưng lại không ổn định, thường xuyên có những dòng tiền lớn bị rút ra thì lượng vốn dành cho đầu tư, cho vay sẽ không lớn, như vậy hiệu quả huy động vốn không cao, thường xuyên phải đối đầu với vấn đề thanh khoản. Và như vậy ngân hàng sẽ có rủi ro lớn là mất khách hàng. Nhưng nếu ngân hàng huy động nguồn vốn ổn định, do đó có thể yên tâm sử dụng số tiền đó vào những hoạt động thu nhập cao. Chỉ tiêu này được đánh giá qua mức độ tăng giảm nguồn vốn huy động và số lượng vốn huy động có kỳ hạn. Nguồn vốn tăng đều qua các năm, đạt mục tiêu nguồn vốn đặt ra là nguồn vốn tăng trưởng ổn định. 2.1.2 Chi phí huy động vốn. Chi phí huy động vốn được đánh giá qua chỉ tiêu lãi suất huy động bình quân, lãi suất huy động từng nguồn, chênh lệch lãi suất đầu ra, đầu vào. Ai cũng biết lãi suất huy động càng cao thì càng kích thích dân chúng gửi tiền vào ngân hàng. Lãi suất huy động càng cao thì lãi suất cho vay càng cao để có thể bù đắp các chi phí và có lãi cho ngân hàng. Nhưng khi lãi suất này lên quá cao thì người đi vay không chịu đựng nổi dẫn đến ứ đọng vốn. Lãi suất huy động cũng như lãi suất cho vay là một trong những công cụ cạnh tranh có hiệu quả của các ngân hàng. Vì vậy cái khó của ngân hàng là tìm ra một lãi suất hợp lý để vẫn có thể huy động được vốn vào và vẫn cho vay được và thu được lợi nhuận lớn nhất. 2.1.3. Khả năng đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Chỉ tiêu này được đánh giá qua việc so sánh nguồn vốn huy động được với nhu cầu tín dụng, thanh toán..... để thấy nguồn vốn huy động đáp ứng được bao nhiêu, ngân hàng phải vay thêm bao nhiều để đáp ứng những nhu cầu ấy. Để đạt được mục tiêu này, ngân hàng phải có cơ cấu vốn hợp lý. Cơ cấu vốn huy động ở đây bao gồm cơ cấu vốn ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, cơ cấu vốn theo nội tệ và ngoại tệ, cơ cấu theo tiền gửi dân cư và tiền gửi các tổ chức kinh tế. Cơ cấu vốn hợp lý là đáp ứng được tối đa nhu cầu sử dụng vốn, không có tình trạng bất hợp lý thừa nguồn vốn này thiếu nguồn vốn kia. 2.1.4. Các chỉ tiêu khác: Ngoài các chỉ tiêu chính trên, hiệu quả công tác huy động vốn được đánh giá qua một số chỉ tiêu sau: * Thời hạn huy động vốn hợp lý * Mức độ hoạt động của vốn huy động: qua chỉ tiêu hệ số sử dụng vốn. * Mức độ thuận tiện cho khách hàng: thủ tục rút tiền, gửi tiền, các dịch vụ của ngân hàng... Khi đánh giá hiệu quả công tác huy động vốn, một chỉ tiêu không phản ánh đầy đủ mà ta phải kết hợp các chỉ tiêu khác nhau để có thể đánh giá chính xác. 2.2 Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác huy động vốn: 2.2.1 Lãi suất huy động. Lãi suất huy động là mối quan tâm hàng đầu, chủ yếu nhất khi một cá nhân hay tổ chức kinh tế nào đó muốn gửi tiền vào ngân hàng. Điều này hoàn toàn logic bởi vì trong nền kinh tế, lĩnh vực có lợi nhuận cao hơn bao giờ cũng thu hút được nhiều người tham gia đầu tư. Tuy nhiên, nguồn tiền gửi không chỉ tập trung vào lãi suất cao mà còn phụ thuộc vào các nhân tố khác như kỳ hạn, mức độ rủi ro, điều kiện thanh toán.... nhưng lãi suất cao luôn có tác dụng kích thích người gửi tiền. Như vậy, lãi suất là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến quy mô nguồn vốn thu hút vào ngân hàng. Tuy nhiên, lãi suất có ảnh hưởng lớn nhất là lãi suất tiết kiệm. Người dân thường quan tâm đến lãi suất tiết kiệm để so sánh nó với tỷ lệ trượt giá của đồng tiền và khả năng sinh lợi của các hình thức đầu tư khác như cổ phiếu, trái phiếu, bất động sản... từ đó đưa ra quyết định có nên gửi vào ngân hàng hay không, gửi vào bao nhiêu theo hình thức nào. Đối với các tổ chức kinh tế thì lãi suất có ảnh hưởng ít hơn vì lãi suất huy động của nguồn này thấp. Nó chịu ảnh hưởng nhiều bởi công nghệ ngân hàng, khả năng thanh toán, cho vay. 2.2.2 Các hình thức huy động vốn. Để có thể huy động vốn trong xã hội, các ngân hàng thương mại dưa ra nhiều hình thức huy động đa dạng. Khi có nhiều hình thức huy động vốn sẽ tạo nhiều cơ hội cho người gửi lựa chọn, đáp ứng những nhu cầu khắt khe, thoả mãn được mong muốn của họ. Mỗi người đều tìm cho mình cách phù hợp với yêu cầu sử dụng cũng như bảo quản tốt nhất và có hiệu quả nhất nguồn vốn của mình. Khi hình thức huy động vốn trở nên đa dạng hấp dẫn có nghĩa là số lượng người gửi tăng lên và số tiền gửi vào tăng lớn, chi phí huy động vốn giảm xuống. 