Một số giải pháp nhằm nâng cao doanh thu & tiết kiệm chi phí tại Công ty Điện máy - Xe đạp - Xe máy

mở đầu Mỗi doanh nghiệp khi tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh đều hướng tới một mục tiêu duy nhất đó là lợi nhuận, làm thế nào để nâng cao lợi nhuận? Đây là mục tiêu hàng đầu mà các nhà quản trị tài chính luôn hướng tới. Nâng cao doanh thu và sử dụng tiết kiệm chi phí chính là hai nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc tăng giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Nâng cao doanh thu chính là góp phần gia tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Mặt khác doanh thu là kết quả của quá trình tiêu thụ hàng ho

doc92 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1413 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao doanh thu & tiết kiệm chi phí tại Công ty Điện máy - Xe đạp - Xe máy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
á của doanh nghiệp trên thị trường, vì vậy doanh thu càng lớn chứng tỏ khả năng cạnh tranh, nhạy bén trong kinh doanh của doanh nghiệp càng cao. Quan trọng hơn, tăng doanh thu còn giúp doanh nghiệp tạo thêm thu nhập cho người lao động và thực hiện được đầy đủ các nghĩa vụ với Nhà nước. Muốn tối đa hoá lợi nhuận, bên cạnh việc nâng cao doanh thu đòi hỏi các nhà tài chính doanh nghiệp phải quản trị chi phí sao cho chi phí luôn giữ ở mức thấp nhất. Sử dụng tiết kiệm chi phí, là một trong những yếu tố quan trọng giúp doanh nghiệp hạ thấp giá thành sản phẩm, từ đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện tốt việc tiêu thụ sản phẩm, giúp cho sản phẩm của doanh nghiệp dễ dàng đến tay người tiêu dùng. ý thức được tầm quan trọng của hai yếu tố doanh thu và chi phí đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, Công ty Điện máy - xe đạp – xe máy từ khi thành lập đến nay, đặc biệt là khi nên kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, đã từng bước khắc phục khó khăn, tạo được những bước tiến nhất định. Mặc dù vậy trong thời gian vừa qua, công ty đã vấp phảI không ít những khó khăn trong công tác quản trị doanh thu và chi phí do chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố đã làm cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có thời gian lâm vào tình trạng thua lỗ, kinh doanh kém hiệu quả. Đứng trước những vấn đề nan giản này buộc ban lãnh đạo công ty phải tìm cách “Làm thế nào để nâng cao doanh thu, từng bước nâng cao lợi nhuận, quản trị chi phí một cách có hiệu quả? ” từ đó giúp công ty tồn tại và phát triển. Xuất phát từ tầm quan trọng của việc nâng cao doanh thu, tiết kiệm chi phí đối với các doanh nghiệp nói chunh và công ty Điện máy – xe đạp – xe máy nói riêng trong giai đoạn hiện nay cùng với sự giúp đữ của các thầy cô giáo và các cô chú trong công ty. Sau thời gian thực tập tại công ty Điện máy – xe đạp – xe máy em đã chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm nâng cao doanh thu và tiết kiệm chi phí tại công ty Điện máy – xe đạp – xe máy” làm đề tàI cho luận văn tốt nghiệp của mình. Ngoài lời nói đầu và phần kết luận, luận văn được chia thành ba chương: Chương I: Tổng quan về doanh thu và chi phí của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Chương II: Thực trạng quản trị doanh thu và chi phí trong hoạt động kinh doanh tại công ty Điện máy – xe đạp – xe máy Chương III: Một số giả pháp nhằm nâng cao doanh thu và tiết kiệm chi phí tại công ty Điện máy - xe đạp – xe máy. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo: TS. Lê Thanh Hoài, cùng các thầy cô giáo đã giúp đỡ hướng dẫn em hoàn thành luận văn này. Em xin chân thành cảm ơn các bác, các cô chú trong phòng tàI chính kế toán đã giúp đỡ em trong quá trình thực tập tại công ty. Chương I Tổng quan về doanh thu và chi phí đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 1.1 Lý luận chung về doanh thu và chi phí: 1.1.1 Lý luận chung về doanh thu: 1.1.1.1 Khái niệm doanh thu: Trong hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp muốn tạo ra lợi nhuận cao buộc các doanh nghiệp không ngừng đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá. Qua tiêu thụ, sản phẩm được chuyển từ hình thái hiện vật sang hình thái vật chất và kết thúc một vòng luân chuyển vốn, tạo nên doanh thu của doanh nghiệp. Có tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp mới có vốn để tiến hành tái sản xuất mở rộng, tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Ngoài phần doanh thu do tiêu thụ những sản phẩm doanh nghiệp sản xuất ra, còn bao gồm những khoản doanh thu do các hoạt động khác mang lại. Vậy thực chất doanh thu là gì? Chúng ta có thể đưa ra khái niệm về doanh thu như sau: “Doanh thu là toàn bộ các khoản tiền thu được từ các hoạt động kinh doanh và các hoạt động khác mang lại.” Nguyên tắc chung tính doanh thu: chỉ tính khi người bán hàng thu được tiền về trên tài khoản hoặc trong ngân quỹ của doanh nghịêp, nhưng ở Việt Nam doanh thu được tính khi có lời hứa trả tiền. Điều này phụ thuộc vào đặc tính sản xuất và tình hình sản xuất kinh doanh thực tế ở nước ta. Sở dĩ doanh nghịêp Việt Nam được tính doanh thu theo nguyên tắc này là do 4 nguyên nhân sau: - Do doanh nghiệp mua hàng thiếu tiền mặt - Do chưa tin vào hàng hoá mình mua - Do muốn chiếm dụng tiền hàng hoá - Do nhà sản xuất kinh doanh muốn bán hàng nhanh để thu hồi vốn Thông thường doanh thu được tính theo phương pháp phân tích, theo phương pháp này các doanh nghiệp phải phân tích các yếu tố tạo thành doanh thu trước khi tính. Ta có công thức xác định doanh thu như sau: Doanh thu =Sti x Gi Trong đó: Sti: Sản lượng tiêu thụ trong kì Gi: Giá bán sản phẩm Như trên đã nói, do tình hình sản xuất kinh doanh thực tế ở nước ta nên thời điểm xác định doanh thu là khi người mua chấp nhận thanh toán, không phụ thuộc đã thu tiền hay chưa thu tiền. Do đó ta có chỉ tiêu doanh thu bán hàng không hoàn toàn nhất trí với chỉ tiêu tiền thu bán hàng, bởi nó phụ thuộc vào thời gian thanh toán giữa hai bên. Chỉ tiêu tiền thu bán hàng được xác định như sau: Tiền thu bán hàng kì này = Doanh thu bán hàng kì này – Doanh thu bán hàng kì này, kì sau mới thu tiền + Doanh thu bán hàng kì trước, thu được tiền ở kì này Việc phân biệt sự khác nhau giữa hai chỉ tiêu trên có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tính toán chính xác nguồn thu và khả năng thanh toán của doanh nghiệp. 1.1.1.2 Nội dung của doanh thu: Trong nền kinh tế thị trường sôi động như hiện nay, phạm vi kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng mở rộng, doanh nghiệp có thể đầu tư vào rất nhiều lĩnh vực khác nhau. Do vậy, doanh thu mà mỗi doanh nghiệp thu được cũng đa dạng theo các phương thức đầu tư của doanh nghiệp. Doanh thu của doanh nghiệp bao gồm có 3 loại doanh thu: doanh thu hoạt động kinh doanh, doanh thu hoạt động tài chính, doanh thu bất thường. Doanh thu hoạt động kinh doanh là toàn bộ các khoản doanh thu về tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ. Đây là bộ phận chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số doanh thu của doanh nghiệp. Theo sự phân công lao động xã hội, chức năng chủ yếu của doanh nghiệp thương mại là mua bán, trao đổi hàng hoá từ khâu sản xuất đến khâu tiêu dùng. Vì vậy hoạt động kinh doanh cơ bản của doanh nghiệp thương mại là luân chuyển hàng hoá. Do vậy, đối với doanh nghiệp thương mại, doanh thu tiêu thụ sản phẩm là bộ phận doanh thu quan trọng nhất, nó biểu hiện bằng tiền giá trị sản phẩm hàng hoá và dịch vụ mà doanh nghiệp đã thực hiện, đã cung cấp cho thị trường trong một thời kì nhất định sau khi trừ đi các khoản giảm trừ như: chiết khấu bán hàng, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại, hoặc cộng thêm các phần trợ giá của Nhà nước. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm là nguồn tài chính quan trọng để doanh nghiệp trang trải các khoản chi phí về công cụ lao động, đối tượng lao động đã hao phí trong quá trình sản xuất kinh doanh, trang trải số vốn đã ứng ra cho sản xuất kinh doanh, thanh toán tiền lương, tiền thưởng, tiền công cho người lao động, trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn, thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước như nộp các khoản thuế theo luật định. Doanh thu về các hoạt động tài chính bao gồm: các khoản thu do hoạt động tài chính hoặc kinh doanh về vốn mang lại như lãi liên doanh liên kết, lãi tiền cho vay, nhượng bán ngoại tệ, mua bán chứng khoán, cho thuê hoạt động tài sản, hoàn nhập dự phòng giảm giá chứng khoán. Doanh thu hoạt động bất thường: là những khoản doanh thu không mang tính chất thường xuyên, như doanh thu về thanh lý, nhượng bán tài sản cố định, giá trị các vật tư, tài sản thừa trong sản xuất, các khoản nợ vắng chủ, hoặc nợ không ai đòi, hoàn nhập dự phòng giảm giá hàng tồn kho, nợ khó đòi… 1.1.2 Lý luận chung về chi phí: 1.1.2.1 Khái niệm, phân loại chi phí: * Khái niệm Trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải bỏ ra rất nhiều các loại chi phí để đạt được các mục tiêu kinh doanh. Các chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra trước hết là các chi phí cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đó là các chi phí cho hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trong quá trính sản xuất các doanh nghiệp phải tiêu hao các loại vật tư, nguyên vật liệu, hao mòn máy móc, công cụ dụng cụ, trả tiền lương cho công nhân viên. Như vậy có thể thấy chi phí sản xuất của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền toàn bộ các hao phí về vật chất và về lao động mà doanh nghiệp phải bỏ ra để sản xuất sản phẩm trong một thời kì nhất định. Các chi phí này phát sinh có tính chất thường xuyên và gắn liền với sản xuất nên gọi là chi phí sản xuất của doanh nghiệp. Trong quá trình tiêu thụ, doanh nghiệp cũng phải bỏ ra những chi phí nhất định bao gồm chi phí trực tiếp đến việc tiêu thụ sản phẩm và chi phí Marketing (đóng gói, bao bì, vận chuyển, chi phí bảo hành, nghiên cứu thị trường…). Tất cả những loại chi phí liên quan đến quá trình tiêu thụ được gọi là chi phí tiêu thụ. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, ngoài tiến hành các hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp còn tiến hành nhiều hoạt động khác như góp vốn liên doanh, mua bán chứng khoán, cho thuê tài sản để tăng lợi nhuận. Để thực hiện được các hoạt động này đòi hỏi doanh nghiệp cũng phải bỏ ra những khoản chi phí nhất định, được gọi là chi phí cho các hoạt động khác Ngoài các chi phí trên doanh nghiệp còn phải nộp những khoản tiền thuế gián thu cho nhà nước theo luật thuế đã quy định như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu… Đối với doanh nghiệp những khoản thuế trên là những chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra trong kinh doanh vì thế nó mang tính chất như là một khoản chi phí kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy nếu nhìn từ góc độ của doanh nghiệp thì ta có thể đưa ra định nghĩa về chi phí như sau: “Chi phí của doanh nghiệp là toàn bộ tất cả các khoản chi phí cho hoạt động kinh doanh, cho hoạt động khác, và các khoản thuế gián thu mà doanh nghiệp phải bỏ ra để thực hiện các hoạt động của doanh nghiệp trong một thời kì nhất định.” Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải luôn quan tâm đến việc quản lí chi phí, vì nếu quản lí chi phí không tốt, không hợp lí sẽ gây ra những khó khăn trong công tác quản trị doanh nghiệp, làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Do đó các nhà quản trị doanh nghiệp cần chú ý công tác kiểm soát hợp lí các nguồn chi phí và hạn chế đến mức tối đa lãng phí chi phí. * Nội dung của chi phí Trong hoạt động kinh doanh thương mại, nội dung chi phí gồm có chi phí cho hoạt động kinh doanh và chi phí cho các hoạt động khác. - Chi phí cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm: + Chi phí nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu: bao gồm toàn bộ giá trị nguyên liệu, vật liệu doanh nghiệp sử dụng vào hoạt động kinh doanh + Chi phí tiền lương: bao gồm toàn bộ tiền lương doanh nghiệp phải trả cho người lao động tham gia vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. + Các khoản trích nộp theo quy định như: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn được trích theo quỹ lương của doanh nghiệp. + Khấu hao tài sản cố định: là toàn bộ số tiền trích khấu hao tài sản cố định trích theo quy định đối với toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp ở trong kì + Chi phí dịch vụ mua ngoài: là chi phí phải trả cho các cá nhân, tổ chức ngoài doanh nghiệp về các dịch vụ được thực hiện theo yêu cầu của doanh nghiệp. + Chi phí bằng tiền khác: là các khoản chi phí khác ngoài các chi phí trên như thuế sử dụng đất, thuế môn bài… - Chi phí hoạt động khác của doanh nghiệp gồm: + Chi phí hoạt động tài chính như: các chi phí liên doanh liên kết, chi phí cho thuê tài sản, chi phí mua bán chứng khoán, dự phòng giảm giá chứng khoán, chênh lệch tỷ giá ngoại tệ, lãi phải trả cho số vốn huy động… + Chi phí hoạt động bất thường như: chi phí cho việc thanh lý nhượng bán tài sản, các chi phí thu hồi nợ khó đòi, các khoản tiền bị phạt vi phạm hợp đồng, các chi phí bất thường khác. * Phân loại chi phí: Chi phí của doanh nghiệp bao gồm rất nhiều loại chi phí khác nhau. Để phục vụ cho công tác quản lý, hạch toán, kiểm tra và phân tích hiệu quả việc sử dụng chi phí, tìm các biện pháp tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm cần phải tiến hành phân loại chi phí theo những tiêu thức nhất định. Có rất nhiều tiêu thức phân loại chi phí khác nhau, tuy nhiên xin được đề cập ở đây ba tiêu thức phân loại chính đó là: phân loại chi phí theo nội dung kinh tế, phân loại chi phí theo công dụng kinh tế và địa điểm phát sinh chi phí, phân loại chi phí theo mối quan hệ giữa chi phí với quy mô sản xuất kinh doanh. - Phân loại chi phí theo nội dung kinh tế: phân loại chi phí theo nội dung kinh tế là ta căn cứ vào đặc điểm kinh tế giống nhau của chi phí để sắp xếp chúng vào từng loại. Mỗi loại là một yếu tố chi phí có cùng nội dung kinh tế và không thể phân chia được nữa, bất kể chi phí đó dùng làm gì và phát sinh ở địa điểm nào. Theo cách phân loại này thì toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được chia làm 5 loại: + Chi phí vật tư : là toàn bộ giá trị vật tư dùng vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như chi phí nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế… + Chi phí tiền lương và các khoản trích theo lương + Chi phí khấu hao tài sản cố định + Chi phí dịch vụ mua ngoài + Chi phí khác bằng tiền Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp lập được dự toán chi phí sản xuất theo yếu tố, kiểm tra sự cân đối giữa kế hoạch cung cấp vật tư, kế hoạch lao động tiền lương, kế hoạch khấu hao TSCĐ, kế hoạch nhu cầu vốn lưu động. - Phân loại chi phí theo công dụng kinh tế và địa điểm phát sinh chi phí: Theo cách phân loại này, những khoản chi phí có cùng công dụng kinh tế và địa điểm phát sinh sẽ được xếp vào cùng một loại, gọi là các khoản mục chi phí. Các khoản mục chi phí đó bao gồm: + Chi phí vật liệu trực tiếp: chi phí về nguyên vật liệu, nhiên liệu, dụng cụ sản xuất trực tiếp dùng vào quá trình chế tạo sản phẩm hàng hoá, dịch vụ. + Chi phí nhân công trực tiếp: các khoản tiền lương, tiền công, các khoản phụ cấp có tính chất lương, các khoản chi bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn của công nhân trực tiếp sản xuất trong doanh nghiệp. + Chi phí sản xuất chung: là các khoản chi phí được sử dụng ở các phân xưởng, bộ phận kinh doanh như: tiền lương, phụ cấp lương của nhân viên phân xưởng, chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí vật liệu, công cụ dụng cụ, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí bằng tiền phát sinh ở bộ phận phân xưởng, bộ phận sản xuất. + Chi phí bán hàng (CPBH): bao gồm chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ như chi phí tiền lương phải trả cho nhân viên bán hàng, chi phí vận chuyển, bảo quản, tiếp thị, các chi phí bằng tiền khác… + Chi phí quản lí doanh nghiệp (CPQLDN): là các chi phí chi cho bộ máy quản lí doanh nghiệp, các chi phí liên quan đến hoạt động chung của doanh nghiệp như khấu hao tài sản cố định phục vụ cho bộ máy quản lí, chi phí công cụ dụng cụ và các chi phí khác (tiền lương trả cho Ban giám đốc, Hội đồng quản trị…)phát sinh ở phạm vi toàn doanh nghiệp, các khoản thuế, lệ phí bảo hiểm, chi phí dịch vụ mua ngoài, thuộc văn phòng doanh nghiệp… Cách phân loại này có tác dụng giúp doanh nghiệp tập hợp chi phí và tính giá thành cho từng loại sản phẩm, quản lí chi phí theo từng địa điểm phát sinh, nhờ đó doanh nghiệp có thể kiểm soát được việc sử dụng chi phí, khai thác được khả năng hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. - Phân loại chi phí theo mối quan hệ giữa chi phí với quy mô sản xuất kinh doanh: Theo cách phân loại này chi phí sản xuất kinh doanh được chia làm hai loại đó là chi phí cố định và chi phí biến đổi. + Chi phí cố định (gọi tắt định phí): là các khoản chi phí không biến đổi khi tổng mức luân chuyển tăng lên hay giảm xuống. Đó là các khoản chi phí chi phí khấu hao tài sản cố định (theo thời gian), chi phí tiền lương, lãi tiền vay phải trả, chi phí thuê tài sản văn phòng. + Chi phí biến đổi (gọi tắt biến phí): là các khoản chi phí tăng lên hay giảm xuống khi tổng mức luân chuyển tăng lên hay giảm xuống. Ví dụ: chi phí tiền lương, chi phí hoa hồng, chi phí mua hàng, chi phí vận chuyển bốc dỡ hàng hoá… Do đặc điểm của từng loại chi phí, nên khi quy mô sản xuất kinh doanh càng tăng thì chi phí cố định tính cho 1 đơn vị sản phẩm hàng hoá, dịch vụ càng giảm. Riêng đối với chi phí biến đổi việc tăng hoặc giảm hay không đổi khi tính chi phí này cho 1 đơn vị sản phẩm còn phụ thuộc vào sự tương quan biến đổi giữa quy mô sản xuất kinh doanh và tổng chi phí biến đổi của doanh nghiệp. Để quản lý tốt chi phí, ngoài phân loại chi phí các doanh nghiệp cần phải xem xét cơ cấu chi phí sản xuất để định hướng thay đổi tỷ trọng mỗi loại chi phí sản xuất. Cơ cấu chi phí sản xuất là tỷ trọng giữa các yếu tố chi phí trong tổng số chi phí sản xuất. Các doanh nghiệp trong cùng một ngành và giữa các ngành khác nhau có cơ cấu chi phí sản xuất khác nhau. Cơ cấu chi phí sản xuất chịu tác động của nhiều nhân tố như: loại hình và quy mô sản xuất của từng doanh nghiệp, trình độ kỹ thuật, trang thiết bị, điều kiện tự nhiên, công tác tổ chức, năng lực quản lý, trình độ tay nghề của công nhân v..v… Nghiên cứu cơ cấu chi phí sản xuất nhằm: Thứ nhất, xác định tỷ trọng và xu hướng thay đổi của từng yếu tố chi phí sản xuất. Thứ hai, kiểm tra giá thành sản xuất và có biện pháp hạ giá thành sản phẩm. Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp thấy được xu hướng biến đổi của từng loại chi phí theo quy mô kinh doanh,. 1.1.2.2 Giá thành sản phẩm của doanh nghiệp: * Khái niệm giá thành sản phẩm Nghiên cứu chi phí sản xuất chưa cho ta biết lượng chi phí cần thiết cho việc hoàn thành sản xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm nhất định. Hơn nữa trong hoạt động sản xuất kinh doanh, khi quyết định lựa chọn phương án kinh doanh một loại sản phẩm nào đó doanh nghiệp cần tính đến lượng chi phí bỏ ra để sản xuất, tiêu thụ sản phẩm đó. Do vậy doanh nghiệp cần xác định chỉ tiêu giá thành sản phẩm. Vậy giá thành sản phẩm là gì? “Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền toàn bộ chi phí của doanh nghiệp để hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ 1 đơn vị sản phẩm hay một loại sản phẩm nhất định.” Giá thành sản phẩm biểu hiện chi phí cá biệt của doanh nghiệp để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Qua nghiên cứu ta thấy rằng giữa giá thành sản phẩm và chi phí sản xuất có sự giống nhau và khác nhau. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm giống nhau đều là một khoản chi phí của doanh nghiệp, đều là một yếu tố đầu vào tham gia vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên hai chỉ tiêu này khác nhau về mặt nội dung, ý nghĩa và phương pháp tính toán. Về mặt nội dung: Giá thành sản phẩm biểu hiện lượng chi phí để hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ 1 đơn vị hay một khối lượng sản phẩm nhất định. Còn chi phí sản xuất biểu hiện toàn bộ những chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong một thời kì nhất định. Cách tính: CPSX = Chi phí KH TSCĐ (C1) + Nguyên nhiên vật liệu (C2) + Chi phí tiền lương, bảo hiểm + Chi phí khác Z SP = C1 + C2 + Tiền lương, bảo hiểm + Chi phí khác + Chi phí quản lí phân xưởng Trong đó: Z SP: giá thành sản phẩm Về mặt ý nghĩa: - Giá thành sản phẩm là chỉ tiêu chất lượng phản ánh kết quả kinh doanh trong kì, là cơ sở để xây dựng chính sách giá cả, đồng thời chỉ tiêu giá thành sản phẩm là căn cứ xây dựng chỉ tiêu giá trị sản lượng hàng hoá. Nó phản ánh số lượng sản phẩm đã sản xuất xong trong kì. - Chi phí sản xuất là phản ánh số tiền mà doanh nghịêp đã chi ra cho sản xuất trong kì, từ đó là cơ sở để xây dựng chỉ tiêu giá trị tổng sản lượng (chỉ tiêu số lượng) Trong phạm vi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm có thể phân biệt giá thành sản xuất sản phẩm và giá thành toàn bộ sản phẩm. Giá thành sản xuất sản phẩm bao gồm toàn bộ chi phí của doanh nghiệp bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất sản phẩm. Giá thành toàn bộ của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ bao gồm giá thành sản xuất của sản phẩm hàng hóa đã tiêu thụ và các khoản chi phí cho việc bán hàng và chi phí quản lí doanh nghiệp. Trên góc độ kế hoạch hoá, giá thành sản phẩm của doanh nghiệp được phân biệt giữa giá thành kế hoạch và giá thành thực tế. Giá thành kế hoạch là giá thành dự kiến thực hiện trong kì kế hoạch, còn giá thành thực tế phản ánh các chi phí đã thực hiện trong kì báo cáo. * Nội dung giá thành sản phẩm, dịch vụ: Nội dung giá thành sản xuất của sản phẩm và dịch vụ bao gồm: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung. Trong đó : Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp (CF NVLTT): chi phí về nguyên vật liệu sử dụng trực tiếp cho việc chế tạo ra sản phẩm, dịch vụ. Chi phí nhân công trực tiếp (CF NCTT): chi phí về tiền lương, các khoản trích nộp theo lương của công nhân trực tiếp tạo ra sản phẩm mà doanh nghiệp phải nộp theo quy định. Chi phí sản xuất chung (CF SXC): chi phí sử dụng cho hoạt động chế biến của phân xưởng trực tiếp tạo ra sản phẩm hàng hoá dịch vụ. Bao gồm chi phí vật liệu, công cụ lao động nhỏ, khấu hao tài sản cố định ở phân xưởng, tiền lương trả cho nhân viên phân xưởng và các khoản trích nộp theo quy định, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí khác bằng tiền phát sinh ở phân xưởng. Công thức tính giá thành sản xuất: Z sx = CF NVLTT + CF NCTT + CF SXC + Chênh lệch giá trị SP dở dang Chênh lệch giá trị sản phẩm dở dang đầu kì = Giá trị sản phẩm dở dang đầu kì – Giá trị sản phẩm dở dang cuối kì Nội dung giá thành toàn bộ của sản phẩm dịch vụ tiêu thụ bao gồm: - Giá thành sản xuất của sản phẩm dịch vụ tiêu thụ - Chi phí bán hàng: là toàn bộ chi phí liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ. - Chi phí quản lý: là toàn bộ các chi phí cho bộ máy quản lí và điều hành doanh nghiệp và các chi phí chung khác có liên quan đến toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 1.2 Lập kế hoạch doanh thu và kế hoạch giá thành sản phẩm: 1.2.1 Lập kế hoạch doanh thu: Doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, dịch vụ là một chỉ tiêu tài chính quan