Lời mở đầu
Những năm qua nền kinh tế nước ta đã và đang chuyển dần từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý và điều tiết của nhà nước. Hệ thống ngân hàng Việt Nam đã trải qua một thời kỳ đổi mới tuy chưa dài nhưng đã góp phần kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Tuy nhiên hoạt động ngân hàng hiện nay còn những tồn tại nhất là ở khâu tín dụng, thể hiện rõ nét là hoạt động tín dụng xét trên nhiều khía c
58 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1470 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giảI pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại CN Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Láng Hạ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạnh chưa theo kịp những chuyển biến nhanh chóng và phức tạp trên nhiều lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế- xã hội, kể cả đối nội và đối ngoại, nói khái quát là: Chất lượng hoạt động tín dụng chưa cao, đang đòi hỏi tìm kiếm giải pháp tháo gỡ có hiệu quả ở cả tầm vĩ mô và vi mô.
Tín dụng là hoạt động cơ bản nhất của ngân hàng, là khâu then chốt trong hoạt động kinh doanh, nó quyết định phần lớn sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Chính vì vậy chất lượng tín dụng chưa cao đang là mối quan tâm không chỉ đối với các cấp lãnh đạo, với các giới quản lý và điều hành của hệ thống ngân hàng mà còn là mối quan tâm của toàn xã hội.
Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Láng Hạ (CN Láng Hạ) là một ngân hàng thương mại quốc doanh, hoạt động trên địa bàn có nhiều doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Hoạt động trong nền kinh tế thị trường thì cạnh tranh là một tất yếu, để có thể đứng vững các doanh nghiệp này phải không ngừng đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm. Muốn thực hiện các yêu cầu trên thì nhất thiết phải có vốn. Kể từ khi đi vào hoạt động Chi nhánh Láng Hạ đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu về vốn của các đơn vị này. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để tín dụng của ngân hàng hoạt động an toàn và có hiệu quả, phục vụ tốt cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, đang là yêu cầu bức xúc nhất, có ý nghĩa quan trọng và quyết định nhất cả về mặt lý thuyết cũng như thực tiễn.
Sau một thời gian thực tế tại Chi nhánh Láng Hạ và với những kiến thức đã học em đã chọn đề tài : “ Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn Láng Hạ” để nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về tín dụng và chất lượng hoạt động tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. Qua đó phân tích đánh giá thực trạng chất lượng hoạt động tín dụng của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Láng Hạ, rút ra những nguyên nhân của tình hình đó và đưa ra một số biện pháp chủ yếu nhằm tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng tín dụng.
Nội dung nghiên cứu gồm 3 chương:
Chương1: Chất lượng tín dụng ngân hàng đối với sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng thương mại .
Chương2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Láng Hạ .
Chương3: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Láng Hạ.
Với thời gian thực tập không nhiều, năng lực bản thân còn hạn chế, bài viết của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong có sự góp ý của thầy cô và bạn đọc.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo- Thạc sỹ Trần Thị Thu Hiền và các anh, chị ở chi nhánh Láng Hạ đã giúp đỡ em hoàn thành bài viết này.
Chương 1
Chất lượng tín dụng đối với sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng thương mại
1.1-Vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường.
1.1.1- Khái niệm :
Ngân hàng thương mại (NHTM) là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ mà nhiệm vụ chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Qua định nghĩa trên, NHTM đã thể hiện như là một doanh nghiệp thực sự. Song đó là loại hình doanh nghiệp dịch vụ tài chính, dịch vụ được thể hiện ở chỗ NHTM đi vay tiền của xã hội rồi lại cho chính xã hội vay lại, qua đó thu lời.
1.1.2-Chức năng của Ngân hàng thương mại :
Ngân hàng thương mại có các chức năng sau:
1.1.2.1- Trung gian tín dụng :
NHTM một mặt thu hút các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội, bao gồm tiền của các doanh nghiệp, các hộ gia đình, cá nhân và các cơ quan nhà nước. Mặt khác nó dùng chính số tiền đã huy động để cho vay đối với các thành phần kinh tế trong xã hội, khi chúng có nhu cầu bổ sung vốn.
Nói cách khác NHTM là một trung gian tài chính quan trọng, điều chuyển vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu. Các trung gian tài chính sẽ góp phần giảm thiểu những chi phí thông tin và chi phí giao dịch trong nền kinh tế. Như vậy, NHTM có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thêm việc làm, cải thiện mức sống của dân cư, ổn định thu chi của chính phủ. Thực hiện chức năng này, NHTM góp phần quan trọng vào việc điều hoà lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua đồng tiền, kiềm chế lạm phát. Có thể nói đây là chức năng cơ bản nhất của NHTM.
1.1.2.2- Trung gian thanh toán :
Các khoản chi trả tiền hàng, dịch vụ và các khoản khác trong nền kinh tế quốc dân rất lớn. Nếu thực hiện bên ngoài Ngân hàng thì chi phí sẽ rất lớn, các chi phí đó bao gồm: Chi phí in đúc, bảo quản, vận chuyển,... Ngoài ra Ngân hàng sẽ không kiểm soát được các hoạt động kinh tế, nhất là các hoạt động kinh tế ngầm như buôn lậu, trốn thuế .., gây thất thoát tài sản của nhà nước.
Với sự ra đời của NHTM, phần lớn các khoản chi trả được thực hiện qua Ngân hàng dưới những hình thức thanh toán thích hợp, thủ tục đơn giản như: Séc, UNC, UNT, ...
Do thực hiện chức năng trung gian thanh toán NHTM có điều kiện huy động tiền gửi của xã hội, trước hết là của các doanh nghiệp tới mức tối đa, tạo nguồn vốn cho vay và đầu tư, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
1.1.2.3- Nguồn tạo tiền .
Khi đã hoạt động trong một hệ thống Ngân hàng, NHTM có khả năng “tạo tiền” bằng cách chuyển khoản hay bút tệ để thay thế cho tiền mặt.
Quá trình tạo tiền của hệ thống Ngân hàng thương mại dựa trên cơ sở tiền gửi của xã hội. Song số tiền gửi được nhân lên gấp bội khi Ngân hàng cho vay thông qua cơ chế thanh toán chuyển khoản giữa các Ngân hàng.
Vai trò của Ngân hàng thương mại :
Có thể khẳng định Ngân hàng là “mạch máu” quan trọng của nền kinh tế, không thể nói một nền kinh tế mạnh mà trong đó hệ thống Ngân hàng lại yếu kém. Ngược lại, trong một nền kinh tế trì trệ và chậm phát triển thì khó có thể tồn tại một hệ thống Ngân hàng vững mạnh.
Vai trò của Ngân hàng được thể hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất : NHTM là công cụ quan trọng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp hoạt động trong một môi trường rất năng động và có sự cạnh tranh rất gay gắt. Do vậy doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải không ngừng đổi mới trang thiết bị, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, nâng cao trình độ công nhân và trình độ quản lý doanh nghiệp.
NHTM với chức năng là huy động vốn để thực hiện cho vay đối với mọi đối tượng, mọi thành phần kinh tế nên đã đáp ứng yêu cầu về vốn của các doanh nghiệp.
Ngân hàng thương mại không những cung ứng tín dụng cho các doanh nghiệp, mà còn thông qua các nghiệp vụ tiền gửi thanh toán, tư vấn hỗ trợ cho hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp.
Thứ hai: NHTM góp phần quản lý doanh nghiệp có hiệu quả.
Khi tham gia vào quan hệ tín dụng, doanh nghiệp vay vốn và Ngân hàng đều phải quán triệt các nguyên tắc tín dụng. Việc cho vay vốn của Ngân hàng được thực hiện với 3 nguyên tắc sau:
- Tiền vay được sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả.
- Tiền vay phải được hoàn trả cả gốc và lãi, đúng hạn.
- Việc đảm bảo tiền vay được thực hiện theo qui định của Chính phủ và của Ngân hàng trung ương.
Việc tuân thủ các nguyên tắc trên đòi hỏi doanh nghiệp phải hạch toán kinh tế, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí và tăng khả năng sinh lời... Đó chính là Ngân hàng đã góp phần quản lý doanh nghiệp có hiệu quả.
Thứ ba: NHTM đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương.
Phần lớn các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương chỉ được thực thi có hiệu quả khi có sự hợp tác tích cực của các NHTM, từ việc chấp hành qui chế dự trữ bắt buộc, qui chế thanh toán không dùng tiền mặt, đến việc nâng cao hiệu quả đầu tư.