2.2.3. Các dịch vụ cung ứng. Một ngân hàng có dịch vụ tốt, đa dạng hiển nhiên có nhiều lợi thế hơn các ngân hàng có dịch vụ hạn chế. Các ngân hàng có quầy thu ngân tại đường, dịch vụ ngân hàng qua thư, hệ thống tự động làm việc suốt ngày đêm và các dịch vụ được cải tiến, tốn ít thời gian là những lợi thế trong thu hút vốn. Khác với cạnh tranh lãi suất, cạnh tranh về dịch vụ ngân hàng là không giới hạn. Ngày nay, các ngân hàng hiện đại chủ yếu cạnh trạnh qua hình thức này vì xã hội ngày càng văn minh, nhu cầu được phục vụ ngày càng cao. Người ta sẵn lòng bỏ tiền lớn hơn bình thường để mua một sản phẩm có dịch vụ kèm theo tốt. 2.2.4. ảnh hưởng của mức độ an toàn tiền gửi trong ngân hàng. Trong kinh doanh một điều quan trọng đối với bất cứ một doanh nghiệp nào đó là uy tín. Đối với ngân hàng, uy tín của nó đối với người gửi tiền thể hiện ở việc đáp ứng mọi nhu cầu gửi tiền của dân chúng, đảm bảo trả vốn lẫn lãi đúng kỳ hạn đã thoả thuận. Vì vậy để khuyến khích dân chúng gửi tiền, ngân hàng phải có uy tín đủ lớn để người dân cảm thấy yên tâm khi họ giao quyền sử dụng số tiền tích luỹ của mình cho ngân hàng. 2.2.5. ảnh hưởng tâm lý, tập quán, thu nhập của người gửi tiền. Trong xã hội, tâm lý ăn chắc trong mọi hành vi kinh tế còn phổ biến. Người ít tiền thích dùng tiền mặt, người nhiều tiền chuộng sinh lời nhưng thích kín đáo, chưa quen mạo hiểm. Nhiều người vẫn tích trữ dưới dạng vàng hoặc đầu tư vào nhà đất, bất động sản ... gửi tiền vào ngân hàng vẫn chưa có sức hút lắm. Những tâm lý này có thể do dân chúng chưa có thói quen gửi tiền vào ngân hàng, chưa quen với việc sử dụng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt, chưa hoàn toàn tin tưởng vào ngân hàng, lo sợ trước những phá sản NH lớn.... 2.2.6. ảnh hưởng bởi các nhân tố khác: Ngoài các yếu tố trên, công tác huy động vốn của ngân hàng còn chịu ảnh hưởng của nhiều các nhân tố khác như: * ảnh hưởng bởi chính sách của Nhà nước * ảnh hưởng bởi việc sử dụng vốn của ngân hàng * ảnh hưởng bởi các yếu tố vật chất, đội ngũ nhân sự, địa điểm hoạt động, lịch sử và uy danh của ngân hàng. Chương II Thực trạng công tác huy động vốn ở Ngân hàng Công thương Thanh xuân I. tình hình kinh tế - xã hội và hoạt động kinh doanh của ngân hàng công thương thanh xuân. 1- Tình hình kinh tế xã hội trên địa bàn Quận Thanh Xuân: Quận Thanh Xuân là một quận nằm ở phía Tây thủ đô Hà nội . Đây là một quận có thế mạnh về sản xuất công nghiệp , có tiềm năng mở rộng thị trường . Mặc dù có nhiều khó khăn và diễn biến không thuận lợi về khách quan và chủ quan, song được sự quan tâm của cấp trên và các ngành chức năng thành phố, thông qua các phong trào thi đua yêu nước quận đã cố gắng tạo điều kiện giúp các thành phần kinh tế không ngừng phát triển,công tác điều hành ngân sách và các mặt hoạt động của quận từng bước đi vào nề nếp và đạt kết quả tốt. Công tác cải tạo nâng cấp xây dựng cơ sở hạ tầng đã được đặc biệt quan tâm và chú trọng. Quan tâm tới việc giải quyết việc làm bằng nhiều biện pháp,hỗ trợ nhau vốn không lấy lãi, giúp nhau về kỹ thuật. Cấp uỷ đảng, chính quyền từ quận tới cơ sở nhận thức rõ vai trò lãnh đạo tổ chức thực hiện công tác an ninh quốc phòng đã nghiêm túc triển khai thực hiện kết hợp với nhiều mặt công tác khác đạt được mục tiêu an ninh chính trị giữ vững. Đấu tranh phòng chống tội phạm kinh tế, ma tuý, hình sự, tệ nạn xã hội tuy tình hình còn phức tạp so._.ng đã có kết quả rõ: phạm pháp hình sự và các vụ trọng án nghiêm trọng giảm, tỷ lệ điều tra khám phá đạt trên 75% vụ trọng án đến 85%,... Bước sang năm 2003 , quận đề ra những phương hướng rõ ràng tiếp tục phấn đấu đưa quận tiến xa hơn nữa, ổn định kinh tế xã hội tạo mọi điều kiện tốt để các thành phần kinh tế trong quận đều phát triển. 2- Khái quát tình hình hoạt động kinh doanh của NHCT Thanh Xuân: Ngày 22/04/1997 NHCT Việt nam công bố quyết định số 17/HĐQT-QĐ của Chủ tịch Hội Đồng Quản Trị Ngân hàng Công thương Việt nam về việc thành lập Chi nhánh NHCT Thanh Xuân trực thuộc Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa, trên cơ sở nâng cấp phòng giao dịch Thượng Đình và chính thức đi vào hoạt động nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của thủ đô Hà nội nói chung và Quận Thanh Xuân nói riêng trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước . Đến tháng 3/1999 , Chi nhánh NHCT Thanh Xuân chính thức là đơn vị thành viên của NHCT Việt nam . Ngay từ ngày đầu bước vào hoạt động , Chi nhánh NHCT Thanh Xuân đã gặp rất nhiều khó khăn tác động đến quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao : Trụ sở giao dịch diện tích chật hẹp , bộ máy tổ chức còn thiếu chỉ với 4 phòng nghiệp vụ và 50 cán bộ nhân viên , mạng lưới huy động vốn mỏng chỉ có 2 QTK tại 11 phường thuộc Quận Thanh Xuân ; thị phần đầu tư và cho vay hạn chế . Đại bộ phận các doanh nghiệp trên địa bàn đã có quan hệ truyền thống với các NH khác. Để khắc phục tình trạng trên , Đảng uỷ, Ban Giám Đốc chi nhánh NHCT Thanh Xuân đã xây dựng phương hướng kinh doanh, lấy mục tiêu “Hiệu qủa kinh doanh gắn với an toàn vốn “ là tư tưởng chỉ đạo để động viên CBNV hoàn thành các chỉ tiêu kinh doanh . Một mặt vừa củng cố ổn định bộ máy tổ chức Đảng, chính