trọng, nó cho ta biết khả năng tiêu thụ sản phẩm cũng như khả năng tiếp tục quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp. Do đó hàng năm doanh nghiệp đều phải lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, trên cơ sở đó xác định số doanh thu về tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ trong năm. Kế hoạch lập doanh thu này có ý nghĩa rất quan trọng đối với doanh nghiệp vì kế hoạch này lập có tính chính xác hay không, có ảnh hưởng tới kế hoạch lợi nhuận và các kế hoạch khác hay không… Do vậy doanh nghiệp cần quan tâm và không ngừng cải tiến việc lập chỉ tiêu kế hoạch này. Kế hoạch này được lập ra có mối liên hệ chặt chẽ với kế hoạch sản xuất của doanh nghiệp và có mối quan hệ trực tiếp doanh nghiệp sản xuất với khách hàng. Kế hoạch doanh thu giúp cho các nhà quản lí doanh nghiệp có kế hoạch tổ chức kinh doanh tiêu thụ sản phẩm, đề ra những biện pháp hữu hiệu để thực hiện thành công mục tiêu. Mặt khác biết trước quy mô doanh thu sẽ đạt được giúp cho doanh nghiệp chủ động trong công tác tiêu thụ sản phẩm, phân bổ chi phí hợp lí. Ngày nay, căn cứ phổ biến để lập kế hoạch doanh thu bán hàng là dựa vào các đơn đặt hàng, hợp đồng kinh doanh đã được kí kết với các đối tác và tình hình thị trường. Mặt khác, doanh nghiệp cần phải thông qua việc phân tích điểm hoà vốn, để xác định mức doanh thu với khối lượng và thời gian sản xuất, tức là doanh nghiêp đạt được mức hoà vốn, đồng thời đưa ra các kết luận cần thiết đối với từng mặt hàng như khối lượng hàng hoá tiêu thụ, giá bán tối ưu là bao nhiêu để đạt mức doanh thu dự tính. Công thức tính doanh thu hoà vốn: DTHV = Lập kế hoạch doanh thu về cơ bản gồm 2 phần: lập kế hoạch doanh thu từ các hoạt động kinh doanh, lập kế hoạch doanh thu từ các hoạt động khác. 1.2.1.1 Lập kế hoạch doanh thu từ hoạt động kinh doanh: Đây là kế hoạch doanh thu đối với tiền bán sản phẩm hàng hoá, dịch vụ hoặc khoản phải thu từ phần trợ giá của nhà nước nếu doanh nghiệp thực hiện việc cung cấp hàng hoá và dịch vụ theo yêu cầu của nhà nước. Đối với doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, căn cứ vào số lượng sản phẩm tiêu thụ và giá bán đơn vị sản phẩm kì kế hoạch để xác định. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm được xác định theo công thức tính doanh thu ở trên. Nếu doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm thì cần tính được doanh thu tiêu thụ của từng loại sản phấm sau đó tổng hợp lại đoanh thu tiêu thụ của sản phẩm trong kì kế hoạch. Các chỉ tiêu kế hoạch: + Số lượng sản phẩm tiêu thụ trong kì kế hoạch được xác định theo công thức sau: Sti = Sđi + Sxi – Sci Trong đó: Sti: số lượng sản phẩm tiêu thụ trong kì kế hoạch Sđi: số lượng sản phẩm kết dư dự tính đầu kì kế hoạch Sxi: số lượng sản phẩm sản xuất trong kì kế hoạch Sci: số lượng sản phẩm kết dư dự tính cuối kì kế hoạch i: loại sản phẩm + Số lượng sản phẩm tiêu thụ đầu kì kế hoạch bao gồm hai bộ phận đó là số lượng sản phẩm tồn kho năm trước và số lượng sản phẩm đã xuất kho cho khách hàng nhưng khách hàng chưa thanh toán. Do doanh thu tiêu thụ sản phẩm thường được lập vào quý IV của năm báo cáo nên số lượng sản phẩm tiêu thụ dự kiến đầu kì kế hoạch phải được dự tính theo công thức sau: Sđ = SC3 + SX4 – S T4 Trong đó: SC3 : số sản phẩm kết dư thực tế cuối quý III năm Báo cáo SX4: số sản phẩm kết dư sản xuất trong quý IV năm báo cáo ST4: số sản phẩm dự tính tiêu thụ trong quý IV năm báo cáo + Số lượng sản phẩm tiêu thụ dự tính cuối năm kế hoạch được xác định căn cứ vào số kết dư thực tế cuối kì bình quân của từng loại sản phẩm trong các năm trước. Kết hợp những số liệu về số kết dư đầu kì kế hoạch và những số liệu về số kết dư cuối kì kế hoạch, ta lập bảng kế hoạch tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp như sau: Bảng 1.1: Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm năm N+1 Tên sản phẩm Đơn vị tính Dư đầu kì Sản xuất trong kì Dư cuối kì Tiêu thụ trong kì Giá bán đơn vị (1000đ) Doanh thu bán hàng 1 2 3 4 5 6=3+4- 5 7 8=6x7 1.2.1.2 Lập kế hoạch doanh thu từ các hoạt động khác: Bên cạnh việc lập kế hoạch doanh thu từ hoạt động kinh doanh thì doanh nghiệp cũng phải lập kế hoạch doanh thu từ các hoạt động khác: như hoạt động về các loại chứng khoán có giá( cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu…), các hoạt động từ cho thuê tài sản cố định, thu từ hoạt động liên doanh…Kế hoạch này cũng đóng một vai trò quan trọng đối với kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy doanh nghiệp cần dựa vào những điều kiện cụ thể của mình để dự tính kế hoạch doanh thu từ các hoạt động này cho phù hợp. 1.2.2 Lập kế hoạch giá thành sản phẩm- dịch vụ: Nếu như lập kế hoạch doanh thu có ý nghĩa quan trọng đối với doanh nghiệp trong việc tổ chức kinh doanh tiêu thụ hàng hoá, trang trải các chi phí một cách có hiệu quả, thì lập kế hoạch giá thành có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với doanh nghiệp trong công tác quản lí chi phí, hạ giá thành sản phẩm để tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Xác định kế hoạch giá thành nhằm khai thác mọi khả năng tiềm tàng để giảm bớt chi phí sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Đây là một trong những tiêu chí hàng đầu của các doanh nghiệp nhằm nâng cao lợi nhuận, mở rộng tái sản xuất, tăng thêm sản phẩm tiêu thụ, từ đó đề ra chính sách giá cả hợp lí với tình hình sản xuất tại doanh nghiệp cũng như nhu cầu của người tiêu dùng. Bảng 3.1: Giá thành đơn vị các loại sản phẩm của doanh nghiệp STT Khoản mục Sản phẩm A Sản phẩm B Sản phẩm C 1 2 3 4 5 6 7 Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Chi phí nhân công trực tiếp Chi phí sản xuất chung Giá thành sản xuất của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ Chi phí bán hàng Chi phí quản lý doanh nghiệp Giá thành của toàn bộ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đã tiêu thụ Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp muốn kinh doanh có lãi thì buộc các doanh nghiệp phải quan tâm tới việc giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, vì đây là yếu tố tiên quyết quyết định việc tối đa hoá lợi nhuận của doanh nghiệp. Từ việc lập kế hoạch giá thành, doanh nghiệp tiếp tục xây dựng chỉ tiêu hạ giá thành sản phẩm để tạo điều kiện tốt cho việc tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, cũng như tạo được lợi thế cho doanh nghiệp trong cạnh tranh, từ đó doanh nghiệp có thể hạ giá bán đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ. Hạ giá thành sản phẩm trong kì xác định cho những sản phẩm so sánh được thông qua 2 chỉ tiêu: Mức giảm giá thành, tỷ lệ hạ giá thành sản phẩm. - Mức giảm giá thành: Mz = Qti (Z1i - Z0i) Trong đó: Mz: Mức hạ giá thành của sản phẩm so sánh được S1i: Lượng sản phẩm loại i kì kế hoạch Z1i: Giá thành sản phẩm loại i kì kế hoạch Z0i: Giá thành sản phẩm loại i kì gốc n: Số loại sản phẩm so sánh được - Tỷ lệ hạ giá thành sản phẩm so sánh được: Tz = (Tz: tỷ lệ hạ giá thành SP so sánh được) Bảng 2.1: Kế hoạch hạ giá thành của những sản phẩm hàng hoá so sánh được STT Các chỉ tiêu Đơn vị tính Ước thực hiện năm Kế hoạch năm 1 2 3 4 5 Giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá Tỷ lệ giữa giá thành của sản phẩm hàng hoá so sánh được so với giá thành của toàn bộ SLHH Sản lượng hàng hoá so sánh được năm nay - Tính theo giá thành năm trước - Tính theo giá thành năm nay Mức hạ giá thành sản lượng hàng hoá so sánh được Tỷ lệ hạ giá thành sản lượng hàng hoá so sánh được Muốn xây dựng được chỉ tiêu giá thành kế hoạch theo khoản mục, trước hết phải xác định được giá thành đơn vị sản phẩm. Cách xác định giá thành đơn vị sản phẩm như sau: - Đối với khoản mục độc lập ( khoản mục trực tiếp) như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, được tính bằng cách lấy định mức tiêu hao cho 1 đơn vị sản phẩm nhân với đơn giá kế hoạch. - Đối với khoản mục chi phí tổng hợp (chi phí gián tiếp) như chi phí sản xuất chung, chi phí bán hàng, chi phí quản lí doanh nghiệp, trước hết phải lập dự toán chung sau đó lựa chọn tiêu chuẩn thích hợp để phân bổ cho mỗi đơn vị sản phẩm. 1.3 Nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu, chi phí của doanh nghiệp: 1.3.1 Nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu: Như đã nói ở phần trên (1.1.1) doanh thu có một vai trò quan trọng trong chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy việc phấn đấu nhằm nâng cao doanh thu đối với các doanh nghiệp thương mại luôn là vấn đề cần thiết. Tuy nhiên liệu doanh nghiệp có thể đạt được kết quả như mong muốn hay không lại phụ thuộc vào phương hướng, các biện pháp cụ thể của từng doanh nghiệp. Có rất nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến chỉ tiêu doanh thu, có nguyên nhân ảnh hưởng tích cực nhưng cũng có những nguyên._. nhân ảnh hưởng tiêu cực. Để công tác quản trị doanh thu đạt hiệu quả, doanh nghiệp cần phải đi sâu phân tích các mặt tác động của từng nhân tố. Nguyên nhân ảnh hưởng đến doanh thu bao gồm năm nguyên nhân chủ yếu sau: khối lượng sản phẩm tiêu thụ, chất lượng sản phẩm tiêu thụ, giá cả sản phẩm, thị trường tiêu thụ, kết cấu mặt hàng tiêu thụ. - Khối lượng sản phẩm tiêu thụ: Đây là một nhân tố có tác động trực tiếp đến doanh thu. Số lượng sản phẩm tiêu thụ càng nhiều thì khả năng tăng doanh thu càng lớn. Mặt khác khối lượng tiêu thụ chịu ảnh hưởng trực tiếp của khối lượng sản xuất, khối lượng sản xuất càng lớn thì khả năng tăng doanh thu cũng càng lớn. Muốn doanh thu tăng đòi hỏi các nhà quản trị tài chính phải khéo léo trong công tác tổ chức tiêu thụ sản phẩm, kí kết các hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với khách hàng, vận chuyển thanh toán tiền hàng… - Chất lượng sản phẩm: Chất lượng sản phẩm ảnh hưởng rất lớn đến doanh thu của doanh nghiệp, đồng thời đây cũng là một nhân tố quan trọng để nhằm duy trì uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Chất lượng sản phẩm tỷ lệ thuận với doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Khi chất lượng sản phẩm cao sẽ làm cho người tiêu dùng tin tưởng, do vậy sản phẩm sẽ dễ dàng được tiêu thụ, doanh nghiệp sẽ nhanh chóng thu được tiền hàng. Ngược lại, khi chất lượng sản phẩm thấp, không đúng với yêu cầu của đơn đặt hàng thì khách hàng sẽ từ chối thanh toán, sản phẩm bị ứ đọng, muốn tiêu thụ được số sản phẩm này doanh nghiệp buộc phải sử dụng biện pháp như giảm giá sản phẩm, việc này sẽ làm giảm mức doanh thu. Doanh nghiệp muốn tạo được thế đứng trên thị trường thì yêu cầu đầu tiên đó là doanh nghiệp phải tạo ra được những sản phẩm có chất lượng tốt để phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng, xây dựng lòng tin của khách hàng vào sản phẩm của mình, có như vậy doanh nghiệp mới có thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp khác. Chất lượng sản phẩm phụ thuộc rất nhiều vào cách tổ chức chế biến, bảo quản kịp thời, khoa học với các công nghệ kĩ thuật hiện đại thì có thể làm tăng được số lượng sản phẩm có chất lượng cao. - Kết cấu mặt hàng sản phẩm tiêu thụ: Mỗi doanh nghiệp đều tự xây dựng riêng cho mình một chiến lược mặt hàng sản phẩm tiêu thụ phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp mình cũng như đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Có doanh nghiệp chỉ lựa chọn sản xuất một loại sản phẩm nhất định, nhưng cũng có doanh nghiệp lựa chọn viếc sản xuất nhiều loại sản phẩm. Đặc biệt trong điều kiện khi nền kinh tế thị trường phát triển, nhiều doanh nghiệp lựa chọn hình thức kinh doanh nhiều loại mặt hàng cũng là một nhu cầu tất yếu. Mục đích việc đa dạng hoá kinh doanh nhằm phân tán rủi ro vào các mặt hàng, các lĩnh vực kinh doanh khác nhau, bảo đảm hành lang an toàn cho các hoạt động kinh doanh, cũng như sự ổn định về doanh thu, và tận dụng