Ngân hàng thương mại góp phần ổn định giá cả khi có hiện tượng lạm phát xảy ra. Để kiềm chế lạm phát Ngân hàng sẽ thực hiện những biện pháp cấp bách bằng cách ngừng phát hành tiền vào lưu thông và tăng lãi suất tiền gửi đặc biệt là tiền gửi tiết kiệm. Ngân hàng ngừng phát hành tiền vào lưu thông nhằm mục đích không cho tiền tăng lên trong lưu thông, còn tăng lãi suất tiền gửi có tác dụng thu hút tiền mặt của dân cư và doanh nghiệp vào Ngân hàng, giảm “sức ép” đối với hàng hoá trên thị trường. Biện pháp này đã thu hút được một lượng tiền mặt khá lớn từ lưu thông vào Ngân hàng, góp phần làm giảm cơn sốt lạm phát.
1.2- Chất lượng tín dụng đối với sự tồn tại và phát triển của NHTM.
1.2.1- Tín dụng, vai trò và chức năng của tín dụng trong nền kinh tế thị trường.
*Khái niệm tín dụng:
Tín dụng là mối quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay, là nhượng quyền sử dụng một lượng giá trị hay hiện vật với những điều kiện mà hai bên thoả thuận.
*Chức năng của tín dụng:
- Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ nhàn rỗi trên nguyên tắc hoàn trả.
- Kiểm soát các hoạt động kinh tế thông qua tiền tệ.
*Vai trò của tín dụng:
- Đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì quá trình sản xuất, kinh doanh được liên tục đồng thời đầu tư phát triển kinh tế.
- Thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất.
- Tín dụng là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và ngành mũi nhọn.
- Tín dụng góp phần tác động đến việc tăng cường chế độ hạch toán kinh tế của các doanh nghiệp.
-Tín dụng tạo điều kiện phát triển các quan hệ kinh tế với nước ngoài.
1.2.2- Khái niệm về chất lượng hoạt động tín dụng.
Chất lượng tín dụng có thể hiểu một cách đơn giản là hiệu quả của việc cho vay (hay đầu tư, bảo lãnh) mang lại, là khả năng thu hồi đầy đủ đúng hạn cả vốn gốc và lãi.
Chất lượng hoạt động tín dụng xét từ 3 góc độ: Khách hàng, kinh tế – xã hội và Ngân hàng thương mại.
*Chất lượng hoạt động tín dụng xét từ góc độ khách hàng:
Thông qua quan hệ lâu dài với khách hàng, sự am hiểu khách hàng sẽ làm cho Ngân hàng hiểu rõ nhu cầu tín dụng của khách hàng. Chất lượng tín dụng được nâng cao, thoả mãn cho khách hàng, đáp ứng được yêu cầu hợp lý về lãi suất, kỳ hạn nợ, thủ tục không phiền hà, thu hút được khách hàng nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc, thể lệ và chế độ tín dụng.
*Chất lượng hoạt động tín dụng xét từ góc độ kinh tế- xã hội:
Tín dụng phục vụ sản xuất- kinh doanh tạo thêm công ăn việc làm, tăng sản phẩm cho xã hội, giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng tín dụng. CLTD nâng cao góp phần xoá bỏ hố ngăn cách giầu, nghèo giữa các tầng lớp trong xã hội.
*Chất lượng hoạt động tín dụng xét từ góc độ Ngân hàng thương mại:
Tín dụng phải phù hợp với khả năng của NHTM, đảm bảo được sự cạnh tranh trên thị trường, với nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi.
Như vậy có thể rút ra nhận xét: Chất lượng tín dụng vừa cụ thể, vừa trừu tượng, chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, nó thể hiện năng lực của một Ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường. Chất lượng tín dụng là kết quả của một quy trình kết hợp giữa những con người, giữa các tổ chức với nhau vì mục đích chung. Hiểu đúng bản chất tín dụng, phân tích đánh giá đúng chất lượng tín dụng sẽ giúp Ngân hàng có biện pháp quản lý thích hợp và hiệu quả.
1.2.3- Sự cần thiết nâng cao chất lượng tín dụng.
Trong những năm qua mặc dù hoạt động tín dụng đã góp phần đáng kể trong việc đẩy lùi, kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ổn dịnh giá trị tiền tệ, nhưng những biện pháp tổ chức quản lý tín dụng theo cơ chế thị trường ở nước ta chưa thật phù hợp với thời kỳ đổi mới. Thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi hoạt động tín dụng phải là công cụ nhạy bén của nhà nước trong việc quản lý và điều tiết các hoạt động kinh tế thị trường trên mọi mặt, vì vậy việc nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng là một yêu cầu cấp thiết.
1.2.3.1- Chất lượng tín dụng đối với sự phát triển của nền kinh tế -xã hội.
Khác với các doanh nghiệp khác, NHTM không trực tiếp tham gia vào sản xuất và lưu thông hàng hoá nhưng nó góp phần phát triển kinh tế- xã hội thông qua việc cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế, thực hiện chức năng trung gian thanh toán và dịch vụ Ngân hàng.
Hoạt động tín dụng Ngân hàng là hoạt động “đi vay để cho vay”, do đó chất lượng tín dụng chính là chất lượng của việc huy động vốn và sử dụng vốn.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá thì nhu cầu về vốn, phương tiện giao dịch càng lớn. Do đó chất lượng tín dụng Ngân hàng cần được quan tâm bởi một số lý do sau: Đảm bảo chất lượng tín dụng là điều kiện để Ngân hàng làm tốt chức năng trung gian thanh toán, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn trong nền kinh tế, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội.
- Nâng cao chất lượng tín dụng thì việc cho vay phải thực hiện theo đúng nguyên tắc: Ngân hàng phải kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay. Thông qua đó, Ngân hàng đã góp phần quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD) của đơn vị vay vốn và đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn, tăng thu nhập cho nền kinh tế.
- ở Việt Nam, nguồn vốn trong nước rất ổn định, thường xuyên và bền vững, chi phí huy động thấp. Vì vậy, nâng cao CLTD sẽ đảm bảo huy động tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong nước, đồng thời cung cấp lại cho nền kinh tế, góp phần hạn chế việc vay nợ nước ngoài. Đây cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng giúp Việt Nam không rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực năm 1999.
- Chất lượng tín dụng được nâng cao là cơ sở để Ngân hàng có thể cung ứng cho nền kinh tế những nguồn vốn lớn với thời gian cung ứng dài. Đây là yếu tố tối quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phục vụ cho công cuộc CNH_HĐH đất nước.
- Đảm bảo CLTD thì việc đưa ra chính sách tín dụng phải phù hợp với sự biến đổi của nền kinh tế trong từng thời kỳ.
Đặc biệt trong thời kỳ có lạm phát, bằng việc sử dụng công cụ lãi suất linh hoạt, Ngân hàng đã góp phần tích cực trong quá trình ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát.
- Nâng cao CLTD sẽ đáp ứng được nhu cầu vốn cho mọi thành phần kinh tế, mọi đối tượng trong xã hội. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, tập trung vào CNH- HĐH nông nghiệp nông thôn, tín dụng Ngân hàng đã góp phần tháo gỡ khó khăn về vốn cho bà con nông dân, đầu tư vào hoạt động sản xuất nông nghiệp, tạo công ăn việc làm và giảm nạn nghèo đói. Đã có nhiều hình thức tín dụng cho lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, cụ thể: Tín dụng xoá đói giảm nghèo, Tín dụng Ngân hàng với vấn đề phát triển kinh tế trang trại,...
- Không chỉ góp phần phát triển kinh tế, nâng cao CLTD còn có vai trò quan trọng trong giải quyết các vấn đề xã hội.
Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần tạo ra một động lực lớn đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân...nhưng cũng nảy sinh nhiều vấn đề xã hội lớn, như phân hoá giàu nghèo rõ nét hơn, thất nghiệp ở tỷ lệ cao,.. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là có sự bất công trong khả năng tiếp cận và sử dụng các nguồn lực nhằm đem lại thu nhập giữa các tầng lớp dân cư khác nhau. Tín dụng được sử dụng như một giải pháp khắc phục nguyên nhân này, thông qua cơ chế tín dụng ưu tiên và ưu đãi, tạo rạ công bằng trong việc sử dụng các nguồn lực.
1.2.3.2- CLTD đối với sự tồn tại và phát triển của bản thân các NHTM.
NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng vì mục tiêu lợi nhuận. Cũng như các doanh nghiệp khác, NHTM cũng cần phải quan tâm tới chất lượng “sản phẩm” của doanh nghiệp mình. Vậy vì sao phải nâng cao CLTD?
