Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho vay đối với các Doanh nghiệp nhà nước tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương (VietcomBank)

Tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho vay đối với các Doanh nghiệp nhà nước tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương (VietcomBank): ... Ebook Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho vay đối với các Doanh nghiệp nhà nước tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương (VietcomBank)

doc36 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1456 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho vay đối với các Doanh nghiệp nhà nước tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương (VietcomBank), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Mở đầu 1 Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ CHO VAY CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 3 1.1. Ngân hàng thương mại và hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại 3 1.1.1 Ngân hàng thương mại 3 1.1.2 Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại 3 1.2. Hiệu quả cho vay của các NHTM đối với các DNNN 6 1.2.1 Khái niệm hiệu quả cho vay của NHTM 6 1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cho vay của NHTM 7 1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay 10 Chương 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DNNN TẠI NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM – CHI NHÁNH HÀ NỘI 16 2.1 Vài nét về sự ra đời và phát triển của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Hà Nội 16 2.1.1 Sự ra đời của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Hà Nội 16 2.1.2 Chức năng, nhiệm vụ các phòng ban Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Hà Nội 17 2.1.3 Sơ đồ các phòng ban NHTMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Hà Nội 20 2.2 Tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Hà Nội 20 2.2.1 Nghiệp vụ huy động vốn 20 2.2.2 Nghiệp vụ cho vay 21 2.2.3 Các dịch vụ khác của Ngân hàng 23 2.2.4 Kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Hà Nội 23 2.3 Thực trạng hiệu quả cho vay đối với các DNNN 24 2.3.1 Dư nợ cho vay DNNN 24 2.3.2 Nợ quá hạn và nợ gia hạn cho vay DNNN 26 2.3.3 Đánh giá hiệu quả cho vay đối với các DNNN của NHTMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Hà Nội 27 Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DNNN TẠI NH TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM – CHI NHÁNH HÀ NỘI 31 3.1 Phương hướng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Hà Nội 31 3.2 Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho vay đối với các DNNN tại NHTMCP Ngoại thương Việt Nam – CN Hà Nội 31 3.2.1 Tăng cường công tác huy động vốn 31 3.2.2 Thực hiện tốt các chính sách khách hàng 32 3.2.3 Đa dạng hóa các hình thức cho vay 32 3.2.4 Các biện pháp khác 33 3.3 Điều kiện thực hiện các giải pháp 33 Kết luận 34 Mở đầu Trong nền kinh tế thị trường hiện nay các thành phố kinh tế được Đảng và nhà nước tạo điều kiện phát triển bình đẳng như nhau. Trong đó khu vực KTNQD có sự phát triển mạnh mẽ nhất và có đóng góp ngày càng lớn vào GDP của cả nước. Do tốc độ tăng trưởng nhanh nên nhu cầu vốn để đầu tư phát triển là là rất lớn. Tuy vậy đối với một đất nước đinh hướng theo xã hội chủ nghĩa như ở Việt Nam thì vai trò của khu vực kinh tế quốc doanh là không hề nhỏ, các doanh nghiệp Nhà nước cũng đã có những thay đổi và phát triển nhiều hơn trước đây để phù hợp với nền kinh tế chung vì vậy nhu cầu về vốn cũng rất lớn, đây là thị trường rộng lớn đầy tiềm năng để các NHTM (Ngân hàng thương mại) tận dụng và phát huy mọi khả năng hoạt động của mình. Nhận biết được điều này, hiện nay nhiều NHTM đã có nhiều biện pháp khuyến khích mở rộng cho vay đối với khu vực KTQD và Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Hà Nội cũng không là ngoại lệ. Với mục tiêu chính là: "Mở rộng đầu tư cho các dự án có hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước, đầu tư cho vay đối với các DN hoạt động trong lĩnh vực XNK". Ngân hàng đang từng bước mở rộng đầu tư cho vay đối với khu vực kinh tế này. Với mục đích tiếp cận hoạt động thực tế của Ngân hàng nhằm bổ sung kiến thức học tại trường, được sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo PGS.TS Lê Văn Hưng cùng các anh chị công tác tại Ngân hàng Thương mại Cổ phẩn Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Hà Nội đã tận tình giúp đỡ em đã lựa chọn nghiên cứu, tìm hiểu về đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho vay đối với các DNNN tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam – Chi nhánh Hà Nội”. luận văn của được trình bày theo kết cấu sau: Chương 1. Một số vấn đề cơ bản về hiệu quả cho vay của các Ngân hàng Thương mại. Chương 2. Thực trạng công tác cho vay đối với các DNNN tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương - Chi nhánh Hà Nội. Chương 3. Một số nhận xét và kiến nghị tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương - Chi nhánh Hà Nội. Do kiến thức còn hạn chế, thời gian học hỏi thực tế không nhiều nên bài luận văn không tránh khỏi những sai sót nhất định. Rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo trong khoa Tài chính – Ngân hàng và các anh chị trong phòng tín dụng Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội để bài luận văn của em được đầy đủ và chính xác hơn cũng như để em có thể rút ra những kinh nghiệm cho bản thân trong học tập và nghiên cứu sau này. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy giáo_ PGS.TS: Lê Văn Hưng cùng toàn thể các anh chị trong Ngân hàng TMCP Ngoại thương - Chi nhánh Hà Nội đã tận tình chỉ dạy để em có thể hoàn thành bản luận văn tốt nghiệp này. Em xin chân thành cảm ơn! Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ CHO VAY CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1 Ngân hàng thương mại và hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại 1.1.1 Ngân hàng thương mại: Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng ngân hàng - một trung gian tài chính cung ứng vốn chủ yếu, hữu hiệu cho nền kinh tế. Việc tạo lập và tổ chức quản lý vốn của ngân hàng thương mại là một trong những nội dung quan trọng hàng đầu đối với NHTM. 1.1.2 Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại: a) Khái niệm Hoạt động tín dụng của NHTM là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ từ NHTM (người sở hữu) sang khách hàng vay (người sử dụng) sau một thời gian nhất định quay trở lại NHTM với lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Cho vay là quyền của NHTM, vì vậy NHTM có quyền yêu cầu khách hàng vay phải tuân thủ những điều kiện mang tính pháp lý nhằm đảm bảo trả nợ khi đến hạn. Trong quá trình phát triển mặc dù hoạt động sản xuất kinh doanh có thay đổi về môi trường kinh tế hoặc phương pháp hoạt động, có thể ảnh hưởng tới hoạt động của Ngân hàng thương mại nhưng hoạt động tín dụng vẫn luôn là hoạt động sinh lời chủ yếu của Ngân hàng thương mại. b) Các hình thức tín dụng - Căn cứ vào thời hạn tín dụng: tín dụng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Phân chia theo thời hạn có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thông lệ quốc tế, thời hạn tín dụng được phân chia thành: Tín dụng ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống Tín dụng trung hạn: từ trên 1 năm đến 5 năm tài trợ cho các tài sản cố định như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết bị chóng hao mòn. Tín dụng dài hạn: Trên 5 năm tài trợ cho công trình xây dựng như nhà, sân bay, cầu, đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn, thường có thời gian sử dụng lâu. Việc xác định thời gian trên cũng chỉ có tính chất tương đối vì nhiều khoản cho vay không xác định trước được chính xác thời hạn. Tỷ trọng tín dụng ngắn hạn tại các ngân hàng thương mại thường cao hơn tín dụng trung và dài hạn, tức là các ngân hàng chủ yếu tài trợ cho tài sản lưu động của khách hàng. Tín dụng trung và dài hạn thường có tỷ trọng thấp hơn do rủi ro cao hơn, nguồn vốn đắt và khan hiếm hơn. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến tỷ lệ này như kì hạn và tính ổn định của nguồn vốn, khả năng quản lí thanh khoản của ngân hàng, khả năng dự báo và dự phòng rủi ro trung và dài hạn… - Căn cứ theo hình thức Bao gồm cho vay, chiết khấu thương phiếu, cho thuê, bảo lãnh. Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Cho vay là tài sản lớn nhất trong khoản mục tín dụng. Cho vay thường được định lượng theo 2 chi tiêu: Doanh số cho vay trong kì và dư nợ cuối kì. Doanh số cho vay trong kì là tổng số tiền mà ngân hàng đã cho vay trong kì. Dư nợ cuối kì là số tiền mà ngân hàng hiện đang còn cho vay vào thời điểm cuối kì. Khi lập các báo cáo tài chính, cho vay được ghi dưới hình thức dư nợ. Một số ngân hàng thường ghi giảm dư nợ phần trích lập dự phòng tổn thất hoặc lãi được nhận trước. Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn ( hoặc một giấy nợ). Đây là hình thức trao đổi trái quyền. Tuy nhiên đối với ngân hàng, việc bỏ tiền ra hiện tại để thu về một khoản lớn hơn trong tương lai với lãi suất xác định trước được coi như là hoạt động tín dụng. Ngân hàng tuy cung ứng tiền cho người bán, song thực chất là thay thế người mua trả tiền trước cho người bán Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền ra mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thỏa thuận nhất định. Sau thời gian nhất định khách hàng phải trả cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng. Cho thuê tài sản trung và dài hạn được ghi vào khoản mục tài sản theo giá trị tài sản cho thuê trừ đi phần tiền thuê ngân hàng đã thu được (dư nợ cho thuê). Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi. Bảo lãnh được ghi vào tài sản ngoại bảng, đó là giá trị mà ngân hàng cam kết trả thay khách hàng của mình. Phần bảo lãnh ngân hàng phải thực hiện chi trả được ghi vào tài sản nội bảng (mục cho vay bắt buộc, tính vào nợ quá hạn). - Căn cứ theo tài sản đảm bảo Gồm có: không có đảm bảo, có đảm bảo bằng tài sản thế chấp, cầm cố. Tín dụng không cần tài sản đảm bảo có thể được cấp cho các khách hàng có uy tín, thường là các khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa, hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay. Các khoản cho vay theo chỉ thị của Chính phủ mà Chính phủ yêu cầu không cần tài sản đảm bảo. Các khoản cho vay đối với các tổ chức hành chính lớn, các công ty lớn, hoặc những khoản cho vay trong thời gian ngắn mà ngân hàng có khả năng giám sát việc bán hàng… cũng có thể không cần tài sản đảm bảo. Tín dụng dựa trên cam kết đảm bảo yêu câu ngân hàng và khách hàng phải kí hợp đồng đảm bảo. Ngân hàng phải kiểm tra, đánh giá được tình trạng của tài sản đảm bảo (quyền sở hữu, giá trị, tính thị trường, khả năng bán, khả năng tài chính của người thứ ba...), có khả năng giám sát việc sử dụng hoặc có khả năng bảo quản tài sản đảm bảo. - Căn cứ theo rủi ro tín dụng Tín dụng bao gồm các khoản có độ an toàn cao, khá, trung bình và thấp. Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính … Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo giá trị lớn … Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì … - Phân loại khác Theo ngành kinh tế (công, nông nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng…) Theo đối tượng tín dụng ( tài sản lưu động, tài sản cố định) Theo mục đích ( sản xuất, tiêu dùng …) Các cách phân loại này cho thấy tính đa dạng hoặc chuyên môn hóa trong cấp tín dụng của ngân hàng. Với xu hướng đa dạng hóa các ngân hàng sẽ mở rộng phạm vi tài trợ song vẫn có thể duy trì những lĩnh vực mà ngân hàng có lợi thế. Cách phân loại trên cho phép ngân hàng theo dõi rủi ro và sinh lợi gắn liền với những lĩnh vực tài trợ để có chính sách lãi suất, bảo đảm, hạn mức và chính sách mở rộng phù hợp. 1.2 Hiệu quả cho vay của