quyền , các đoàn thể đi vào hoạt động , vừa đảm bảo ổn định và từng bước phát triển mở rộng thị phần hoạt động kinh doanh dịch vụ Ngân hàng . Mặt khác bằng nhiều hình thức phát động nhiều phong trào thi đua sâu rộng trong Đảng, trong cơ quan , đoàn thể nhằm tập trung trí tuệ của CBNV . Đông thời tranh thủ sự chỉ đạo quan tâm giúp đỡ của cấp uỷ, chính quyền, các ban nghành địa phườn đã tạo nên sức mạnh tổng hợp để chi nhánh NHCT Thanh Xuân tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Đẩy mạnh huy động vốn bằng cách mở rộng mạng lưới tiết kiệm, vận động khách hàng, quan tâm tiền gửi của các tổ chức kinh tế, làm tốt công tác tiếp thị tăng cường mở rộng quan hệ với khách hàng với Ngân hàng để cho vay, nâng cao chất lượng tín dụng, mở rộng cho vay trung và dài hạn. Việc mở rộng cho vay phải an toàn thực hiện đúng quy trình nghiệp vụ tăng cường kiểm tra kiểm soát, nâng cao vai trò trách nhiệm của cán bộ, tích cực thu hồi nợ quá hạn, tăng cường công tác quản lý tài chính, tăng thu dịch vụ, chi tiêu tiết kiệm, hợp lý đảm bảo kinh doanh có hiệu quả. Trước diễn biến phức tạp của nền kinh tế, Chi nhánh NHCT Thanh Xuân đã bám sát vào sự chỉ đạo của NHNN, NHCT Việt Nam trên cơ sở có nhiều biện pháp thích hợp để tháo gỡ những khó khăn của mình, đảm bảo nguồn vốn đầu tư có hiệu quả, để tiếp tục phát triển đạt được những kết quả trong kinh doanh của NHCT Thanh Xuân. Đến tháng 4/2002, Chi nhánh NHCT Thanh Xuân đã kỷ niệm 5 năm xậy dựng và trưởng thành. Sau hơn 5 năm đi vào họat động , chi nhánh NHCT Thanh Xuân đã đạt được kết quả rất đáng tự hào . Tập thể chi nhánh và cá nhân đồng chí Giám đốc đã vinh dự được nhận bằng khen của Thủ tướng Chính Phủ. Mô hình tổ chức chi nhánh NHCT Thanh Xuân : Chi nhánh NHCT Thanh Xuân là một đợn vị hạch toán phụ thuộc, chịu sự quản lý trực tiếp của NHCT Việt nam . Hiện nay , tổng số CBNV trong chi nhánh là 169 người được sắp xếp vào 7 phòng và 13 Quỹ tiết kiệm Sơ đồ tổ chức mạng lưới Giám đốc phó Giám đốc phó Giám đốc phòng kế toán - TC Phòng Tổ Chức - HC Phòng QLTG Dân cư (13 QTK) Phòng tiền tệ kho quỹ Phòng kinh doanh phòng Kiểm tra Phòng k. doanh đối ngoại 2.1.1 Phòng tổ chức - hành chính: Làm công tác tổ chức nhân sự, tiền lương và công tác hành chính quản trị, công tác giáo dục chính trị tư tưởng. 2.1.2 Phòng kinh doanh : Trực tiếp cho các tổ chức kinh tế trong và ngoài quốc doanh vay ngắn hạn, trung và dài hạn, làm nhiệm vụ xây dựng kế hoạch cân đối về nguồn và sử dụng nguồn vốn... 2.1.3 Phòng kinh doanh đối ngoại: Có chức năng nhiệm vụ quan hệ đối ngoại, chi trả kiều hối, thanh toán bằng các hình thức như: L/c, chuyển tiền, đồng thời trực tiếp kinh doanh Ngoại tệ. 2.1.4 Phòng kế toán tài chính: Có nhiệm vụ thanh toán cho khách hàng, giám sát tình hình vay, nợ thu hồi vốn lãi, hạch toán thu chi với khách hàng, nội bộ ngân hàng,tiến hành một số các dịch vụ khác. 2.1.5 Phòng Tiền tệ - kho quỹ: Thực hiện thu chi tiền mặt bằng VNĐ, ngoại tệ của các đơn vị, các tổ chức kinh tế và cá nhân qua Ngân hàng nhanh chóng, kịp thời, chính xác và đầy đủ. 2.1.6 Phòng quản lý tiền gửi dân cư: Thực hiện huy động vốn nội tệ và ngoại tệ với hình thức chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm của dân cư, tiền gửi của các tổ chức kinh tế, huy động thông qua các giấy nợ như kỳ phiếu, trái phiếu, Ngân hàng. 2.1.7 Phòng kiểm tra - kiểm soát nội bộ: Tiến hành kiểm tra, kiểm soát mọi nghiệp vụ Ngân hàng theo quy định hiện hành (kiểm soát mọi thủ tục về kinh doanh, kế toán, ngân quỹ, thanh toán trong Ngân hàng). Các phòng ban được tổ chức theo hướng chuyên môn hoá nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của toàn Ngân hàng. Được sự giúp đỡ của NHCT Việt Nam, của các cấp chính quyền địa phương nên hoạt động của Chi nhánh NHCT Thanh Xuân đã đạt được những kết quả bước đầu đáng khích lệ thể hiện trên các mặt hoạt động sau: 2.2- Tình hình huy động vốn: Việc huy động vốn từ các tổ chức, dân cư được thực hiện tại các quỹ tiết kiệm. Thực hiện thanh toán chuyển tiền điện tử nhanh chính xác đã thu hút được nhiều doanh nghiệp, tư nhân mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng, huy động vốn nhàn rỗi trên tài khoản tiền gửi thanh toán. Với nhiều biện pháp huy động vốn thích hợp nên trong những năm qua nguồn vốn của chi nhánh liên tục tăng. Điều đó thể hiện qua bảng sau: Bảng 1: Tình hình huy động vốn: Tính đến 31/12/2000, 31/12/2001, 31/12/2002 Đơn vị : triệu đồng năm Chỉ tiêu 2000 2001 2002 so sánh% 2001/2000 2002/2001 Tổng nguồn vốn huy động (cộng cả ngoại tệ quy đổi) 629.400 833.655 1.137.000 +32,45% 36,39% Tiền gửi tổ chức kinh tế 174.403 212.486 325.440 +21,83% 53,16% Tiền gửi dân cư (cả kỳ phiếu) 454.997 621.169 811.560 +36,52% 30,65% (Nguồn số liệu: Phòng Kinh doanh NHCT