- Trước hết tín dụng là một “sản phẩm” của Ngân hàng, hoạt động tín dụng là lĩnh vực chủ đạo, chiếm tỉ trọng từ 85%_95% doanh thu, vì vậy việc đảm bảo CLTD là vấn đề có tính quyết định đến hiệu quả kinh doanh của NHTM.
- Chất lượng sản phẩm của các loại hình doanh nghiệp khác ảnh hưởng chủ yếu tới doanh nghiệp đó nhưng chất lượng “sản phẩm” của Ngân hàng không chỉ ảnh hưởng đến bản thân Ngân hàng mà còn ảnh hưởng tới các đơn vị liên quan với Ngân hàng. Do vậy nâng cao CLTD một mặt tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, mặt khác còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, cá nhân có quan hệ tín dụng với Ngân hàng phát triển SXKD. Ngược lại chỉ khi đồng vốn sử dụng đem lại hiệu quả kinh tế thì người đi vay mới có khả năng thanh toán đầy đủ, đúng hạn và đảm bảo hoạt động của Ngân hàng.
- Hoạt động trong nền kinh tế thị trường, với mạng lưới NHTM rộng khắp trong cả nước thì cạnh tranh ngày càng gay gắt. Chính vì thế buộc các Ngân hàng không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm của mình về cả quy mô và chất lượng “sản phẩm”. Nhưng phát triển về quy mô luôn bị giới hạn bởi một số yếu tố nhất định và điều quan trọng vẫn là nâng cao chất lượng. Chẳng hạn trong việc huy động vốn, muốn mở rộng thì cũng bị ràng buộc bởi Vốn tự có, nhưng việc nâng cao chất lượng vốn huy động thì không bị ràng buộc bởi yếu tố nào và việc sử dụng vốn cũng vậy.
- Nâng cao CLTD đồng nghĩa với việc giảm thiểu rủi ro, nó có ảnh hưởng lớn tới uy tín của Ngân hàng. Để thu hút được khách hàng, nhất là các khách hàng lớn và có quan hệ lâu dài thì Ngân hàng phải luôn luôn coi trọng chữ tín, như đáp ứng kịp thời nhu cầu về vốn, đảm bảo khả năng thanh toán,...Chỉ khi đó Ngân hàng mới có thể giữ được mối quan hệ lâu dài với khách hàng.
- Trong nền kinh tế nhiều thành phần, nhu cầu về vốn tín dụng rất đa dạng phong phú. Muốn đáp ứng được, Ngân hàng phải không ngừng mở rộng các hình thức tín dụng: Tín dụng tiêu dùng, Tín dụng sản xuất, Tín dụng bằng tiền,... Đây cũng là việc nâng cao chất lượng tín dụng, làm tăng thu nhập cho Ngân hàng, phân tán rủi ro giữa các loại hình tín dụng.
- Hoạt động Ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng của NHTM luôn chịu sự giám sát, điều hành của Ngân hàng trung ương (NHTW). Trong từng thời kỳ, NHTW có thể thực hiện thắt chặt hay nới lỏng chính sách tiền tệ. Các công cụ của chính sách tiền tệ như: lãi suất, hạn mức tín dụng, tỉ lệ dự trữ bắt buộc đều có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Khi hạn mức tín dụng bị thu hẹp hoặc tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên sẽ làm giảm quy mô cho vay của NHTM. Lúc này chỉ còn cách NHTM phải nâng cao chất lượng tín dụng mới có thể đảm bảo duy trì hoạt động của mình.
1.2.3.4-Chất lượng tín dụng với khách hàng.
Chất lượng tín dụng tác động trực tiếp tới khách hàng, CLTD được nâng cao sẽ tạo lòng tin với khách hàng, điều này có tác dụng giúp Ngân hàng trong việc mở rộng và thu hút khách hàng. Đảm bảo CLTD góp phần phát triển sản xuất kinh doanh và làm lành mạnh tình hình tài chính của khách hàng.
Qua phân tích ở trên, việc nâng cao CLTD là cần thiết khách quan vì sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng. Thành công chỉ đến đối với các NHTM coi đó là chiến lược lâu dài thường xuyên và phải được đầu tư xứng đáng.
1.2.4- Các nhân tố ảnh hưởng đến CLTD
Trong thực tế quá trình hoạt động của NHTM, ta thấy trong cùng một thời gian, ở cùng một thị trường, có Ngân hàng CLTD cao, tổn thất ít nhưng lại có Ngân hàng gặp khó khăn, tổn thất tín dụng lớn và mức độ khó khăn cũng rất khác nhau. Đó là do có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới CLTD, cả nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan. Các nhân tố ảnh hưởng tới CLTD:
- Nhân tố thuộc về người cho vay( NHTM và các TCTD).
- Nhân tố thuộc về người đi vay( Tổ chức kinh tế, cá nhân).
- Nhân tố thuộc về môi trường kinh tế.
- Nhân tố thuộc về môi trường pháp lý.
1.2.4.1- Các nhân tố thuộc về người cho vay.
Nhân tố cơ bản quyết định chất lượng tín dụng không phải do khách quan hay do lực lượng nào đó bên ngoài mà nó nằm ngay trong từng NHTM.
Thứ nhất: Chất lượng cán bộ tín dụng và cơ sở vật chất thiết bị.
Trong mọi lĩnh vực con người luôn là yếu tố quyết định, cụ thể là việc đảm bảo CLTD trước hết phải do chính những người trực tiếp làm tín dụng (Cán bộ tín dụng) quyết định.
Cán bộ tín dụng hàng ngày phải xử lý những nghiệp vụ có tính biến động và liên quan đến nhiều lĩnh vực, ngành nghề kinh tế; gặp gỡ trực tiếp với nhiều loại khách hàng, đối mặt với nhiều cám dỗ; có nhiều cơ hội để thực hiện những hành vi vụ lợi. Vì vậy, người cán bộ tín dụng cần phải được tuyển chọn cẩn trọng, được bố trí hợp lý, được quan tâm, rèn luyện,... Hoạt động kinh doanh tiền tệ cần thiết phải có đội ngũ cán bộ đảm bảo một số tiêu chuẩn cơ bản sau:
- Phải có kiến thức, trình độ nghiệp vụ cơ bản.
- Phải có đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp cao.
- Phải có bản lĩnh, kinh nghiệm nghề nghiệp .
Trong hoạt động tín dụng thì các thiết bị, phương tiện làm việc cũng rất quan trọng trong công tác tiếp thị, điều tra, phân tích thông tin,.., là cơ sở để đưa ra những quyết định đúng đắn, vì thế nó có ảnh hưởng lớn tới CLTD.
Thứ hai: Chất lượng thông tin tín dụng.
Trong hoạt động tín dụng, Ngân hàng bỏ tiền ra trên cơ sở lòng tin là chính. Lòng tin đó có chính xác hay không phụ thuộc vào chất lượng thông tin có được. Để việc đầu tư tín dụng có chất lượng, giảm thiểu rủi ro Ngân hàng phải có được và phân tích, xử lý chính xác rất nhiều thông tin liên quan. Chính vì vậy nếu thông tin Ngân hàng thu được sai sự thật mà trong quá trình phân tích không phát hiện ra, sẽ dẫn đến những quyết định không đúng đắn, khả năng rủi ro xảy ra rất cao.
Thật vậy, thông tin tín dụng là cơ sở quan trọng để đề ra các quyết định trong hoạt độ tín dụng. Thông tin đầy đủ, chính xác kịp thời và an toàn sẽ góp phần quan trọng trong phòng ngừa rủi ro tín dụng, tạo điều kiện tăng CLTD.
Thứ ba: Chính sách và thể lệ tín dụng
Để nâng cao CLTD thì chính sách và thể lệ tín dụng phải đúng đắn, phù hợp với đường lối phát triển của Chính phủ, đồng thời đảm bảo kết hợp hài hoà quyền lợi của người gửi tiền, người đi vay và chính bản thân Ngân hàng. Muốn vậy, xây dựng chính sách phải dựa trên cơ sở khoa học và sự phù hợp trong từng thời kỳ. ở nước ta hiện nay còn rất nhiều vướng mắc trong việc ban hành chính sách, chế độ tín dụng. Việc ban hành còn chưa chặt chẽ, thống nhất nên khi áp dụng gây nhiều khó khăn cho hoạt động tín dụng, làm ảnh hưởng tới CLTD.
Thứ tư: Quy trình tín dụng.