tối đa cơ sở vật chất kĩ thuật và nguồn lực lao động của doanh nghiệp. Việc thay đổi kết cấu mặt hàng tiêu thụ cũng ảnh hưởng đến sự tăng giảm doanh thu, cho nên việc phấn đấu tăng doanh thu của doanh nghiệp cần đảm bảo công tác thực hiện tốt kế hoạch sản xuất mặt hàng mà doanh nghiệp cho là chiến lược. - Giá cả sản phẩm: Trong cơ chế thị trường, một trong những nhân tố tác động đến kết quả doanh thu của doanh nghiệp chính là giá cả. Việc định giá sản phẩm phải căn cứ vào giá thành và quan hệ cung cầu trên thị trường. Một mặt hàng đem bán ở những thị trường khác nhau, ở những thời điểm khác nhau, thậm chí cùng một thời điểm thì giá bán cũng khác nhau. Ví dụ đối với mặt hàng mới, phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng thì doanh nghiệp bán ở giá cao, ngược lại một sản phẩm đã lạc hậu thì phải bán ở giá thấp để đảm bảo thu hồi vốn để chuyển sang kinh doanh mặt hàng mới. Do vậy việc xây dựng chính sách giá cả cần mềm dẻo và linh hoạt vì sự thay đổi giá bán sản phẩm có ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu. Doanh nghiệp cần sử dụng giá cả như một công cụ tác động vào cầu, kích thích tăng cầu của người tiêu dùng như: quảng cáo, khuyến mại… - Thị trường tiêu thụ, phương thức thanh toán: Thị trường tiêu thu cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến kết quả doanh thu của doanh nghiệp. Nếu sản phẩm của doanh nghiệp có thị trường tiêu thụ rộng lớn thì khả năng tăng doanh thu của doanh nghiệp cũng rất lớn. Song muốn có thi trường tiêu thụ rộng lớn đòi hỏi khả năng cạnh tranh của sản phẩm phải cao cả về chất lượng cũng như giá cả. Thi trường tiêu thụ sản phẩm đóng một vai trò rất lớn trong việc tăng doanh thu, khi muốn tung sản phẩm của minh ra ngoài thị trường thì điều đầu tiên doanh nghiệp phải làm là nghiên cứu thị trường, vì khả năng thanh toán (sức mua) của thị trường có cao thì việc tiêu thụ sản phẩm mới dễ dàng và ngược lại. Về phương diện tài chính, việc đẩy nhanh tốc độ thanh toán, giảm bớt các khoản nợ phải thu, xử lý tốt các khoản nợ khó đòi cũng là một phương pháp đảm bảo thực hiện tốt chỉ tiêu doanh thu. Hơn nữa, có doanh thu doanh nghiệp mới có nguồn tài chính để trang trải các khoản chi phí đầu vào, vì vậy doanh nghiệp cần phải thực hiện tốt các khâu thanh toán tiền bán hàng. Do đó, công tác thanh toán tiền cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến mức doanh thu bán hàng. Nếu công tác này được tiến hành đúng phương thức, thủ tục sẽ thu được tiền nhanh, tránh được trường hợp bên mua từ chối chấp nhận thanh toán. Ngoài ra, công tác tổ chức bán hàng cũng là một nhân tố quan trọng thúc đẩy kết quả tiêu thụ. Nếu doanh nghiệp tổ chức nhiều hình thức bán hàng, bán lẻ, bán đại lý, bán qua kho,…tất yếu sẽ tiêu thụ được nhiều hàng hơn. Việc quảng cáo, chào hàng, giới thiệu sản phẩm, thái độ phục vụ khách hàng cũng là yếu tố quan trọng làm tăng doanh thu. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần lựa chọn nguồn hàng thích hợp để tiết kiệm chi phí đầu vào làm tăng doanh thu, tăng lợi nhuận. Qua tìm hiểu, nghiên cứu những phần trên đây cho thấy việc đảm bảo đẩy mạnh doanh thu đòi hỏi doanh nghiệp phải có trình độ tổ chức quản lý tốt bởi đó là phần công việc rất quan trọng trong việc tạo nên thu nhập và lợi nhuận cho doanh nghiệp. 1.3.2 Nhân tố ảnh hưởng đến chi phí: Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cao hay thấp phụ thuộc vào nhiều nhân tố, tuy nhiên ta có thể chia ra làm hai nhóm nhân tố chủ yếu là nhân tố chủ quan - nhóm nguyên nhân thuộc về doanh nghiệp và nhân tố khách quan - nhân tố bên ngoài không thuộc quyền kiểm soát của doanh nghiệp. - Nhân tố chủ quan: Hiện nay, trong các doanh nghiệp trình độ tổ chức quản lí sản xuất, quản lí tài chính đóng một vai trò khá quan trọng trong quản trị chi phí. Vì công tác tổ chức, quản lí có tốt, hợp lí thì mới đảm bảo cho quá trình sản xuất được tiến hành liên tục, hạn chế tối đa những thiệt hại về ngừng sản xuất, tận dụng công suất hoạt động của máy móc thiết bị, tiết kiệm những khoản chi phí không cần thiết, hạ giá thành sản phẩm. Việc tổ chức thời gian lao động hợp lí sẽ tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động. Trong điều kiện hiện nay, muốn cạnh tranh trên thị trường đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải đầu tư đổi mới dây chuyền công nghệ, thiết bị sản xuất, ứng dụng khoa học kĩ thuật vào quá trình sản xuất, điều này có thể làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh nhưng bù lại doanh nghiệp có thể tiết kiệm hao phí lao động sống và nhờ có ứng dụng khoa học kĩ thuật doanh nghiệp mới tạo ra được những sản phẩm có chất lượng cao. - Nhân tố khách quan: (nhân tố thuộc môi trường kinh doanh) Chi phí chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố thuộc môi trường kinh doanh như: cơ chế quản lí kinh tế của nhà nước (chính sách thuế…), nhu cầu của khách hàng, sự phát triển của cơ sở hạ tầng (đường xá, cầu cống…), điều kiện tự nhiên… Trong đó nhân tố chính sách kinh tế của nhà nước ảnh hưởng khá lớn đến kết quả hoạt động kinh doanh cũng như chi phí của các doanh nghiệp. Vai trò chủ đạo của nhà nước trong nền kinh tế thị trường được thể hiện thông qua hoạt động điều tiết kinh tế vĩ mô của mình. Nhà nước hạn chế hay khuyến khích hoạt động của các tổ chức nói chung và các doanh nghiệp thương mại nói riêng bằng các chính sách, luật lệ và công cụ tài chính. Trong đó thuế là một công cụ để nhà nước kiểm soát, điều tiết các hoạt động của các đơn vị ở các thành phần kinh tế, cũng là công cụ của nhà nước để thực hiện việc phân phối lại trong xã hội. Thuế và các chính sách kinh tế khác của nhà nước ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề đầu tư, tiêu dùng xã hội, giá cả hàng hoá, dịch vụ trên thị trường… Vì vậy nó tác động rất lớn đến các mặt hoạt động của doanh nghiệp và ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí của doanh nghiệp. 1.4 ý nghĩa của việc nâng cao doanh thu và tiết kiệm chi phí đối với doanh nghiệp: Trong thời kì kế hoạch hoá tập trung bao cấp, khi mà hầu hết các doanh nghiệp quốc doanh đều chịu sự bao cấp mọi mặt của nhà nước từ vốn đầu tư cho đến các khoản chi phí, doanh nghiệp không cần phải lo lắng đến việc kiếm tìm nguồn vốn, sử dụng vốn sao cho có hiệu quả, vì lỗ đã có nhà nước bù. Chính điều này đã khiến các doanh nghiệp nhà nước trong nhiều năm kinh doanh kém hiệu quả do năng suất lao động thấp, bộ máy quản lý cồng kềnh, quan liêu, tình trạng lãi giả lỗ thật là hình ảnh của các doanh nghịêp trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế nước ta có nhiều chuyển biến mạnh mẽ như việc xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thì các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường không còn được bao cấp họ phải tự chủ về mặt tài chính và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình do đó hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng có nhiều sự thay đổi tích cực. Mặt khác sự mở cửa thị trường đã đặt các doanh nghiệp đứng trước sự cạnh tranh ngày một gay gắt của các doanh nghiệp trong nước cũng như quốc tế. Điều này đã khiến cho các doanh nghiệp hiện nay phải thay đổi phương thức kinh doanh sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế mới của đất nước. Đứng trước vấn đề này đòi hỏi các doanh nghiệp phải chú ý đến công tác quản trị doanh nghiệp để nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng và tối đa hoá lợi nhuận. Để thực hiện tốt các mục tiêu trên thì doanh nghiệp cần phải chú ý đến việc không ngừng nâng cao doanh thu và tiết kiệm chi phí. Đây là hai tiêu chí hàng đầu trong kế hoạch phát triển doanh nghiệp. Nâng cao doanh thu chính là việc gia tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Mặt khác tăng doanh thu giúp doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất, cũng như có thêm một khoản tiền để trang trải chi phí trong quá trình sản xuất kinh doanh, thanh toán tiền lương cho cán bộ công nhân viên, tăng thêm tiền thưởng tạo thêm thu nhập cho người lao động, khuyến khích người lao động làm việc, nâng cao hiệu quả năng suất lao động, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với nhà nước thông qua thuế và các khoản phải nộp. Trong trường hợp doanh thu không đủ để đảm bảo các khoản chi phí bỏ ra, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn về tài chính. Nếu tình trạng này kéo dài sẽ làm cho doanh nghiệp không đủ sức cạnh tranh trên thị trường và tất yếu sẽ đi tới chỗ phá sản. Bên cạnh việc nâng cao doanh thu, thì doanh nghiệp cần chú trọng trong công tác quản trị chi phí. Vì chi phí cũng là một chỉ tiêu ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu như nâng cao doanh thu làm tăng lợi nhuận thì việc gia tăng chi phí lại làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Lợi nhuận hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được xác định như sau: Lợi nhuận HĐKD = DTT – Trị giá vốn hàng bán – CPBH – CP QLDN – Thuế Doanh thu thuần = Tổng doanh thu bán hàng – Khoản giảm giá hàng bán – Trị giáhàng bán bị trả lại – Thuế gián thu Giảm chi phí kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm là phương hướng cơ bản để tăng lợi nhuận. Nếu như giá bán và mức thuế được xác định thì lợi nhuận đơn vị sản phẩm tăng thêm hay giảm bớt là do giá thành sản phẩm quyết định. Doanh nghiệp muốn đạt được lợi nhuận mong muốn đòi hỏi doanh nghiệp phải đồng thời thực hiện cả hai biện pháp nâng cao doanh thu và tiết kiệm chi phí, có như vậy doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển trong điều kiện cạnh tranh như hiện nay. Chương II thực trạng quản trị doanh thu và chi phí trong hoạt động sản xuất kinh doanh tại công ty điện máy – xe đạp – xe máy 2.1 Giới thiệu chung về công ty Điện máy – Xe đạp – Xe máy: 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của công Điện máy – Xe đạp – xe máy: Công ty Điện máy – xe đạp – xe máy có tên giao dịch quốc tế là TODIMAX, là một doanh nghiệp thương mại Nhà nước trực thuộc Bộ Thương mại, có tư cách pháp nhân đầy đủ theo luật pháp Việt Nam có tiền Việt Nam và tài khoản ngoại tệ tại ngân hàng TW. Công ty được chính thức thành lập 22/02/1995 theo quyết định số 106 Bộ thương mại/ TCCB và cấp giấp phép ĐKKD (11/03/1995). Công ty có trụ sở giao dịch chính tại 163 Đại La quận Hai Bà Trưng, Hà Nội và có 2 chi nhánh tại TP.HCM và Hà Nam Ninh. Tiền thân của công ty là Cục bách hoá Ngũ Kim được thành lập vào năm 1958. Đến năm 1970, Chính phủ có quyết định 217/CP ngày 24/11/1970 với nội dung thay đổi cấp quản lí của Bộ nội thương nhằm thành lập ra các tổng công ty chuyên ngành hàng. Ngày 13/3/1971 theo quyết định 14NT/ QĐ Cục Bách hoá Ngũ Kim chuyển thành Tổng công ty Điện máy thực hiện chức năng chủ đạo là kinh doanh mặt hàng điện máy trên phạm vi toàn quốc. Tháng 6/1981 Tổng công ty Điện máy tách ra thành hai công ty Trung ương trực thuộc Bộ nội thương: - Công ty Điện máy Trung ương đóng tại 163 Đại La – Hai Bà Trưng – Hà Nội - Công ty xe đạp – xe máy Trung ương đóng tại 21 ái Mộ – Gia Lâm – Hà Nội. Cả hai công ty đều chịu sự chỉ đạo Bộ Thương Mại cho đến tháng 12/1982, hai công ty này sát nhập thành Tổng công ty Điện máy – Xe đạp – Xe máy. Lúc này thi trường của công ty đã mở rộng trên phạm vi toàn quốc và một phần ra thị trường nước ngoài như Liên Xô cũ, các nước Đông Âu, Lào, Campuchia với nhiều mặt hàng kinh doanh đa dạng. Do có nhiều đóng góp trong lĩnh vực kinh doanh, năm 1987 công ty được Đảng và Nhà nước tặng thưởng huân chương lao động. Từ giữa năm 90, khi chế độ bao cấp được xoá bỏ, nền kinh tế chuyển sang một cơ chế mới “ cơ chế thị trường có sự điều chỉnh vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ”. Do còn bỡ ngỡ với cơ chế mới cộng với trình độ quản lí yếu kém chưa thích ứng được với sự năng động của cơ chế thị trường nên việc kinh doanh của công ty sa sút nghiêm trọng, công ty đã liên tục thua lỗ trong nhiều năm (năm 1991 – 1997) và đứng trước nguy cơ bị giải thể. Ngày 22/12/1993 căn cứ vào thông báo số 11/TB ngày 2/2/1995 của Chính phủ về việc thành lập lại Tổng công ty điện máy, Bộ trưởng Bộ Thương Mại đã ra quyết định 106/TM thành lập Công ty Điện máy – xe đạp – xe máy trên cơ sở giải thể Tổng công ty, trụ sở giao dịch chính của công ty lúc này được đặt tại 163 Đại La. Đến năm 1999, công ty thay đổi trụ sở giao dịch trước đây, chuyển về số 229 phố Vọng, quận Hai Bà Trưng – Hà Nội. Đến nay mạng lưới kinh doanh của công ty đã phát triển khá rộng lớn, bao gồm 11 đơn vị trực thuộc trong đó có 3 trung tâm, 5 cửa hàng và 2 chi nhánh. 