Thanh Xuân) Qua bảng 1, ta thấy. Tổng nguồn vốn huy động nhìn chung kể từ năm 2000 đến năm 2002 khá tốt tăng dần qua các năm: - Năm 2001 tổng nguồn vốn huy động so với năm 2000 tăng 32,45% tương ứng với mức tăng tuyệt đối là 204.255 (triệu đồng ) -Năm 2002 tổng nguồn vốn huy động so với năm 2001 tăng 36,39% tương ứng với mức tăng tuyệt đối là 303.345 (triệu đồng). Xét về cơ cấu nguồn vốn, tiền gửi của dân cư chiếm một tỷ trọng lớn. Như vậy, chi nhánh đã huy động nguồn vốn trong dân cư rất lớn, lòng tin của người dân đối với chi nhánh rất cao. So với các chi nhánh khác trong cùng hệ thống, NHCT Thanh Xuân luôn có ưu thế về nguồn vốn (đặc biệt là VND) đây là thế mạnh để mở rộng và phát triển hoạt động cho vay. Qua kết quả huy động vốn mà NHCT Thanh Xuân đã đạt được chứng tỏ rằng Ngân hàng đã và đang chiếm được lòng tin của đại đa số dân cư và các doanh nghiệp trên địa bàn quận nói riêng và Thủ đô nói chung. 2.3- Kết quả sử dụng vốn: Huy động vốn là điều kiện cần thiết để tiến hành hoạt động kinh doanh của NHTM, còn sử dụng vốn là hoạt động vừa đáp ứng kịp thời vốn cho các doanh nghiệp, các nhà sản xuất, vừa mang lại thu nhập, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng. Cũng như hầu hết các ngân hàng khác hoạt động sử dụng vốn chủ yếu của NHCT Thanh Xuân là hoạt động cho vay. Hầu hết các khoản thu nhập của chi nhánh là từ lãi tiền vay. ý thức rõ tầm quan trọng của hoạt động cho vay nên trong thời gian qua chi nhánh đã có nhiều biện pháp nhằm mở rộng quy mô cho vay gắn liền với việc nâng cao chất lượng cho vay, đảm bảo an toàn vốn, hạn chế rủi ro. Tình hình cho vay của ngân hàng công thương Thanh Xuân thể hiện trong bảng dưới đây. Bảng 2: Công tác sử dụng vốn: (Tính đến 31/12/2000, 31/12/2001, 31/12/2002) Đơn vị : triệu đồng năm chỉ tiêu 2000 2001 2002 so sánh (%) 2001/2000 2002/2001 Cho vay trung và dài hạn 30.002 23.081 31.502 -23,06% +36,48% Cho vay ngắn hạn 1.000.140 1.135.186 1.246.655 +13,5% +9,82% Tổng doanh số cho vay 1.030.142 1.158.267 1.278.157 +12,44% +10,35% (nguồn số liệu: Phòng Kinh doanh NHCT Thanh Xuân) Qua số liệu trên cho thấy tổng dư nợ đầu năm 2001 tăng so với năm 2000 là 128.127 triệu đồng tăng 12,44% so với cùng kỳ năm trước. Năm 2002 tổng mức dư nợ tăng so với năm 2001 là 119.890 triệu đồng tăng 10,35%. Cho vay ngắn hạn luôn chiếm một tỷ trọng lớn trong kết cấu nguồn vốn, nhưng luôn có sự biến động qua từng năm của nguồn cho vay này bởi nhu cầu vay vốn của các tổ chức kinh tế tại từng thời điểm là khác nhau cụ thể: năm 2001 cho vay ngắn hạn đạt ở mức 1.135.186 triệu đồng tăng so với năm 2000 là 13,5%, sang năm 2002 cho vay ngắn hạn đạt ở mức 1.246.655 triệu đồng tăng so với năm 2001 là 9,82%. - Cơ cấu tín dụng của NHCT Thanh Xuân được thể hiện trong bảng sau: Bảng 3:Cơ cấu tín dụng của ngân hàng công thương Thanh Xuân Đơn vị: triệu đồng Năm chỉ tiêu 2000 2001 2002 1 Doanh số cho vay 1.030.142 1.158.267 1.278.157 Cho vay ngắn hạn 1.000.140 1.135.186 1.246.655 Cho vay trung, dài hạn 30.002 23.081 31.502 2- Doanh số thu nợ 972.773 843.774 823.474 Cho vay ngắn hạn 956.672 792.390 752.167 Cho vay trung, dài hạn 16.101 51.384 71.307 3- Dư nợ 436.155 750.649 1.005.978 Cho vay ngắn hạn 358.547 511.057 707.423 Cho vay trung, dài hạn 77.608 239.574 298.555 4- Nợ quá hạn 1.274 199 0 % \ tổng dư nợ 0,29% 0,03% 0% ( nguồn số liệu: Phòng Kinh doanh NHCT Thanh Xuân) Qua bảng 3 ta thấy cơ cấu tín dụng có sự thay đổi cụ thể :năm 2001 doanh số thu nợ đạt mức 843.774 triệu đồng giảm so với năm 2000, sang năm 2002 doanh số thu nợ vẫn giảm, nguyên nhân do cho vay ngắn hạn giảm chiếm một tỉ trọng lớn trong khi cho vay trung, dài hạn tăng nhưng không đáng kể. Trong khi dư nợ tăng lên qua các năm, 2000, 2001,2002 , tập trung chủ yếu ở cho vay ngắn hạn cụ thể năm 2000 mức cho vay ngắn hạn đạt 358.547 triệu đồng đến năm 2001 tăng và đạt 511.057 triệu đồng thì sang năm 2002 cho vay ngắn hạn đã tăng đạt mức 707.423 triệu đồng. Nợ quá hạn giảm nhiều qua các năm đăc biệt năm 2002 không còn nợ quá hạn. 2.4 Các hoạt động khác: 2.4.1 Hoạt động kinh doanh ngoại tệ và thanh toán Quốc tế Trong những năm gần đây diễn biến về tỷ giá trên thị trường thế giới diễn ra rất phức tạp, với mục tiêu kinh doanh ngoại tệ nhằm mục đích đa dạng hoá nghiệp vụ kinh đoanh, góp phần làm tăng dư nợ tín' dụng, không hoàn toàn lấy lãi kinh doanh ngoại tệ làm tiêu chí mà vì hoạt động chung của chi nhánh. Doanh số mua bán ngoại tệ năm 2001 đạt 117 triệu USD và ngoại tệ khác quy đổi. Năm 2002 doanh số này đạt 145 triệu USD và ngoại tệ khác quy đổi , lợi nhuận đạt 525.646 triệu đồng. Nghiệp vụ mở và thanh toán L/C nhập khẩu: năm 2001 phát hành L/C với tổng giá trị là 93.030 USD và ngoại tệ khác quy đổi, năm 2001 phát hành L/C với tổng 