Quy trình tín dụng là trình tự các bước phải thực hiện trong quá trình cho vay, thu nợ, đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Quy trình này được bắt đầu từ việc phân tích nhu cầu cho đến khi thu hồi đủ nợ vay cả vốn và lãi. Muốn đạt hiệu quả cao thì phải tôn trọng và kết hợp nhịp nhàng các bước trong quy trình. Khi đó Ngân hàng sẽ phát hiện kịp thời các khiếm khuyết, diễn biến của khoản tín dụng để có biện pháp điều chỉnh, can thiệp kịp thời nhằm hạn chế rủi ro có thể xảy ra.
Trong thực tế có rất nhiều Ngân hàng thực hiện không đầy đủ các bước trong quy trình tín dụng hay việc thực hiện chỉ mang tính hình thức. Đặc biệt trong quá trình thẩm định, cán bộ tín dụng có khi chỉ xem xét số liệu do khách hàng cung cấp trên giấy tờ mà không trực tiếp đến đơn vị kiểm tra. Do vậy thông tin đó có thể bị sai lệch với thực tế và dẫn đến rủi ro tín dụng sau này.
Thứ năm: Tình hình tạo lập nguồn vốn.
Ngân hàng muốn cho vay thì trước hết phải thực hiện việc huy động vốn, vì vậy việc tạo lập nguồn vốn có quan hệ mật thiết với hoạt động sử dụng vốn. Có thể nhu cầu sử dụng vốn lớn nhưng nguồn huy động được lại nhỏ thì cũng không thể đáp ứng được. Đặc biệt kết cấu và giá cả nguồn vốn quyết định kết cấu và giá cả cho vay, như tỷ trọng vốn ngắn hạn, trung và dài hạn bao nhiêu từ đó có thể cho vay với những thời hạn như thế nào, lãi suất ở mức bao nhiêu để hấp dẫn khách hàng lại đảm bảo thu nhập cho Ngân hàng. Chính vì thế vấn đề tạo lập nguồn vốn ảnh hưởng lớn tới CLTD
Thứ sáu: Việc kiểm soát nội bộ hoạt động tín dụng.
Đây là sự phối hợp giữa thủ tục, phương pháp tổ chức hoạt động và các biện pháp khác để Ngân hàng có được các thông tin về tình trạng kinh doanh nhằm duy trì hiệu quả các hoạt động kinh tế đang xúc tiến, phù hợp với chính sách và đáp ứng yêu cầu, mục tiêu đã định.
Trong lĩnh vực hoạt động tín dụng, kiểm soát nội bộ bao gồm:
- Kiểm tra hồ sơ cho vay.
- Kiểm tra việc chấp hành dư nợ ngắn hạn, trung và dài hạn.
- Kiểm tra việc bảo quản tài sản thế chấp, cầm cố.
- Kiểm tra về an toàn vốn vay.
- Kiểm tra việc sử dụng vốn vay của khách hàng.
- Kiểm tra một số chỉ tiêu khác: thời hạn cho vay, thời hạn gia hạn nợ.
Công tác kiểm soát nội bộ tốt góp phần quan trọng đảm bảo CLTD vì CLTD tuỳ thuộc vào mức độ phát hiện kịp thời nguyên nhân các sai sót phát sinh trong quá trình thực hiện một khoản tín dụng. Để kiểm soát nội bộ có hiệu quả, Ngân hàng cần có cơ cấu tổ chức hợp lý, cán bộ kiểm tra giỏi và có chính sách thưởng phạt kịp thời, nghiêm minh.
1.2.4.2- Các nhân tố thuộc về người đi vay.
Người đi vay là một chủ thể trong quan hệ tín dụng Ngân hàng nên các nhân tố thuộc về người đi vay cũng có ảnh hưởng rất lớn đến CLTD. Sự ảnh hưởng đó thể hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất: Chất lượng tín dụng phụ thuộc vào tiềm lực tài chính của khách hàng vay vốn.
Tiềm lực tài chính của khách hàng thể hiện qua: hiệu quả sinh lời của hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình và khả năng thanh toán. Do đó nếu tiềm lực tài chính mạnh và ổn định thì việc vay trả sẽ diễn ra thuận lợi, họ có khả năng trả đủ, đúng hạn.
Thứ hai: Việc chấp hành nguyên tắc cho vay và điều kiện cho vay:
Trong quan hệ tín dụng, khách hàng vay vốn phải tuân theo những nguyên tắc và điều kiện nhất định. Song đôi khi họ lại không tuân thủ đúng những nguyên tắc và điều kiện đó, lúc này chắc chắn rủi ro tín dụng sẽ xảy ra. Để đảm bảo CLTD thì việc xây dựng những nguyên tắc và điều kiện vay vốn phải khoa học và linh động trong áp dụng (trong phạm vi có thể) đối với từng doanh nghiệp. Khi phát hiện có sự vi phạm phải tìm biện pháp xử lý kịp thời.
Thứ ba: Đạo đức kinh doanh của khách hàng vay vốn.
Do chuyển sang làm ăn trong cơ chế thị trường chưa lâu nên hầu hết các khách hàng (chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước) chưa có đủ năng lực và kinh nghiệm để cạnh tranh trên thương trường và thường thua thiệt trong kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp vay vốn vi phạm đạo đức kinh doanh, thể hiện bằng việc cung cấp các số liệu không trung thực hay giấy tờ giả. Nhà nước đã ban hành chế độ kế toán, thống kê nhưng phần lớn các doanh nghiệp thực hiện không nghiêm túc. Mặt khác khách hàng vay vốn sẵn sàng sử dụng vốn sai mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng vì mục tiêu lợi nhuận mặc dù hoạt động sản xuất kinh doanh đó tiềm ẩn nhiều yếu tố rủi ro, khi đó chắc chắn khả năng không đảm bảo CLTD rất cao.
Thứ tư: Năng lực, kinh nghiệm quản lý trong kinh doanh, trình độ lao động của đơn vị vay vốn.
Rủi ro trong kinh doanh của doanh nghiệp sẽ xảy ra nếu việc tính toán triển khai dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp không khoa học, không được thực hiện kỹ càng, xác thực, không nắm bắt kịp thời các thông tin trên thị trường. Nói cách khác năng lực quản lý kinh doanh của lãnh đạo doanh nghiệp rất quan trọng trong việc đưa ra các phương án khả thi. Đồng thời để SXKD đạt hiệu quả, doanh nghiệp cũng cần có một đội ngũ nhân viên có trình độ cao bởi vì kế hoạch tốt mà đội ngũ công nhân, nhân viên kém thì hiệu quả vẫn không cao và sẽ ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cho Ngân hàng, ảnh hưởng tới CLTD.
1.2.4.3- Các nhân tố thuộc về môi trường kinh tế.
Nền kinh tế là một thực thể bao gồm nhiều hoạt động kinh tế có quan hệ mật thiết với nhau. Chỉ cần một sự thay đổi nhỏ của hoạt động này sẽ kéo theo sự thay đổi hàng loạt các hoạt động khác. Hơn nữa, hoạt động của các NHTM có thể được coi là “chiếc cầu nối” giữa các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Vì vậy sự ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế là môi trường thuận lợi để mở rộng và phát triển hoạt động tín dụng. Và ngược lại khi nền kinh tế bất ổn định thì chất lượng tín dụng sẽ giảm sút. Các nhân tố tác động trực tiếp và thường xuyên tới hoạt động tín dụng bao gồm: lạm phát, thất nghiệp, lãi suất trên thị trường...
1.2.4.4- Các nhân tố thuộc về môi trường pháp lý.
Trong nền kinh tế thị trường mọi đối tượng, mọi thành phần kinh tế đều có quyền tự chủ về hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng phải đảm bảo trong khuôn khổ pháp luật. Trong kinh doanh Ngân hàng cũng vậy, nhân tố pháp lý có tác động trực tiếp đến mọi hoạt động của Ngân hàng. Các nhân tố pháp lý ở đây bao gồm hệ thống pháp luật đồng bộ, các văn bản pháp quy đầy đủ,.., chẳng hạn như những quy định về giải thể, phá sản doanh nghiệp, tài sản thế chấp, cầm cố,…Hoạt động tín dụng Ngân hàng rất phức tạp, vì vậy vị trí của pháp luật rất quan trọng, nó là cơ sở để các bên thực hiện nghĩa vụ và giải quyết tranh chấp xảy ra.
1.2.5- Một số chỉ tiêu đánh giá CLTD
Để đánh giá CLTD người ta thường sử dụng một số chỉ tiêu cơ bản sau:
1. Tỷ lệ Tổng dư nợ/ Tổng nguồn vốn: Tỷ lệ này phản ánh qui mô tín dụng được mở rộng hay thu hẹp. Nhìn chung tỷ lệ này càng lớn thì càng tốt.
2.Tỷ lệ cho vay trong hạn:
Tỷ lệ cho vay
trong hạn
=
Hạn mức tín dụng – Tổng giá trị đã cho vay
Hạn mức tín dụng
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ rủi ro cao hay thấp bởi hạn mức tín dụng Ngân hàng cho vay đối với khách hàng là tổng mức cao nhất có thể cho vay mà vẫn kiểm soát được rủi ro. Tỷ lệ này mà nhỏ hơn hoặc bằng 0 thì doanh nghiệp có nguy cơ vượt quá hạn mức cho phép, Ngân hàng cần khuyến cáo doanh nghiệp để giảm dư nợ.
3.Tỷ lệ nợ quá hạn:
Tỷ lệ nợ quá hạn
=
Nợ quá hạn
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả kinh doanh tín dụng của Ngân hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn mà nhỏ hơn hoặc bằng 0,5 thì hoạt động kinh doanh có hiệu quả, nếu tỷ lệ này lớn hơn 0,5 tức là Ngân hàng đang gặp khó khăn về tài chính. Để hạn chế rủi ro tín dụng có thể xảy ra Ngân hàng cần có những biện pháp để thu hồi nhanh các khoản nợ quá hạn.
4.Tỷ lệ vốn tự có / khối lượng tín dụng: Tỷ lệ này thể hiện khả năng bù đắp rủi ro tín dụng bằng vốn tự có của Ngân hàng.
Tỷ lệ nợ khó đòi
=
Nợ quá hạn > 1năm
5.Tỷ lệ nợ khó đòi:
Tổng dư nợ
Tỷ lệ này cao không những Ngân hàng phải gánh chịu ruỉ ro tín dụng cao, chất lượng tín dụng kém mà có thể mất khả năng thanh toán.
6. Vòng quay vốn tín dụng:
Vòng quay vốn
tín dụng
=
Tổng doanh số thu nợ
Dư nợ bình quân
Vòng quay vốn tín dụng tăng thì chất lượng tín dụng càng được nâng cao: Ngân hàng cho vay được nhiều và thu hồi vốn nhanh.
1.2.6- Tổ chức quản lý CLTD của NHTM.
1.2.6.1-Mục đích yêu cầu quản lý CLTD.
Mục đích của quản lý CLTD là tối đa hoá lợi nhuận một cách hợp lý trong điều kiện cho phép, CLTD lấy lợi nhuận là mục tiêu nhưng phải luôn gắn với các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trên cơ sở mức lãi suất hợp lý.
Yêu cầu quản lý CLTD phải là lành mạnh, an toàn, có khả năng chiếm l._.ĩnh thị trường và cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật.
1.2.6.2- Biện pháp quản lý chất lượng hoạt động tín dụng.
Nguyên tắc tín dụng và tiêu chuẩn quản lý tín dụng.
- Nguyên tắc tín dụng: Là những quy định đối với việc điều hành hoạt động tín dụng, nguyên tắc tín dụng phải đảm bảo giải quyết hợp lý 3 lợi ích: của Nhà nước, Ngân hàng và khách hàng, nội dung cơ bản của nguyên tắc là phải trả vốn và lãi theo đúng thời hạn quy định trong hợp đồng tín dụng.
- Tiêu chuẩn quản lý tín dụng: Bất kỳ một hoạt động nào, muốn quản lý tốt thì phải đưa ra những tiêu chuẩn quản lý nhất định. CLTD là kết quả của công tác quản lý của Ngân hàng đối với tình hình khách hàng và hoạt động tín dụng của bản thân Ngân hàng. Tiêu chuẩn quản lý tín dụng được thực hiện với cả khách hàng và NHTM.
Đối với khách hàng: Bao gồm các mặt sau:
+ Tư cách pháp nhân.
+ Năng lực sản xuất kinh doanh.
+ Tài sản thế chấp.
+ Vốn tự có.
+ Môi trường hoạt động.
Đối với Ngân hàng:
+ Tình hình chấp hành các nguyên tắc, thể lệ chế độ tín dụng.
+ Vòng quay vốn tín dụng.
+ Khả năng thanh toán.
+ Mức độ phân tán rủi ro.
+ Tình hình chấp hành hạn mức tín dụng đã quy định.
+ Tỷ lệ nợ quá hạn.
- Quy trình quản lý tín dụng:
Thực hiện tốt quy trình quản lý tín dụng là một trong những biện pháp quản lý CLTD của Ngân hàng. Quy trình quản lý tín dụng bao gồm những công đoạn để chế biến những tập hợp đầu vào (nguồn vốn, tài sản, thông tin...) thành những đầu ra mong muốn (sản phẩm, dịch vụ, thông tin...). Ngân hàng chỉ cần thực hiện không tốt một công đoạn thì sẽ ảnh hưởng đến các công đoạn khác, do đó phải kết hợp chặt chẽ trong quá trình thực hiện các công đoạn để phát hiện kịp thời các khoản tín dụng có độ tin cậy thấp nhằm ngăn ngừa, hạn chế rủi ro xảy ra. Muốn thực hiện có hiệu quả quy trình tín dụng, Ngân hàng cần tổ chức tốt các khâu hoạch định chính sách, chế độ, quy định cho vay, thu nợ, phân tích đánh giá, nhận định để đưa ra những quyết định hợp lý và đúng đắn.
- Phân tích hoạt động tín dụng
Mục tiêu kinh doanh hàng đầu của các NHTM là lợi nhuận song trên con đường tìm kiếm lợi nhuận tối đa đó, các NHTM luôn gặp phải một “rào cản” đó là rủi ro.
Phân tích hoạt động tín dụng là việc phân tích đánh giá các nhân tố rủi ro nhằm thiết lập hệ thống phòng ngừa rủi ro trước khi quyết định cho vay cũng như trong suốt quá trình quản lý tiền vay.
Phân tích tín dụng gồm: đánh giá khái quát nhu cầu vay vốn của khách hàng, các nhân tố rủi ro tín dụng trên các mặt: tư cách pháp nhân, tài sản thế chấp, khả năng SXKD, khả năng trả nợ.
+ Tư cách pháp nhân: Xem đơn vị vay vốn có quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập hợp pháp không, và kiểm tra về việc đăng ký kinh doanh.
+ Khả năng tài chính: Nguồn vốn chủ sở hữu có đảm bảo theo quy định không? kết quả SXKD năm trước, quý trước liền kề, tình hình công nợ...
+ Khả năng trả nợ: Cần phân tích các hệ số tài chính như: Hệ số thanh toán ngắn hạn, hệ số thanh toán nhanh. Đặc biệt xem xét tính khả thi của phương án SXKD, chỉ khi nó đem lại hiệu quả thì khách hàng vay vốn mới có khả năng trả nợ.
- Phân loại tín dụng:
Mục đích phân loại để giám sát những khoản nợ hiện có theo mức độ khác nhau, xác định chất lượng và mức độ rủi ro của các khoản nợ để có biện pháp quản lý phù hợp.
Các khoản nợ được phân theo các tiêu thức khác nhau:
Theo thời hạn cho vay:
+ Nợ ngắn hạn.
+ Nợ trung dài hạn.
Theo kỳ hạn nợ.
Theo tính đảm bảo của các khoản nợ:
+ Nợ có tài sản đảm bảo.
+ Nợ không có tài sản đảm bảo.
Theo mức độ rủi ro của các khoản nợ:
+ Nợ có rủi ro thấp.
+ Nợ có rủi ro cao.
Các biện pháp để phát hiện ngăn ngừa tổn thất có thể xảy ra là:
+ Đôn đốc nhắc nợ.
+ Thông báo nợ đến hạn.
+ Đưa ra cơ quan pháp luật nếu khách hàng không thực hiện đúng hợp đồng tín dụng.
Tóm lại, trên đây là một số biện pháp cơ bản về tổ chức quản lý tín dụng. Mỗi biện pháp đều tác động tới CLTD ở từng khía cạnh khác nhau. Chính vì vậy cần kết hợp tất cả các biện pháp trong quản lý tín dụng góp phần hạn chế tới mức tối đa rủi ro tín dụng và nâng cao CLTD.
Chương 2: thực trạng Chất lượng tín dụng tại chi nhánh nhno & ptnt láng hạ
2.1- Sự ra đời và hoạt động kinh doanh của chi nhánh Láng Hạ.
