Lời nói đầu
Trong giai đoạn phát triển nền kinh tế đất nước, để thực hiện thắng lợi công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước đòi hỏi phải đáp ứng một như cầu vốn rất lớn, bao gồm cả vốn ngắn hạn và trung dài hạn, trong nước và ngoài nước. Nhưng chủ yếu vẫn là nguồn vốn trong nước. Toàn bộ nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp như vốn đầu tư xây dựng, vốn cố định và vốn lưu động đều phải đi vay. Trong đó vốn trung dài hạn có một vai trò quan trọng, không có nguồn vốn này sẽ kh
72 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1354 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ông thể dịch chuyển được cơ cấu kinh tế.
Hiện nay, do hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ Đông Nam á năm 1997 vừa qua đã dẫn đến dòng vốn từ nước ngoài giảm sút và thị trường chứng khoán chưa ra đời ở Việt Nam thì nhu cầu vốn trung dài hạn cho nền kinh tế đang là vấn đề mà hệ thống ngân hàng tài chính cần phải giải quyết. Đó là việc phát triển tín dụng trung dài hạn ngân hàng, tạo điều kiện cho kinh tế nước ta phát triển theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Đây là nhiệm vụ của ngành ngân hàng nói chung và đặc biệt là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển nói riêng.
Việc phát triển tín dụng ngân hàng không những chỉ mang lại lợi ích cho toàn bộ nền kinh tế mà nó còn mang lại lợi ích thiết thực cho ngân hàng. Do hoạt động tín dụng là hoạt động sinh lời chủ yếu của ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
Tuy nhiên hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại ở nước ta hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, nhiều vấn đề còn tồn tại mà lớn nhất vẫn là chất lượng tín dụng kém rủi ro cao, cho vay ra nhưng không thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi, tỉ lệ nợ quá hạn trong toàn ngành còn cao, theo thống kê vào khoảng 11% trên tổng dư nợ. Nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát triển kinh tế.
Vì vậy vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng đang là một vấn đề được mọi người trong và ngoài ngành quan tâm và giải quyết. Và đang là đề tài của nhiều cuộc trao đổi, thảo luận tại các hội thảo, diễn đàn nghiên cứu.
Qua quá trình học tập, nghiên cứu và trong thời gian thực tập tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - một Ngân hàng giữ vai trò chủ lực trong cho vay trung dài hạn phục vụ đầu tư phát triển kinh tế đất nước, nhận thấy những vấn đề tồn tại trong tín dụng trung và dài hạn, nên em đã chọn đề tài: "Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam" làm luận văn tốt nghiệp của mình.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương I :
Tín dụng ngân hàng và chất lượng tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
Chương II :
Thực trạng chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Chương III:
Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
chương I
tín dụng ngân hàng và chất lượng tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
1 - Tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng là một khái niệm đã tồn tại từ lâu đời trong đời sống xã hội loài người. Theo tiếng Latin, tín dụng là creditim, sự tín nhiệm, điều này có nghĩa là trong quan hệ tín dụng người cho vay tin tưởng rằng người đi vay sẽ hoàn trả vào một ngày nào đó trong tương lai như hai bên đã thoả thuận. Như vậy, một cách đơn giản nhất, tín dụng là quan hệ vay mượn trên nguyên tắc hoàn trả cả vốn lẫn lãi giữa người đi vay và người cho vay. Người cho vay tin tưởng vào người vay sẽ sử dụng vốn có hiệu quả và hoàn trả đúng thời hạn cả vốn lẫn lãi.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng, một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là các tổ chức, cá nhân trong xã hội, trong đó ngân hàng đóng vai trò vừa là người đi vay vừa là người cho vay.
Với tư cách là người đi vay, ngân hàng huy động mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội bằng các hình thức : nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong xã hội.
Với tư cách là người cho vay, ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho các đơn vị, tổ chức, cá nhân khi có nhu cầu thiếu vốn cần được bổ sung trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Với vai trò này, tín dụng ngân hàng đã thực hiện chức năng phân phối lại vốn tiền tệ để đáp ứng yêu cầu tái sản xuất xã hội - cơ sở khách quan để hình thành chức năng phân phối lại vốn tiền tệ cuả tín dụng ngân hàng là do đặc điểm tuần hoàn vốn trong quá trình tái sản xuất xã hội đã thường xuyên xuất hiện hiện tượng tạm thời thừa vốn ở các tổ chức cá nhân này, trong khi các tổ chức cá nhân khác lại có nhu cầu thiếu vốn. Hiện tượng thừa thiếu vốn phát sinh do có sự chênh lệch về thời gian, số lượng giữa các khoản thu nhập và chi tiêu ở tất cả các tổ chức cá nhân trong quá trình tái sản xuất đòi hỏi phải được tiến hành liên tục. Tín dụng thương mại đã không giải quyết được vấn đề này, chỉ có ngân hàng là tổ chức chuyên kinh doanh tiền tệ mới có khả năng giải quyết mâu thuẫn đó khi ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay vừa là người cho vay
Có ba loại quan hệ chủ yếu trong quan hệ tín dụng ngân hàng, bao gồm :
Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với doanh nghiệp.
Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với dân cư.
Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với các ngân hàng khác trong và ngoài nước.
Ngày nay, tín dụng ngân hàng đã và đang là nhân tố thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, điều tiết và di chuyển vốn, tăng thêm tính hiệu quả của vốn tiền tệ trong nền kinh tế thị trường.
1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
1.2.1. Vai trò của tín dụng đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng
- Hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của một ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. Hoạt động tín dụng mang lại lợi nhuận nhiều nhất cho một ngân hàng thương mại.
Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội, là trung gian chuyển vốn từ người thừa vốn sang người thiếu vốn để đầu tư. Ngay từ buổi ban đầu, hoạt động của ngân hàng thượng mại đã tập trung chủ yếu vào nghiệp vụ nhận tiền gửi và cho vay để đáp ứng nhu cầu thiếu hụt nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế trong quá trình sản xuất kinh doanh hoặc nhu càu tiêu dùng cá nhân. Trong quá trình phát triển, mặc dù môi trường kinh doanh có nhiều thay đổi, nhiều phương pháp, công cụ kinh doanh mới xuất hiện nhưng hoạt động tín dụng vẫn luôn là hoạt động cơ bản, chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ các hoạt động của ngân hàng thương mại. Hoạt động cho vay thường chiếm trên 70% tổng tài sản có và tỷ trọng huy động tiền gửi thường chiếm trên 60% tổng tài sản nợ của các ngân hàng thương mại. Lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng thường chiếm tỷ lệ cao, ở các nước phát triển khoảng 60% trên tổng lợi nhuận của ngân hàng. ở nước ta trong giai đoạn hiện nay chiếm khoảng 90% lợi nhuận. Điều này thể hiện rõ hoạt độngtín dụng là hoạt động đi vay để cho vay và là hoạt động kinh doanh chủ yếu của các ngân hàng thương mại.
Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng ngày càng được phát triển một cách đa dạng với sự tham gia của nhiều chủ thể kinh tế, theo đó quan hệ tín dụng cũng được mở rộng cả về đối tượng và quy mô làm cho hoạt động tín dụng ngân hàng càng đa dạng và phức tạp hơn. Để ngân hàng thương mại có thể đứng vững trong điều kiện cạnh tranh thị trường gay gắt và phục vụ nền kinh tế ngày càng tốt hơn, đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải đa dạng hoá hoạt động kinh doanh của mình và nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng.
1.2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
- Tín dụng ngân hàng huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng trong tất cả các thành phần kinh tế để cho các doanh nghiệp, cá nhân vay, góp phần mở rộng sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Sự có mặt của tín dụng ngân hàng được coi như là một công cụ để giải quyết mâu thuẫn giữa người thừa vốn và người thiếu vốn. Lợi tức đi vay và cho vay của ngân hàng luôn là công cụ điều chỉnh các quan hệ cung cầu vốn tín dụng. Nhờ có ngân hàng mà vốn tiền tệ được vận động một cách liên tục, điều đó vừa làm tăng khả năng tích luỹ tư bản (bao gồm cả lợi nhuận )của các ngân hàng, vừa thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế nhờ vào nguồn thu từ việc cấp tín dụng của ngân hàng.
- Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển với các ngành kinh tế mũi nhọn. Tín dụng ngân hàng góp phần thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp-nông nghiệp - dịch vụ. Ngân hàng cung cấp cho các ngành thực hiện đầu tư theo cả chiều rộng và chiều sâu, hình thành các ngành sản xuất mũi nhọn, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và khai thác triệt để các nguồn lực, điều này thể hiện qua việc cấp tín dụng cho các dự án, chương trình phát triển để khuyến khích đẩy nhanh tốc độ dịch chuyển cơ cấu kinh tế.
- Tín dụng ngân hàng tác động có hiệu quả tới sản xuất, thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ, doanh nghiệp cần vốn đầu tư máy móc thiết bị và luôn phải đổi mới công nghệ... tín dụng ngân hàng đáp ứng được yêu cầu đó với điều kiện phải hoàn trả cả vốn vay và lãi ; nếu vi phạm hợp đồng tín dụng, doanh nghiệp phải chịu phạt như chịu lãi suất nợ quá hạn cao, mất quyền sử dụng tài sản thế chấp...do vậy, doanh nghiệp luôn phải nâng cao hiệu quả sản xuất, cạnh tranh trên thị trường để kinh doanh có lãi, thu hồi vốn đầu tư trả nợ cho ngân hàng.
- Tín dụng ngân hàng góp phần tích cực vào sự phát triển các công ty cổ phần. Để thành lập công ty cổ phần đòi hỏi phải có một số vốn ban đầu do các cổ đông đóng góp và ngân hàng có thể là một cổ đông lớn. Và trong quá trình hoạt động, việc phát hành việc phát hành cổ phần mới thông qua ngân hàng là một biện pháp hữu hiệu.
- Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện cho việc phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại. Trong điều kiện hiện nay, các nước đều thực hiện nền kinh tế mở, nên nhu cầu giao lưu kinh tế với các nước khác là rất cần thiết. Tín dụng ngân hàng là một phương tiện nối liền kinh tế các nước với nhau thông qua hoạt động đầu tư vốn xuyên quốc gia. Mặt khác, muốn kinh doanh xuất nhập khẩu thì phải có vốn và vốn tín dụng ngân hàng sẽ đáp ứng nhu cầu này kịp thời.
Như vậy, tín dụng ngân hàng có một vai trò rất lớn, không chỉ đối với ngân hàng mà còn đối với xã hội. Xã hội càng phát triển thì tín dụng ngân hàng càng trở nên cần thiết.
1.3. Các hình thức tín dụng ngân hàng
Ngân hàng cấp tín dụng dưới nhiều hình thức khác nhau, và luôn tìm ra các hình thức tín dụng mới phù hợp và đáp ứng nhu cầu của quá trình tái sản xuất, từ đó đa dạng hoá danh mục đầu tư để mở rộng tín dụng, thu hút thêm nhiều khách hàng, tăng lợi nhuận và thực hiện phân tán rủi ro. Theo những căn cứ khác nhau thì tín dụng ngân hàng có các hình thức khác nhau :
Nếu căn cứ vào mục đích sử dụng có các hình thức tín dụng sau:
Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Cho vay công nghiệp và thương mại: là loai cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu...
Cho vay tiêu dùng cá nhân: là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm các vật dụng đắt tiền. Ngày nay ngân hàng còn thực hiện cho vay để trang trải chi phí thông thường của đời sống thong qua phát hành thẻ tín dụng.
Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng có các hình thức tín dụng sau:
- Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của khách hàng.
- Cho vay không có bảo đảm: là loại cho vay phải có tìa sản thế chấp, cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba.
Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng có các hình thức tín dụng sau:
- Cho vay bằng tiền: là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được cung cấp bằng tiền như tín dụng ứng trước, thấu chi, tín dụng thời vụ, tín dụng trả góp...
- Cho vay bằng tài sản: phổ biến là tài trợ thuê mua.
Căn cứ vào xuất xứ tín dụng có các hình thức tín dụng sau:
- Cho vay trực tiếp: ngân hàng trực tiếp cấp vốn cho khách hàng và khách hàng trực tiếp trả gốc và lãi cho ngân hàng.
- Cho vay gián tiếp: là khoản cho vay được thực hiên thông qua việc mua lại các khế ước hoặc các chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán. gồm các hình thức :
Chiết khấu thương mại
Mua các phiếu bán hàng tiêu dùng và máy móc trả góp
Mua các khoản nợ của doanh nghiệp ( factoring)
Tín dụng chấp nhận
+ Tín dụng chứng từ
Căn cứ vào thời hạn cho vay có các hình thức tín dụng sau:
- Cho vay ngắn hạn: loại này có thời hạn dưới 12 tháng và được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
- Cho vay trung và dài hạn:
Theo quy định của NHNN Việt Nam tín dụng trung và dài hạn là các khoản vay có kỳ hạn trên một năm, từ 1 đến 3 năm coi là tín dụng trung hạn và từ 3 năm trở lên được coi là tín dụng dài hạn.
Tín dụng trung và dài hạn là nhằm thoả mãn các nhu cầu về mua sắm máy móc thiết bị khoa học công nghệ, xây dựng cơ sở vật chất của một doanh nghiệp. Trong một nền kinh tế, nhu cầu tín dụng trung và dài hạn thường xuyên phát sinh do các doanh nghiệp luôn tìm cách phát triển mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ, đổi mới các phương tiện vận chuyển, kỹ thuật tin học. ..