24.748.115 USD và ngoại tệ khác quy đổi, bằng 266% so với năm 2000. Giá trị thanh toán năm 2001 đạt 89.603 USD và ngoại tệ khác quy đổi, năm 2001 đạt 15.591.009 USD và ngoại tệ khác quy đổi, bằng 174% so với năm 2001. Nghiệp vụ thanh toán xuất khẩu qua hình thức nhờ thu, nhờ chuyển hộ, chuyển g tiền điện tử tăng cả về số lượng và giá trị. 2.4.2 Công tác Kế toán thanh toán. Năm 2000 Chi nhánh mở thêm được 398 tài khoản, đưa tổng số tài khoản giao dịch của khách hàng tại chi nhánh lên 634 tài khoản. Phối hợp với phòng kinh doanh trong khâu quản lý tài sản có, đôn đốc thu nợ, thu lãi kịp thời, không để lãi treo. Thực hiện thanh toán bù trừ chính xác tạo được lòng tin cho khách hàng. Năm 2001, triển khai thực hiện và hoàn chỉnh công nghệ ngân hàng thông qua hệ thống máy và chương trình vi tính tiến tới hầu hết các hoạt động quản lý tài sản có ở chi nhánh đều thực hiện trên máy, mọi khoản thu chi được hạch toán đúng, đủ theo chế độ, phản ánh trung thực kết quả kinh doanh. Tinh thần phục vụ khách hàng tận tình chu đáo, đã tư vấn cho khách hàng các phương thức phù hợp. Số lượng khách hàng mở tài khoản tăng hơn 300 tài khoản so với cung kỳ năm trước. Doanh số thanh toán qua ngân hàng năm 2002: 59.950 món, trị giá 12.250000 triệu đồng tăng 1.643.212 triệu đồng so cùng kỳ năm trước, tốc độ tăng 15% so với cùng kỳ năm trước. Tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt chiếm 85,68% tổng khối lượng thanh toán qua ngân hàng. 2.4.3 Hoạt động tiền tệ kho quỹ. Luôn chấp hành các quy định của nhà nước , của ngành một cách nghiêm túc . Mặc dù , lượng tiền mặt qua quỹ Ngân hàng ngày một tăng với số lượng rất lớn, nhưng cán bộ kiểm ngân , thủ quỹ đã nêu cao tinh thần trách nhiệm và phẩm chất của người cán bộ ngận hàng, thực hiện tốt khẩu hiệu “ Vui long khách đến , vừa lòng khách đi”, đảm bảo an toàn tuyệt đối kho quỹ cũng như tiền trên đường vận chuyển. Năm 2002 , cán bộ kiểm ngân, thủ quỹ đã trả được 396 món tiền thừa với tổng số tiền là 219.767.000 VNĐ và 10.150 USD. 2.4.4 Công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ Với mục tiêu “An toàn, hiệu quả và phát triển” trong hoạt động kinh doanh ngân hàng cùng với việc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng chi nhánh rất chú trọng đến công tác kiểm tra , kiểm soát nội bộ . Bằng các biện pháp tổ chức quán triệt học tập cán bộ nhân viên nắm vững đương lối chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước , cơ chế quy trình nghiệp vụ của ngành bổ sung thêm nhân viên kiểm tra trên các mặt hoạt động nghiệp vụ , góp phần lành mạnh hoá và nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh của chi nhánh . Do đó chất lượng hoạt động kinh doanh tiền tệ tín dụng và dịch vụ Ngân hàng nói chung , chất lượng tín dụng nói riêng đã được nâng lên rõ rệt . Năm 2002 , nợ quá hạn bằng không . 2.4.5 Công tác tổ chức hành chính. Đảng uỷ , Ban Giám đốc quán triệt và nhận thức sâu sắc quan điểm đường lối của Đảng và nhà nước về công tác cán bộ, chính sách đối với cán bộ, coi đây là một nhiệm vụ có ý nghĩa hết sức quan trọng quyết định đến sự phát triển của chi nhánh . Chi nhánh chăm lo xây dựng tổ chức bộ máy trong sạch vững mạnh cả về chính trị , tư tưởng và tổ chức đi đôi với xây dựng con người có sức khoẻ , có phẩm chất , năng lực công tác đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Hàng năm nhận xét, đánh giá CBNV khách quan công khai dân chủ, bố trí sắp xếp bổ nhiệm cán bộ đúng năng lực sở trường, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở chính sách cán bộ, giải quyết tốt mối quan hệ giữa trách nhiệm và quyền hạn , giữa nghĩa vụ và quyền lợi của cán bộ . Thường xuyên nâng cao trình đọ nhận thức chính trị chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ. 2.4.6 Các công tác quản lý khác Song song với công tác thi đua trong lĩnh vực chuyên môn , các lĩnh vực khác cũng được chi nhánh đặcbiệt quan tâm như: Thi tìm hiểu về luật phòng chống ma tuý , học luật phòng cháy chữa cháy, phong trào đền ơn đáp nghĩa..... Đảng bộ chi nhánh nhiều năm liền được công nhậ là Đảng bộ trong sạch vững mạnh . Công đoàn là công đoàn xuất sắc. Đoàn Thanh niên Được Trung ương Đoàn tặng bằng khen. Chi nhánh được quận đội duyệt là đơn vị quyết thắng trong phong trào dân quân tự vệ. Năm 2002 , chi nhánh NHCT Thanh Xuân đã bình bầu được 118 lao động giỏi , 13 lao động xuất sắc, 7 chiến sĩ thi đua cấp cơ sở, 3 đồng chí được đề nghị Thống Đốc tặng bằng khen. II. Thực trạng huy động vốn tại NHCT Thanh Xuân. Huy động vốn là một nghiệp vụ chính, không thể thiếu được của NHCT Thanh Xuân nói riêng và các Ngân hàng Thương mại nói chung. Huy động vốn không phải là vấn đề độc lập mà gắn liền với các nghiệp vụ bên có (sử dụng vốn) và các nghiệp vụ trung gian khác (chuyển