các NHTM đối với các doanh nghiệp NN 1.2.1 Khái niệm hiệu quả cho vay của NHTM Hiệu quả cho vay được hiểu theo đúng nghĩa là vốn cho vay của Ngân hàng được khách hàng sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh, dịch vụ… một cách hiệu quả để tạo ra một số tiền lớn hơn để hoàn trả Ngân hàng cả gốc và lãi, trang trải các chi phí khác và có lợi nhuận. Như vậy, qua một quá trình chu chuyển vốn ngân hàng sẽ thu hồi được vốn gốc và lãi, còn khách hàng sử dụng vốn có hiệu quả. Xét về tổng thể, Ngân hàng vừa tạo ra được hiệu quả kinh tế vừa tạo ra hiệu quả xã hội. Trong thực tế, hiệu quả hoạt động cho vay cũng còn được hiểu là chất lượng tín dụng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Như vậy, đây là một phạm trù vô cùng rộng lớn. Quan niệm về hiệu quả cho vay vừa cụ thể (thể hiện qua các chỉ tiêu có thể tính toán được như kết quả hoạt động kinh doanh, nợ quá hạn…) lại vừa trừu tượng (thể hiện qua khả năng thu hút khách hàng, quy trình thủ tục đơn giản, thuận tiện mức độ an toàn vốn tín dụng, tác động tới nền kinh tế…). Để đạt hiệu quả hoạt động cho vay thì hoạt động tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở sự tin cậy và uy tín trong hoạt động. 1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cho vay của NHTM Các chỉ tiêu trong nhóm này giúp cho ngân hàng đánh giá được hiệu quả của quá trình kinh doanh bằng cách so sánh kết quả kinh doanh đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. - Hệ số khả năng thanh toán Khách hàng có khả năng thanh toán hay không có khả năng thanh toán không chỉ thể hiện khả năng về tài chính mà còn thể hiện ở khả năng chi trả. Khả năng TTNH = Gi¸ trÞ TSL§&§TNH Nî ng¾n h¹n TTNH: Thanh toán ngắn hạn ĐTNH: Đầu tư ngắn hạn Hệ số này cho biết khách hàng có đủ tài sản lưu động để đảm bảo trả nợ ngắn hạn hay không. Nếu chỉ số này cho kết quả từ 1 đến 2 thì khả năng thanh toán bình thường. Nếu hệ số nhỏ hơn 1 là biểu hiện thiếu khả năng thanh toán cần đi sâu tìm hiểu nguyên nhân. Khả năng TTN = Gi¸ trÞ TSL§ - gi¸ trÞ hµng tån kho Nî ng¾n h¹n TTN: Thanh toán nhanh Hệ số này cho biết khả năng lưu động các nguồn tiền nhanh để trả nợ khi không có thu nhập từ nguồn bán hàng. Ở Việt Nam chỉ số này từ 0,5 đến 1 là bình thường; nếu nhỏ hơn 0,5 là biểu hiện khả năng thanh toán gặp khó khăn. Khả năng TTTT = Tæng sè TM&coi nh­ TM Nî ng¾n h¹n TTTT: Thanh toán tức thời Hệ số này mức từ 0,1 đến 0,5 là biểu hiện lượng tiền mặt được duy trì bình thường. - Hệ số năng lực hoạt động: Hệ số này phản ánh khả năng tận dụng các nguồn lực để tạo ra doanh thu và quá trình chuyển doanh thu thành tiền mặt. Các hệ số phản ánh gồm Vòng quay hàng tồn kho = Gi¸ vèn hµng b¸n (DT thuÇn) Gi¸ trÞ hµng tån kho b×nh qu©n Hệ số này thể hiện vòng quay nhanh, chậm hàng tồn kho. Giới hạn của hệ số này phụ thuộc vào từng lĩnh vực hoạt động của khách hang vay. Tỷ lệ cao chứng tỏ đầu tư do hàng dự trữ thấp, rút ngắn thời gian chuyển đổi hàng thành tiền, hàng không bị ứ đọng. Ngược lại. nếu vòng quay chậm có thể ứ động hàng, tài chính khó khăn trong tương lai, nếu vòng quay quá nhanh có thể dự trữ gặp khó khăn Vòng quay các khoản phải thu = DT b¸n chÞu C¸c kho¶n ph¶i thu b×nh qu©n Hệ số này phản ánh nếu vòng quay nhanh chứng tỏ khách hàng quản lý khoản phải thu tốt, Ngược lại nếu quay chậm thể hiện quản lý phải thu yếu, bị chiếm dụng vốn nhiều. Tuy nhiên nếu hệ số quá cao có thể dẫn đến cơ chế bán hàng của khách hang vay quá chặt chẽ. Hiệu suất sử dụng TSCĐ = Doanh thu thuÇn Gi¸ trÞ TSC§ b×nh qu©n Hệ số này phản ánh mức độ sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp. Nếu hệ số cao chứng tỏ sử dụng hiệu quả TSCĐ tốt. tuy nhiên nên chú ý nếu hệ số này tăng do bán tài sản lấy tiền (giảm sức sản xuât) hoặc chưa kịp đổi mới thiết bị thì cần xem xét cụ thể để có đánh giá chính xác. - Các chỉ tiêu an toàn tài chính: Tý suất đầu tư tài sản cố định = Gi¸ trÞ TSC§& ®Çu t­ dµi h¹n Tæng gi¸ tµi s¶n Hệ số này phản ánh cơ cấu tài sản, mức độ hợp lý phụ thuộc vào lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp. Tỷ suất tự đầu tư = Nguån vèn chñ së h÷u Tæng nguån vèn Hệ số này phản ánh vốn chủ sở hữu lớn hay nhỏ trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp nghĩa là phản ánh năng lực tài chính của bản thân doanh nghiệp. Nếu nhỏ sẽ khó khăn cho ngân hàng trong việc xử lý nợ khi rủi ro xảy ra. Hệ số nợ trên tổng tài sản = Nî ph¶i tr¶ Tæng nguån vèn Hệ số này phản ánh mức độ vay nợ của doanh nghiệp. Hệ số càng cao chứng tỏ khả năng đảm bảo trả nợ vay càng thấp. - Các hệ số khả năng sinh lời Mức doanh lợi tiêu thụ sản phẩm = Lîi nhuËn rßng X 100% Doanh thu thuÇn Hệ số này phản ánh lợi nhuận ròng thu được trên một đồng doanh thu thuần. Tỷ suất doanh lợi tổng tài sản = Lîi nhuËn tr­íc thuÕ X 100% Gi¸ trÞ tæng TS b×nh qu©n Hệ số này phản ánh lợi nhuận trước thuế được tạo ra trên một đồng tài sản. Mức độ hợp lý của hệ số này phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh, ví dụ các ngành nghề tương ứng với hệ số ở mức hợp lý như sau: Ngành thương mại, dịch vụ:9-12% năm Ngành thi công xây lắp: 6-8% năm Ngành sản xuất vật liệu:8-10% năm Ngành chế biến thuỷ sản:10-12% năm Ngành chế biến nông lâm sản: 10-15% năm Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (ROE) = Lîi nhuËn rßng Vèn chñ së h÷u b×nh qu©n Hệ số này chỉ có nghĩa khi sản suất kiinh doanh của khách hàng có lãi. Tỷ suất này ở một số ngành được xem là hợp lý: Ngành thi công xây lắp: 9-12% năm Ngành thương mại, dịch vụ: 10-15% năm Ngành sản xuất vật liệu xây dựng: 9-11% năm Ngành chế biến thuỷ sản: 12-15% năm Ngành chế biến nông lâm sản: 10-15% năm 1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay Hoạt động cho vay luôn là một trong những nghiệp vụ quan trọng nhất, nó đem lại khoảng 70% toàn bộ lợi nhuận của Ngân hàng thương mại. Song trong thời gian gần đây, nợ quá hạn có xu hướng gia tăng, nhiều món vay khó được hoàn trả, qua đó thấy rằng hiệu quả hoạt động cho vay đang là một vấn đề bức xúc hiện nay của các Ngân hàng thương mại. Hiệu quả cho vay phụ thuộc vào các nhóm yếu tố sau đây: a) Các nhân tố thuộc về ngân hàng. Trong cơ chế thị trường cũng như các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác, Ngân hàng muốn tồn tại và phát triển thì tất yếu phải giải quyết các mâu thuẫn giữa người mua và người bán, giữa thế mạnh của mình có với các Ngân hàng khác. Trong quá trình giải quyết các mâu thuẫn đó các ngân hàng cạnh tranh nhau quyết liệt và tất yếu có ngân hàng giành ưu thế trong cạnh tranh, có ngân hàng phải chịu những rủi ro thất bại. Chính vì vậy, việc nghiên cứu các nhân tố sau đây thuộc về ngân hàng là rất cần thiết để đánh giá hiệu quả cho vay, cụ thể: - Khả năng quản lý và kiểm soát của ngân hàng. Ngân hàng thương mại hoạt động trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt với mục tiêu lợi nhuận là trên hết nên các ngân hàng ra sức mở rộng mạng lưới khách hàng, tìm kiếm khách hàng mới để tăng trưởng khối lượng tín dụng, nhiều khi để lôi kéo khách hàng, ngân hàng đã bỏ qua nhiều điều kiện cần thiết, hoặc hạ thấp những tiêu chuẩn tín dụng đầu tư, giải quyết cho khách hàng vay vốn khi không được thẩm định kỹ lưỡng và không đủ thông tin, nên cho vay vượt nhiều lần vốn tự có của doanh nghiệp sẽ gây thiệt hại lớn cho ngân hàng. - Chính sách, thể lệ, chế độ tín dụng của ngân hàng ban hành. Về chính sách, thể lệ, chế độ tín dụng của ngân hàng ban hành nhiều khi chưa được kịp thời, cũng có quá nhiều văn bản chông chéo, quy định trùng lắp hoặc chưa chặt chẽ nên việc áp dụng vào thực tế gặp nhiều vướng mắc, ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động tín dụng. Thêm vào đó việc xây dựng hệ thống thông tin tín dụng, thông tin về khách hàng, khoản vay chưa được sự thực coi trọng, sự kiểm tra kiểm soát chưa được thường xuyên, kịp thời, khách hàng cung cấp thông tin thiếu chính xác… dẫn đến tình trạng quá tải về dư nợ, vượt quá khả năng quản