2.1.1- Quá trình hình thành và phát triển của chi nhánh NHNo & PTNT Láng Hạ
Chi nhánh NHNo & PTNT Láng Hạ được thành lập ngày 12/3/1998 theo Quy định 334 của Tổng giám đốc NHNo và PTNT Việt Nam, chính thức đi vào hoạt động ngày 18/3/1999. Chi nhánh trực thuộc Trung tâm điều hành NHNo và PTNT Việt Nam, có trụ sở tại 24 Láng Hạ cùng với Công ty vàng bạc đá quý Hà nội, Hội sở Ngân hàng phục vụ người nghèo Việt Nam. Ngân hàng là đơn vị hạch toán phụ thuộc. Về tổ chức thì NHNo Láng Hạ có địa vị pháp lý ngang với một ngân hàng cấp tỉnh, được phép hoạt động trên địa bàn thành phố Hà nội. Ngay từ khi ra đời, Ngân hàng Láng hạ đã được sự cho phép của Trung tâm điều hành tham gia mọi hoạt động Ngân hàng, tín dụng, thanh toán với các cá nhân, đơn vị tổ chức xã hội trong và ngoài nước, được phép tham gia các hoạt động mua bán và thanh toán bằng ngoại tệ.
cơ cấu tổ chức của nhno và ptnt láng hạ
Giám đốc
Phó giám đốc phụ trách TD
Phó giám đốc phụ trách TTQT
Phòng tín dụng
Phòng tổ chức hành chính
Phòng kế toán kho quỹ
Phòng TTQT
* Ban lãnh đạo bao gồm:
+ Giám đốc: Ông Kiều Trọng Tuyến
+ Phó giám đốc: - Ông Nguyễn Mạnh Tiến
- Ông Lê Hồng Phong
* Số lao động bình quân năm 2001: 34 người
Ra đời trong bối cảnh ngành Ngân hàng nói chung và NHNo & PTNT Việt Nam nói riêng đang chấn chỉnh hoạt động tín dụng Ngân hàng sau thanh tra nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả kinh doanh của các Ngân hàng thương mại và uy tín của toàn ngành. Đồng thời ảnh hưởng của cơn bão tiền tệ trong khu vực và khủng hoảng kinh tế tài chính trên phạm vi toàn cầu, nền kinh tế Việt Nam cũng có dấu hiệu tăng trưởng chậm lại. Song chỉ trong vòng 3 năm hoạt động, với mục tiêu đặt ra ngay từ đầu là: “kinh tế phát triển, an toàn vốn, tôn trọng pháp luật, lợi nhuận hợp lý”, Ngân hàng đã đạt được những kết quả không nhỏ, được phong tặng danh hiệu “ Lá cờ đầu” khu vực đô thị.
Qua thực tế hoạt động và phát triển của chi nhánh, chúng ta có thể đánh giá những thuận lợi và khó khăn của NHNo Láng Hạ như sau:
2.1.1.1- Thuận lợi
- NHNo và PTNT Láng Hạ ra đời, hoạt động trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam có những bước tiến ổn định, hội nhập với nền kinh tế thế giới và trong thời đại bùng nổ thông tin nên nhanh nhạy tiếp cận hiện đại, giảm thiểu được chi phí trong hoạt động kinh doanh.
- Do sự ra đời của chi nhánh Láng Hạ là xuất phát từ yêu cầu mở rộng mạng lưới kinh doanh trên địa bàn Thủ đô nên chi nhánh luôn được sự quan tâm trực tiếp của Ban lãnh đạo NHNo và PTNT Việt Nam. Những cán bộ đầu tiên của chi nhánh đều là những người đã kinh qua thực tế, am hiểu thị trường, nhạy bén, có kiến thức kinh doanh và lập trường chính trị vững vàng.
- Hoạt động Ngân hàng trên địa bàn Láng Hạ nên hầu hết khách hàng vay vốn tại chi nhánh Láng Hạ đều là Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và một số Công ty trách nhiệm hữu hạn hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Năm 2001, một số khách hàng lớn, có uy tín đã về với Ngân hàng như Tổng Công ty bưu chính viễn thông Việt nam, Tổng công ty xăng dầu Việt nam ,...
Đặc biệt trụ sở của Ngân hàng thuộc quận Đống Đa, là quận dân cư đông đúc, đây là điểm thuận lợi cho Ngân hàng trong công tác huy động vốn, nguồn tiền gửi của dân cư và các tổ chức kinh tế dồi dào. Đây còn là thị trường tiềm năng rộng lớn để Ngân hàng khai thác.
- Ngân hàng đã và đang thực hiện chức năng của một Ngân hàng kinh doanh đa năng: hoạt động tín dụng, thanh toán không dùng tiền mặt, thanh toán L/C, bảo lãnh, tư vấn... nên đã đáp ứng được yêu cầu rất đa dạng của khách hàng, từ đó thu hút được khách hàng và tăng nguồn thu cho Ngân hàng.
- Hà nội là nơi tập trung nguồn nhân lực có trình độ cao nên Ngân hàng dễ dàng lựa chọn nhân viên có khả năng đáp ứng yêu cầu công việc. Ngoài ra Ngân hàng có mối quan hệ tốt với các Trường Đại học, Trung tâm nghiên cứu, thường xuyên giúp đỡ Ngân hàng đào tạo và nâng cao trình độ nghiệp vụ đội ngũ cán bộ.
- Là Ngân hàng ra đời muộn nên Chi nhánh Láng Hạ có điều kiện học hỏi kinh nghiệm của các Ngân hàng thương mại khác.
2.1.1.2- Khó khăn:
- Trên địa bàn Hà nội tập trung nhiều chi nhánh NHTM trong nước và nước ngoài với công nghệ tiên tiến, có nhiều ưu thế đã tạo nên sự cạnh tranh gay gắt nhất là trên lĩnh vực lãi suất.
- Ra đời trong bối cảnh khủng hoảng tài chính khu vực ảnh hưởng đến tình hình tài chính và Ngân hàng trong nước, nhiều Ngân hàng gặp rủi ro.. nên uy tín của ngành Ngân hàng giảm sút.
- Trong năm 2001, để thực hiện chủ trương kích cầu Ngân hàng Nhà nước đã 5 lần hạ lãi suất trần cho vay từ 1,25%/ tháng xuống còn 0,85%/tháng, chênh lệch lãi suất giữa đầu vào và đầu ra giảm thấp tạo nên khó khăn tài chính cho các NHTM.
- Nhiều doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, đặc biệt là DNNN, vốn tự có ít, hoạt động chủ yếu bằng vốn vay Ngân hàng, điều này gây rất nhiều khó khăn cho Ngân hàng trong việc lựa chọn khách hàng để đầu tư tín dụng.
- Việc ban hành chính sách, chế độ của Nhà nước còn nhiều vướng mắc nên Ngân hàng không khỏi lúng túng khi áp dụng.
- Do mới đi vào hoạt động nên lực lượng cán bộ vẫn còn thiếu, lại bất cập về trình độ chuyên môn, tin học và ngoại ngữ, đôi khi không đáp ứng được yêu cầu của công việc.
2.1.2- Hoạt động cơ bản của chi nhánh NHNo& PTNT Láng Hạ:
2.1.2.1- Hoạt động tín dụng
Về nguồn vốn:
Tổng nguồn vốn đến 31/12/2001 đạt 1.142.652 triệu đồng, tăng so với năm 2000 là 33% và tăng 13% so với kế hoạch năm. Bình quân huy động 30,5 tỷ/1CBVC, riêng nguồn huy động từ dân cư, tổ chức kinh tế bình quân 15,1 tỷ/1CBVC.
Nguồn vốn trên bao gồm:
- Nguồn vốn nội tệ: 985.842 triệuđồng chiếm 13,7% tổng nguồn vốn
- Nguồn vốn ngoại tệ: 11.273.970 USD tương đương với 156.810 triệu đồng chiếm 86,3% tổng nguồn vốn
Bảng 1: kết cấu nguồn vốn huy động
đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
31/12/2000
31/12/2001
Tăng (giảm) so với cùng kỳ
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tuyệt đối
Số tương đối
1. TG không kỳ hạn
91789
10,6
354222
30,9
+262433
+286%
2. TG có kỳ hạn
380513
44,4
192126
16,8
-188387
-50%
3. Kỳ phiếu, tín phiếu
173655
20,2
5425
0,47
-168230
-97%
4. HĐ vốn khác
211887
24,8
590879
51,83
+378992
+179%
Tổng nguồn
857844
100
1142652
100
+284808
+33%
Tính đến 31/3/2002 tổng nguồn vốn đạt 1842 tỷ đồng, so với đầu năm tăng 709 tỷ đồng và bằng 162%. Trong đó:
- Nguồn vốn nội tệ: 1664325 triệu đồng chiếm 90,4% tổng nguồn vốn
- Nguồn vốn ngoại tệ: 177657 triệu đồng chiếm 9,6% tổng nguồn vốn
Ta thấy tỉ trọng nguồn vốn ngoại tệ đầu năm 2002 có xu hướng giảm so với năm 2001, gây khó khăn trong việc kinh doanh ngoại tệ và đôi khi không đáp ứng được nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu hàng hoá của khách hàng.