tiền, thanh toán...) của NHTM. Ngân hàng phải luôn đảm bảo cho mình một nguồn vốn dồi dào, đáp ứng nhu cầu của khách hàng đến vay vốn và đáp ứng nhu cầu vốn cho quá trình phát triển của đất nước. Bên cạnh đó, huy động vốn phải dựa trên cơ sở xác định thị trường đầu ra, lĩnh vực đầu tư có hiệu quả hay không, lãi suất ra sao... Chính vì vậy, công tác huy động vốn của NHCT Thanh Xuân ngày càng tăng theo hướng "ổn định, an toàn, hiệu quả và phát triển" để nâng cao cả về số lượng cũng như chất lượng của nguồn vốn huy động. Thực tế công tác huy động vốn của Ngân hàng Công thương Thanh Xuân những năm gần đây được thể hiện ở những nội dung sau: 1. Các hình thức huy động vốn. Với phương châm tăng cường nguồn vốn, NHCT Thanh Xuân đã cố gắng thực hiện đa dạng hoá các hình thức, biện pháp, kênh huy động vốn khác nhau. Từ khi thành lập đến nay công tác huy động vốn của Ngân hàng có những chuyển biến tích cực. Nguồn vốn tăng với tốc độ khá lớn, đáp ứng được nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế và tư nhân trên địa bàn. Bảng 4: Biến động của nguồn vốn huy động : Đơn vị : Triệu đồng. TT Chỉ tiêu Thời điểm 2000 2001 2002 1. Tổng nguồn vốn 629.400 833.655 1.137.000 2. Tăng (giảm) số tuyệt đối +204.255 +303.345 3. Tỷ lệ so với năm trước (%) +132,45% +36,39% (Nguồn: Phòng nguồn vốn Ngân hàng Công thương Thanh Xuân) Nguyên nhân nguồn vốn trong thời gian qua không ngừng tăng: - Ngân hàng mở rộng mạng lưới huy động, đa dạng các hình thức huy động vốn như tiền gửi doanh nghiệp, tiền gửi tiết kiệm bằng VNĐ và USD, kỳ phiếu có mục đích, kỳ phiếu ngoại tệ. Ngân hàng ngày càng có uy tín với khách hàng. - Nền kinh tế trong 2 năm vẫn giữ được tốc độ và phát triển. Người dân ngày càng tin tưởng và điều này đã thu hút đươc khối lượng khách hàng đến gửi tiền vào Ngân hàng nhiều hơn. Như vậy, chỉ trong vòng hai năm, hoạt động Ngân hàng đã có mức tăng trưởng nguồn vốn khá lớn. Điều đó đã chứng tỏ NHCT Thanh Xuân đã từng bước xâm nhập được vào thị trường, tạo lòng tin với khách hàng, đó chính là một lợi thế trong quá trình khai thác nguồn vốn để mở rộng đầu tư, cho vay. Hiện nay, NHCT Thanh Xuân đang huy động vốn chủ yếu từ các nguồn sau: Tiền gửi doanh nghiệp, tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi dưới hình thức phát hành kỳ phiếu, và các nguồn huy động vốn khác Bảng 5 : Kết cấu nguồn vốn huy động. Đơn vị : Triệu đồng. Khoản mục 31/12/2000 31/12/2001 31/12/2002 Số tiền % Số tiền % Số tiền % Tiền gửi doanh nghiệp 174.403 27,71 212.486 25,49 325.440 28,62 Tiền gửi tiết kiệm 454.997 72,29 601.840 72,19 738.343 64,94 Kỳ phiếu 0 0 19.329 2,32 73.217 6,44 Tổng số 629.400 100 833.655 100 1.137.000 100 (Nguồn: Phòng Kế toán Ngân hàng Công thương Thanh Xuân) Qua số liệu trên ta thấy kết cấu nguồn vốn huy động tăng lên trong từng năm, nhanh nhất là huy động từ nguồn tiền gửi tiết kiệm. Cụ thể là trong năm 2000 số tiền huy động đựợc là 629.400 triệu đồng sang đến năm 2001 số tiền huy động là 833.655 triệu đồng, đến năm 2002 tổng số tiền huy động đươc là 1.137.000 triệu đồng. Trong từng năm thì lượng tiền huy động chủ yếu là từ nguồn tiền gửi tiết kiệm. Trong năm 2000 số tiền huy động được từ nguồn tiết kiệm chiếm 72,29%, năm 2001 chiếm 72,19%, năm 2002 chiếm 64,94%. Để có được những kết quả trên, Ngân hàng đã có những nỗ lực, cố gắng trong việc thu hút nguồn vốn nhàn rỗi, xây dựng mạng lưới huy động tiền gửi tiết kiệm ngày càng có hiệu quả, được nhân dân tin tưởng. 1.1. Tiền gửi của doanh nghiệp. Đây là bộ phần tiền tệ tạm thời chưa sử dụng đến trong quá trình sản xuất kinh doanh, khoản tiền này bao gồm: tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn. Tình hình tiền gửi của doanh nghiệp được biểu hiện qua bảng 6 và bảng 7. Bảng 6 : Kết cấu tiền gửi doanh nghiệp. Đơn vị : Triệu đồng. Chỉ tiêu 31/12/2000 31/12/2001 31/12/2002 Số tiền % Số tiền % Số tiền % 1. Tổng số 174.403 100 212.486 100 325.440 100 2. Tiền gửỉ không kỳ hạn 143.143 82,08 190.766 89,78 292.961 90,02 - VNĐ 141.249 80,99 188.102 88,53 288.568 88,67 - Ngoại tệ (qui VNĐ) 1.894 1,09 2.664 1,25 4.393 1,35 3. Tiền gửi có kỳ hạn 31.260 17,92 21.720 10,22 32.479 9,98 - VNĐ 30.924 17,73 13.815 6,5 23.269 7,15 - Ngoại tệ quy đổi 336 0,19 7.905 3,72 9.210 2,83 (Nguồn: Báo cáo Phòng Kế toán Ngân hàng Công thương Thanh Xuân) Nhìn vào bảng 6, ta thấy tỷ trọng của nguồn tiền gửi không kỳ hạn là lớn hơn so với có kỳ hạn (dao động trong khoảng 80 đến 90% trong tổng nguồn tiền gửi của doanh nghiệp). Nguồn tiền này được hình thành chủ yếu từ nguồn tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp. Nó là nguồn đang được khai thác nhất bởi vì đối với các đơn vị, nguồn tiền này luôn biến động. Hiện nay và trong tương lai, NHCT Thanh Xuân rất chú trọng đến nguồn