2.1.2 Nhiệm vụ: Trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kì kinh doanh, doanh nghiệp đều có những mục tiêu cụ thể nhằm định hướng cho sự phát triển của công ty. Song nhìn chung công ty có những mục tiêu cụ thể sau: - Xây dựng và tổ chức hiệu quả các kế hoạch kinh doanh nhằm mở rộng phạm vi hoạt động sản xuất của công ty để đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài. - Tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị kinh tế, cơ sở khác của ngành và các đơn vị liên doanh áp dụng các biện pháp kinh doanh có hiệu quả để nâng cao mức doanh số bán ra. - Hoàn thiện công tác tổ chức sản xuất kinh doanh. - Góp phần thu hút thêm lao động trong xã hội, giải quyết vấn đề việc làm. - Thực hiện các hình thức liên doanh, liên kết, hợp tác đầu tư sản xuất để khai thác hết mọi nguồn lực của công ty. - Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà nước. 2.1.3 Đặc điểm sản xuất kinh doanh tại công ty Điện máy- Xe đạp- Xe máy: Là một doanh nghiệp thương mại, Công ty Điện máy – xe đạp – xe máy thực hiện khá nhiều chức năng kinh doanh như: + Xuất nhập khẩu và kinh doanh hàng điện máy, kim khí tiêu dùng, phương tiện đi lại, hàng tiêu dùng + Sản xuất gia công lắp ráp hàng điện tử. + Kinh doanh vật liệu xây dựng (xi măng, sắt thép xây dựng, thiết bị trang trí nội thất) + Kinh doanh máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, thiết bị phụ trợ. + Dịch vụ cho thuê văn phòng làm việc, kho hàng, sản xuất kinh doanh bia và nước giải khát. Kinh doanh hoá chất thông thường (Theo quyết định số 1537/1998/QĐ-BTM ngày 12/12/1998 của Bộ Thương mại) + Kinh doanh nguyên liệu, kim loại màu, kim loại đen, hàng thủ công mỹ nghệ, cao su và sản phẩm cao su, hàng công nghiệp tiêu dùng khác (VB cho phép số 0039/1995/QĐ-BTM ngày 13/01/1999 của Bộ Thương mại). + Gia công, sản xuất phụ tùng xe máy và lắp ráp xe gắn máy, hàng điện máy (có QĐ số 0459/2000/QĐBTM). Với nhiều chức năng kinh doanh như trên, nên dễ dàng nhận thấy rằng mặt hàng kinh doanh của doanh nghiệp khá phong phú đa dạng với nhiều chủng loại khác nhau. Hiện nay, công ty kinh doanh chủ yếu các loại mặt hàng sau: + Xe máy + Ô tô, máy xây dựng + Tủ lạnh, ti vi, điều hoà, máy giặt + Hạt nhựa + Vật liệu xây dựng và các hàng hoá khác. + Ông thép các loại + Điện thoại di động Mặt hàng kinh doanh của doanh nghiệp khá đa dạng, và được tiêu thụ chủ yếu ở thị trường nội địa. Năm 1998, khi mà thị trường xe máy có nhiều biến động đặc biệt là sự xuất hiện Xe máy – Trung Quốc với giá rẻ phù hợp với nhu cầu khá đông của người tiêu dùng, nhận định được tình hình này doanh nghiệp đã tiến hành nhập khẩu các linh kiện xe máy, tổ chức một dây chuyền lắp ráp xe máy dạng IKD với công suất 40.000 xe/năm. Năm 1998 xưởng lắp ráp xe máy đầu tiên được đưa vào hoạt động.. Mặt hàng kinh doanh này đã đem lại cho doanh nghiệp một khoản doanh thu khá cao. Sang năm 1999 do nhu cầu tiêu dùng xe máy cao công ty đã đầu tư cho lắp ráp thêm một dây chuyền lắp ráp xe máy. Mặt hàng xe máy chiếm tỷ trọng lớn (năm 2002 chiếm 70% doanh thu bán hàng).Tổng số vốn đầu tư của cả hai dây chuyền là 6 tỷ đồng. Đồng thời, hướng tới xuất khẩu công ty đã liên doanh với công ty SHINIL thành lập một nhà máy sản xuất máy bơm nước với số vốn 2 triệu USD (phía Hàn Quốc góp 70% vốn bằng tiền, phía TODIMAX góp 30% dưới hình thức kho tàng, nhà xưởng) với công suất 100.000 máy bơm/năm nhằm xuất khẩu 60% sản phẩm ra nước ngoài. Công ty TODIMAX có thị trường tiêu thụ trong nước khá rộng lớn. Các sản phẩm như nguyên vật liệu, hoá chất, thiết bị máy móc, phụ tùng… công ty có khách hàng lớn thường xuyên là các cơ sở sản xuất trong nước như Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông, nhà máy Nhựa Hàm Rồng, công ty xây dựng cầu Thăng Long… Tuy nhiên cho đến nay thì hoạt động xuất khẩu của công ty gần như không có, có xuất khẩu chăng đi nữa thì số lượng xuất khẩu cũng là rất nhỏ và nếu có chỉ là hình thức tái sản xuất sản phẩm. Do kinh doanh nhiều loại mặt hàng khác nhau, Công ty đã thực hiện bán hàng chủ yếu theo phương thức tiêu thụ trực tiếp thông qua việc bán buôn và bán lẻ qua khối các trung tâm kinh doanh, các cửa hàng trực thuộc chi nhánh TP Hồ Chí Minh, chi nhánh Hà Nam Ninh và các cửa hàng kinh doanh trực thuộc công ty. 2.1. 4 Đặc điểm về lao động và cơ cấu bộ máy trong công ty: 2.1.4.1 Đặc điểm lao động: Công ty có số lượng lao động tương đối đông, tổng số lao động định biên của công ty hiện nay là 455 người. Trong đó có: - Nam: 265 người - Nữ : 190 người Đại học: 123, Tiến sĩ: 2, Trung cấp: 63, Sơ cấp: 6. Tình hình công ty gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt bộ máy tổ chức cán bộ còn khá cồng kềnh, đội ngũ công nhân viên có trình độ còn hạn chế, chỉ chiếm khoảng 1/3 trên tổng số lao động của công ty. Để phát huy hết khả năng lao động sẵn có của công ty, cũng như tiết kiệm các chi phí nhân công, đòi hỏi công ty phải có những chính sách sử dụng nguồn nhân lực hết sức hợp lý, tránh tình trạng không có lao động giỏi trong khi số lao động dư thừa không có khả năng lao động thì lại quá nhiều, lãng phí nguồn tài chính của công ty. 2.1.4.2 Cơ cấu bộ máy trong công ty: Để đáp ứng yêu cầu hoạt động kinh doanh nhiều chủng loại mặt hàng, công ty đã xây dựng cho mình mô hình tổ chức bộ máy quản lí theo kiểu tổ chức liên hợp (trực tuyến – chức năng). Trong cơ cấu này, Giám đốc là người chịu trách nhiệm về mọi hoạt động và toàn quyền quyết định trong phạm vi doanh nghiệp, trực tiếp chỉ đạo tới các cơ sở sản xuất kinh doanh tại từng cơ sở, đơn vị được nắm bắt và phản hồi kịp thời, chính xác lên cơ quan quản lí cao nhất, góp phần ra những quyết định chính xác, nhanh chóng. Các phòng ban là bộ phận tham mưu giúp ban giám đốc quản lí điều hành doanh nghiệp có hiệu quả hơn. Mệnh lệnh từ ban giám đốc được truyền trực tiếp đến từng cơ sở, đồng thời giúp cơ sở có sự hỗ trợ lẫn nhau, giúp đỡ nhau và thống nhất trong quá trình kinh doanh. Cơ cấu bộ máy quản lí của công ty được thể hiện qua sơ đồ ở trang bên: Ban giám đốc Phòng tổ chức hành chính Phòng tài chính kế toán Phòng KD NVL Phòng KD điện tử điện lạnh Phòng kinh doanh xe đạp xe máy Phòng thanh tra bảo vệ Trung tâm kho Đức Giang Trung tâm kho Vọng Chi nhánh TP HCM Trung tâm KD xe đạp xe máy XN SX KD hàng điện máy Chi nhánh Nam Định Cửa hàng số 1 Cửa hàng Sơn Cửa hàng số 5 Cửa hàng 163 Cửa hàng 92 Sơ đồ 2.1: Cơ cấu bộ máy quản lí của công ty Điện máy – Xe đạp – Xe máy Trong đó: * Ban giám đốc: có trách nhiệm kết hợp chặt chẽ với ban chấp hành Đảng uỷ và tổ chức Công đoàn triển khai nhiệm vụ của Đảng uỷ trong việc định hướng kinh doanh, tổ chức bộ máy, công tác cán bộ, giải quyết khó khănvà đưa đơn vị vào thế ổn định. Giám đốc công ty trực tiếp điều hành công tác cán bộ, tổ chức kinh doanh và quản lý tài chính trong công ty. Các phòng ban chức năng của công ty bao gồm: * Phòng tổ chức hành chính: giúp giám đốc công việc tổ chức bộ máy quản lý các bộ phận, cơ sở vật chất phương tiện, tổ chức phục vụ của cán bộ và cơ sở làm việc của cán bộ công nhân viên chức. Đề xuất các phương án tổ chức bộ máy tổ chức công tác cán bộ, sắp xếp quản lý và sử dụng lao động, các phương án về phân cấp thuộc thẩm quỳên đối với mô hình tổ chức của công ty. * Các phòng kinh doanh, phòng quản lý kho và cơ sở vật chất: giúp giam đốc trong việc tìm nguồn hàng, tìm đối tác kinh doanh, tìm hiểu và mở rộng thị trường tiêu thụ các mặt hàng theo nhiệm vụ đã được giao. Xây dựng kế hoạch hàng quý, năm lập phương án kinh doanh, phương án khai thác cơ sở vật chất, kho tàng và bảo đảm có kết quả. * Phòng tài chính kế toán : giúp gím đốc trong khâu quản lý tài chính toàn công ty, tổ chức hạch toán đầy đủ và đúng pháp lệnh thống kê kế toán của nhà nước. Định kỳ báo cáo kết quả kinh doanh và tình hình tài chính đơn vị cho gím đốc và cơ quan quản lý cấp trên theo yêu cầu của nhà nước. * Phòng thanh tra bảo vệ: giúp giám đốc trong việc thanh tra kiểm tra mọi hoạt động của đơn vị, đảm bảo an toàn về hàng hóa và trật tự an toàn trong công ty. * Mạng lưới kinh doanh của công ty: - Có 3 trung tâm kinh doanh đặt tại 163 Đại La, 92 – Hai Bà Trưng, 229 phố Vọng và 115 phố Vọng của công ty. - 2 chi nhánh đặt tại miền Nam và Nam Định. Trong quá trình kinh doanh các trung tâm và chi nhánh này tự chịu trách nhiệm về doanh thu, tự trang trải quỹ lương và các chi phí, lấy thu bù chi có lãi. Về nguồn hàng có thể lấy từ công ty hoặc mua ngoài. Các đơn vị bảo toàn vốn và thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước. Các đơn vị trực thuộc có con dấu riêng, định kì báo cáo kết quả kinh doanh và các hoát động khác, kiến nghị các biện pháp để hỗ trợ khó khăn nhằm phát triển kinh doanh ở đơn vị. - Có 5 cửa hàng trực thuộc công ty: Có trách nhiệm tổ chức mạng lưới bán lẻ tại đơn vị, tổ chức khai thác kinh doanh của đơn vị theo hình thức bán lẻ với bán buôn vừa và nhỏ. Trưởng cửa hàng có trách nhịêm tổ chức bộ máy cửa hàng, bố trí lao động hợp lý, đảm bảo kinh doanh có hiệu quả. Giám đốc các xí nghiệp, trung tâm chi nhánh trực thuộc công ty: trực tiếp điều hành hoạt động của đơn vị theo đúng diều lệ tổ chức bộ máy và hoạt động sản xuâts kinh doanh của đơn vị theo đúng quyền hạn, chức năng, nhiệm vụ đã được phân cấp và chịu trách nhiệm trước công ty về mọi hoạt động do mình quản lý điều hành. 2.2 Về mặt tài chính: Công ty Điện máy- xe đạp – xe máy là một doanh nghiệp thương mại Nhà nước có quyền tự chủ về kinh doanh, tự chủ về tài chính, thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với Nhà nước theo quy định của Bộ Thương mại. Trải qua một thời gian hình thành và phát triển công ty đã lớn mạnh về mọi mặt từ công tác quản lý cho tới khâu kinh doanh. Nếu như ban đầu số vốn của công ty chỉ có 19.969 triệu đồng, công ty đã gặp không ít những khó khăn trong việc mở rộng loại hình kinh doanh, thị trường tiêu thụ, thì hiện nay số vốn của công ty là 24 tỷ đồng. Trong đó: Vốn lưu động: 16 tỷ đồng Vốn cố định: 8 tỷ đồng Tuy nhiên nền kinh tế đất nước đang ngày càng phát triển, đã đặt doanh nghiệp đứng trước những những cơ hội mới cũng như những khó khăn mới. Với đặc thù là một doanh nghiệp thương mại, đòi hỏi công ty luôn phải tìm kiếm nguồn hàng, kịp thời đáp ứng nhu cầu của thị trường. Trong khi đó giá trị các loại hàng thường lớn nên công ty luôn có nhu cầu về vốn lưu động. Để đáp ứng nhu cầu này công ty thường xuyên phải sử dụng nguồn vốn vay của ngân hàng để tài trợ. 2.2.1 Đặc điểm tổ chức quản lí tài chính của doanh nghiệp: Căn cứ vào đặc điểm tổ chức bộ máy kinh doanh, tính chất và quy mô hoạt động kinh doanh, công ty Điện Máy – Xe Đạp – Xe Máy đã lựa chọn hình thức công tác kế toán tập trung. Tại công ty có 1 phòng kế toán trung tâm chịu trách nhiệm hạch toán toàn bộ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trực tiếp tại công ty và tổng hợp số liệu của toàn bộ công ty. Phòng kế toán công ty có nhiệm vụ tổ chức, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiệntoàn bộ các thu