Đặc điểm của tín dụng trung và dài hạn là thời hạn cho vay dài nên tính rủi ro càng cao, do đó lãi suất cho vay trung và dài hạn thường là phải cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn. Hơn nữa chính vì mục đích cho vay khác nhau nên tín dụng ngắn hạn có thể xem như một bộ phận đảm bảo khả năng thanh khoản của ngân hàng, còn tín dụng trung và dài hạn chịu tác động của nhiều yếu tố thay đổi như chính sách Nhà nước, thị trường. ..nên tính lỏng kém, rủi ro cao. Do vậy các ngân hàng muốn có sự bảo đảm chắc chắn hơn. Tài sản dùng để đảm bảo cho nợ vay phải có giá trị lâu dài, không bị mất giá theo thời gian. Giá trị các tài sản đảm bảo nợ phải được đánh giá đúng và mức đảm bảo nợ chọn ở mức nhỏ hơn giá trị tài sản thế chấp.
Nguồn hình thành nên tín dụng trung và dài hạn chủ yếu là vốn tự có của các ngân hàng thương mại do góp vốn hoặc do tích luỹ được trong quá trình kinh doanh. Ngoài ra còn được hình thành từ những nguồn huy động vốn của dân cư dưới hình thức phát hành trái phiêú dài hạn,tiền gửi dài hạn hoặc vốn vay từ ngân hàng Nhà nước, hoặc vay nợ nước ngoài... nhưng những nguồn này có số lượng hạn chế, không đáng kể. Thời hạn cho vay, kỳ hạn trả nợ và mức trả nợ của từng kỳ hạn của loại hình tín dụng này được xác định theo tính chất khoản vay, chu chuyển vốn vay phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh, nguồn vốn trả nợ của khách hàng và được ghi rõ ràng vào hợp đồng tín dụng và khế ước.
Tín dụng ngân hàng nói chung và tín dụng trung dài hạn nói riêng đều có vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế đang phát triển. Tín dụng trung dài hạn ngày càng được các doanh nghiệp yêu thích hơn vì phù hợp với điều kiện thực tế của các doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp nhỏ. Các doanh nghiệp cổ phần cũng thích vay trung và dài hạn hơn việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
Tín dụng trung và dài hạn sử dụng cho việc mua sắm nhà xưởng, máy móc, thiết bị của các doanh nghiệp để cải tiến công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm hoặc để mở rộng sản xuất chiếm lĩnh thị trường mới. Có thể nói tín dụng trung và dài hạn là trợ thủ đắc lực của các doanh nghiệp trong việc thoả mãn các cơ hội kinh doanh. Khi có cơ hội kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải mở rộng sản xuất, gia tăng lượng sản phẩm để chiếm lĩnh thị trường, khi cơ hội sản xuất không còn vốn được hoàn trả ngân hàng cho vay. Đó là ưu thế của vốn trung và dài hạn, nó linh hoạt hơn các hình thức huy động vốn dài hạn khác như trái phiếu, cổ phiếu, tránh được các chi phí phát hành, lệ phí bảo hiểm, đăng ký chứng khoán...
Trong điều kiện Việt nam hiện nay, nhu cầu vốn trung dài hạn cho đầu tư xây dựng các công trình sản xuất kinh doanh mới hiện đại hoá các công nghệ sản xuất, mở rộng các ngành sản xuất đang có.. . đòi hỏi phải có một nhu cầu vốn rất lớn. Nhu cầu vốn này được thoả mãn một phần bằng vốn ngân sách cấp phát, vay nước ngoài và một phần như huy động từ dân cư. nhưng cho dù là nguồn vốn xuất phát từ đâu, việc cung cấp tín dụng thông qua hệ thống các ngân hàng thương mại, đặc biệt là các ngân hàng thương mại quốc doanh dưới hình thức cho vay trung và dài hạn là rất quan trọng và khả thi.
Vấn đề là các ngân hàng thương mại làm sao cung cấp tín dụng nói chung, tín dụng trung dài hạn nói riêng có hiệu quả, chất lượng. Vậy chất lượng tín dụng ngân hàng được hiểu như thế nào, biểu hiện thông qua các chỉ tiêu gì và những nhân tố nào ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, phần tiếp theo sẽ đề cập đến vấn đề này.
2- Chất lượng tín dụng ngân hàng
2.1. Khái niệm chất lượng tín dụng ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì cạnh tranh là một tất yếu khách quan, sản xuất hàng hoá càng phát triển thì cạnh tranh càng gay gắt. Cạnh tranh diễn ra trên 3 phương diện chủ yếu :chất lượng, giá cả và số lượng, trong đó chất lượng là yếu tố quan trọng hàng đầu, tạo điều kiện nâng cao tỷ lệ chiếm lĩnh thị trường. Có nhiều quan niệm về chất lượng sản phẩm như “ chất lượng là phù hợp với mục đích sử dụng” hoặc “ là một trình độ dự kiến trước về độ đồng đều và độ tin cậy với chi phí thấp phù hợp với thị trường ”. Theo hiệp hội tiêu chuẩn Pháp thì chất lượng là “ năng lực của một sản phẩm hoặc một dịch vụ nhằm thoả mãn những nhu cầu của người sử dụng”.
Trên cơ sở đó ta có thể hiểu chất lượng tín dụng ngân hàng là sự đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu của khách hàng (người gửi tiền và người vay tiền) trong quan hệ tín dụng, đảm bảo an toàn hay hạn chế rủi ro về vốn, tăng lợi nhuận của ngân hàng, phù hợp và phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội.
Xét trên góc độ hoạt động kinh doanh của ngân hàng thì chất lượng tín dụng là khoản tín dụng được bảo đảm an toàn, sử dụng đúng mục đích, phù hợp với chính sách tín dụng của ngân hàng,hoàn trả gốc và lãi đúng thời hạn, đem lại lợi nhuận cho ngân hàng với chi phí nghiệp vụ thấp,tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường, làm lành mạnh các quan hệ kinh tế, phục vụ tăng trưởng và phát triển.
Xét trên góc độ lợi ích của khách hàng thì khoản tín dụng có chất lượng là phù hợp với mục đích sử dụng của khách hàng với lãi suất và kỳ hạn hợp lý, thủ tục tín dụng đơn giản,thuận tiện,thu hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm bảo được nguyên tắc tín dụng.
Đối với nền kinh tế, khoản tín dụng có chất lượng phải hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh, tiêu dùng hợp pháp, góp phần phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hoá, giải quyết công ăn việc làm, xây dựng các cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, khai thác khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn cho sản xuất, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế.
Chất lượng tín dụng là một khái niệm tương đối, nó vừa cụ thể ( thể hiện thông qua một số chỉ tiêu định lượng được như dư nợ, nợ quá hạn...) vừa trừu tượng (thể hiện qua khả năng thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh tế ...)
Hơn nữa chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp , nó phản ánh mức độ thích nghi của NHTM với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức mạnh của ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại.
Chất lượng tín dụng trung dài hạn cũng không nằm ngoài khái niệm chất lượng tín dụng chung. Có thể hiểu chất lượng tín dụng trung và dài hạn là vốn cho vay trung và dài hạn của Ngân hàng được khách hàng đưa vào quá trình sản xuất kinh doanh dịch vụ... tạo ra một số tiền lớn hơn vừa đủ để hoàn trả gốc và lãi, trang trải chi phí khác và có lợi nhuận, phù hợp với các điều kiện của ngân hàng và của kinh tế xã hội nói chung.
Vậy thì để đánh giá xem xét chất lượng của khoản tín dụng, gồm có những chỉ tiêu nào. Phần sau đây là một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng và sẽ là cơ sở cho sự phân tích thực trạng chất lượng tín dụng trung dài hạn tại NHĐT và PTVN.
2.2. Các chỉ tiêu biểu hiện chất lượng tín dụng Ngân hàng
2.2.1. Nhóm chỉ tiêu chung đánh giá chất lượng tín dụng Ngân hàng
- Tổng vốn huy động : cho biết tổng nguồn tiền NHTM huy động được trong nền kinh tế . Nguồn này chứng tỏ Ngân hàng hoạt động có uy tín, được người gửi tin tưởng, đòng thời cho thấy ngân hàng tham gia vào nhiều hình thức huy động vốn và các dịch vụ ngân hàng.
- Tỷ trọng từng loại tiền gửi trên tổng nguồn vốn huy động: Mỗi loại tiền gửi có các mức lãi suất khác nhau. Chỉ tiêu này xác định kết cấu của nguồn vốn huy động để phát hiện mặt mạnh, mặt yếu của ngân hàng trong kinh doanh . Nếu ngân hàng có tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn cao, ngân hàng đó sẽ có nhiều thuận lợi trong việc tạo ra lợi nhuận. Ngược lại ngân hàng nào có tỉ lệ tiền gửi với lãi suất cao cao chiếm tỷ trọng lớn sẽ gặp khó khăn trong việc giải quyết đầu ra của nguồn vốn.
- Tổng dư nợ: cho biết ngân hàng cho vay được nhiều hay ít. Tiền gửi tại các tổ chức tín dụng, cho các tổ chức tín dụng và các khách hàng vay nhiều cho thấy ngân hàng đã tạo được uy tín với khách hàng, cung cấp nhiều dịch vụ đa dạng, phong phú, tham gia vào nhiều nhiệm vụ thanh toán.
Tổng dư nợ
- Hiêu suất sử dụng vốn vay = ----------------------
Tổng vốn huy động
Chỉ tiêu này giúp các nhà phân tích so sánh khả năng cho vay của ngân hàng với khả năng huy động vốn, đồng thời xác định hiệu quả của một đồng vốn huy động. Chưa thể nói được chỉ tiêu này càng lớn hay càng thấp là tốt, vì nếu tiền gửi ít hơn tiền vay thì ngân hàng phải tìm kiếm nguồn vốn có chi phí cao hơn, nếu tiền gửi nhiều hơn tiền vay, ngân hàng sẽ thừa vốn số vốn thừa coi như lỗ. Tuy nhiên nếu mọi khoản vay đều có hiệu quả thì tỉ lệ này >= 1 là tốt nhất.
Doanh số cho vay trong kỳ
- Vòng quay vốn tín dụng = ---------------------------------
Dư nợ trong kỳ
Chỉ tiêu này thể hiện khả năng tổ chức, quản lý vốn tín dụng, đồng thời thể hiện chất lượng tín dụng của ngân hàng trong việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn tín dụng và đáp ứng nhu cầu khách hàng để có thể đánh giá chính xacs chất lượng tín dụng, các tiêu chuẩn tính toán cần phải đồng nhất trong việc áp dụng đối với từng loại cho vay cụ thể.
- Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ: theo quy định chung của NHNN, các ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ ³7% được xem là ngân hàng yếu kém. Nếu chỉ số này Ê 5% ngân hàng đó được đánh giá là ngân hàng có nghiệp vụ tín dụng tốt, chất lượng cho vay cao và được nhận nhiều thang điểm trong bảng xếp hạng ngân hàng.
Trong loại chỉ tiêu này chia làm 2 loại:
Nợ quá hạn từ 6 - 12 tháng
+ Tỷ lệ nợ quá hạn khê đọng = ------------------------------------
Tổng dư nợ
Đây là các khoản nợ có vấn đề đối với ngân hàng thể hiện chất lượng tín dụng của khoản vay kém chất lượng. Nếu ngân hàng không có biện pháp để xử lý khoản nợ này thì sẽ có thể phải gánh chịu các tổn thất.
Nợ quá hạn trên 1 năm
+ Nợ quá hạn khó đòi = --------------------------------------
Tổng dư nợ
Nếu tỉ lệ này cao có nghĩa ngân hàng không những phải gánh chịu rủi ro tín dụng cao, chất lượng tín dụng kém mà ngân hàng còn có thể nguy cơ mất khả năng thanh toán. Việc đòi nợ đối với những khoản vay này là rất khó khăn và tổn thất là điều rất có thể xảy ra.
2.2.2. Nhóm chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung dài hạn
Đối với về tín dụng trung dài hạn, áp dụng những chỉ tiêu trên có những chỉ tiêu sau để đánh giá chất lượng tín dụng trung dài hạn.
Dư nợ tín dụng trung dài hạn
- Chỉ tiêu dư nợ = ----------------------------------
Tổng dư nợ tín dụng
Chỉ tiêu này cho thấy biến động tỷ trọng dư nợ tín dụng trung dài hạn trong tổng dư nợ tín dụng qua từng thời kỳ. Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ mức độ phát triển nghiệp vụ này càng lớn, mối quan hệ ngân hàng với khách hàng có uy tín.
Nợ quá hạn tín dụng trung dài hạn
- Chỉ tiêu nợ quá hạn = -----------------------------------------
Tổng dư nợ tín dụng trung dài hạn
Nợ khó đòi trung dài hạn
+ Nợ quá hạn khó đòi = --------------------------------
Tổng dư nợ trung dài hạn
Nợ khê đọng trung dài hạn
+ Nợ quá hạn khê đọng = ---------------------------------
Tổng dư nợ trung dài hạn
- Chỉ tiêu lợi nhuận
Lợi nhuận từ tín dụng trung dài hạn
-------------------------------------------
Tổng dư nợ tín dụng trung dài hạn
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng trung dài hạn. Lợi nhuận ở đây phản ánh chênh lệch giữa chi phí đầu vào (lãi suất huy động) và thu lãi đầu ra. Chất lượng tín dụng tốt phải gồm cả lợi nhuận mà tín dụng đó mang lại cho ngân hàng.
Lợi nhuận từ tín dụng trung dài hạn
-------------------------------------------
Tổng lợi nhuận.
Chỉ tiêu này cho phép thấy rõ vai trò, vị trí của tín dụng trung dài hạn đối với hoạt động tín dụng ngân hàng. Chất lượng tín dụng cao thì lợi nhuận thu được càng cao và ngược lại.