tiền gửi doanh nghiệp đặc biệt là các khoản tiền gửi không kỳ hạn. Bộ phận này có tính chất như đảm bảo cho số vốn mà các đơn vị vay của Ngân hàng. Hơn nữa, các đơn vị có tiền gửi ở đây sẽ sử dụng các dịch vụ thanh toán như séc, UNC, UNT, chuyển tiền... Bên cạnh đó Ngân hàng phải chi trả cho nguồn vốn này thấp hơn so với nguồn vốn huy động từ dân cư. Vì vậy, NHCT Thanh Xuân đã có những biện pháp nhằm thu hút lượng tiền gửi này nhiều hơn nữa như đơn giản hoá các thủ tục, áp dụng chính sách ưu tiên, ưu đãi với doanh nghiệp có số dư tiền gửi lớn. Bảng 7: Biến động tiền gửi của doanh nghiệp. Đơn vị : Triệu đồng. Chỉ tiêu 31/12/2000 31/12/2001 31/12/2002 Tổng số 174.403 212.486 325.440 So sánh thời điểm sau so với thời điểm trước +38.083 +112.964 Tỉ lệ % tăng kỳ sau so với trước +21,84% +53,16% (Nguồn: Báo cáo Phòng Kế toán Ngân hàng Công thương Thanh Xuân) Qua số liệu trên, ta thấy rằng có sự thay đổi tăng lên tiền gửi của doanh nghiệp trong từng năm, cụ thể năm 2001 tổng mức tiền gửi đạt 212.486 triệu đồng, tăng 21,84% so với năm 2000, tương ứng với mức tăng tuyệt đối là 38.083 triệu đồng. Năm 2002 đạt 325.440 triệu đồng tăng 53,16% tương ứng với mức tăng tuyệt đối là 112.964 triệu đồng. Nhìn chung, nguồn tiền gửi tương đối lớn và có xu hướng tăng lên, đặc biệt vào cuối năm, nguồn tiền gửi doanh nghiệp tăng lên rất mạnh. Sự biến động này phụ thuộc trực tiếp vào tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như chính sách của bản thân Ngân hàng, các dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp cho khách hàng. Cuối năm, lượng tiền gửi của doanh nghiệp tăng mạnh vì các doanh nghiệp thu được nhiều tiền bán sản phẩm, hàng hóa hơn vào thời điểm này. 1.2. Tiền gửi tiết kiệm Khoản mục kế tiếp trong nguồn vốn huy động của ngân hàng là tiền gửi tiết kiệm. Đây là nguồn tiền của dân cư chưa sử dụng đến đem gửi vào Ngân hàng để lấy lãi. Nó thực sự là nguồn tiềm năng dồi dào cho ngân hàng khi chuyển sang cơ chế hạch toán kinh doanh. Bảng 8: Sự biến động tiền gửi tiết kiệm Đơn vị: Triệu đồng chỉ tiêu 30/12/2000 31/12/2001 31/12/2002 Tổng nguồn 454.997 601.840 738.343 So sánh kỳ sau với kỳ trước +146.843 +136.503 Tỷ lệ so sánh kỳ sau với kỳ trước +32,27% +22,68% (Nguồn: Phòng nguồn vốn NHCT Thanh Xuân) Bảng 09: Kết cấu tiền gửi tiết kiệm Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 31/12/2000 31/12/2001 31/12/2002 Số tiền % Số tiền % Số tiền % 1. Tổng số 454.997 100 601.840 100 738.343 100 2. Tiền gửi không kỳ hạn 10.234 2,25 20.238 3,36 25.473 3,45 - VNĐ 8.589 1,89 14.157 2,35 18.163 2,46 - Ngoại tệ quy đổi 1.645 0,36 6.081 1,01 7.310 0,99 3. Tiền gửi có kỳ hạn 444.763 97,75 581.602 96,64 712.796 96,54 -VNĐ 243.515 53,52 318.951 53 398.853 54,02 - Ngoại tệ 201.248 44,23 262.651 43,64 313.943 42,52 (Nguồn: phòng nguồn vốn NHCT Thanh Xuân) Từ bảng 8 và 9, nguồn tiền gửi tiết kiệm ngày càng tăng lên. Từ chỗ cuối năm 2000 chỉ huy động được 454.997 triệu đồng thì đến cuối năm 2001 lượng tiền huy động được 601.840 triệu đồng tăng 146.843 triệu đồng ,sang đến năm 2002 lượng tiền này tiếp tục tăng; cụ thể tăng 136.503 triệu đồng so với năm 2001. Trong nguồn tiền gửi tiết kiệm, gồm có tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn (Bảng 9), ta nhận thấy tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong nguồn tiền gửi tiết kiệm và tương đối ổn định. Tiền gửi có kỳ hạn luôn chiếm tỉ trọng lớn trong tổng nguồn tiết kiệm. Điều này có lợi cho Ngân hàng bởi vì Ngân hàng có cơ sở nguồn vốn để cho vay với thời gian tương đối dài, lãi suất cao hơn và có kế hoạch thu hồi vốn đúng hạn. Tiền gửi có kỳ hạn chiếm tỷ trọng lớn thể hiện sự tin tưởng của nhân dân đối với ngân hàng. Bảng 10: Cơ cấu nguồn tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn (cộng cả TKK ngoại tệ đã quy đổi) Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 30/12/2000 31/12/2001 31/12/2002 ST % ST % ST % Tổng TK có KH 444.763 100 581.602 100 712.796 100 TK kỳ hạn 03 tháng 67.785 15,21 115.044 19,78 142.631 20,01 TK kỳ hạn 06 tháng 164.987 37,10 189.200 32,53 230.019 32,27 TK kỳ hạn 12 tháng 211.991 47,66 277.358 47,69 340.146 47,72 (Nguồn: phòng nguồn vốn NHCT Thanh Xuân) Nhìn vào bảng 10 ta thấy tổng nguồn vốn huy động tiết kiệm tăng lên qua các năm, hình thức huy động đa dạng: 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng… với sự phong phú đó đã tạo điều kiện cho người dân đến gửi tiền. Hình thức huy động TK có kỳ hạn được người dân ưa chuộng hơn, điều này được giải thích: phần lớn người dân trong địa bàn gửi tiền vào Ngân hàng với mục đích hưởng lợi nhuận. Tóm lại, nhận tiền gửi tiết kiệm là hình thức huy động vốn đầy tiềm năng đối với NHCTThanh Xuân. Kết quả đạt được trong 2 năm qua đã phản ánh thực tế nguồn vốn