nhập, xử lý các thông tin kế toán ban đầu, kiểm tra việc thực hiện toàn bộ các thu nhập, xử lý các thông tin kế toán ban đầu, cung cấp thông tin về tình hình tài chính đầy đủ kịp thời và chính xác, đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh để từ đó đề ra cấc biện pháp, quyết đinh đúng đắn và phù hợp với đường lối của công ty. Ta có sơ đồ tổ chức bộ máy kế toán của công ty Điện máy – xe đạp – xe máy được trình bày ở trang bên. Kế toán trưởng KT tổng hợp KT quỹ TM KT chi tiết theo dõi KD KT TSCĐ, quan hệ với NS Kế toán công nợ nội bộ Kế toán ngân hàng Sơ đồ 2.2: Tổ chức bộ máy kế toán công ty Điện máy – xe đạp – xe máy * Kế toán trưởng: kiêm trưởng phòng tài chính kế toán chịu trách nhiệm quản lý và chỉ đạo chung về nghiệp vụ, tham mưu cho giám đốc các vấn đề về tài chính kế toán. * Kế toán tổng hợp: phụ trách việc lập phiếu thu, chi theo lệnh, từ đó căn cứ vào các phiếu thu, phiếu chi kèm theo các giấy tờ hợp lệ để nhập hoặc xuất quỹ, đối với các số dư trên sổ quỹ với số tiền thực có tại quỹ. Lập báo cáo kế toán, trợ lý cho kế toán trưởng nếu có yêu cầu và giúp đỡ các bộ phận khác khi cần thiết. * Kế toán theo dõi kinh doanh: có nhiệm vụ theo dõi việc mua hàng và tiêu thụ, đánh giá kết quả kinh doanh chi tiết theo các phòng ban. * Kế toán tài sản cố định: kiêm luôn theo dõi về thuế và các khoản nộp nhà nước. * Kế toán công nợ: có nhiệm vụ theo dõi tình hình công nợ phải trả và thanh toán các khoản cho từng chủ nợ nhằm thực hiện tốt chế độ thanh toán tài chính. * Kế toán ngân hàng: có nhiệm vụ giao dịch với ngân hàng, quản lý theodõi các khoản tiền vay, tiền lãi gửi, đôn đốc việc thanh toán đúng kì hạn, thường xuyên đối chiếu số dư tiền gửi với ngân hàng. Riêng kế toán tiền lương được thực hiện ở phòng tổ chức hành chính. Ngoài phòng kế toán tập trung, 2 chi nhánh (miền Nam & Hà Nam Ninh) đều có bộ phận kế toán riêng thực hiện toàn bộ công việc kế toán phát sinh ở chi nhánh theo sự phân cấp của phòng kế toán trung tâm. Cuối tháng, kế toán ở 2 chi nhánh phải lập báo cáo quyết toán gửi về công ty. Kế toán ở đơn vị phụ thuộc này có đầy đủ các chức danh như bộ phận kế toán ở công ty. Công ty Điện Máy – Xe Đạp – Xe Máy áp dụng hình thức tổ chức kế toán tập trung phù hợp với đặc điểm kinh doanh của đơn vị. Việc áp dụng hình thức tổ chức công tác kế toán này đảm bảo cho công tác kế toán được tiến hành một cách đầy đủ, kịp thời, thúc đẩy hạch toán kế toán nội bộ và sự quản lý thống nhất của toàn công ty. 2.2.2 Đánh giá chung về tình hình sử dụng tài sản và nguồn vốn của công ty: Tài sản và nguồn vốn là những yếu tố không thể thiếu được đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Do vậy quản lí tài sản và nguồn vốn là một trong những nội dung quan trọng của quản trị tài chính doanh nghiệp. Thông qua việc phân tích các chỉ tiêu tài sản và nguồn hình thành tài sản cho ta hiểu được quy mô, kết cấu tài sản và nguồn vốn, cũng như đặc điểm các nguồn vốn đã được doanh nghiệp huy động vào sản xuất kinh doanh. 2.2.2.1 Tình hình sử dụng tài sản: Thông qua việc nghiên cứu bảng cân đối kế toán của ba năm (2002-2004) ở trang 40, giúp ta thấy được sự thay đổi của các khoản mục cũng như cơ cấu tài sản, nguồn vốn của doanh nghiệp. Qua bảng 2.1 ta thấy tổng tài sản của năm 2003 tăng so với năm 2002 là 1.023,7 trđ tương ứng với tỷ lệ tăng 13,65% chủ yếu là do tăng TSLĐ và đầu tư tài chính ngắn hạn (TSLĐ năm 2003 tăng so với năm 2002 là 7.752,2trđ), và đến năm 2004 tổng tài sản tăng thêm so với năm 2003 là 14.014,1 trđ, đồng thời TSLĐ năm 2004 tiếp tục tăng lên là 13.865,7 trđ tương ứng với tỷ lệ tăng là 18,8%. Xét chi tiết từng khoản mục ta thấy, TSLĐ tăng cao qua các năm chủ yếu là do sự ảnh hưởng của 2 khoản mục chính của “Các khoản phải thu khách hàng”, “Hàng tồn kho” tăng lên. Nếu như năm 2002 giá trị hàng tồn kho là 15.972,8 trđ, thì đến năm 2003 tốc độ tăng hàng tồn kho là 62,7%, năm 2004 hàng tồn kho đã tăng thêm so với 2003 là 406,3 trđ tương ứng với tỷ lệ tăng 1,56%. Điều này chứng tỏ doanh nghiệp đã để tồn đọng khá nhiều số lượng hàng hoá, có thể do hàng hoá của doanh nghiệp kém phẩm chất, hoặc do sản phẩm không phù hợp với nhu cầu của thị trường. Bên cạnh đó các khoản phải thu khách hàng liên tiếp tăng cao trong 3 năm 2002 – 2004. Năm 2002 các._.kinh doanh của công ty Điện máy – xe đạp – xe máy: 3.2.1 Các giải pháp nhằm tăng doanh thu: Việc nâng cao doanh thu chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, do vậy muốn nâng cao doanh thu đòi hỏi doanh nghiệp phải áp dụng rất nhiều các biện pháp để cải thiện tình hình doanh thu ở doanh nghiệp, đặc biệt là công tác tiêu thụ hàng hoá. Do đó một trong những mục tiêu hàng đầu của công ty là đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá nhằm tăng doanh thu. Như đã phân tích ở trên một trong những nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng tới lợi nhuận của công ty đó là doanh thu tiêu thụ, doanh thu tiêu thụ có quan hệ tỷ lệ thuận với lợi nhuận của công ty. Doanh thu tăng thì lợi nhuận tăng và ngược lại doanh thu giảm thì lợi nhuận giảm. Tăng doanh thu tiêu thụ luôn là vấn đề hàng đầu, là điều trăn trở đối với các nhà quản trị doanh nghiệp. Vậy với Công ty điện máy – xe đạp – xe máy chuyên kinh doanh các loại mặt hàng xe máy, hàng điện tử, điện lạnh, nguyên vật liệu để tăng doanh thu ta phải làm gì? Cũng giống như bao doanh nghiệp khác, muốn nâng cao doanh thu điều quan trọng nhất đối với công ty điện máy – xe đạp – xe máy đó là đẩy mạnh việc tiêu thụ hàng hoá, muốn vậy công ty cần phải giải quyết những nội dung sau: Thứ nhất: Mở rộng thị trường tiêu thụ Mở rộng thị trường tiêu thụ là một việc làm cần thiết đối với một doanh nghiệp muốn phát triển kinh doanh. Công ty có mở rộng được thị trường thì sản phẩm của công ty mới dễ dàng tiêu thụ được với số lượng lớn. Mục tiêu của doanh nghiệp là đa dạng hoá mặt hàng, muốn vậy đòi hỏi doanh nghiệp phải mở rộng thị trường nhằm tăng sức mua. Khối lượng hàng hoá bán ra nhiều thì mới làm cho doanh thu tăng lên. Một trong những yêu cầu đầu tiên của việc mở rộng thị trường tiêu thụ đó là công tác nghiên cứu thị trường. Nếu thực hiện tốt công tác này công ty có thể xác định được những yêu cầu, thị hiếu của khách hàng, cũng như sức mua của thị trường từ đó lập kế hoạch sản xuất và tiêu thụ một cách có hiệu quả nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng, đồng thời nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Công tác này thực tế hiện nay chưa được thực hiện một cách triệt để, hoạt động chủ yếu của công ty dựa trên các đơn đặt hàng do khách hàng mang lại nên công ty ít quan tâm đến việc tìm hiểu nhu cầu thị trường hiện tại. Toàn bộ khách hàng của công ty là khách hàng truyền thống. Như vậy công ty điện máy – xe đạp – xe máy là do uy tín từ trước chứ không phải do công ty tự thiết lập, trong khi đó khách hàng tiêu dùng là khách hàng tiềm năng lớn thì công ty lại chưa khai thác một cách triệt để. Để công tác tìm hiểu thị trường, nắm bắt nhu cầu khách hàng được tốt đòi hỏi công ty phải thường xuyên cử những cán bộ của phòng thị trường trực tiếp đi đến các địa phương, các doanh nghiệp (khách hàng của công ty) để thu thập thông tin, phản ánh khách quan từ phía các đơn vị về mặt hàng mà công ty cung cấp, từ đó nghiên cứu khả năng cung ứng ra thị trường của công ty mình, đưa ra một mức giá phù hợp để có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp khác... Khi nghiên cứu thị trường cần phải phân tích các thông tin, tìm ra các quy luật thị trường phục vụ cho việc ra các quyết định kinh doanh của công ty để đạt kết quả cao nhất. Công tác nghiên cứu thị trường là khâu mở đầu quan trọng của hoạt động kinh doanh. Công ty phải tìm ra đúng cái mà thị trường cần và phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh của công ty. Công ty phải trả lời được nên kinh doanh loại mặt hàng nào? Với số lượng là bao nhiêu? Với mức giá nào là phù hợp? Bán dưới hình thức nào và ở đâu? Cùng việc nghiên cứu thị trường công ty phải thực hiện tốt công tác dự báo thị trường. Công tác này có vị trí quan trọng trong hoạt động của công ty. Công ty cần dự kiến về thị trường và đưa ra giải pháp kinh doanh phù hợp. Thứ hai: Đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh Đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh có nghĩa là doanh nghiệp đầu tư vào nhiều loại mặt hàng kinh doanh khác nhau. Hiện nay mặt hàng kinh doanh chính của công ty là xe máy không còn điều kiện khai thác trực tiếp do vậy công ty cần tạo ra được nhiều mặt hàng kinh doanh có thị trường ổn định để thay thế những mặt hàng truyền thống của công ty, nhằm giảm thiểu, phân tán những rủi ro vào các mặt hàng kinh doanh khác nhau, đảm bảo cho doanh nghiệp luôn hoạt động trong hành lang an toàn. Hiện nay các mặt hàng kinh doanh chủ yếu của công ty là xe máy, ti vi, điều hoà, ôtô, điện thoại là những mặt hàng phục vụ cho tiêu dùng. Để đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh, đồng thời khai thác tiềm năng các khách hàng công nghiệp công ty nên bổ sung vào danh mục những mặt hàng kinh doanh công nghiệp như nguyên vật liệu xây dựng, thiết bị công nghiệp khác. Bên cạnh đó công ty cần tiếp tục duy trì kinh doanh mặt hàng xe máy, khôi phục mặt hàng truyền thống như ti vi, tủ lạnh. Mặc dù tiêu thụ những mặt hàng này có dấu hiệu chững lại nhưng theo nhận định của các nhà kinh tế thì tốc độ mua bán mặt hàng này vẫn được duy trì trong 5 năm nữa. Do đó công ty cần tăng cường các dịch vụ hỗ trợ bán hàng như bảo hành sửa chữa, khuyến mại, mở rộng hình thức bán hàng trả góp, đồng thời xây dựng kế hoạch nhập khẩu linh kiện và lắp đặt xe máy một cách khoa học đảm bảo cung cấp kịp thời sản phẩm cho khách hàng. Công ty nên mở rộng thị trường tiêu thụ xe máy ra khu vực nông thôn nơi mà việc đăng kí xe máy chưa bị hạn chế và đây cũng là nơi có mức thu nhập thấp phù hợp giá bán xe máy của công ty. Thứ ba: Về chính sách giá cả. Các sản phẩm của công ty chủ yếu là nhập khẩu nên giá cả phần nhiều do yếu tố khách quan quy định. Vì vậy công ty định mức giá bán ra sao cho hợp lí, xây dựng nhiều mức giá khác nhau. Ví dụ: giá bán buôn, bán lẻ, giá bán cho khách hàng mua với số lượng lớn và thanh toán nhanh thông qua việc áp dụng linh hoạt các công cụ như chiết khấu, giảm giá. Vậy khi xây dựng mức chi phí có thể tiết kiệm được do tiêu thụ nhiều hàng hoá và do thanh toán nhanh, công ty nên dành mức chiết khấu giảm giá hợp lí cho khách hàng điều này không những thu hút khách hàng đến mua sản phẩm của doanh nghiệp mà còn giúp giữ những khách hàng mới trở thành bạn hàng lâu dài của doanh nghiệp. Thứ tư: Xây dựng chính sách phân phối hàng hoá hợp lí Việc xây dựng chính sách phân phối hàng hoá hợp lí đóng vai trò quan trọng trong quá trình tiêu thụ hàng hoá ở công ty. Công ty cần xây dựng cho minh một mạng lưới kinh doanh với nhiều kênh bán hàng khác nhau phù hợp với đặc điểm kinh doanh, cũng như quy mô, phạm vi kinh doanh của từng loại mặt hàng cũng khác nhau. Công ty cần hình thành một trung tâm giao dịch mua bán hoặc hệ thống các dịch vụ kĩ thuật lắp ráp sửa chữa, bảo hành để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Trong khi các đối thủ cạnh tranh có một hệ thống mạng lưới bán hàng phân bố rộng khắp trên cả nước thì công ty điện máy – xe đạp – xe máy chưa thực sự quan tâm đến vấn đề này. Công ty cần bố trí một mạng lưới các kênh bán hàng hợp lí, trong đó tập trung đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại vì đây là nơi trực tiếp tiếp xúc với khách hàng và cũng là nơi thích hợp nhất để giới thiệu quảng cáo sản phẩm của công ty. Mặt khác các cửa hàng cũng là nơi cung cấp những thông tin quan trọng về khách hàng, đối thủ cạnh tranh, sản phẩm. Chính vì vậy trong những năm tới công