Trên đây là những chỉ tiêu chủ yếu để đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng, tiếp theo đây sẽ xem xét những nhân tố nào tác động đến chất lượng tín dụng ngân hàng.
2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng
Có rất nhiều nhân tố tác động đến chất lượng tín dụng ngân hàng, nhưng gộp chung lại có thể phân thành 4 nhóm.
Nhân tố chính sau: + Môi trường kinh tế
+ Môi trường pháp lý
+ Ngân hàng
+ Khách hàng
2.3.1. Nhóm nhân tố thuộc về môi trường kinh tế
Khi nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho tín dụng ngân hàng phát triển . Nền kinh tế ổn định, lạm phát thấp không có khủng hoảng, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tiến hành tốt có hiệu quả mang lại lợi nhuận cao, doanh nghiệp hoàn trả được vốn vay ngân hàng cả gốc và lãi, nên hoạt động tín dụng của ngân hàng phát triển , chất lượng tín dụng được nâng cao. Ngược lại trong thời kỳ suy thoái kinh tế , sản xuất kinh doanh bị thu hẹp, đầu tư, tiêu dùng giảm sút, lạm phát cao, nhu cầu tín dụng giảm, vốn tín dụng đã thực hiện cũng khó có thể sử dụng có hiệu quả hoặc trả nợ đúng hạn cho ngân hàng. Hoạt động tín dụng ngân hàng giảm sút về quy mô và chất lượng.
Mức độ phù hợp giữa lãi suất ngân hàng với mức lợi nhuận của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân cũng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng lợi tức của ngân hàng thu được bị giới hạn bởi lơị nhuận của doanh nghiệp sử dụng vốn vay ngân hàng nên với mức lãi suất cao, các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng không có khả năng trả nợ ảnh hưởng tới sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng và tới toàn bộ nền kinh tế nói chung, hoạt động tín dụng ngân hàng lúc này không còn là đòn bẩy để thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển và chất lượng tín dụng cũng giảm sút.
Ngoài ra những sự biến động về lãi suất thị trường, tỷ giá thị trường cũng ảnh hưởng trực tiếp đến lãi suất của ngân hàng. Bài học từ cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam á đã cho thấy sự mất giá của đồng nội tệ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tín dụng ngân hàng.
2.3.2. Nhóm nhân tố thuộc về môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý được hiểu là một hệ thống luật và văn bản pháp quy liên quan đến hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng.
Trong nền kinh tế thị trường có điều tiết của nhà nước, pháp luật có vai trò quan trọng, là một hàng rào pháp lý tạo ra một môi trường kinh doanh bình đẳng thuận lợi, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh tế , nhà nước, cá nhân công dân, bắt buộc các chủ thể phảp tuân theo.
Nhân tố pháp lý ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, đó là sự đồng bộ thống nhất của hệ thống pháp luật, ý thức tôn trọng chấp hành nghiêm chỉnh những quy định của pháp luật và cơ chế đảm bảo cho sự tuân thủ pháp luật một cách nghiêm minh triệt để.
Quan hệ tín dụng phải được pháp luật thừa nhận, pháp luật quy định cơ chế hoạt động tín dụng, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng lành mạnh, phát huy vai trò đối với sự phát triển kinh tế xã hội, đồng thời duy trì hoạt động tín dụng được ổn định, bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia quan hệ tín dụng. Những quy định pháp luật về tín dụng phải phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển kinh tế xã hội, trên cơ sở đó kích thích hoạt động tín dụng có hiệu quả hơn.
Hiện nay, hệ thống văn bản pháp luật chưa đồng bộ, gây khó khăn cho ngân hàng khi kí kết thực hiện hợp đồng tín dụng. Luật ngân hàng còn nhiều sơ hở, chưa đồng bộ với các văn bản luật khác. Điều này ảnh hưởng đến việc quản lý chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Sự thay đổi chủ trương chính sách của Nhà nước cũng gây ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của các doanh nghiệp . Cơ cấu kinh tế , chính sách xuất nhập khẩu, do thay đổi đột ngột, gây xáo động trong sản xuất kinh doanh , doanh nghiệp không tiêu thụ được sản phẩm , hay chưa có phương án sản xuất kinh doanh mới dẫn đến nợ quá hạn, nợ khó đòi, chất lượng tín dụng giảm sút.
2.3.3. Những nhân tố về phía ngân hàng
Đây là những nhân tố thuộc về bản thân, nội tại ngân hàng liên quan đến sự phát triển của ngân hàng trên tất cả các mặt ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng, gồm: chính sách, công tác tổ chức, trình độ lao động, quy trình nghiệp vụ, kiểm tra, kiểm soát và trang thiết bị.
- Chính sách tín dụng: là đường lối, chủ trương đảm bảo cho hoạt động tín dụng đi đúng quỹ đạo liên quan đến việc mở rộng hay thu hẹp tín dụng, nó có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của một ngân hàng. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng. Bất cứ ngân hàng nào muốn có chất lượng tín dụng cao đều phải có chính sách tín dụng phù hợp với điều kiện của ngân hàngcủa thị trường.
- Công tác tổ chức của ngân hàng:
Ngân hàng có một cơ cấu tổ chức khoa học sẽ đảm bảo được sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các cán bộ, nhân viên, các phòng ban trong ngân hàng, giữa các ngân hàng với nhau trong toàn bộ hệ thống cũng như với các cơ quan khác liên quan đảm bảo cho ngân hàng hoạt động nhịp nhàng, thống nhất có hiệu quả, qua đó sẽ tạo điều kiện đáp ứng kịp thời yêu cầu khách hàng, theo dõi quản lý chặt chẽ sát sao các khoản vốn huy động cũng như các khoản cho vay, từ đó nâng cao hiệu quả tín dụng.
- Chất lượng đội ngũ cán bộ ngân hàng:
Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn tín dụng nói riêng và hoạt động của ngân hàng n._.ói chung. Kinh tế càng phát triển, các quan hệ kinh tế càng phức tạp, cạnh tranh ngày càng gay gắt, đòi hỏi trình độ của người lao động càng cao. Đội ngũ cán bộ ngân hàng có chuyên môn nghiệp vụ giỏi, có đạo đức, có năng lực trong việc quản lý đơn xin vay, thẩm định, đánh giá tài sản thế chấp, giám sát số tiền vay và có các biện pháp hữu hiệu trong việc thu hồi nợ vay của ngân hàng... giáp ngân hàng có thể ngăn ngừa được những rủi ro xảy ra khi thực hiện một khoản tín dụng.
- Quy trình tín dụng:
Đây là những trình tự, những giai đoạn, những bước, công việc cần phải thực hiện theo một thủ tục nhất định trong việc cho vay, thu nợ, bắt đầu từ việc xét đơn xin vay của khách hàng đến khi thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Chất lượng tín dụng tuỳ thuộc vào việc lập ra một quy trình tín dụng đảm bảo tính logic khoa học và việc thực hiện tốt các bước trong quy trình tín dụng cũng như sự phối hợp chặt chẽ nhịp nhàng giữa các bước. Quy trình tín dụng gồm 3 giai đoạn chính:
+ Xét đề nghị vay của khách hàng và thực hiện cho vay. Trong giai đoạn này chất lượng tín dụng phụ thuộc nhiều vào công tác thẩm định khách hàng và việc chấp hành các quy định về điều kiện, thủ tục cho vay của ngân hàng.
+ Kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay và theo dõi rủi ro. Việc thiết lập hệ thống kiểm tra hữu hiệu, áp dụng có hiệu quả các hình thức, biện pháp kiểm tra sẽ góp phần nâng cao chất lượng tín dụng.
+ Thu nợ và thanh lý: sự linh hoạt của ngân hàng trong khâu thu nợ sẽ giúp ngân hàng giảm thiểu được những rủi ro, hạn chế những khoản nợ quá hạn, bảo toàn vốn, nâng cao chất lượng tín dụng.
- Thông tin tín dụng: thông tin tín dụng hết sức cần thiết là cơ sở để xem xét, quyết định cho vay hay không cho vay và theo dõi, quản lý khoản cho vay với mục đích đảm bảo an toàn và hiệu quả đối với khoản vốn cho vay. Thông tin tín dụng có thể được thu được từ nhiều nguồn: hồ sơ vay vốn, thông tin giữa các tổ chức tín dụng, thông tin về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh ... thông tin càng đầy đủ, chính xác và kịp thời, toàn diện thì khả năng ngăn ngừa rủi ro càng lớn, chất lượng tín dụng càng cao.
- Kiểm soát nội bộ:
Thông qua kiểm soát giúp lãnh đạo ngân hàng nắm được tình hình hoạt động kinh doanh đang diễn ra, những thuận lợi , khó khăn việc chấp hành những quy định pháp luật, nội quy, quy chế, chính sách kinh doanh , thủ tục tín dụng từ đó giúp lãnh đạo ngân hàng có đường lối, chủ trương, chính sách phù hợp giải quyết những khó khăn, vướng mắc, phát huy những nhân tố thuận lợi, nâng cao hiệu quả kinh doanh . Chất lượng tín dụng phụ thuộc vào việc chấp hành những quy định, thể lệ, chính sách và mức độ kịp thời phát hiện sai sót cũng như nguyên nhân dẫn đến sai sót lệch lạc trong quá tình thực hiện một khoản tín dụng
- Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động tín dụng:
Trang thiết bị tuy không phải là yếu tổ cơ bản nhưng góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng. Nó là công cụ, phương tiện thực hiện tổ chức, quản lý ngân hàng kiểm soát nội bộ, kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay, thực hiện các nghiệp vụ giao dịch với khách hàng. Đặc biệt, với sự phát triển như vũ bão về công nghệ thông tin hiện nay các trang thiết bị tin học đã giúp cho ngân hàng có được thông tin và xử lý thông tin nhanh chóng, kịp thời, chính xác , trên cơ sở đó có quyết định tín dụng đúng đắn, không bỏ lỡ thời cơ trong kinh doanh giúp cho quá trình quản lý tiền vay và thanh toán được thuận tiện nhanh chóng và chính xác.
2.3.4. Các nhân tố thuộc về phía khách hàng
Để đảm bảo khoản tín dụng xử dụng có hiệu quả, mang lại lợi ích cho ngân hàng góp phần vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội thì khách hàng có vai trò hết sức quan trọng. Một khách hàng có tư cách đạo đức tốt, có tình hình tài chính vững vàng, có thu nhập sẽ sẵn sàng hoàn trả đầy đủ những khoản vốn vay của Ngân hàng khi đến hạn, qua đó đảm bảo an toàn và nâng cao chất lượng và tín dụng. Những nhân tố này bao gồm:
-Trình độ khả năng của cán bộ đội ngũ cán bộ lãnh đạo của doanh nghiệp. Đây là yếu tố quyết định sự thành công của doanh nghiệp. Việc kinh doanh của doanh nghiệp thuận lợi thì không có doanh nghiệp thua lỗ, phá sản và ai cũng có thể trở thành người có một doanh nghiệp đứng vững được đòi hỏi hỏi giải quyết tốt 3 vấn đề: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai: Trong điều kiện trình độ sản xuất phát triển nhu cầu tiêu dùng thường xuyên thay đổi, môi trường cạnh tranh gay gắt, với những nguồn lực hạn chế thì quyết định trong kinh doanh càng khó, nó đòi hỏi tập thể người lao động mà đặc biệt là cán bộ lãnh đạo phải có kiến thức, kinh nghiệm và trình độ.
- Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp: Trên cơ sở nhận định một cách khách quan, chính xác khả năng phát triển sản xuất của doanh nghiệp, thị hiếu của người tiêu dùng vơi sản phẩm của doanh nghiệp mình cùng với những yếu tố thuận lợi, khó khăn của môi trường, doanh nghiệp sẽ quyết định kế hoạch chiến lược mở rộng thu hẹp hay ổn định sản xuất, từ đó xây dựng các kế hoạch cụ thể về sản xuất, thiêu thụ.Việc xây dựng các kế hoạch kinh doanh đúng đắn quyết định đến dự thành công hay thất bại của của một doanh nghiệp .
- Tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh, tổ chức công tác tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp và hoạt động marketing. Doanh nghiệp tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh khoa học nâng cao năng xuất, chất lượng hiệu quả lao động, tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, làm cho sản phẩm được nhiều người biết đến và đến tay người tiêu dùng một cách dễ dàng,là một cơ sở nền tảngđể hoàn thành kế hoạch đã đề ra. Sản phẩm của doanh nghiệp chiếm lĩnh được thị trường. Doanh nghiệp sẽ có điều kiện mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng lơi nhuận, tăng vòng vay và hiệu quả sử dụng vốn.
- Vốn khả năng tài chính của doanh nghiệp: là cơ sở nền tảng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và khả năng trả nợ của doanh nghiệp.
- Tư cách, đạo đức của người vay: Tư cách đạo đức xét trên phương diện ý muốn hoàn trả khoản nợ vay, trong nhiều trường hợp người vay có ý muốn chiếm đoạt vốn, không hoàn trả nợ vay mặc dù có khả năng trả nợ, điều này đã gây ra những rủi ro không nhỏ cho ngân hàng.
Tóm lại qua việc xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ta thấy tuỳ theo điều kiện kinh tế xã hội, điều kiện về pháp lý của từng nước mà những nhân tố này có ảnh hưởng khác nhau đến chất lượng tín dụng. Vấn đề là phải nắm vững những nhân tố ảnh hưởng và vận dụng sáng tạo trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể thì sẽ nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng.
chương II
thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam
1 - Khái quát về Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam
1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam được thành lập ngày 26/4/1957, lúc đầu được gọi là Ngân hàng kiến thiết Việt Nam trực thuộc Bộ tài chính. Đến nay đã trải qua hơn 42 năm xây dựng và phát triển, với nhiều lần thay họ đổi tên, liên tục có sự thay đổi về chức năng và nhiệm vụ sao cho phù hợp với tình hình, điều kiện và chính sách của Nhà nước, nhưng về bản chất vẫn là một Ngân hàng quốc doanh, có vai trò là Ngân hàng phục vụ cho sự nghiệp xây dựng đầu tư và phát triển, được Chính phủ xếp loại doanh nghiệp nhà nước hạng đặc biệt, giữ vị thế là một trong những Ngân hàng lớn nhất tại Việt Nam.
Trước năm 1975, giai đoạn đất nước có chiến tranh, Ngân hàng đã thực hiện chính sách cấp phát, quản lý vốn, kiến thiết cơ bản tất cả các lĩnh vực thuộc Nhà nước từ nguồn vốn của Ngân sách, cung cấp vốn hàng tỷ đồng cho đất nước xây dựng nền kinh tế phục vụ công cuộc đấu tranh bảo vệ tổ quốc.
Giai đoạn 1976-1985, thời kì khôi phục và phát triển nền kinh tế sau khi thống nhất đất nước. Ngân hàng được đổi tên thành Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng VN trực thuộc Ngân hàng NN Việt Nam. Với nhiệm vụ mới, Ngân hàng cũng thay đổi chính sách của mình cho phù hợp; cấp phát cho vay và quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế.
Đến năm 1986, Đại hội VI Đảng và Nhà nước đã thực hiện đổi mới chuyển kinh tế nước ta từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Theo đó hoạt động của hệ thống Ngân hàng cũng có sự thay đổi lớn, chuyển từ mô hìnhNgân hàng một cấp sang mô hình Ngân hàng hai cấp.
Năm 1990, pháp lệnh Ngân hàng ra đời, Ngân hàng được đổi tên thành Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam với tư cách là một Ngân hàng độc lập thuộc hệ thống các tổ chức tín dụng. Đứng trước sự đổi mới này, Ngân hàng ĐT&PT VN cũng thay đổi về môi trường, quan điểm nhận thức nâng cao trình độ để phù hợp với nền kinh tế thị trường. Nhiệm vụ và chính sách của Ngân hàng cũng thay đổi, đó là Ngân hàng huy động vốn trung và dài hạn để cho vay dự án đầu tư phát triển. Cho vay các dự án thuộc chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước; kinh doanh tiền tệ tín dụng, dịch vụ Ngân hàng chủ yếu trong lĩnh vực xây lắp phục vụ đầu tư và phát triển, mở rộng quan hệ hợp tác đối ngoại.
Để tạo điều kiện cho các hoạt động của Ngân hàng, đáp ứng được nhu cầu thay đổi, phát triển, phục vụ tốt mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, thích ứng với cơ chế trị trường, từ năm 1997 theo quyết định sửa đổi của thống đốc Ngân hàng NN, Ngân hàng ĐT&PT VN được thực hiện nghiệp vụ kinh doanh như một Ngân hàng thương mại. Chính sách của Ngân hàng là huy động vốn ngắn hạn, trung và dài hạn, phục vụ chủ yếu trong lĩnh vực đầu tư và phát triển, thực hiện kinh doanh đa năng tổng hợp, làm Ngân hàng đại lý, Ngân hàng phục vụ trong đầu tư và phát triển.
Ngày 21/9/1999, theo văn bản của Chính Phủ, Thống đốc Ngân hàng NN đã có quyết định số 287QĐ/NH5 về việc thành lập lại Ngân hàng ĐT&PT VN hoạt động theo mô hình Tổng công ty Nhà Nước quy định tại quyết định số 90/TTg ngày 7/3/1999 của Thủ tướng Chính phủ.
Căn cứ ngị định số 39/CP ngày 27/6/1999 của chính phủ ban hành điều lệ mẫu về tổ chức và hoạt động của Tổng công ty Nhà nước, điều lệ Ngân hàng ĐT&PT VN được Thống đốc Ngân hàng NN ban hành với nội dung:
- Huy động vốn ngắn hạn, trung và dài hạn trong và ngoài nước để đầu tư và phát triển bằng nhiều hình thức, biện pháp như: tiền gửi, tiền tiết kiệm có kỳ hạn, không kỳ hạn, phát hành tín phiếu, trái phiếu NH ĐT&PT, vay vốn thông qua thị trường liên Ngân hàng..
- Được vay lại nguồn vốn Chính phủ nhận tài trợ hoặc vay nợ của các tổ chức quốc tế để cho vay các doanh nghiệp trong nước.
- Kinh doanh đa năng tổng hợp về tiền tệ tín dụng, dịch vụ Ngân hàng và phi ngân hàng.
- Thực hiện tín dụng thuê mua.
- Được cho vay cầm cố.
- Được bảo lãnh đấu thầu, bảo lãnh thanh toán L/C và các dịch vụ bảo lãnh khác.
- Được hùn vốn mua cổ phần với các tổ chức kinh tế.
- Cùng với các Ngân hàng trong nước, Ngân hàng nước ngoài, các tổ chức khác đồng tài trợ đầu tư cho các dự án.
- Làm Ngân hàng đại lý, Ngân hàng phục cho đầu tư và phát triển từ các nguồn của Chính phủ, các tổ chức kinh tế tài chính tiền tệ, các tổ chức kinh tế xã hội, đoàn thể, cá nhân trong và ngoài nước.
Như vậy ngoài chức năng chính, huy động vốn trung và dài hạn trong và ngoài nước để cho vay các dự án kinh tế kỹ thuật... Ngân hàng ĐT&PT VN còn thực hiện kinh doanh như một Ngân hàng TM đối với các thành phần kinh tế, tầng lớp dân cư.
Đây là một bước ngoặt quan trọng trong hoạt động của Ngân hàng ĐT&PT, tạo điều kiện mở rộng thị trường thích ứng hơn nữa với cơ chế thị trường, phù hợp vơi xu hướng kinh doanh đa năng tổng hợp của Ngân hàng TM trong nền kinh tế thị trường.
1.2. Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng ĐT&PT VN
NHĐT&PT VN hoạt động trên phạm vi cả nước như một định chế tài chính phục vụ cho lĩnh vực đầu tư và phát triển, có trụ sở chính tại 194 Trần Quang Khải, quận hoàn kiếm,Hà Nội và hơn 64 chi nhánh tại các tỉnh, thành phố trong cả nước.
Năm 2000 là năm đầu tiên Ngân hàng ĐT&PT VN triển khai hoạt đọng theo mô hình Tổng công ty,cơ cấu tổ chức gồm có: Hội đồng quản trị, Ban tổng giám đốc điều hành. Bộ máy giúp việc gồm các đơn vị hạch toán phụ thuộc, hạch toán độc lập, các đơn vị sự nghiệp. Hội đồng quản trị thực hiện chức năng quản lý doanh nghiệp, Tổng giám đốc lãnh đạo điều hành các cấp, các chi nhánh.
Với việc xây dựng và ổn định những chi nhánh tại các tỉnh mới tách phục vụ đầu tư và phát triển trên địa bàn, thành lập và đưa vào sử dụng Sở giao dịch II tại thành phố HCM để tăng sức huy động vốn cho các dự án lớn, Ngân hàng đã ổn định mô hình tổ chức và hoạt động của các chi nhánh, chú trọng củng cố các chi nhánh khu vực. Bước đầu đổi mới mô hình tổ chức tại hội sở chính, là thung tâm điều hành toàn hệ thống theo xu thế tập trung toàn diện và vững mạnh.
Ngân hàng ĐT&PT VN nhằm mục đích chuyển hẳn hoạt động của bộ máy TW hướng về cơ sở, bám sát cơ chế để phục vụ tốt, chỉ đạo sát thực tiễn, tập trung kịp thời, bám sát địa bàn bám khách hàng trước hết ở các dự án vay vốn lớn, các Tổng công ty Nhà nước để phục vụ, thực hiện nguyên tắc “mỗi đồng vốn đều có người chịu trách nhiệm, từng bước chuyển sang giao dịch một cửa một đầu mối”.
Hiện tại NHĐT&PT Việt Nam đang trình NHNN một chiến lược cho giai đoạn hoạt động kinh doanh từ nay tới năm 2000. Phù hợp với đường lối, chiến lược phát triển của đất nước trong thời kì mới- thời kì đầu của thế kỉ 21.
Sơ đồ tổ chức hệ thống Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam:
Hội đồng
quản trị
Ban
Tổng giám đốc iám đốc
Ban
kiểm soát
Các phòng ban tại NHĐT&PT Việt Nam
Văn phòng đại diện
Các đơn vị sự nghiệp
Các sở giao dịch và các chi nhánh NHĐT&PT tỉnh thành phố
Các phòng ban
Các chi nhánh trực thuộc
Các phòng giao dịch
Các công ty chuyên doanh
Hội đồng quản trị là cơ quan có chức năng quản lý hoạt động của NH ĐT&PT, hoạt động theo cơ chế tập thể, thông qua các cuộc họp thường kì và bất thường. Đây là bước thể nhiệm của Nhà nước trong việc nâng cao vai trò của HĐQT là đại diện pháp lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp, bỏ dần cấp quản lý trực tiếp của bộ chủ quản.
HĐQT quyết định những vấn đề quan trọng của NHĐT&PT như chiến lược mục tiêu kế hoạch hàng năm và dài hạn của Ngân hàng. HĐQT có 5 thành viên do Thống đốc NHNN bổ nhiệm, miễn nhiệm, trong đó có: Chủ tịch HĐQT, 1 thành viên kiêm Tổng giám đốc và một thành viên kiêm trưởng Ban kiểm soát và 2 thành viên kiêm nhiệm là các chuyên gia có kinh nhiệm về lĩnh vực Ngân hàng - Tài chính, quản trị kinh doanh và pháp luật. Như vậy chủ tịch HĐQT khong kiêm Tổng giám đốc. Tổng giám đốc là thành viên của HĐQT là đại diện theo pháp luật của NHĐT&PT, đẩm nhiệm công tác điều hành toàn bộ hoạt động của NHĐT&PT, nhằm thực hiện thành công các chiến lược mục tiêu, kế hoạch mà HĐQT đã thông qua và những nhiệm vụ Nhà nước giao.
* Ban kiểm soát trực thuộc HĐQT để kiểm giám sát hoạt động điều hành của Tổng giám đốc, bộ máy giúp việc và vác đơn vị thành viên của NHĐT&PT theo đúng quy định của Nhà nước, Điều lệ và các quyết định của HĐQT.
Ngoài ra còn có một hệ thống kiểm tra nội bộ từ Trụ sở chính đến các đơn vị thành viên thuộc quyền điều hành của Tổng giám đốc.
Việc xác định thêm bộ máy kiển soát nội bộ thuộc quyền điều hành của Tổng giám đốc nằm ngoài ban kiểm sopát là một trong những diểm đặc trưng nhằm đảm bảo hoạt động của các đơn vị thành viên an toàn, hiệu quả theo đúng quy định của pháp luật và Điều lệ.
* NHĐT&PT VN có các đơn vị thành viên hạch toán độc lập, hạch toán phụ thuộc và các đơn vị sự nghiệp:
- Đơn vị thành viên hạch toán độc lập: Là các DNNN có tư cách pháp nhân, do NHĐT&PT VN sáng lập, có Điều lệ tổ chức và họt động riêng. Hoạt động của các đơn vị thành viên này độc lập như các DNNN khác. Tuy nhiên trong quan hệ về nhân sự và tài chính phải chịu sự chi phối của NHĐT&PT VN.
Việc hình thành các công ty hạch toán độc lập trong NH, hoạt động trong lĩnh vự tài chính, tín dụng nhằm đa dạng và chuyên môn hoá hoạt động nâng cao doanh lợi của NH, đồng thời với tính chất trach nhiệm hưu hạn, chúng đảm bảo những rủi ro mắc phải trong các hợp đồng đó, không làm ảnh hưởng lớn đến nguồn tài chính của NH.
- Đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc: NHĐT&PT VN có 2 loại đơn vị thành viên kiểu này đó là Sở giao dịch và các chi nhánh được đặt tại những nơi cần thiết cho hoath động kinh doanh của NH. Mặc dùđược xác định là thành viên của NHĐT&PT, nhưng thực chất Chi nhánh là cánh tay nối dài của Trụ sở chính, là một thực thể thống nhất nằm trong NHĐT&PT VN.
- Đơn vị sự nghiệp: đây là loại hình đơn vị thành viên chủ yếu nhằm mục đích NCKH, đào tạo, đào tạo lại các cán bộ để phục vụ kịp thời các yêu cầu hoạt động kinh doanh của NH.
* Văn phòng các phòng ban hoặc ban chuyên môn nghiệp vụ của Hội sở chính có chức năng tham mưu giúp việc cho HĐQT và Tổng giám đốc trong quản lý điều hành công việc.
* Cơ cấu các phòng tín dụng:
Cùng với việc đổi mới mô hình tổ chức NHĐT&PT TƯ, cơ cấu các phòng tín dụng được xắp xếp lại như sau:
- Phòng tin dụng quản lý địa bàn( gồm 3 phòng: tín dụng 1, 2, 3)
- Phòng tín dụng Tổng công ty( tín dụng 4): được thành lậpđể đáp ứng yêu cầu phụ trách riêng về tín dụng đối với một số Tổng công ty 90, 91 mạnh. NHĐT&PT với vị thế là NHQD, là DN đặc biệt giữ vai trò chủ đạo trong lĩnh vực đầu tư và phát triển của nền kinh tế quốc dân bằng việc phục vụ giúp các Tổng công ty có vốn để sản xuất kinh doanh, góp phần phát triển kinh tế Xã hội.