lý, kiểm soát của ngân hàng, có nhiều khoản nợ khách hàng sử dụng vốn kém hiệu quả, sai mục đích cũng chưa đủ điều kiện để phát hiện kịp thời, khi phát hiện được thì đã quá muộn và gây tổn thất. - Quy định về thế chấp, cầm cố tài sản đảm bảo nợ vay. Thế chấp, cầm cố tài sản là một điều kiện pháp lý đảm bảo cho ngân hàng thu hồi được nợ vay trong trường hợp xảy ra rủi ro bất khả kháng, người vay không còn khả năng thanh toán. Trong những năm qua, việc thế chấp cầm cố tài sản ở các ngân hàng hầu hết đều thực hiện chưa tôt. Việc thẩm định dự án và tài sản thế chấp nhiều khi chỉ mang tính hình thức, không có tác dụng. Trường hợp phổ biến là việc định giá tài sản thế chấp đôi khi thiếu chính xác, chứng từ sở hữu không đầy đủ tính pháp lý, tài sản không đảm bảo tính dễ bán, dễ chuyển nhượng, như vậy khi cần phát mại tài sản để thu hồi nợ vay thì không hoàn trả đủ vốn vay hoặc không đủ cơ sở pháp lý để phát mại. Cá biệt còn có những trường hợp khách hàng đem một tài sản đi thế chấp nhiều ngân hàng để vay vốn nhưng không bị phát hiện gây thiệt hại cho các ngân hàng khác. - Công tác cho vay hoặc bảo lãnh của ngân hàng. Cho vay hoặc bảo lãnh với giá trị quá lớn đối với một số doanh nghiệp mà vốn tự có, vốn chủ sở hữu của họ rất ít, trong những trường hợp như vậy rất dễ gây rủi ro lớn vì một doanh nghiệp thua lỗ sẽ rất khó thu hồi vốn vay cho ngân hàng. - Trình độ năng lực cán bộ tín dụng. Trình độ, năng lực cán bộ tín dụng còn nhiều bất cập, do đó khả năng phân tích thẩm định, phán đoán trước khi đầu tư dự án chưa sâu sắc, việc dự đoán diễn biến thị trường tương lai của dự án rất phức tạp, đòi hỏi phải có những kiến thức tổng hợp, sâu rộng về kinh tế, xã hội, đời sống và nhu cầu của dân cư. Vì vậy, khi đánh giá hiệu quả cho vay của các ngân hàng, cần phải xem xét và đánh giá một cách trung thực, tổng quan nhất các nhân tố thuộc về ngân hàng nhằm đảm bảo khả năng đầu tư tài trợ dự án và nâng cao hiệu quả của công tác cho vay. b) Các nhân tố thuộc về doanh nghiệp. Trong môi trường nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần cạnh tranh khốc liệt, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chứa đựng rất nhiều rủi ro, từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ sản phẩm. Trong quan hệ tín dụng, doanh nghiệp là người được ngân hàng tín nhiệm trao quyền sử dụng vốn. Vì vậy, rủi ro trong hoạt động kinh doanh của khách hàng cũng chính là rủi ro của ngân hàng. Điều khẳng định này buộc chúng ta phải tiến hành xem xét các nhân tố thuộc về doanh nghiệp có liên quan thế nào tới hiệu quả tín dụng. - Trình độ quản lý, kỹ năng kinh doanh của doanh nghiệp. Trình độ quản lý, kỹ năng kinh doanh của doanh nghiệp còn nhiều hạn chế, trong khi đây chính là yếu tố hết sức quan trọng, quyết định hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp khi vay vốn họ lập ra phương án sản xuất kinh doanh rất hiệu quả, chứng minh đầu vào và đầu ra khả thi, nhưng do không tính hết đến biến động của thị trường nên bị thua lỗ. Trong một số món vay trung và dài hạn để nhập máy móc thiết bị, do phân tích dự án không chính xác dẫn đến máy móc nhập về không phát huy được tác dụng gây thiệt hại lớn, không thể hoàn trả tiền vay cho ngân hàng. Một điều thấy rõ nữa là năng lực quản lý của bộ máy lãnh đạo doanh nghiệp còn bị hạn chế nhiều mặt về kinh nghiệm thưc tiễn nên không có khả năng xử lý kịp thời những khó khăn trong kinh doanh dẫn đến tình trạng thua lỗ của doanh nghiệp. - Mục đích sử dụng vốn vay của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp sử dụng vốn vay sai mục đích, không đảm bảo độ an toàn trong sử dụng vốn gây lãng phí thậm chí mất vốn. Ví dụ như nhiều doanh nghiệp dùng tiền vay của ngân hàng quay vòng không đúng đối tượng kinh doanh, không đúng với phương án, mục đích khi xin vay, trong khi đó hoạt động kinh doanh gặp những biến động lớn về thị trường tiêu thụ, nhu cầu tiêu dùng…do không tính toán, dự toán trước nên thua lỗ, ứ đọng