ty cần đầu tư thiết bị, cơ sở vật chất cho các cửa hàng với các nhãn hiệu, biển quảng cáo bắt mắt gây sự chú ý, đồng thời cần bố trí vị trí các cửa hàng đặt ở những nơi đông dân cư tập trung nhu cầu tiêu dùng, điều kiện đi lại thuận tiện, còn ở những nơi chưa có điều kiện hoặc chưa cần thiết mở cửa hàng thì công ty nên phát triển mạng lưới bán hàng đại lí nhằm nắm giữ phát triển thị trường theo cả chiều sâu lẫn chiều rộng. Bên cạnh đó doanh nghiệp có thể sử dụng nhiều hình thức bán hàng như bán theo hợp đồng và đơn đặt hàng. Thứ năm: Về hoạt động quảng cáo và xúc tiến bán hàng: Trong nền kinh tế thị trường, thì hoạt động quảng cáo nổi lên như một yếu tố kích thích cho các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp một cách hiệu quả. Mục tiêu của quảng cáo là giới thiệu sản phẩm của công ty tới mọi đối tượng khách hàng, đồng thời thông qua quảng cáo công ty có thể hiểu được nhu cầu của thị trường, nắm bắt được các thông tin phản hồi từ phía khách hàng được nhanh hơn. Đây là một phương tiện phục vụ đắc lực cho cạnh tranh. Do vậy công ty cần tăng cường công tác quảng cáo sản phẩm với phương tiện quảng cáo phù hợp với tình hình tài chính của công ty, có thể quảng cáo qua báo, tạp chí, quảng cáo bằng biển, panô, áp phích... Hiện nay công ty chỉ áp dụng những hình thức quảng cáo đơn điệu chưa gây được sự chú ý cho người tiêu dùng như những mẩu tin ngắn trên báo về tên công ty và một số mặt hàng hiện bán. Chi phí cho quảng cáo còn rất hạn chế một phần là do nguồn kinh phí có hạn của công ty, một phần là do công ty chưa thực sự quan tâm đến vấn đề này. Vì vậy, trong thời gian tới công ty cần đa dạng hoá nhiều hình thức quảng cáo, tăng chi phí cho quảng cáo. Mặc dù hiện tại nguồn kinh phí của công ty còn khá eo hẹp nên việc tăng chi phí này có thể coi là một hoạt động khá mạo hiểm tuy nhiên nếu xét về lâu dài thì đây lại là một biện pháp tích cực thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm của công ty. Bên cạnh đó công ty có thể sử dụng nhiều kĩ thuật xúc tiến bán hàng như: bán có thưởng, giảm giá tức thì, khuyến khích mua thử, quảng cáo tại các nơi bán hàng. 3.2.2 Các giải pháp nhằm tiết kiệm chi phí kinh doanh: Tiết kiệm chi phí là biện pháp cơ sở để tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Tiết kiệm chi phí còn tạo tiền đề thuận lợi để doanh nghiệp có thể hạ thấp giá bán, tăng khả năng cạnh tranh mà vẫn đảm bảo mức lãi thoả đáng. Tiết kiệm chi phí không đồng nghĩa với việc cắt giảm chi phí, mà tiết kiệm chi phí là chi tiêu có hiệu quả hay nói cách khác một đồng chi phí bỏ ra phải thu được lợi ích lớn nhất. Để tiết kiệm chi phí doanh nghiệp cần tiến hành các biện pháp chủ yếu sau: Thứ nhất: Lựa chọn nguồn hàng thích hợp Trong nền kinh tế thị trường, một mặt hàng kinh doanh có thể có nhiều người cung cấp khác nhau, điều này dẫn đến giá trị hàng hoá, uy tín của hàng hóa cũng khác nhau. Do vậy doanh nghiệp cần lựa chọn cho mình nguồn cung cấp hàng hoá tối ưu. Muốn vậy công ty cần phải tìm kiếm khai thác được các nguồn hàng rẻ nhất mà vẫn đảm bảo được chất lượng. Công ty có thể khai thác nguồn hàng trực tiếp từ việc tìm kiếm các thông tin trên mạng Internet hoặc thông qua các bạn hàng hoặc khách hàng của mình. Để có thể trực tiếp nắm bắt các thông tin tìm kiếm các nguồn hàng, công ty nên đặt các văn phòng đại diện tại các nước mà công ty thường xuyên có quan hệ hợp tác. Khi có nhiều nguồn hàng, công ty mới có điều kiện lựa chọn nguồn hàng phù hợp nhất, với chi phí ít nhất. Với việc thanh toán nhanh, sòng phẳng công ty có thể nhận được sự giảm giá đồng thời gây dựng mối quan hệ làm ăn lâu dài. Thứ hai: Giảm chi phí tiền lương: Trong những năm tới công ty phải giảm được chi phí tiền lương thông qua việc sắp xếp lại cơ cấu tổ chức, biên chế lao động, giải quyết tình trạng dư thừa lao động như hiện nay. Công ty nên có những chủ trương khuyến khích người lao động không có khả năng làm việc về hưu sớm, đồng thời có trợ cấp xứng đáng bằng tiền trích ra từ quỹ lương, thực hiện được điều này công ty sẽ giảm được sự lãng phí trong chi phí tiền lương. Bên cạnh đó công ty cũng nên có những chính sách, cơ chế khen thưởng người lao động, tạo không khí thi đua trong toàn công ty, nâng cao hiệu quả làm việc của người lao động. Thứ ba: Giảm chi phí văn phòng và các dịch vụ mua ngoài: Để giảm được hai loại chi phí này, trước hết ban lãnh đạo phải quán triệt ý thức tiết kiệm đến từng phàng ban, từng nhân viên và có biện pháp quản lí chi phí chặt chẽ, tránh tình trạng “của chùa”. Ví dụ: đối với chi phí điện nước nên tắt những thiết bị không dùng đến, hoặc sử dụng hợp lí đối với điện thoại và internet, cần có hệ thống quản lí các cuộc gọi và truy cập vì hiện nay cước phí cho hai loại dịch vụ này là rất đắt. 3.2.2 Các giải pháp khác nhằm nâng cao doanh thu và tiết kiệm chi phí: 3.2.2.1 Các giải pháp tài chính: * Xây dựng cơ cấu vốn tối ưu: Cơ cấu vốn tối ưu là cơ cấu vốn mà ở đó chi phí vốn bình quân là thấp nhất. Việc nghiên cứu cơ cấu vốn ở công ty điện máy – xe đạp – xe máy cho thấy tỷ lệ nợ trong tổng nguồn vốn của công ty là rất lớn (chiếm khoảng 94% tổng nguồn vốn) trong đó chủ yếu là nợ ngắn hạn. Việc tỷ trọng nợ quá cao trong tổng nguồn vốn của công ty khiến cho sức ép trả lãi cũng như trả nợ của công ty là rất lớn. Mặt khác điều đó còn tạo ra khó khăn cho công ty khi công ty muốn tăng cường nguồn vốn để tài trợ cho các dự án kinh doanh của mình, bởi vì các nhà cung ứng vốn thường lựa chọn để tài trợ cho những doanh nghiệp có nguồn tài chính lành mạnh. Như vậy nhu cầu vốn trong tương lai va những hậu quả của thiếu vốn có ảnh hưởng quan trọng tới mục tiêu cơ cấu vốn của công ty. Bởi vậy trong thời gian tới công ty cần có những giải pháp để xây dựng cơ cấu vốn hợp lí hơn. Công ty cần xác định chính xác nhu cầu vốn lưu động. Nếu nhu cầu được xác định quá thấp sẽ gây khó khăn cho quá trình kinh doanh của công ty. Khi công ty thiếu vốn sẽ gây những tổn thất như kinh doanh đình trệ, không đảm bảo được hợp đồng đã kí kết với khách hàng do đó sẽ dẫn đến mất tín nhiệm với khách hàng, và không giữ được khách hàng. Ngược lại nếu nhu cầu vốn xác định quá cao cũng gây những khó khăn cho công ty như ứ đọng vật tư hàng hoá, lãng phí vốn, vốn lưu động chậm luân chuyển và phát sinh nhiều chi phí không hợp lí làm cho giá thành tăng lên ảnh hưởng tới lợi nhuận của công ty. Như vậy công ty cần xác định nhu cầu vốn lưu động là số vốn đủ để đảm bảo cho quá trình kinh doanh được tiến hành một cách liên tục và tiết kiệm hợp lí. Từ đó xây dựng một cơ cấu vốn hợp lí. Sau khi xác định được một cơ cấu vốn tối ưu, thì công ty cần có những biện pháp để xây dựng được cơ cấu vốn tối ưu đó bằng cách: Tích cực đàm phán với các ngân hàng để giảm bớt các khoản nợ và chi phí trả lãi vay. Trong năm 2003 đánh dấu thành công đáng kể của công ty đã kéo dài thời hạn trả nợ cho các khoản vay đến hạn 5 tỷ đồng, giảm gần một tỷ đồng lãi vay. Tuy nhiên đây vẫn là một con số nhỏ bé so với khoản nợ ngắn hạn của công ty hiện nay là 70 tỷ đồng, dự kiến năm 2005 khoản nợ đến hạn là 15 tỷ đồng, lãi vay (kể cả lãi vay quá hạn) là 3,5 tỷ đồng. Do đó công ty xin gia hạn với cam kết công ty sẽ thanh toán các khoản nợ dưới sự bảo lãnh của Bộ thương mại Doanh nghiệp cần khai thác nguồn vốn thương mại hay còn gọi là tín dụng của nhà cung cấp. Nguồn này được khai thác một cách tự nhiên, tiện lợi và linh hoạt trong kinh doanh, mặt khác nó còn tạo khả năng mở rộng quan hệ hợp tác lâu dài. Công ty nên duy trì mối quan hệ làm ăn lâu dài với các khách bán hàng cũng như mua hàng của minh để từ đó có thể được hưởng một số ưu đãi như mua hàng được trả chậm hay khách hàng đồng ý ứng trước một số tiền lớn. Công ty cũng nên tìm kiếm nguồn vốn ưu đãi của các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước để hưởng mức lãi suất cho vay thấp hơn. Chủ động tìm kiếm nguồn vốn trung và dài hạn như vốn ngân sách cấp bổ sung, vay ngân hàng, tìm kiếm các đối tác cùng góp vốn liên doanh, phát hành trái phiếu, vay vốn từ cán bộ công nhân viên công ty để dần thay thế nguồn vốn ngắn hạn. Trong cơ chế thị trường, với kết quả đạt được trong năm 2004 thì việc sử dụng vốn vay (từ ngân hàng, phát hành trái phiếu) sẽ khuyếch đại kết quả kinh doanh và tiết kiệm được thuế từ các khoản lãi vay. Mặt khác hiện nay việc vay vốn từ ngân hàng hết sức thuận lợi đã có mức lãi trần cho vay hợp lí nhằm đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của đơn vị. Đặc biệt đối với doanh nghiệp thế chấp, không giới hạn theo tỷ lệ vốn điều lệ của doanh nghiệp mà căn cứ vào hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty. Tuy nhiên đây là các khoản vay dài hạn, lãi suất phải trả cao, bên cạnh đó khoản nợ công ty còn tồn đọng khá lớn, việc huy động vốn từ ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn, trước tình hình đó công ty cần nghiên cứu các hình thức huy động vốn trung và dài hạn bằng cách phát triển hình thức vay vốn từ cán bộ công nhân viên trong công ty. Đây được xem là hình thức huy động vốn hiệu quả nhất vì nó tránh được các thủ tục phiền hà khi đi vay, cắt giảm các khoản chi phí không cần thiết mà lại huy động vốn được kịp thời, phát huy nội lực bên trong công ty. Muốn vậy công ty cần xây dựng một mức lãi suất hợp lí, thời gian thanh toán linh hoạt, đảm bảo lợi ích người cho vay. * Sử dụng hiệu quả nguồn vốn: Xây dựng cơ cấu vốn tối ưu và huy động kịp thời nguồn vốn là điều kiện cần thiết để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Nhưng vấn đề quan trọng là quản lí và sử dụng vốn đó như thế nào để có hiệu quả. Trong những năm qua, quản lí vốn của công ty còn lãng phí, chưa hiệu quả thu nhập mang lại chưa tương xứng với đồng vốn bỏ ra. Vì vậy công ty cần quản lí tốt hơn vốn lưu động và vốn cố định của mình. - Quản lí chặt chẽ vốn cố định: Quản lí chặt chẽ vốn cố định bao gồm quản lí hệ thống nhà xưởng, kho tàng, bến bãi. Trong năm 2004 công ty đã tiến hành cho thuê văn phòng, nhà xưởng giảm sự lãng phí trong sử dụng tài sản đồng thời mang lại nguồn thu nhập cho công ty. Trong tương lai khi nhu cầu sử dụng văn phòng và các nhà kho chưa tăng lên so với diện tích hiện nay đang sử dụng thì công ty nên tiếp tục kí kết hợp đồng cho thuê, mang về nguồn thu ổn định- đây cũng là một trong những mục tiêu của doanh nghiệp. - Tăng cường công tác quản lí vốn lưu động: Thứ nhất: Công ty cần thực hiện công tác quản lí dự trữ Một trong những vấn đề quan trọng đặt ra trong công tác quản lí vốn lưu động là cần xác định cho được mức dự trữ tiền mặt một cách hợp lí và có hiệu quả nhất. Tuy nhiên các nhà kinh tế cho rằng: để tìm được một mức dự trữ tiền mặt hợp lí nhất thì trước hết cần dựa vào mức dự trữ vật tư, mức vật tư hợp lí sẽ quyết định mức cân đối tiền mặt hợp lí. Trong quá trình luân chuyển vốn lưu động phục vụ cho kinh doanh thì việc tồn tại vật tư, hàng hoá dự trữ, tồn kho là một bước đệm cần thiết cho quá trình hoạt động bình thường của công ty. Nếu công ty dự trữ quá lớn sẽ tốn kém chi phí, ứ đọng vốn, còn nếu dự trữ quá ít sẽ làm cho quá trình kinh doanh sẽ bị gián đoạn gây ra hàng loạt các hậu quả tiếp theo. Do vậy công ty cần dự đoán nhu cầu thị trường đưa ra các khả năng của công ty trong việc đáp ứng nhu cầu đó để thực hiện việc quản lí, dự trữ cho phù hợp. Thứ hai: Công ty cần quan tâm hơn nữa tới việc quản lí tiền mặt Chi phí cơ hội cho việc giữ tiền mặt là lãi suất mà công ty bị mất đi. Do vậy công ty cần quan tâm hơn nữa đến công tác này để xác định nhu cầu tiền một cách hợp lí, đảm bảo lượng tiền mặt cần thiết phục vụ cho quá trình kinh doanh. Điều này giúp công ty có những lợi thế sau: Khi mua hàng hoá, dịch vụ nếu đủ tiền mặt công ty có thể được hưởng những lợi thế chiết khấu. Giữ đủ tiền mặt, duy trì tốt chỉ số thanh