- Phòng tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu(Tín dụng 5): có nhiệm vụ quản lý vốn cho vay đối với các dự án thông qua các hiệp định khung để đầu tư tín dụng. Ngoài yêu cầu quản lý theo quy trình tín dụng dự án, tín dụng tài trọ xuất nhập khẩu còn đặt ra yêu cầu rất chặt chẽ về vốn vay và thời hạn cho vay, thu nợ trả lãi, quản lý vốn ngoại tệ.
Ban Tổng giám đốc NHĐT&PT có trách nhiệm quản lý, điều hành chung hoạt động của các phòng tín dụng.
Với cơ cấu tổ chức như trên, Ngân hàng ĐT&PT VN đã và đang vươn lên khẳng định vị thế của mình là một tổ chức kinh tế mạnh có khả năng tập trung các nguồn lực về vốn, về công nghệ, tăng cường cạnh tranh trong cơ chế thị trường, góp phần làm nòng cốt trong các DNNN, đảm bảo định hướng XHCN đối với quá trình CNH, HĐH đất nước. Ngân hàng ĐT&PT VN đang tranh thủ thời cơ, phát huy nội lực phục vụ cao nhất cho đầu tư, phát triển, kinh doanh đa năng tổng hợp theo phương châm hiệu quả, an toàn trong tăng trưởng, vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa tạo tiền đề cho bước phát triển tiếp theo. Đây cũng là định hướng hoạt động của Ngân hàng ĐT&PT VN trong thời gian tới.
Nhân tố chính để thực hiện thắng lợi định hướng này là con người, cần có một đội ngũ cán bộ có trình độ, có năng lực chuyên môn, quản trị điều hành. Thực hiện từng bước chiến lược và kế hoạch về phát triển nguồn lực của hệ thống Ngân hàng ĐT&PT VN, Ngân hàng đã đổi mới mô hình tổ chức, đã chuyển hẳn sang vai trò trung tâm điều hành kinh doanh toàn hệ thống với mục đích yêu cầu:
- Thị trường và bạn hàng của Ngân hàng là các tổng công ty, doanh nghiệp có địa bàn hoạt động lớn và khả năng an toàn cao.
- Mở rộng dịch vụ Ngân hàng, nhất là đối với các khách hàng lớn vì khối lượng tín dụng tập trung ở đây nhiều, có thể áp dụng nhiều dịch vụ và công nghệ Ngân hàng.
- Hiện nay, Ngân hàng ĐT&PT VN bên cạnh việc cho vay theo kế hoặch của Nhà nước, hàng năm Ngân hàng có nguồn vốn tài trợ lớn dịch vụ thanh toán quốc tế qua Ngân hàng đã hình thành và phát triển, tạo điều kiện cho Ngân hàng cung ứng vốn cho các Tổng công ty, những đơn vị kinh tế, cạnh tranh với các Ngân hàng khác trong chiến lược Marketing của Ngân hàng.
2 - thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
2.1. Tình hình hoạt động của Ngân hàng ĐT&PT VN trong thời gian qua
2.1.1 Tình hình huy động vốn của Ngân hàng ĐT&PT VN.
Chính sách nguồn vốn được coi là một trong các chính sách quan trọng, quyết định sự thành công của Ngân hàng. Ngân hàng ĐT&PT VN đã xác định tạo vốn là khâu mở đầu, tạo một mặt bằng vốn vững chắc cả về VNĐ và ngoại tệ; coi nguồn vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng.
Với phương châm đó Ngân hàng ĐT&PT VN đã thực hiện đa dạng hoá nguồn vốn bằng nhiều hình thức, biện pháp và các kênh huy động vốn khác nhau từ mọi nguồn trong và ngoài nước. NH chú trọng tăng tỷ trọng vốn trung và dài hạn bằng việc phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, tăng tiền gửi và tiền tiết kiệm của dân cư; khai thác triệt để nhiều nguồn tài trợ trung và dài hạn của các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế phục vụ cho đầu tư và phát triển.
Bằng những biện pháp và chính sách trên, trong vài năm gần đây nguồn vốn huy động của Ngân hàng đã tăng trưởng đáng kể và cơ cấu nguồn cũng thay đổi theo hướng tích cực. Cụ thể:
Bảng1: Nguồn vốn trong giai đoạn 1999 - 2001 (Đơn vị tỷ đồng)
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
1. Tiền gửi các loại
3583
6181
11261
1.1 Tiền gửi của các TCKT
2450
4007
5700
1.2 Tiền gửi của dân cư
1133
2173
5561
2. Các khoản vay
834
1171
1330
3. Vốn uỷ thác tài trợ phát triển
2360
2792
3257
4. Vốn vay nước ngoài cho ĐTPT
1936
2177
2870
5. Phát hành kì phiếu trái phiếu
980
1637
1200
6. Vốn và các quỹ
5024
5487
5820
7. Tài sản nợ khác
706
1101
1262
Tổng
15427
20549
27000
(Nguồn: Báo cáo thường niên NHĐT&PT VN giai đoạn 1999-2001)
Huy động vốn trong năm 1998 là 2605 tỷ đồng chiếm 19.8% tổng nguồn vốn, năm 1999 là 4563 tỷ đồng chiếm 29.6% tổng nguồn vốn, năm 2000 là 7818 tỷ đồng, con số này khẳng định sự tăng trưởng khi chuyển hẳn sang chức năng kinh doanh đa năng tổng hợp, tăng trưởng 71.3%, chiếm 38% tổng nguồn vốn. Năm 2001 là 12461 tỷ đồng, chiếm 46.1% tổng nguồn vốn, tăng 59.3% so với năm 2000.
Biểu đồ 1: Huy động vốn qua các năm
(Đơn vị: tỷ đồng)
Tổng nguồn vốn tăng trưởng qua các năm :
Năm 1997 tổng nguồn vốn là 8662 tỷ đồng, năm 1998 là 13105 tỷ đồng, năm 1999 là 15427 tỷ đồng, trong đó vốn và các quỷ đạt 5025 tỷ đồng chiếm 33%, vốn trung và dài hạn chiếm 65% tổng nguồn vốn, nguồn tiền gửi khách hàng là 3584 tỷ đồng, tăng 55% so với năm 1998.
Biểu đồ 2: Tăng trưởng nguồn vốn qua các năm
(Đơn vị: Tỷ đồng)
Sang năm 2000 Ngân hàng ĐT&PT VN tiếp tục cải biến cơ cấu nguồn vốn, tăng nguồn tiền gửi khách hàng và phát hành kỳ phiếu, trái phiếu trong nước và quốc tế để tăng vốn trung và dài hạn. Cuối năm 2000 tổng nguồn vốn đạt được 20549 tỷ đồng, tăng 40% so với năm 1999, tiền gửi khách hàng đạt 6181 tỷ đồng, trong đó chủ yếu là tiền gửi tổ chức kinh tế: 4007 tỷ đồng..
Trong năm 2001 cơ cấu giữa vốn VNĐ và vốn ngoại tệ tương đối hợp lý, nguồn vốn huy động đã đáp ứng tích cực nhu cầu sử dụng vốn đảm bảo đủ vốn giải ngân kịp thời các hợp đồng tín dụng đã ký, đảm bảo khả năng thanh khoản. Tổng nguồn vốn là 27000 tỷ đồng, tiền gửi huy động tổ chức kinh tế và dân cư đạt 11261 tỷ đồng,trong đó tiền gửi của dân cư đã tăng lên một cách đáng kể so với năm 2000, đạt 5561 tỷ đồng. Chứng tỏ người dân đã ngày càng tín nhiệm NH, cảm thấy an toàn khi gửi tiền vào NH. Vốn và các quỹ trong năm đạt 5820 tỷ đồng, chiếm 21.5% tổng nguồn vốn.
Huy động trái phiếu năm 1998 là 341 tỷ đồng, năm 1999 là 980 tỷ đồng, năm 2000 là 1637 tỷ đồng.
Ngân hàng ĐT&PT VN đã nỗ lực huy động vốn trong và ngoài nước để đáp ứng cao nhất cho kế hoạch tín dụng đầu tư và phát triển theo địng hướng của Chính phủ đã thông qua với trách nhiệm cao phục vụ kế hoạch đầu tư và phát triển của đất nước. Đặc biệt năm 2001 NH ĐT&PT đã phát hành trái phiếu huy động 1200 tỷ đồng, trong đó 80% bằng VND, còn lại là USD; vượt kế hoạch Nhà nước giao đáp ứng vốn cho các công trình theo kế hoạch Nhà nước chỉ định.
46,1% Tiền gửi, kỳ phiếu trái phiếu
15,5% Vốn vay
12,06% Vốn uỷ thác tài trợ phát triển
4,67% TS nợ khác
21,5% Vốn và
các quỹ
Biểu đồ 3: Cơ cấu nguồn vốn đến ngày 31/12/2001
Đồng thời nhiều chi nhánh đã áp dụng biện pháp , hình thức huy động thích hợp điều chỉnh lãi suất huy động phù hợp để thu hút nguồn tiền gửi của tổ chức kinh tế và dân cư.
Để nâng cao nghiệp vụ và chất lượng dịch vụ, Ngan hàng ĐT&PT VN rất quan tâm đến sự giúp đỡ về vốn và kỹ thuật của các tổ chức tài chính quốc tế như: Ngân hàng thế giới(WB), NH phát triển Châu á(ADB), Quỹ hợp tác phát triển kinh tế(OECF),...
Trong những năm qua, NHĐT&PT đã tìm mọi cách để tạo lập và tăng trưởng nguồn vốn kinh doanh từ ngoại tệ để tài trợ xuáat nhập khẩu, mỏ rộng các hình htức huy động vốn ngoại tệ, mỏ rộng thanh toán quốc tế, tham gia mạng thanh toán quốc tế SWIFT, khai thác và sử dụng có hiệu quả khung tài trợ XNK, bảo lãnh vay vốn nước ngoài, làm đại lý uỷ thác cho một số tổ chức tài chính quốc tế.
Trên cơ sở đó nhiều hiệp định khung tài trợ XNK đã được kí kết giữa NHĐT&PT VN với các NH thuộc nhiều nước khác nhau trên thế giới. Số hiệp định khung kí kết năm 1998 là 12 dự án với số tiền tài trợ 7 triệu USD, năm 1999 có 28 dự án với số tiền 14 triệu USD, năm 2000 có 42 dự án với số tiền 21 triệu USD, năm 2001 có 53 dự án với số tiền 39.2 triệu USD.
2.1.2. Tình hình sử dụng vốn tại Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam
Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam có truyền thống phục vụ trong lĩnh vực đầu tư và phát triển. Từ năm 1998 với định hướng tiếp tục đổi mới toàn diện, chuyển hẳn sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Ngân hàng thực hiện kinh doanh đa năng tổng hợp, tích cực linh hoạt, lấy hiệu quả kinh doanh của khách hàng làm mục tiêu. Trong công tác sử dụng vốn Ngân hàng thực hiện các hoạt động như: cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn phục vụ đầu tư và phát triển, bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay vốn đầu tư, cho vay uỷ thác tài trợ phát triển, góp vốn liên doanh, đầu tư vốn khác.
Trong những năm qua Ngân hàng đã chứng tỏ sự tiến bộ vượt bậc không ngừng tăng trưởng, tổng tài sản của Ngân hàng đạt tốc độ tăng trưởng cao qua các năm. Năm 1998 là 13.105 tỷ đồng, năm 1999 là 15.427 tỷ đồng, tăng 17.7%, năm 2000 là 20549 tỷ đồng, tăng 33%, năm 2001 là 27.000, tăng 31%, trung bình hàng năm khoảng 24%.
Bảng 2: Tình hình sử dụng vốn trong giai đoạn 1999 - 2001
(Đơn vị: tỷ đồng)
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
1. Các khoản dự trữ kinh doanh
2.231
3.594
4.289
2. Cho vay các loại
10.315
13.357
18.267
2.1. Cho vay trung dài hạn
6.216
7.909
11.072
2.2. Cho vay ngắn hạn
4.099
5.447
7195
3. Cho vay uỷ thác tài trợ P T
2.258
2.581
3.097
4. Các khoản đầu tư
151
267
372
5. Tài sản có khác
470
747
975
Tổng
15.427
20.549
27.000
(Nguồn: Báo cáo thường niên của NH ĐT&PT VN giai đoạn 1999-2001)
Ta thấy dư nợ tín dụng không ngừng tăng trưởng qua các năm. Năm 1999 tổng dư nợ( gồm cho vay các loại và cho vay uỷ thác tài trợ phát triển) là 12573 tỷ đồng, sang năm 2000 tổng dư nợ tăng lên 15939 tăng 26.7%; năm 2001 là 21364 tăng 34% so với năm 2000.
Biểu đồ 4: Tổng dư nợ qua các năm
(Đơn vị: Tỷ đồng)
Trong đó:
Đối với tín dụng ngắn hạn: NH tiếp tục đạt được những kết quả đáng khích lệ với một chính sách khách hàng hợp lý; ưu tiên tập trung cho vay ngắn hạn đối với các doanh nghiệp trong thi công xây lắp, trong khảo sát thiết kế, sản xuất vật liệu xây dựng, đảm bảo vốn cho các doanh nghiệp trúng thầu các dự án lớn trong nước và quốc tế và đối với khách hàng có số dư tiền gửi lớn tại Ngân hàng. Dư nợ cho vay ngắn hạn qua các năm như sau: năm 1999 dư nợ tín dụng ngắn hạn là 4099 tỷ đồng, tăng 55% so với 1998, chiếm 48% tổng dư nợ cho vay các loại đặc biệt là mở rộng cho vay ngắn hạn bằng ngoại tệ, nguyên liệu phục vụ sản xuất.