hàng hóa, vốn và không có khả năng trả được đúng hạn, thậm chí khách hàng còn dùng vốn vay ngắn hạn đầu tư vào tài sản cố định hoặc kinh doanh bất động sản nên không trả được nợ đúng hạn, cá biệt có thể bị mất vốn do tài sản đầu tư khó có khả năng phát mại hoặc đòi hỏi thời gian rất dài. - Vấn đề chiếm dụng vốn giữa các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp chiếm dụng vốn lẫn nhau kể cả vốn vay ngân hàng. Có một số doanh nghiệp tuy được cấp giấy phép hoạt động và đăng ký kinh doanh nhưng thiếu vốn hoặc không có vốn hoạt động nên dẫn đến hiện tượng là các doanh nghiệp chiếm dụng vốn lẫn nhau, thậm chí cả lừa đảo rồi bỏ trốn làm doanh nghiệp vay vốn ngân hàng gặp khó khăn không trả được nợ hoặc có thể dẫn tới phá sản… - Hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Muốn tồn tại, đứng vững và phát triển trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp buộc phải tực mình bươn chải, tính toán xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, phải vay vốn ngân hàng để đầu tư cho sản xuất thay cho việc chờ nguồn cấp vốn từ ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, với năng lực tài chính hạn chế lại phải vay vốn ngân hàng gần như toàn bộ để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh kể cả vay 100% vốn ngắn hạn và vốn đầu tư dài hạn, chi phí sản xuất, khấu hao cơ bản, lãi vay tính trong giá thành sản phẩm rất lớn…cộng thêm với áp lực của các khoản vay nợ làm cho năng lực cạnh tranh và tính năng động của doanh nghiệp rất yếu, làm cho các doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ và thực sự khó khăn trong việc hoàn trả vốn vay gây thiệt hại cho ngân hàng. Chính vì vậy, một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả, nắm trong tay nguồn doanh thu, lợi nhuận lớn sẽ đảm bảo an toàn cho các dự án đầu tư từ phía ngân hàng cung cấp. c) Các nhân tố khách quan khác. Bất kỳ một loại hình kinh doanh nào đều chịu sự chi phối của môi trường xung quanh nó. Môi trường kinh tế, pháp lý gây không ít ảnh hưởng tới hoạt động của ngân hàng thương mại, đặc biệt là hoạt động cho vay. Trong kinh doanh tín dụng, nếu ngân hàng không dự đoán được sự biến động sẽ dẫn đến làm ăn kém hiệu quả và gây ra rủi ro không nhỏ. - Môi trường pháp lý. Hiện nay hệ thống văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động tín dụng của ngân hàng đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn còn tồn tại nhiều vướng mắc, chưa đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của thực tế. Giữa các văn bản nhiều khi còn chồng chéo, mâu thuẫn nhau dẫn đến khi xảy ra tranh chấp thì rất khó xử lý. Pháp lệnh kế toán thống kê chưa đủ hiệu lực bắt buộc các doanh nghiệp thực hiện chế độ thống kê kế toán chính xác, kịp thời. Việc quy định cơ quan có chức năng có trách nhiệm thực hiện kiểm tra, kiểm soát tình hình tài chính của doanh nghiệp cũng chưa rõ ràng và cụ thể, trách nhiệm thuộc về ai? Việc kiểm toán tình hình tài chính doanh nghiệp không mang tính quy định, bắt buộc mà tùy thuộc vào điều kiện của doanh nghiệp hoặc khi có nhu cầu. Do đó, số liệu quyết toán và báo cáo tài chính của các doanh nghiệp chưa phản ánh chính xác thực trạng sản xuất kinh doanh và tài chính của đơn vị hoặc không đủ căn cứ để đánh giá. Vì vậy, khi xét duyệt cho vay ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn trong việc đánh giá năng lực tài chính thực sự và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để có đủ cơ sở quyết định cho vay. - Môi trường kinh tế vĩ mô. Sự biến động giá của tiền tệ trong quá trình kinh doanh tín dụng cũng là một loại rủi ro với ngân hàng. Nó chính là hao mòn vô hình của khoản tiền mà ngân hàng cho vay. Khi người đi vay hoàn trả tiền vay cho ngân hàng (bao gồm cả gốc lẫn lãi) thì có nghĩa là giá trị chuyển nhượng tạm thời sau một thời gian nhất định đã quay về với số lượng lớn hơn. Tuy nhiên, lượng giá trị chênh lệch giữa lượng giá trị mà ngân hàng bỏ ra trước đó mới chỉ phản ánh được sự lớn lên về mặt lượng còn giá trị thực tăng lên hay không còn phụ thuộc vào sự biến động giá trị đồng tiền trong thời gian cấp tín dụng. Ngân hàng sẽ không tránh khỏi những rủi ro khi hoạt động của nền kinh tế không ổn định, lạm phát ở mức độ cao. Hiện nay, môi trường kinh doanh của các tổ chức tín dụng, các ngân hàng thương mại còn chưa hoàn thiện, thiếu nhiều yếu tố trong đó chủ yếu là hệ thống văn bản pháp luật của Nhà nước còn chưa đồng bộ. Chương 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DNNN TẠI NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM – CHI NHÁNH HÀ NỘI 2.1 Vài nét về sự ra đời và phát triển của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Hà Nội. 2.1.1 Sự ra đời của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Hà Nội. Thành lập ngày 01/03/1985, là thành viên trong hệ thống Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam, được nhà nước công nhận là doanh nghiệp loại I. Cùng với sự phát triển của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam, Chi nhánh Ngân hàng TMCP Ngoại thương Hà Nội có truyền thống kinh doanh đối ngoại, thanh toán quốc tế, các dịch vụ tài chính, ngân hàng quốc tế khác. Đến cuối năm 2008 Chi nhánh Ngân hàng TMCP ngoại thương Hà Nội đã có mạng lưới bao gồm: 09 Phòng giao dịch 01 Quầy thu đổi ngoại tệ Là một trong những chi nhánh hàng đầu của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam. Với hệ thống công nghệ thông tin hiện đại cung cấp các dịch vụ tự động hoá cao: VCB ONLINE, thanh toán điện tử liên ngân hàng, VCB Money, i-B@nking,SMS Banking, hệ thống máy rút tiền tự động ATM, thẻ VCB connect24, Vietcombank MTV, Vietcombank SG24 … hệ thống thanh toán SWIFT toàn cầu và mạng lưới đại lý trên 1400 Ngân hàng tại 85 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, đảm bảo phục vụ tốt các yêu cầu của khách hàng. Đặc biệt trong các chính sách phát triển, Chi nhánh Ngân hàng TMCP Ngoại thương Hà Nội luôn chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ năng động, nhiệt tình và tinh thông nghiệp vụ. Sự ra đời của chi nhánh Ngân hàng TMCP Ngoại thương Hà Nội đã góp phần không nhỏ làm cho quy mô và phạm vi hoạt động cũng như năng lực, vị thế của hệ thống Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam trên địa bàn thủ đô được mở rộng và nâng cao thêm, đáp ứng yêu cầu hoạt động kinh doanh trong giai đoạn mới. Với vị thế là một trong những ngân hàng thương mại lớn tại Việt Nam, Ngân hàng TMCP Ngoại thương Hà Nội đã nỗ lực hết mình và không ngừng phấn đâu để đạt được nhiều kết quả cao trong hoạt động ngân hàng, vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động Hạng Ba và là một trong những chi nhánh hàng đầu trong hệ thống ngân hàng ngoại thương Việt Nam, là Ngân hàng thương mại được giới tài chính quốc tế xếp hạng tốt nhất tại Việt Nam 2.1.2 Chức năng, nhiệm vụ các phòng ban Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Hà Nội *Phòng quan hệ khách hàng: Phòng quan hệ khách hàng là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng như các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và nhỏ và các cá nhân để huy động vốn bằng VNĐ và ngoại tệ, xử lý các nghiệp vụ liên quan đến cho vay, quản lý giới thiệu các sản phẩm cho vay phù hợp với chế độ thể lệ hiện hành của Ngân hàng Nhà nước và hướng dẫn của Ngân hàng thương mại Ngoại Thương. *Phòng quản lý rủi ro: Phòng quản lý rủi ro là phòng trực tiếp dự đoán và phát hiện ra các rủi ro về tài chính trên toàn hệ thống của chi nhánh. Đề xuất các biện pháp ngăn ngừa, xử lý rủi ro, tổ chức và thực hiện báo cáo về thực trạng rủi ro và kiểm soát rủi ro trên toàn hệ thống của chi nhánh. *Phòng ngân quỹ: Phòng ngân quỹ là phòng nghiệp vụ quản lý an toàn kho quỹ, quản lý quỹ tiền mặt theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Ngoại thương. Thu tiền cho các điểm giao dịch trong ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22358.doc
Tài liệu liên quan