Để hiểu rõ hơn đặc điểm của nguồn vốn huy động ta cần xem xét:
Bảng 2: nguồn vốn phân theo thời gian
đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2001
Quý 1/ 2002
Tăng(giảm) so cùng kỳ
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tuyệt đối
Số tương đối
1.TG không kỳ hạn
353
31
487
26,7
+134
+38%
2.TG có kỳ hạn<12 tháng
620
54,3
1171
63,5
+551
+88,9%
3.TG có kỳ hạn>12 tháng
169
14,7
184
9,8
+15
+8,9%
Tổng nguồn
1142
100
1842
100
+700
+61,3%
Kết hợp Bảng 1 và Bảng 2 cho thấy nguồn tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn nhỏ hơn 12 tháng chiếm tỷ trọng lớn và tăng dần giữa các năm. Nguồn vốn này có nhược điểm là khó kế hoạch hoá vì hay biến động lớn, nhưng có ưu điềm lớn là tiết kiệm chi phí và lãi suất vừa phải.
Mặt khác nguồn tiền gửi có kỳ hạn lớn hơn 12 tháng chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn và quý 1/2002 lại giảm mạnh. Điều này gây khó khăn cho Ngân hàng trong đầu tư tín dụng trung và dài hạn.
Nhìn chung hoạt động nguồn vốn được phát triển mạnh mẽ, toàn diện cả nội tệ và ngoại tệ của các thành phần kinh tế. Thành công trong chiến lược phát triển nguồn vốn do:
- Ngân hàng không ngừng phát triển mối quan hệ chặt chẽ với các đơn vị quản lý ngành như: Bảo hiểm xã hội, Tổng cục đầu tư... nhằm huy động nguồn vốn nhàn rỗi từ các tổ chức này và phát triển các dịch vụ thanh toán trong hệ thống, không những tăng cường tiềm lực huy động vốn của chi nhánh mà còn cho cả các đơn vị bạn trong ngành.
- Ngân hàng nắm bắt và điều chỉnh kịp thời các mức lãi suất đáp ứng yêu cầu hạch toán tài chính trong năm.
- Ngân hàng đã mở dịch vụ đại lý thanh toán cho các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài ở Việt nam, vừa góp phần khơi tăng nguồn vốn đồng thời giúp Ngân hàng dễ tiếp cận với thị trường.
Về sử dụng vốn:
Tổng dư nợ đến 31/12/2001 đạt 520897 triệu đồng, trong đó dư nợ ngoại tệ là: 28338436 USD. Bình quân dư nợ trên 1 CBVC là 15 tỷ đồng, nợ quá hạn 0, 06% giảm so với năm 2000 là 0,68% (số tuyệt đối giảm 276 triệu đồng).
Doanh số cho vay trong năm 2001 đạt 823 tỷ đồng( cho vay ngoại tệ 37080 ngàn USD) với:
- Doanh số cho vay ngắn hạn: 395 tỷ đồng
- Doanh số cho vay trung hạn, dài hạn: 428 tỷ đồng
Doanh số thu nợ trong năm đạt 380 tỷ đồng
Để biết được sự biến động về việc sử dụng vốn giữa các năm ta sẽ xem xét
Bảng 3: tình hình sử dụng vốn
đơn vị:Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
Tăng (giảm) so với cùng kỳ
Số tuyệt đối
Số tương đối
1. Doanh số cho vay
255890
823000
+567110
+221%
1. Doanh số thu nợ
230710
380000
+149290
+64,7%
3. Dư nợ
80410
520897
+440487
+548%
Thông qua Bảng 3, trong năm 2001 chi nhánh đã đạt được mức tăng trưởng vượt bậc về chỉ tiêu tín dụng (dư nợ tăng 6,4 lần; doanh số thu nợ tăng 1,64 lần; doanh số cho vay tăng 3,2 lần).
Đạt được kết quả đó là do Ngân hàng đã thực hiện các giải pháp:
- Ngân hàng nắm vững định hướng phát triển của Hội đồng quản trị đồng thời biết phát huy vai trò, vị thế của chi nhánh trên địa bàn, có hầu hết các Tổng công ty 90-91, đặt trọng tâm tiếp cận với các ngành mũi nhọn, có dự án khả thi để tiến hành tiếp cận, thẩm định và đầu tư.
- Ngân hàng thường xuyên chú trọng công tác tiếp thị với phương châm lắng nghe ý kiến từ doanh nghiệp, từ các TCTD khác để từ đó kịp thời điều chỉnh và kiến nghị điều chỉnh các thủ tục, lãi suất cho thích hợp với phương châm “ cạnh tranh lành mạnh để đi lên”.
- Thường xuyên sàng lọc để phân loại khách hàng, xác định mức độ rủi ro trong từng lĩnh vực đầu tư, trong từng ngành kinh tế. Từ đó có biện pháp thoả đáng để xử lý các khoản nợ vay.
- Ngân hàng luôn coi trọng phẩm chất đạo đức cũng như năng lực nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ tín dụng nhằm nâng cao chất lượng công tác tiếp thị và phát triển khách hàng bảo đảm hiệu quả, an toàn tài sản.
2.1.2.2- Hoạt động đối ngoại:
Thanh toán quốc tế:
Tổng doanh số thanh toán quốc tế trong năm được 321 món, đạt 96009353 USD; 2888270 JPY và 5130 DEM, tăng so với năm 2000 là 13,7%.
Trong đó:
+Mở L/C:139 món, số tiền:55546458 USD và 2882270 JPY tăng 105 %
+Thanh toán bằng nhờ thu: 7 món, số tiền: 595590 USD
+Thanh toán hàng xuất khẩu: 2 món, số tiền: 174170 USD
Về giao dịch mua bán ngoại tệ:
Bảng 4: doanh số mua, bán ngoại tệ
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
Quý 1/2002
1. Mua vào
119542493 USD
63318798 USD
39964000USD
89411800 JPY
2878270 JP
287540 GBP
7335 DEM
435000 SGT
2. Bán ra
116333406 USD
66647142 USD
42333000 USD
98411800 JPY
2888270 JPY
28759 GBP
7335 DEM
435000SGT
Doanh số mua ngoại tệ năm 2001 bằng 53% so với năm 2000 và doanh số bán ngoại tệ bằng 57%.
Doanh số mua ngoại tệ quý 1/2002 bằng 72% so với quý 1/2001 và doanh số bán bằng 293%.
Như vậy cả doanh số mua và bán ngoại tệ năm 2001 đều giảm mạnh so với năm 2000 nhưng đến quý 1/2002 lại tăng mạnh, xu hướng sẽ tăng nhiều so với năm 2001.
Tóm lại, hoạt động đối ngoại trong năm nổi lên là:
- Loại hình thanh toán đã được mở rộng và trở lên phong phú hơn so với năm 2000 bao gồm mở L/C, chuyển tiền và nhờ thu trên cả lĩnh vực nhập và xuất khẩu.
- Hoạt động kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế được duy trì đều đặn và thông suốt trong mọi tình huống. Đảm bảo lượng ngoại tệ cho nhu cầu nhập khẩu của các doanh nghiệp.
2.1.2.3- Hoạt động thanh toán, ngân quỹ
Tổng doanh số thanh toán trong năm 2001: 27893 tỷ đồng tăng so với năm 2000 là 5%( năm 2000: 27487 tỷ đồng)
Hoạt động thu chi tiền mặt, ngân phiếu, ngoại tệ trong năm 2001 tăng trưởng và phát triển cả về lượng và chất, thể hiện:
Doanh số thu tiền mặt và ngân phiếu thanh toán năm 2001 đạt 856833 triệu đồng, trong đó thu tiền mặt là 685393 triệu đồng.
Doanh số chi tiền mặt và ngân phiếu thanh toán đạt 844049 triệu đồng, trong đó chi tiền mặt là 674998 triệu đồng.