Năm 2000 cho vay ngắn hạn đạt 5447 tỷ đồng, tăng 32.8% so với năm 1999, năm 2001 là 7195 tỷ đồng, tăng 32% so với năm 2000.
Đối với tín dụng trung và dài hạn: Ngân hàng xác định mọi hoạt động của Ngân hàng khởi đầu từ khách hàng chứ không phải là từ sản phẩm, lấy hiệu quả sản xuất kinh doanh của khách hàng làm mục tiêu của mình. Ngân hàng đã tích cực đa phương hoá khách hàng trên cơ sở duy trì và phát triển khách hàng truyền thống, đồng thời mở rộng khách hàng mới có chọn lọc.
Dư nợ tín dụng trung dài hạn năm 1999 là 6200 tỷ đồng, năm 2000 là 7909 tỷ đồng, năm 2001 là 11072 tỷ đồng.
Chính sách tín dụng của NH: Với phương châm đa dạng hoá các sản phẩm, các loại hình đầu tư coi tín dụng đầu tư phát triển, tín dụng thi công xây lắp, cung ứng vật tư thiết bị, vật liệu xây dựng là mặt trận hàng đầu, đồng thời coi trọng việc mở rộng có chọn lọc các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng và phi Ngân hàng khác trong đó chú trọng cho vay khép kín, kết hợp đồng tài trợ và bảo lãnh dưới các hình thức.
Ngân hàng đã tập trung vốn cho các dự án trọng điểm, hiệu quả cao theo các mục tiêu HĐH, mở rộng tín dụng đối với các thành phần kinh tế.
Vốn đầu tư đã tập trung cho các chương trình kinh tế, dự án trọng điểm của nền kinh tế như: vật liệu xây dựng, điện lực, dầu khí, mía đường, dệt may, đánh bắt cá xa bờ.
Sang năm 2001, mặc dù tình hình đất nước còn khó khăn, thiên tai, khủng hoảng tài chính tiền tệ, nhưng hoạt động của Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam vẫn tăng trưởng góp phần phát triển kinh tế, ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát.
Tổng tài sản đạt 27000 tỷ đồng, tăng 31% so với năm 2000, phục vụ đầu tư phát triển theo kế hoạch Nhà nước là 4500 tỷ đồng, hoàn thành vượt mức kế hoạch giao là 4000 tỷ đồng. Dư nợ tín dụng đầu tư phát triển đạt 14169 tỷ đồng, chiếm 52.4% tổng tài sản.
Ngân hàng không ngừng dịch chuyển cơ cấu hoạt động, mở rộng và nâng cao chất lượng với phương châm kinh doanh đa năng tổng hợp, tập trung khai thác mở rộng lĩnh vực dịch vụ ngân hàng, thanh toán đại lý uỷ thác, bảo lãnh, kinh doanh ngoại tệ. Cụ thể:
Doanh số thanh toán trong nước đạt 280 tỷ đồng, tăng 30% so với năm 2000, đồng thời hoạt động thanh toán quốc tế cũng ngày càng mở rộng, doanh số hoạt động đạt 667 triệu USD tăng 48% so với năm 2000.
15,8% Dự trữ
kinh doanh
5,% Tài sản khác
Biểu đồ 5: Cơ cấu sử dụng vốn đến ngày 31/12/2001
52,47% Cho vay đầu tư phát triển
26,6% cho vay
ngắn hạn
Đã mở thêm 2000 L/C hàng nhập khẩu, tăng 117% so với 2000.
Công tác bảo lãnh tăng 25%, làm đại lý uỷ thác cho những dự án đầu tư nước ngoài với số tiền 290 triệu USD tăng 48% so với năm 2000.
Trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ, Ngân hàng đa dạng hoá các hình thức giao dịch ngoại tệ trong phạm vi quy định của NHNN, mở rộng đối tác giao dịch ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng trong nước và quốc tế.
Đẩy mạnh hoạt động mua bán ngoại tệ tại một số chi nhánh có khách hàng XNK và có lưu lượng giao dịch ngoại tệ lớn. Doanh số giao dịch ngoại tệ trong năm đạt270 triệu USD tăng 135% so với năm 2000.
Kết quả ._.ro.
Qua phần trên ta đã thấy được những kết quả đạt được và những khó khăn còn tồn tại trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam trong vài năm gần đây. Những khó khăn thử thách đó đối với toàn bộ hoạt động kinh doanh nói chung, và với hoạt động tín dụng trung dài hạn nói riêng, đòi hỏi ngân hàng phải có những biện pháp khắc phục nâng cao chất lượng tín dụng để Ngân hàng đâù tư và phát triển giữ vững được vai trò chủ đạo của mình trong đầu tư phát triển, thực hiện CNH, HĐH đất nước.
chương III
Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
tín dụng trung dài hạn tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
1 - Phương hướng hoạt động kinh doanh của NHĐT và PTVN trong thời gian tới.
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng, Chính phủ và Thống đốc NHNN, khai thác và phát huy những thuận lợi cơ bản, nhận thức rõ những thử thách với truyền thống đoàn kết sáng tạo, tự tin và tinh thần không chùn bước trước mọi khó khăn, NHĐT và PTVN quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ năm 1999 với phương châm là: tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động theo luật ngân hàng nhà nước và luật các tổ chức tín dụng, từng bước phát triển bên vững, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ và hiệu quả hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN để phát huy vai trò của một ngân hàng quốc doanh, giữ vai trò chủ lực trong đầu tư và phát triển góp phần thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ, phục vụ cho tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát theo đường lối CNH, HĐH đất nước tăng thêm thế và lực để bước vào thế kỷ 21, từng bước hội nhập với các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới.
Mục tiêu cụ thể đến cuối năm 1999 toàn hệ thống phải đạt được mức tăng tài sản nợ (có ) là 15% so với năm 2001. Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu nguồn vốn, huy động vốn tăng trên 25%, trong đó vốn trong nước là chính chiếm 70-75%, riêng tiền gửi khách hàng chiếm 35% tổng nguồn vốn, tỷ trọng tiền gửi trung dài hạn trên tổng vốn huy động đạt 17%. Dư nợ tín dụng tăng trên 23%, trong đó tín dụng trung dài hạn chiếm 55 - 60% tổng dư nợ.
Vốn tín dụng đầu tư phát triển theo kế hoạch nhà nước giao là 2.800 tỷ đồng.
Mở rộng nâng cao chất lượng dịch vụ và kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng.
Tổng phương tiện thanh toán tăng 16-17%
Tăng thu nhập từ dịch vụ và kinh doanh tiền tệ đạt mức 30% trong tổng lợi nhuận ròng.
Lợi nhuận của ngân hàng tăng 16%
Phấn đấu giảm tỉ lệ nợ quá hạn xuống dưới hoặc bằng 2%.
Công nghệ đạt mức các ngân hàng trong nước đã đạt được. Để thực hiện những mục tiêu này, toàn hệ thống NHĐT và PTVN cần thực hiện tốt những giải pháp trong hoạt động kinh doanh nói chung, nâng cao chất lượng tín dụng nói riêng và trong xây dựng phát triển nguồn nhân lực và công nghệ.
2 - Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng ĐT&PT Việt nam
Trong những năm qua NHĐT và PTVN đã đạt được những thành tựu nhất định về hoạt động kinh doanh, luôn giữ vai trò chủđạo trong lĩnh vực đầu tư và phát triển, được nhà nước xếp hạng doanh nghiệp đặc biệt. Ngân hàng lấy hiệu quả an toàn trong tất cả mọi hoạt động của mình làm tiêu chuẩn hàng đầu, đa phương hoá khách hàng thuộc các thành phần kinh tế, trong đó lấy phát triển kinh tế quốc doanh là chủ đạo.
Tuy nhiên trong hoạt động tín dụng đã gặp nhiều khó khăn cần giải quyết, là những thách thức đối với hoạt động của NHĐT và PTVN hiện nay. Trong bối cảnh chung đó, chất lượng tín dụng nói chung, tín dụng trung dài hạn nói riêng đang trở thành vấn đề quan tâm và giải quyết.
Với việc xây dựng các mục tiêu trên, Ngân hàng phải có những giải pháp phù hợp để làm phương tiện thực hiện được các mục tiêu đó. Có những giải pháp sau nhằm nâng cao chất lượng tín dụng nói chung, tín dụng trung dài hạn nói riêng tại NHĐT và PTVN.
2.1. Các giải pháp của Ngân hàng ĐT& PT Việt Nam
2.1.1/ Các giải pháp huy động vốn
NHĐT và PTVN phục vụ chủ yếu trong lĩnh vực đầu tư và xây dựng cơ bản, phục vụ quá trình CNH, HĐH đất nước nên luôn coi tạo vốn là khâu mở đầu, tạo một mặt bằng vốn vững chắc ngày càng tăng trưởng, đa dạng hoá các hình thức, các biện pháp, các kênh huy động vốn từ trong và ngoài nước. Trong đó ngân hàng coi nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn nước ngoài là quan trọng trên cơ sở đầu ra có hiệu quả an toàn.
Để tăng cường nguồn vốn trong nước, Ngân hàng phải thực hiện hoàn thiện thị trường tiền tệ ngắn hạn tạo đà đẩy nhanh quá trình phát triển thị trường vốn dài hạn. Thị trường tiền tệ ngắn hạn có tác dụng gián tiếp hỗ trợ việc triển khai chiến lược vốn và ổn định được nhu cầu vốn ngắn hạn sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy quá trình tích luỹ, tích tụ và tập trung vốn tự nhiên. Nhờ đó ngân hàng cũng sẽ có thêm nhiều cơ hội đầu tư vốn trung, dài hạn. Muốn vậy ngân hàng cần giải quyết những vấn đề sau:
- Tiến hành một chương trình thu hút vốn trong các tầng lớp dân cư và các doanh nghiệp bằng cách mở nhiều loại tài khoản ree, tài khoản tiền gửi hưu trí, bảo hiểm, tiền gửi các tổ chức xã hội và thực hiện thanh toán qua ngân hàng.
- Từng chi nhánh cần có mục tiêu biện pháp tăng thị phần huy động vón của chi nhánh trên địa bàn. Tăng cường huy động tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn ở các doanh nghiệp khách hàng truyền thống, áp dụng nhiều hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm kỳ phiếu trái phiếu mở thêm khách hàng mới.
- Thực hiện chính sách khuyến khích khách hàng trong huy động vốn có chính sách thoả đáng với khách hàng truyền thống.
- Mỗi chi nhánh nên chủ động quyết định áp dụng hình thức huy động vốn cho phù hợp, mức lãi suất linh hoạt theo từng loại huy động và kỳ hạn căn cứ diễn biến lãi suất trên từng địa bàn và so với các NH khác trên địa bàn.
- Tăng cường tìm kiếm các nguồn tài trợ uỷ thác của các Chính Phủ, tổ chức kinh tế, tổ chức phi chính phủ đối với các dự án phát triển kinh tế, văn hoá xã hội trong nước.
2.1.2/ Các giải pháp lãi suất
- áp dụng cơ chế lãi suất cho vay linh hoạt:
Thay đổi cơ chế lãi suất cho vay trung dài hạn phù hợp với quy luật cung cầu của thị trường vốn, tính toán hiệu quả kinh doanh không chỉ trước mắt mà cần kết hợp cả hướng lâu dài cho khách hàng và ngân hàng. Chiến lược cạnh tranh và kinh doanh đòi hỏi phải có chính sách cho vay trung dài hạn mềm dẻo, không nhất thiết lúc nào cũng phải cao hơn lãi suất cho vay vốn lưu động mà có thể tích được lãi suất bình quân của vốn dài hạn và ngắn hạn. Cần có chính sách lãi suất khác nhau đối với khách hàng, bạn hàng được đầu tư cho những dự án khác nhau.
- Hạ lãi suất ngoại tệ, không cao hơn các ngân hàng bạn. áp dụng lãi suất phân biệt, lãi suất cho vay dài hạn nhỏ hơn lãi suất cho vay theo món.
2.1.3/ Đa dạng hoá các hình thức cho vay và đầu tư vốn trung dài hạn.
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam chủ yếu cho vay theo kế hoạch nhà nước với mức lãi suất ưu đãi nên cần phải đẩy mạnh cho vay theo cơ chế tín dụng thương mại để đầu tư cho các dự án xây dựng mới, mở rộng, cải tạo, khôi phục, đổi mới kỹ thuật của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện được kế hoạch kinh doanh của mình.
- Cần kết hợp các loại tín dụng, các loại dịch vụ, các loại hình thức phục vụ toàn diện. Từng chi nhánh nên chủ động tìm kiếm dự án, không chờ thông báo kế hoạch.
- Mở rộng tăng cường cho vay trung dài hạn đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, vì hiện nay khu vực này vẫn chưa được ngân hàng khai thác, tỷ trọng cho vay còn thấp. Nhưng trong giai đoạn hiện nay thành phần kinh tế ngoài quốc doanh còn nhiều tiêu cực như kinh doanh thua lỗ, phá sản...nên khi mở rộng cho vay đối với thành phần này phải gắn liền với việc thẩm định tình hình tài chính của công ty, xem xét tình hình kinh doanh, kiểm tra kỹ càng trước, trong và sau khi cho vay kiểm tra về tài sản thế chấp, xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh của dự án để cho vay.
- Đầu tư vốn bằng cách liên doanh, hùn vốn cùng các doanh nghiệp. Điều này có thể tạo ra sự gắn bó chặt chẽ giữa ngân hàng và khách hàng bằng việc nắm giữ cổ phần trong công ty mà ngân hàng cho vay tiền và có những thành viên trong ban giám đốc quản lý công ty này sẽ giúp cho ngân hàng hạn chế được rủi ro vì luôn giám sát được tình hình hoạt động của công ty, đưa ra những giải pháp thích hợp cho từng thời kỳ kinh doanh.