toán ngắn hạn giúp công ty có thể mua hàng với những điều kiện thuận lợi và được hưởng hạn mức tín dụng rộng rãi. Giữ đủ tiền mặt giúp công ty tận dụng những cơ hội thuận lợi trong kinh doanh do chủ động trong các hoạt động thanh toán, chi trả đáp ứng nhu cầu trong các trường hợp khẩn cấp như: đình công, chiến dịch Marketing của đối thủ cạnh tranh, vượt qua khó khăn do yếu tố thời vụ và chu kì kinh doanh. Như vậy quản lí tiền mặt là một việc làm cần thiết mà công ty phải thực hiện bằng được, trong đó việc lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ góp phần quản lí kinh doanh có hiệu quả, giảm chi phí lãi vay ngân hàng. Thứ ba: công ty cần quản lí chặt chẽ các khoản thu. Tuy chính sách cung cấp tín dụng cho khách hàng cũng là biện pháp tài chính của công ty nhằm đẩy mạnh công tác tiêu thụ hàng hoá, nâng cao doanh thu nhưng với tỷ lệ khoản phải thu như hiện nay (chiếm khoảng 10% doanh thu thuần) trong đó 70% là khoản phải thu từ khách hàng đã làm giảm kì luân chuyển vốn, giảm hiệu suất sử dụng vốn kinh doanh và số vòng quay vốn lưu động. Vì vậy công ty cần có biện pháp tích cực nhằm giảm khoản phải thu xuống 5% doanh thu thuần. * Hoàn thiện hơn công tác lập kế hoạch tài chính và công tác phân tích tài chính: Muốn phát triển bền vững, công ty cần phải dự đoán được sự thay đổi của môi trường kinh doanh để sẵn sàng thích nghi với nó. Phân tích tài chính là cơ sở để dự đoán tài chính, từ đó giúp cho nhà quản lí tài chính ra quyết định đúng đắn kịp thời. Đồng thời việc phân tích tài chính cũng là một cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch tài chính cho công ty. * Tăng cường hoạt động góp vốn liên doanh: Trong nền kinh tế thị trường, hướng đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp thương mại không chỉ khép kín và giới hạn trong phạm vi nội bộ doanh nghiệp mà còn có thể đầu tư một bộ phận vốn kinh doanh bên ngoài doanh nghiệp. ở công ty điện máy – xe đạp – xe máy cũng vậy, khi thực hiện nhiệm vụ này công ty vừa thực hiện khả năng sinh lời từ sản phẩm, nguồn vốn hiện có vừa đảm bảo được an toàn trong kinh doanh nếu bản thân công ty gặp rủi ro. Mặt khác công ty nên tìm kiếm đối tác liên doanh chấp nhận góp vốn bằng tài sản cố định để dùng sản xuất, kinh doanh những mặt hàng mà xã hội luôn có nhu cầu. Nếu thực hiện tốt các pháp tài chính trên sẽ giúp công ty chuyển đổi sang hình thức công ty cổ phần. Đây là hình thức khá phổ biến ở Việt Nam hiện nay và đã phát huy những ưu điểm của nó như nâng cao hiệu quả quản lí, huy động thêm vốn cho công ty... Mặt khác, đây cũng là vấn đề nằm trong chính sách tổ chức sắp xếp lại doanh nghiệp của nhà nước ta. Do đó nếu công ty tiến hành cổ phần hoá được thì sẽ được hưởng những chính sách ưu đãi của nhà nước. Tuy nhiên đây cũng không phải là việc đơn giản bởi lẽ công ty sẽ gặp phải những khó khăn như: đánh giá lại tài sản, xác định giá trị của công ty. Hơn nữa hoạt động kinh doanh của công ty đang gặp rất nhiều khó khăn, các khoản nợ của công ty còn quá nhiều nên việc bán cổ phiếu ra ngoài công ty sẽ khó thực hiện. Muốn thực hiện điều này đòi hỏi sự cố gắng toàn thể cán bộ công nhân viên công ty đoàn kết, đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ hàng hoá, giúp doanh nghiệp đững vững trên thị trường và dần lấy lại lòng tin với khách hàng có như vậy doanh nghiệp mới có hy vọng cải thiện tình hình tài chính của mình. 3.2.2.2 Hoàn thiện bộ máy quản lí và sử dụng có hiệu quả nguồn lao động: Một điều quan trọng không thể không nhắc đến đó là: công ty cần chú trọng nhân tố con người vì nhân tố này đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của công ty. Sau đây chúng ta sẽ xem xét cụ thể về giải pháp sử dụng con người tại công ty. Đối với mỗi công ty, tổ chức bộ máy quản lí đóng vai trò quyết định đối với sự thành công trong kinh doanh. Đây chính là bộ phận chỉ đạo mọi hoạt động của công ty, xây dựng các mục tiêu kế hoạch và hoạch định chiến lược kinh doanh. Không ngừng cải tiến và hoàn thiện bộ máy quản lí là cơ sở cho sự phát triển lâu dài của công ty. Nhìn chung cơ cấu quản lí phòng ban ở công ty là hợp lí, các phòng ban được sắp xếp có chức năng phù hợp với từng lĩnh vực chuyên môn như phòng kế toán tài chính, phòng tổ chức, phòng kinh doanh... Trong đó phòng kinh doanh được tách ra thành 3 phòng độc lập nhằm quản lí tốt hơn hoạt động kinh doanh của từng nhóm hàng, ngành hàng như phòng kinh doanh điện máy, phòng kinh doanh xe đạp – xe máy, phòng kinh doanh vật tư. Các chi nhánh, các cửa hàng của công ty hoạt động một cách độc lập, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh của đơn vị mình. Do vậy công tác quản lí các chi nhánh và cửa hàng này đòi hỏi phải thường xuyên được giám sát tránh tình trạng gian lận, và các vấn đề phát sinh khác trong đơn vị kinh doanh. Công ty cần chú trọng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên. Hiện nay công ty có khoảng gần 500 nhân viên, trong đó chỉ có gần 70% được đào tạo chuyên nghiệp, trong đó 87% được đào tạo trong cơ chế cũ, chưa đáp ứng được nhiệm vụ kinh doanh, mặt khác trong những năm qua hoạt động kinh doanh gặp nhiều khó khăn, nguồn kinh phí đào tạo còn eo hẹp. Vì vậy trong thời gian tới công ty cần chú trọng bồi dưỡng nghiệp vụ kinh tế và quản trị kinh doanh cho nhân viên công ty với phương châm nhân viên tự bỏ kinh phí là chính cùng với sự hỗ trợ của công ty. Cần tinh giảm bộ máy quản lí, giảm chi phí gián tiếp. Hiện nay lao động gián tiếp chiếm 30% tổng số lao động của công ty song hiệu quả lao động thấp. Theo đánh giá của ban lãnh đạo công ty thì chỉ cần 1/2 số lượng nhân viên gián tiếp này cũng có thể hoàn thành tốt khối lượng công việc của công ty. Do đó công ty cần tích cực vận động cán bộ, nhân viên đủ tiêu chuẩn về nghỉ theo chế độ. Tuy nhiên đây là một công việc không đơn giản muốn thực hiện thành công cần quan tâm tới lợi ích thoà đạng của người lao động khi về nghỉ hưu như trợ cấp hưu trí, trợ cấp khó khăn, ... Bên cạnh đó doanh nghiệp có thể áp dụng nhiều hình thức trả lương khác nhau. Ví dụ có thể trả lương theo sản phẩm, lương khoán, lương theo thời gian...Ngoài ra, doanh nghiệp cần có các chế độ đãi ngộ, khuyến khích người lao động làm việc như: nâng bậc lương, các chế độ tiền thưởng nếu người lao động hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao... điều này sẽ giúp cho người lao động thêm gắn bó với công ty đồng thời nâng cao năng suất lao động. iều nằm làm ăn thua lỗ. 3.3. Một số kiến nghị: Sau khi nghiên cứu về thực trạng hoạt động tại công ty Điện máy – Xe đạp – Xe máy, em xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị sau: Đứng trước thực tế của công ty Điện máy- xe đạp - xe máy, là một doanh nghiệp nhà nước cũng như bao doanh nghiệp nhà nước khác khi chuyển sang cơ chế thị trường đã vấp phải không ít những khó khăn đặc biệt là vấn đề vốn. Thực tế trong những năm gần đây nguồn vốn mà nhà nước cung cấp thực sự rất nhỏ bé không đáp ứng được nhu cầu kinh doanh những mặt hàng có giá trị lớn nên xét thấy nhà nước cần cung cấp thêm vốn cho doanh nghiệp nhằm giảm chi phí lãi vay ngân hàng. Hiện nay công ty đang có dự án hoàn thiện dây chuyền lắp ráp xe máy IKD đây là dây chuyền có tính kĩ thuật cao khi hoàn thành sẽ mang lại lợi ích cho công ty, vì vậy công ty cần có sự hỗ trợ vốn kịp thời từ phía nhà nước. Đồng thời nhà nước cần có sự điều chỉnh vĩ mô để hạn chế việc tăng giá các yếu tố đầu vào như điện, nước, xăng dầu… giúp doanh nghiệp giảm bớt giá thành sản xuất, từ đó xây dựng cơ cấu giá cả phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vừa với túi tiền của người tiêu dùng, nâng cao hiệu quả cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Thêm vào đó Bộ tài chính cần có chính sách giảm bớt mức thuế nhập khẩu một số mặt hàng như ti vi, tủ lạnh, điều hoà, linh kiện xe máy. Đặc biệt là việc Tổng cục hải quan cưỡng chế làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá của công ty và truy thu thuế nhập khẩu linh kiện xe máy năm 2001 đã gây rất nhiều khó khăn cho công ty đặc biệt là trong lúc tình hình tài chính công ty không ổn định như hiện nay. Bên cạnh đó cơ quan hải quan cũng cần tăng cường công tác kiểm soát chặt chẽ các hoạt động buôn lậu, nhập khẩu xe máy trái phép, việc xe máy Trung Quốc tràn lan trên thị trường ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của công ty. Công ty Điện máy – Xe đạp – xe máy là một trong những doanh nghiệp trực thuộc Bộ Thương Mại và chịu sự quản lý chung của ngành. Kết quả kinh doanh của công ty sẽ ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của cả ngành. Do vậy em xin đề xuất một số ý kiến với Bộ Thương Mại như sau: Để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty, đặc biệt là trong công tác quản trị doanh thu và chi phí tại công ty, thì Bộ Thương Mại cần có sự hỗ trợ về vốn cho công ty, nhờ đó mà công ty có thể mở rộng kinh doanh, tạo điều kiện cho công ty kí kết các hợp đồng kinh tế với các bạn hàng, có như vậy công ty mới có thể đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ hàng hoá, nâng cao doanh thu, từ đó có thể trang trải các khoản nợ nần, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty. Thống nhất quản lý chế độ tài chính kế toán trong toàn ngành, giải quyết vốn thanh toán nội bộ. Trong thời gian qua tình trạng nợ đọng, chiếm dụng vốn lẫn nhau của các đơn vị vẫn tồn tại khá phổ biến. Riêng công ty điện máy – xe đạp – xe máy còn phải thu từ các đơn vị trong ngành chiếm tới 50% khoản phải thu của công ty. Tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị kinh doanh trong ngành trong việc kế toán tại cơ sở, đồng thời qua đó mà Bộ Thương Mại dễ dàng giám sát được hiệu quả hoạt động kinh doanh của từng đơn vị, để có những điều chỉnh kịp thời trong công tác nhân sự và quản lý. Phát huy vai trò của Hiệp hội các doanh nghiệp thương mại có thể tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, xây dựng môi trường kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể học hỏi kinh nghiệm của nhau qua nhiều hình thức như tham quan, giới thiệu sản phẩm mới, tổ chức các cuộc triển lãm sản phẩm…Điều này sẽ tạo cơ hội cho doanh nghiệp được cọ sát, từ đó mở rộng thị trường tiêu thụ, tìm kiếm được nhiều đối tác kinh doanh. Đây cũng có thể nói là một động lực giúp các doanh nghiệp thương mại nói chung và công ty Điện máy - xe đạp – xe máy nói riêng tìm ra hướng đi đúng đắn cho doanh nghiệp mình cũng như cơ hội phát triển kinh doanh trong một môi trường kinh doanh lành mạnh. Kết luận Nền kinh tế thị trường với những quy luật của nó vừa tạo ra thời cơ, vừa đặt ra những thách thức đối với các doanh nghiệp. Doanh nghiệp muốn đứng vững trên thị trường đòi hỏi nhà quản trị doanh nghiệp phải biết nắm bắt tận dụng thời cơ, kịp thời đưa ra những chính sách kinh doanh hợp lí mà mục tiêu cần hướng tới đó là tăng doanh thu, giảm chi phí. Qua thời gian tiếp xúc với thực tế tại công ty Điện máy – xe đạp – xe máy được sự giúp đỡ của các cô chú phòng tài chính kế toán, và sự hướng dẫn tận tình của cô giáo TS. Lê Thanh Hoài, em đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình với đề tài “Một số giảI pháp nhằm nâng cao doanh thu và tiết kiệm chi phí tại công ty Điện máy – xe đạp – xe máy”. Do sự hạn chế trong thời gian thực tập tại công ty và trình độ có hạn, luận văn của em không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô, các cô chú trong công ty để bàI viết của em được hoàn thiện hơn. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô giáo TS. Lê Thanh Hoài, các thầy cô giáo bộ môn tài chính và các cô chú trong công ty đã giúp em hoàn thiện luận văn này. Mục lục Mở đầu 1 Kết luận 89 Tài liệu tham khảo ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0345.doc
Tài liệu liên quan