này. Vì vậy, ngân hàng đang tích cực triển khai sâu rộng xuống từng địa bàn dân cư trong quận Thanh Xuân, phục vụ tốt khách hàng bằng các hình thức tiết kiệm khác nhau, thời hạn khác nhau. 1.3 Huy động dưới hình thức phát hành Kỳ phiếu. Ngoài các hình thức huy động vốn truyền thống trên, để đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, NHCT-Thanh Xuân cũng đã phát hành kỳ phiếu cả bằng nội tệ và ngoại tệ ... Thực tế đây là hình thức mà các ngân hàng thương mại đã sử dụng nhiều năm và có hiệu quả. Trước khi bán kỳ phiếu mục đích, ngân hàng công thương Thanh Xuân phải báo cáo với UBND quận và đưa tin trên phương tiện thông tin đại chúng những nội dung sau : - Quyết định của Giám đốc NHCT Thanh Xuân. - Mục đích bán kỳ phiếu - Thời gian bán - Đối tượng được mua - Loại kỳ phiếu, mệnh giá tối thiểu của 1 tờ kỳ phiếu - Lãi suất theo từng kỳ hạn của kỳ phiếu được phát hành có 2 loại kỳ phiếu: + Kỳ phiếu ngân hàng có mục đích bằng nội tệ và ngoại tệ (KPMĐ): Căn cứ vào yêu cầu mở rộng tín dụng trong từng thời kỳ, ngân hàng đã nhanh chóng triển khai huy động kỳ phiếu ngân hàng có mục đích. + Kỳ phiếu ngoại tệ ngân hàng phát hành bằng USD. Kỳ phiếu được bán cho mọi công dân Việt Nam, người nước ngoài sống tại Việt Nam theo nguyên tắc tự nguyện, không hạn chế mức tối đa. NHCTThanh Xuân phát hành 2 loại kỳ phiếu: - Không định mức - Có định mức Những tờ kỳ phiếu đã phát hành trên bị tẩy xoá đều không có giá trị. Nhận xét: Kỳ phiếu thường có lãi suất cao hơn tiền gửi tiết kiệm nhưng không linh hoạt bằng tiền gửi tiết kiệm. Vì vậy ngân hàng khó huy động được thời gian. Chúng ta hãy xem xét việc huy động vốn qua phát hành kỳ phiếu sau: Bảng 11: Tình hình huy động vốn qua phát hành kỳ phiếu tại NHCT Thanh Xuân Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 31/12/2000 31/12/2001 31/12/2002 - Kỳ phiếu 0 19.329 73.217 + Nội tệ 0 19.329 73.217 + Ngoại tệ quy đổi 0 0 0 (Nguồn: phòng nguồn vốn NHCT Thanh Xuân) Qua bảng 11 ta thấy, nguồn vốn huy động bằng kỳ phiếu có sự biến động lên xuống vì nó phụ thuộc vào tình hình cụ thể của từng thời điểm. Số lượng tiền phát hành kỳ phiếu tăng theo yêu cầu về vốn của bản thân NHCT Thanh Xuân và NHCT Việt Nam. Ngân hàng phát hành kỳ phiếu có mục đích để có vốn phục vụ cho những công trình trọng điểm của nhà nước, cho nhu cầu của toàn hệ thống. Với lãi suất uyển chuyển biến động theo thời gian, kỳ phiếu đã thực sự tạo sự chủ động cho Ngân hàng. Do huy động với lãi suất cao nên chỉ khi nào Ngân hàng xét thấy thực sự cần vốn đầu tư hay có thể đảm bảo lợi ích đầu ra cao hơn thì Ngân hàng mới phát hành kỳ phiếu. Chính vì vậy, nguồn này chiếm 1 tỷ trọng không lớn trong tổng nguồn huy động và không thường xuyên. Năm 2002, Ngân hàng công thương Thanh Xuân đã tổ chức phát hành kỳ phiếu loại kỳ hạn 6 tháng nhằm đa dạng hoá các hình thức huy động vốn đáp ứng được nhu cầu vốn của ngân hàng. Ngân hàng công thương Thanh Xuân đã nhanh chóng hoàn thành kế hoạch Trung ương giao. Kỳ phiếu Ngân hàng công thương Thanh Xuân chiếm 1 tỷ trọng nhỏ nhưng giúp cho ngân hàng đa dạng hoá hình thức huy động vốn, từng bước nâng cao khả năng phục vụ khách hàng với một chất lượng cao hơn, đối tượng rộng rãi hơn. Tóm lại: Thông qua việc xét cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng theo các hình thức huy động ta có thể thấy đặc điểm chung là: tổng nguồn vốn huy động tăng trưởng cao: Trong đó: Tiền gửi tiết kiệm chiếm 1 tỷ lệ tương đối lớn, sau đó là tiền gửi doanh nghiệp . Ngân hàng công thương Thanh Xuân đặc biệt quan tâm đến 2 nguồn này. Các hình thức huy động vốn khác chiếm 1 tỷ lệ không đáng kể. Sự tăng trưởng trong công tác huy động vốn thể hiện rõ nỗ lực to lớn của toàn thể ban lãnh đạo cùng cán bộ công nhân viên, khẳng định chỗ đứng, uy tín Ngân hàng trong tình hình mới . 2. Khả năng đáp ứng kinh doanh của nguồn vốn huy động. Nguồn vốn huy động không ngừng tăng lên chưa đủ để đánh giá hiệu quả công tác huy động vốn. Nếu như huy động vốn nhiều mà cho vay ít thì tình trạng ứ đọng vốn sẽ dẫn đến thua lỗ vì phần tiền không cho vay được vẫn phải trả lãi tiền gửi. Nếu như huy động vốn được ít mà nhu cầu vay nhiều thì rủi ro xảy ra đối với ngân hàng ngày càng lớn hơn. Ngân hàng sẽ dần dần bị mất khách hàng. Khi đó, ngân hàng phải tìm kiếm các khoản vay với lãi suất cao như phải vay các tổ chức tín dụng khác, vay ngân hàng nhà nước để cho vay. Như vậy trong 2 trường hợp, lợi nhuận ngân hàng sẽ giảm. Hoạt động kinh doanh ngân hàng chỉ có hiệu quả trên cơ sở kết hợp huy động vốn và cho vay 1 cách hài hoà. Để thực hiện điều đó NHCT Thanh Xuân song song với việc đẩy mạnh huy động vốn đã mở rộng cho vay, đầu tư đáp ứng kịp th._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNH356.doc
Tài liệu liên quan