- Từng chi nhánh nên chủ động thẩm định, lựa chọn dự án để đầu tư. Tăng thị phần tín dụng đầu tư phát triển, trong đó tập trung vào các dự án lớn. Mở rộng các dự án vừa và nhỏ, tham gia chương trình phát triển nông thôn, chủ động đề xuất NHĐTPT cấp TW hỗ trợ.
Tích cực tìm kiếm khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế đáp ứng cao nhất nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh có hiệu qủa của khách hàng. áp dụng đa dạng, linh hoạt các hình thức phục vụ.
Đảm bảo cơ cấu hợp lý giữa ngắn hạn, trung dài hạn để đảm bảo thực hiện được nhiệm vụ đầu tư phát triển hàng năm và nhu cầu sản xuất kinh doanh của khách hàng truyền thống mở được khách hàng mới.
- áp dụng các loại cho vay, thu thập thông tin nhiều chiều để cho vay ra với mức rủi ro ít nhất, có doanh lợi, đảm bảo được yêu cầu:
+ Lấy hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng làm mục tiêu.
+ Đảm bảo được cơ cấu tín dụng của Ngân hàng nói chung và từng chi nhánh nói riêng.
+ Khuyến khích khách hàng
2.1.4/ Nâng cao chất lượng đích thực của công tác thẩm định dự án, phân tích tín dụng:
Như trong phần I đã nêu ra một trong những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng cũng như hiêụ quả công việc cho vay trung dài hạn là giai đoạn phân tích thẩm định dự án. Qua công tác thẩm định có thể kiểm tra, khẳng định lại luận chứng kinh tế kỹ thật trong dự án đầu tư về hợp đồng kinh tế, quy mô mua sắm thiết bị, số lượng chất lượng xây lắp, công suất máy móc, giá cả mua sắm... Đây là những vấn đề cụ thể, có thể tiến hành thẩm định được còn đến việc phân tích khía cạnh vô hình như uy tín năng lực của khách hàng để đánh giá khả năng trả nợ thì không đơn giản chút nào, nhất là đối với khách hàng mới của ngân hàng. Do vậy sau khi phân tích trên giấy tờ, cán bộ tín dụng phải đi nghiên cứu khảo sát cơ sở của khách hàng. Từ đó có thể đưa ra những nhận định về cơ sở, bộ máy lãnh đạo, cán bộ chủ chốt điều hành sản suất kinh doanh, tinh thần làm việc, năng suất, trình độ của cán bộ, nhân viên quản lý... đánh giá được những điểm thích hợp nên xem có cho vay hay không. Công việc này thực sự chưa có trong cuốn sách nào cả, mà chủ yếu phụ thuộc vào kinh nghiệm của cán bộ tín dụng, vừa không gây khó dễ cho khách hàng , vừa đủ khả năng xác định chất lượng thực sự của khách hàng.
Để nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án, phân tích tín dụng, ngân hàng cần thường xuyên mở những lớp đào tạo ngắn hạn, dài hạn cho cán bộ thẩm định, tín dụng, hoặc cử cán bộ đi học, tham gia những khoá đào tạo trong nước và nước ngoài về thẩm định, phân tích tín dụng.
Đồng thời từng cán bộ thẩm định, cán bộ tín dụng cũng tự nghiên cứu tham khảo tài liệu, tự trau dồi kiến thức chuyên môn cho mình, cả về lý thuyết cũng như kinh nghiệm thực tiễn.
Trong phân tích thẩm định dự án, cán bộ nên thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau từ vĩ mô đến vi mô.
+ Phân tích một cách tổng thể toàn diện từ chủ trương đến quyết định đầu tư, tổng nguồn vốn đầu tư, kế hoạch bố trí vốn theo tiến độ xây dựng hàng năm, khả năng vay trả của dự án....
+ Kiểm tra tính toán thực hiện hiệu quả kinh tế của dự án, khoản vay, khoản bảo lãnh trên cơ sở nắm chắc những thông tin có căn cứ xác đáng về tình hình sản xuất kinh doanh hiện taị của doanh nghiệp, nhu cầu thị trường về sản phẩm dự kiến được đầu tư, nguồn vốn để trả nợ, lịch trả nợ, chỉ ra những tiềm ẩn rủi ro để phòng ngừa.
2.1.5/ Nâng cao chất lượng thông tin phòng ngừa rủi ro, HĐH công nghệ Ngân hàng
Việc thu thập các nguồn thông tin chính xác có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong quyết định cho vay và đầu tư cuả ngân hàng. Một trong những nguyên nhân gây nên rủi ro trong công tác tín dụng là sự thiếu thông tin chính xác từ người vay, từ thị trường và thiếu tính khả thi của dự án vay. Do đó để nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn cần nâng cao chất lượng thông tin.
+ Ngân hàng cần thực hiện triệt để việc khai thác thông tin từ nhiều nguồn kết hợp, từ doanh nghiệp, từ cơ quan chủ quản doanh nghiệp, từ bạn hàng của doanh nghiệp, từ trung tâm phòng ngừa rủi ro ngân hàng nhà nươc, từ cơ quan pháp luật, từ các ngân hàng bạn, tránh tình trạng thông tin nhận được từ một phía sai lệch.
+ Ngân hàng phải cử những cán bộ có năng lực chuyên môn nghề nghiệp phụ trách theo dõi kiểm tra từng khách hàng, từng khoản vay. Thường xuyên nắm bắt được các thông tin về mọi mặt của doanh nghiệp, từ tổ chức cán bộ, quản lý điều hành, đến tình hình tài chính, tình hình hoạt động kinh doanh... để có biện pháp xử lý kịp thời với các rủi ro có thể xảy ra từ phía doanh nghiệp.
+ Ngân hàng cần hiện đại hoá công nghệ để nâng cao hiệu quả hoạt động của phòng thông tin phòng ngừa rủi ro. Trang bị thêm nhiều máy móc thông tin, hệ thống vi tính nối mạng trong toàn ngành và nối mạng với các ngân hàng bạn để có thể trung cập một cách nhanh nhất. Thường xuyên nghiên cứu áp dụng các phần mềm mới, phù hợp với hoạt động ngân hàng, cải tạo nâng cấp hệ thống máy tính.
2.1.6/ Ngân hàng cần đẩy mạnh công tác thu nợ và lãi từ các khoản vay trung dài hạn
Thu nợ là một khâu quan trọng trong quy trình cho vay, công tác này cần phải làm liên tục, cán bộ tín dụng phải thường xuyên theo dõi hợp đồng tín dụng của các doanh nghiệp, nắm vững số thu nợ lãi theo cam kết. Ngân hàng quyết định thời hạn trả nợ, mức trả nợ từng kỳ hạn cho đơn vị, phải tính toán sao cho thiết thực, phù hợp với năng lực sản xuất kinh doanh của đơn vị.
Trong thời hạn đầu khi đến hạn trả nợ, không nên thúc ép doanh nghiệp trả nợ vượt quá khả năng của đơn vị. Xác định thời hạn trả nợ và mức trả nợ phù hợp với thu nhập của doanh nghiệp trong thời hạn đó, tránh gây căng thẳng về vốn cho doanh nghiệp. Ngân hàng cần có những quy định cụ thể, chặt chẽ về việc yêu cầu đơn vị mở tài khoản tiền gửi về khấu hao cơ bản vào ngân hàng nhằm tạo điều kiện chủ động thu hồi vốn đã cho.
2.1.7/ Ngân hàng cần tăng cường công tác tư vấn cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả, tăng khả năng thu hồi nợ cho ngân hàng
Ngân hàng cần giải quyết thủ tục nhanh chóng, cho vay đầy đủ kịp thời đối với các dự án có hiệu qủa kinh tế. Công trình sau khi đã được duyệt cho vay, ngân hàng phát tiền vay theo đúng kế hoạch, tiến độ thi công đã đề ra trong quá trình cho vay. Việc đầu tư một cách đầy đủ kịp thời sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình đưa dự án của doanh nghiệp vào thực thi đúng tiến độ kế hoạch, đưa dự án vào sử dụng phát huy hiệu quả, bảo đảm trả đủ nợ và lãi vay cho ngân hàng.
Ngân hàng cần phát triển các trung tâm dịch vụ tư vấn và đầu tư. Các trung tâm này hoạt động nhằm đánh giá, phân tích, dự báo các thông tin về tình hình kinh tế xã hội, luật pháp, thị trường, giá cả... . liên quan đến vấn đề đầu tư. Cung cấp những thông tin đó cho doanh nghiệp, tư vấn cho doanh nghiệp đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn sáng suốt. Hiện nay các doanh nghiệp nước ta còn chưa có nhận thức cao về lĩnh vực đầu tư, nên rủi ro trong đầu tư còn nhiều. Việc phát triển các trung tâm tư vấn dịch vụ đầu tư là rất cần thiết.
2.1.8/ Các giải pháp xử lý các khoản nợ quá hạn
Hoạt động tín dụng là một nhiệm vụ hàng đầu có ý nghĩa quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của một ngân hàng. Một ngân hàng hoạt động có hiệu quả và sinh lời thì hoạt động tín dụng phải có chất lượng và hiệu quả, trong đó nợ quá hạn là một vấn đề tạo nên chất lượng tín dụng. Nợ quá hạn luôn là vấn đề nhức nhối trong hoạt động của các ngân hàng thương mại hiện nay, đưa các ngân hàng vào tình trạng mất an toàn trong hoạt động và nguycơ của khủng hoảng tài chính - tiền tệ. Bởi lẽ một trong những nguyên nhân khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á vừa qua cũng là do nợ quá hạn lớn, các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ không trả được nợ vay, ngân hàng cho vay không thu hồi được nợ, khi đánh giá tài sản thế chấp ở thời điểm giá cao và khi phát mại, giá ở thời điểm thấp, ngân hàng bị mất khả năng chi trả. Nên điều quan trọng cấp bách cần phải có một giải pháp cho vấn đề này.
Và đối với NHĐT và PT, nợ quá hạn hiện nay vẫn đang là một vấn đề cần giải quyết nợ quá hạn trong năm 2001 vẫn cao hơn 2%, mà nợ quá hạn là chỉ tiêu chủ yếu để đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng, để nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng với tỉ lệ nợ quá hạn dưới 2%, Ngân hàng cần thực hiện một số giải pháp ngăn ngừa, xử lý các khoản nợ quá hạn.
* Ngân hàng cần phát hiện sớm những dấu hiệu của khoản cho vay có thể dẫn đến nợ quá hạn.
Trên góc độ nhà ngân hàng, hầu hết họ mong muốn các khoản cho vay sẽ được hoàn trả như đã thoả thuận chứ không phải là các khoản tài sản thế chấp được phát mại để trả nợ hay được các công ty bảo hiểm, người bảo lãnh thanh toán hộ. Do vậy để lường được các rủi ro này bằng cách nắm được các dấu hiệu chỉ ra sự khó khăn về mặt taì chính của khách hàng, những dấu hiệu này là cơ sở để ngân hàng tìm biện pháp điều chỉnh và ngăn ngừa kịp thời, tránh dẫn đến các khoản nợ quá hạn có thể gây rủi ro cho ngân hàng.
Các dấu hiệu này như:
+ Doanh nghiệp chậm chễ trong việc nộp các báo cáo tài chính báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Có biểu hiện trốn tránh các cuộc kiểm tra cơ sở sản xuất của ngân hàng, hoặc có sự suy giảm bầu không khí tin cậy và hợp tác.
+ Số dư tiền ký thác giảm sút, xuất hiện séc rút quá số dư hoặc sẽ thanh toán bị trả lại.
+ Gia tăng bất thường số hàng tồn kho và sự gia tăng các khoản nợ thương mại.
+ Trở thành chủ nợ của nhiều món nợ điều này có thể nói lên việc giảm sút về chất lượng sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp, một sự thay đổi thời hạn bán hàng hoặc bán cho các doanh nghiệp yếu kém về tài chính nhằm mục đích gia tăng doanh số bán và lợi tức.
+ Hoàn trả nợ vay ngân hàng chậm hoặc quá thời hạn.
+ Sự thay đổi nhân sự, từ chức của cán bộ quản lý...
+ Các yếu tố bất khả kháng như hoả hoạn, bão lụt...
* Khi đã phát hiên ra NH cần thực hiện biện pháp ngăn ngừa các khoản cho vay dẫn tời nợ quá hạn.
Khi các dấu hiệu phản ánh một khoản vay có thể có vấn đề được nhân ra, biện pháp đầu tiên mà cán bộ tín dụng phải thực hiện là xác định tính nghiêm trọng của vấn đề bằng các quá trình thích hợp có thêm sự cộng tác của khách hàng. Ngân hàng rất quan tâm đến các biện pháp ngăn ngừa và các biện pháp đề phòng để giảm bớt thiệt hại. Nếu người vay gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh, khó khăn về tài chính dẫn đến mất vốn tín dụng, để bảo vệ lợi ích của Ngân hàng và cứu lấy người vay và khôi phục sức mạnh tài chính của họ. Các biện pháp đó có thể là:
+ Giúp đỡ thu hồi các khoản nợ của khách hàng, biện pháp này ít được áp dụng. Tuy nhiên khi cơ sở sản xuất có nhiều khoản nợ chậm trả khiến họ phải gánh chia nợ quá hạn tại ngân hàng thì có thể giúp đỡ, thúc đẩy một sự gia tăng trong chương trình thu ngân của khách vay.
+ Tăng thêm vốn cho khách hàng: đối với những khoản nợ khó đòi xét thấy khách hàng còn có khả năng duy trì để phát triển sản xuất kinh doanh và thái độ trách nhiệm về trả nợ của khách hàng tốt thì ngân hàng có thể linh hoạt xem xét, nếu xét thấy khách hàng còn có thể đứng dậy được thì tiếp tục cho vay. Chính biện pháp này là hay nhất, không đẩy khách hàng đến chỗ phá sản, mà còn tạo khả năng thu hồi triệt để những khoản nợ khó đòi cho ngân hàng và vô hình chung đã vực dậy một doanh nghiệp trong nền kinh tế.
+ Tư vấn cho khách hàng: ngân hàng có thể cho lời khuyên hoặc cố vấn cho doanh nghiệp trong việc tìm ra chiến lược kinh doanh mới. Việc làm này không chỉ giúp cho doanh nghiệp có thể thoát khỏi cuộc khủng hoảng mà còn tăng thêm sự thân thiết trong quan hệ ngân hàng - khách hàng.
+ Ngân hàng cũng có thể nhận thêm sự bảo lãnh của một người khác có tài sản đối với doanh nghiệp đang mắc nợ. Việc bảo lãnh phải thực hiện đúng thủ tục bảo lãnh bằng tài sản.
Thực tế trong thời gian qua, những biện pháp này đã và đang được ngân hàng áp dụng một cách có hiệu quả.
* Đối với các khoản vay mà sau khi đã phát hiện và thực hiện biện pháp ngăn ngừa nhưng không có tác dụng vẫn dẫn đến nợ quá hạn, nợ khó đòi, khi đó ngân hàng cần thực hiện các biện phát như: Phương pháp khai thác, phương pháp thanh lý tài sản thế chấp.
Việc áp dụng phương pháp nào là phụ thuộc vào các yếu tố như: khả năng chi trả của khách hàng, thái độ của khách hàng với các khoản đi vay, thái độ của các chủ nợ, các chi phí cho việc thu hồi nợ,.
- Biện pháp khai thác:
+ Ngân hàng hướng dẫn người vay trên nhiều khía cạnh nhằm tác động đến khả năng tạo ra và thu được lợi nhuận. Ngân hàng có thể điều chỉnh hợp đồng tín dụng, giảm quy mô hoàn trả trước mắt, hoặc cho vay tiếp vốn để tăng sức mạnh về tài chính của khách hàng, khôi phục sản xuất kinh doanh.
+ Ngân hàng có thể dãn nợ cho doanh nghiệp, tức là kéo dài thời hạn trả nợ (tối đa không quá 12 tháng), nếu không thể gia hạn được thì chưa chuyển sang nợ quá hạn hoặc từng mục đích sử dụng vốn có thể là trung hạn, thì chuyển sang cho vay trung hạn, hoặc khách hàng bổ sung thêm tài sản thế chấp, cầm cố thì bổ sung thời hạn cho vay. Trường hợp này chỉ áp dụng cho những khách hàng:
++ Đang còn hoạt động sản xuất kinh doanh, có nguồn thu nhập có khả năng trả nợ.
++ Có thiện trí trả nợ, trong quá trình sử dụng vốn đã trả được một phần nợ gốc, trả lãi hàng tháng đều đặn.
++Tài sản thế chấp, cầm cố thuộc sở hữu hợp pháp của khách hàng, dễ phát mại.
+ Ngân hàng đề nghị người vay quản lý chặt chẽ ngân quỹ khuyên bán bớt tài sản có giá trị giảm lượng hàng tồn kho, thanh lý bớt tài sản không sử dụng.
+ Ngân hàng kết hợp vơí chính quyền địa phương thúc ép nợ.
Biện pháp này chỉ áp dụng đối với những khách hàng có số tiền vay nhỏ hoặc dư nợ tại thời điểm chuyển sang nợ quá hạn nhỏ, tài sản thế chấp cầm cố hợp pháp, dễ phát mại có nguồn thu nhập khác, có khả năng trả nợ ngân hang.
- Biện pháp xử lý tài sản thế chấp.
Biện pháp thanh lý tài sản thế chấp cầm cố hoặc bảo lãnh thường chỉ áp dụng sau khi đã thực hiện vài hình thức khai thác, giúp đỡ doanh nghiệp nhưng không thành công. Sự thanh lý được nhanh chóng thực hiện trong những trường hợp tư tưởng không sẵn lòng chi trả đã có hành động lừa đảo hay không thật thà đã bộc lộ, tình trạng vỡ nợ hiện ra tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng là vô vọng. Lúc đó biện pháp thanh lý là tốt nhất, có các biện pháp thực hiện:
+ Gán nợ: sử dụng trong các trường hợp: khách hàng không có khả năng trả nợ, không còn nguồn thu nhập nào khác; có uỷ quyền cho ngân hàng toàn quyền định đoạt trong việc bán tài sản thế chấp để thu hồi nợ, ngân hàng có thể sử dụng tài sản thế chấp làm trụ sở hoặc bán trả góp cho cán bộ nhân viên hoặc các đối tượng.
+ Khởi kiện: biện pháp này áp dụng đối với những khách hàng: có hành vi lừa đảo, bị bắt do vi phạm pháp luật trong vụ án khác, bỏ chốn, lẩn tránh, sử dụng vốn sai mục đích gây thất thoát vốn; không còn sản xuất kinh doanh, không còn khả năng trả nợ.
+ Đối với những tài sản thế chấp có đủ hồ sơ hợp pháp, sau khi có quyết định của toà án các cấp hoặc nhân gán nợ thì chuyển sang trung tâm bán đấu giá tài sản (thuộc sở tư pháp) để xử lý bán, hoặc xiết nợ đưa vào sử dụng, khai thác liên doanh...
Còn đối với những tài sản có đủ hồ sơ pháp lý nhưng lại có sự thế chấp ở Ngân hàng khác thì vẫn tiến hành xử lý phát mại nhưng việc phân chia tiền trả nợ phải chờ quyết định của toà án.
+ Nếu là các khoản vay không có thế chấp, bảo đảm thì ngân hàng phải chờ sự phán quyết của toà án kinh tế mới có biện pháp thu hồi vốn như bán tài sản của người vay. Nếu người vay không có tài sản thì kết quả đòi nợ vô hiệu hoá và người vay phải thụ án dân sự.
2.2/ Những giải pháp đối với Nhà nước
Nhà nước cần hoàn thiện chính sách cơ chế vĩ mô và luật pháp tạo môi trường pháp lý đầy đủ và đồng bộ cho mọi hoạt động kinh tế nói chung, kinh doanh ngân hàng nói riêng. Cần có những luật và các văn bản dưới luật về sở hữu tài sản, về chức năng nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc cấp chứng từ sở hữu tài sản, quản lý quá trình mua bán, chuyển nhượng, và việc xử lý phát mại tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh, xử lý công nợ của doanh nghiệp thua lỗ, phá sản, giải thể... hướng giải quyết có thể như:
+ Chính phủ cần sớm thành lập một công ty (DNNN) kinh doanh mua bán nợ, tài sản thế chấp theo cơ chế cung cầu của thị trường. Công ty được cấp vốn từ ngân sách nhà nước, khai thác trong dân và vay của nước ngoài, đủ năng lực tài chính cho chương trình xử lý nợ tín dụng.
+ Ngân hàng Nhà nước cần có kế hoạch phối hợp với toà án nhân dân tối cao, Bộ tư pháp, Bộ công an, Viện kiểm soát, Tổng cục địa chính để nghiên cứu soạn thảo, ban hành văn bản liên tịch nhằm hướng dẫn xử lý các khó khăn, ách tắc trong vấn đề tài sản thế chấp. Trong trường hợp một tài sản thế chấp ở nhiều ngân hàng khác nhau ( thế chấp trùng) mà có tranh chấp giữa các ngân hàng thì phải đề nghị toà án giải quyết sớm nếu như các bên không thoả thuận được.
+ NHNN nên cho phép NHTM được sử dụng quỹ dự trữ đặc biệt hay quỹ dự phòng rủi ro giảm giá tài sản để bù đắp phần chênh lệch thiếu giữa giá trị tài sản thế chấp, cầm cố bán được so với dư nợ ngân hàng của các khoản vay bị đóng băng do nguyên nhân khách quan (giá tài sản bị giảm, hoặc tài sản không bán được do nguyên nhân khách quan..)
+ Ngân hàng nhà nước cần chấn chỉnh sửa đổi quy chế bảo lãnh, hạn chế việc mở L/C mới đối với những hàng hoá không thiết yếu. Rà soát các khoản bảo lãnh, đặc biệt các loại L/C chậm trả để nắm chắc thời gian các L/C đến hạn trả, cử cán bộ giám sát, theo dõi chặt chẽ tiền bán hàng của các khách hàng mở L/C đảm bảo thanh toán kịp thời các L/C đến hạn.
+ Nhà nước cần có các chính sách kinh tế ổn định tránh gây ra những đột biến trong nền kinh tế gây ra rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp và của ngân hàng.
+ Nhà nước cần tăng cường các biện pháp quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp. Quy định rõ một cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép thành lập , giấy phép đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp và chịu trách nhiệm về tư cách pháp nhân, vốn tự có thực tế, năng lực trình độ của doanh nghiệp đó.
Thu hồi có thời hạn giấy phép thành lập, giấy phép đăng ký kinh doanh đối với các trường hợp vi phạm: buôn lậu, làm hàng giả, lừa đảo....cần buộc các doanh nghiệp phải chấp hành đúng pháp lệnh kế toán, có chế độ kiểm toán hàng năm đối với các doanh nghiệp. Chính sửa ban hành một số cơ chế tín dụng, bổ sung các điều kiện, nguyên tắc cho vay phù hợp với thực tế hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường .
+ Nhà nước cần quy định rõ địa bàn được công chứng theo hộ khẩu trên lãnh thổ để ngăn chặn và phát hiện những khách hàng lừa đảo, một tài sản dùng thế chấp ở nhiều nơi.
+ Và cuối cùng Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cũng cần có một chương trình dài hạn và trước mắt để quy hoạch, cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng, đặc biệt là loại yếu kém để xây dựng trong tương lai gần có một hệ thống ngân hàng Việt Nam hoạt động lành mạnh, hiệu quả, đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước, khu vực và quốc tế.
Kết luận
Như vậy chất lượng tín dụng ngân hàng là một khái niệm rộng, xét trên một góc độ ngân hàng, khách hàng và xã hội thì có mỗi khái niệm khác nhau. Hơn nữa còn là một khái niệm mang tính định lượng và định tính. Định lượng là những chỉ tiêu ta có thể tính toán so sánh như đối với ngân hàng chủ yếu là chỉ tiêu dư nọ và nợ quá hạn, còn định tính như khả năng thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh tế ... và tất nhiên chất lượng của khoản tín dụng trung dài hạn cũng không nằm ngoài khái niệm chung đó.
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - một Ngân hàng giữ vị thế chủ đạo trong lĩnh vực đầu tư và phát triển, có thế mạnh và kinh nghiệm với 42 năm hoạt động trong trong lĩnhvực tín dụng đầu tư phát triển. Hoạt động tín dụng trung dài hạn của ngân hàng trong những năm qua luôn tăng trưởng, dư nợ tín dụng trung dài hạn luôn chiếm 50-60% tổng dư nợ. Ngân hàng thực sự là địa chỉ tin cậy đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Mặc dù tỉ lệ nợ quá hạn của ngân hàng trong những năm qua là hơn 2%. Thấp hơn so với các ngân hàng thương mại khác trong nước. Nhưng đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam tỉ lệ này còn cao, với phương hướng giảm tỉ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ xuống dưới 2% đòi hỏi, toàn bộ hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cần thực hiện tốt những giải pháp để đạt được kết quả như mục tiêu đề ra.
Thành quả đạt được của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động tín dụng trung dài hạn nói riêng trong những năm qua đã đóng góp thiết thực cho sự phát triển kinh tế của đất nước, đóng góp vào việc thực hiện mục tiêu: dân giàu, xã hội công bằng văn minh. Đồng thời khẳng định vai trò, vị trí của Ngân hàng trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước, thời kì CNH,HĐH.
Vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn đòi hỏi phải đề cập một cách sâu sắc, đầy đủ mang tính thực tế cao. Nhưng do thời gian thực tập ngắn, kinh nghiệm thực tế của bản thân chưa có nên chuyên đề còn nhiều thiếu sót về mặt thực tiễn cũng như lý luận. Rất mong sự góp ý, chỉ bảo của thầy, cô và các bạn để chuyên đề được hoàn chỉnh và thực tế hơn.
Em xin chân thành cảm ơn các anh, chị và lãnh đạo tại phòng tín dụng II, Ngân hàng Đầu tư và Phát triểnViệt Nam và đặc biệt là cảm ơn thầy giáo hướng dẫn PTS. Lê Đức Lữ đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
tài liệu tham khảo
1./ Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính. FS.Minshkin- NXB khoa học kĩ thuật.
2./ Ngân hàng thương mại -Nhà xuất bản thống kê.
3./ Tiền tệ, tín dụng, ngân hàng - Nhà xuất bản thống kê.
4./ Quy trình tín dung vủa Ngân hàng ĐT&PT VN.
5./ Báo cáo thường niên của Ngân hàng ĐT&PT VN năm 1999,2000,2001.
6./ Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh cuả Ngân hàng ĐT&PT VN.
7./ Phương hướng kinh doanh của NHĐT&PT VN năm 1999.
8./ Một số văm bản của Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước, Chính phủ và của NHĐT&PT VN liên quan đến cơ chế hoạt động tín dụng.
9./ Tạp chí ngân hàng số 10,18, 23,24/2001; tháng 5,9,12/2001; tháng 2/1999; số chuyên đề tháng 12/2001
10./ Tạp chí đầu tư phát triển, số 31,33/2000; 35/2001.
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0104.doc