Qua hoạt động thanh toán của chi nhánh có thể đánh giá như sau:
- Thanh toán an toàn, nhanh chóng, kịp thời đảm bảo uy tín của NHNo & PTNT Việt nam
- Chấp hành tốt chế độ, chính sách về tài chính, quản lý chặt chẽ có hiệu quả tài sản
Qua hoạt động thực tế ở NHNo Láng Hạ có thể đánh giá như sau:
Kết quả thu được:
- Nguồn vốn huy động không ngừng tăng lên, vượt xa với kế hoạch của Ngân hàng.
- Cùng với tăng cường nguồn vốn, công tác sử dụng vốn cũng phát triển về cả số lượng và chất lượng, được thể hiện qua doanh số cho vay và dư nợ đều tăng qua các năm đặc biệt là năm 2001.
- Các nghiệp vụ trung gian đã đóng góp một phần không nhỏ vào thu nhập của Ngân hàng, với nhiều loại hình hoạt động khác nhau.
Những mặt còn hạn chế:
- Hoạt động Ngân hàng chủ yếu là hoạt động tín dụng truyền thống, các nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại chưa triển khai được.
- Do mới đi vào hoạt động nên trình độ cán bộ còn rất nhiều bất cập, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu kinh doanh của Ngân hàng trong cơ chế thị trường.
- Phương tiện làm việc còn thiếu, hạn chế sự phát triển của chi nhánh.
2.2- Thực trạng CLTD tại chi nhánh NHNo & PTNT Láng Hạ:
2.2.1- Tình hình hoạt động tín dụng năm 2001
Để tìm hiểu một cách toàn diện công tác tín dụng ta đánh giá một số chỉ tiêu cơ bản, được biểu thị qua bảng sau:
Bảng 5: tình hình thực hiện chỉ tiêu cơ bản năm 2001.
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Kế hoạch
Thực hiện
% so với KH
% so với 2000
1. Tổng nguồn vốn KD
1012000
1142652
+13
+33
2. Tổng dư nợ
122000
520897
+326
+644
3. Tốc độ tăng trưởng dư nợ TH, DH
200000
114428
+67
4. Tỷ lệ nợ quá hạn
0,2 %
0,06%
-0,14
-0.68
Như vậy chi nhánh đã hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu đề ra, chỉ tiêu dư nợ vượt xa định hướng, nợ quá hạn giảm thấp cả về số tuyệt đối cũng như tương đối.
Sau đây đi sâu nghiên cứu về tình hình sử dụng vốn của Ngân hàng.
Bảng 6: Kết cấu dư nợ
Đơn vị : Triệu đồng
Chỉ tiêu
31/12/2000
31/12/2001
Tăng (giảm) so cùng kỳ
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tuyệt đối
Số tương đối
Tổng dư nợ
80776
100
520897
100
+440121
+545%
A. Phân theo thành phần kinh tế
1. DNNN
71459
88,5
519008
99,6
+447549
+626%
2.DNNQD
1685
2
1131
0,25
-554
-33%
3.Cho vay khác
7632
9,5
758
0,15
-6874
-90%
B. Phân theo thời gian cho vay
1. Ngắn hạn
60630
75
186959
36
+126329
+208%
2.Trung và dài hạn
20146
25
333938
64
+313792
+1557%
Qua các số liệu trên ta thấy dư nợ tăng rất mạnh cả về số tương đối và số tuyệt đối. Cuối năm 2000 dư nợ mới chỉ đạt 80776 triệu đồng, đến cuối năm 2001 đã lên tới 520897 triệu đồng (gấp 6,4 lần năm 2000).
Nếu phân theo thành phần kinh tế thì dư nợ của DNNN chiếm tỷ trọng lớn nhất và cũng tăng lên giữa các năm. Thực tế trong năm 2001 Ngân hàng đã quan hệ với hai DNNN lớn là: Tổng công ty Bưu chính viễn thông và Tổng công ty xăng dầu Việt nam, chính vì thế tổng dư nợ tăng lên nhiều so với cuối năm 2000.
Thông qua tỷ trọng giữa dư nợ ngắn hạn và dư nợ trung, dài hạn cho thấy tỷ trọng cho vay trung và dài hạn ngày càng tăng. Năm 2000 tỷ trọng cho vay trung, dài hạn mới chỉ có 25% nhưng đến 31/12/ 2001 tỷ trọng cho vay trung và dài hạn đã đạt tới 64% ( tăng 314 tỷ so với năm 2000). Đến cuối quý I năm 2002 tỷ trọng cho vay trung, dài hạn vẫn ở mức 64% nhưng mức dư nợ tăng 60 tỷ so cuối năm 2000. Điều đó khẳng định rằng, hiện nay vị trí và uy tín của ngân hàng đã được xây dựng khá vững chắc. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, chi nhánh đã ngày càng mở rộng lĩnh vực tín dụng trung và dài hạn, nâng cao tỷ trọng trung dài hạn lên đồng thời tỷ trọng dư nợ ngắn hạn cũng giảm xuống. Phương hướng hoạt động này rất đúng đắn và đã đem lại hiệu quả cao cho hoạt động tín dụng.
Để biết chi tiết hơn về việc cho vay và thu nợ, ta đi xem xét các số liệu trong bảng sau:
Bảng 7: doanh số cho vay và doanh số thu nợ
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
31/12/2000
31/12/2001
Tăng(giảm) so cùng kỳ
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tuyệt đối
Số tương đối
I. DS cho vay
254150
100
823000
100
+568850
+224%
1. DNNN
207830
82
795990
97
+588160
+283%
2. DNNQD
9300
4
15394
1,8
+6094
+66%
3. Cho vay cầm cố
37020
14
11616
1,2
-25404
- 69%
II. DS thu nợ
230710
100
380000
100
+149290
+65%
1. DNNN
184510
80
346768
91
+162258
+88%
2. DNNQD
11980
5
16944
4,5
+4964
+41%
3. Thu nợ cầm cố
34220
15
16288
4,5
-17932
-52%
Năm 2001 doanh số cho vay và doanh số thu nợ đều tăng, trong đó DNNN chiếm tỷ trọng lớn nhất (doanh số cho vay tăng từ 82% lên 97%, doanh số thu nợ tăng từ 80% lên 91%). Đó là do các DNNN đóng trên địa bàn chủ yếu là các doanh nghiệp có quy mô lớn, có nhu cầu đổi mới công nghệ, qua một thời gian đã nhanh chóng thích nghi với nền kinh tế thị trường. Các doanh nghiệp này có hiệu quả sản xuất cao do đó việc trả nợ Ngân hàng luôn đúng hạn và đầy đủ.
Đặc biệt cuối năm 1999, Ngân hàng Nhà nước quy định các DNNN không phải thế chấp khi vay vốn do đó Ngân hàng không phải thực hiện khâu đánh giá tài sản thế chấp (đây là công việc thực sự khó đối với Ngân hàng) nên quá trình cho vay được tiến hành thuận tiện và nhanh chóng hơn. Tất cả những nguyên nhân trên khẳng định doanh số cho vay và doanh số thu nợ của các DNNN tăng lên là có cơ sở thực tế và thực sự có hiệu quả.
Qua Bảng 7 còn cho thấy doanh số cho vay và doanh số thu nợ của các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQD) chiếm tỷ trọng nhỏ. Nguyên nhân là do có nhiều DNNQD không đáp ứng đủ các yêu cầu quy định như: giá trị tài sản thế chấp không đảm bảo, năng lực quản lý kinh doanh còn hạn chế, tình hình sản xuất kinh doanh trong quá khứ không tốt,..Tổng hợp của những nhân tố đó làm cho Ngân hàng thận trọng hơn khi cho vay các DNNQD là tất yếu để đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn vay.
Bên cạnh đó, doanh số cho vay và thu nợ của cho vay cầm đồ cũng chiếm tỷ trọng nhỏ và năm 2001 tỷ trọng cho vay cầm đồ giảm mạnh so với năm 2000. Trước hết là do thói quen của người đi vay, họ chưa thực sự am hiểu về loại hình cho vay này và thủ tục lại phức tạp, mặt khác hạn mức cho vay bị giới hạn. Mặt khác do những tháng cuối năm 2000 chi nhánh phát hành kỳ phiếu trả lãi trước với lãi suất cao.
Nhìn chung năm 2001 có sự tăng trưởng mạnh trong hoạt động tín dụng, doanh số cho vay, doanh số thu nợ và dư nợ đều tăng mạnh trong khi nợ quá hạn thấp (chiếm 0,064% tổng dư nợ). Nhưng đây chỉ là sự đánh giá rất khái quát, cần phải đi nghiên cứu cụ thể về tín dụng ngắn hạn và tín dụng trung, dài hạn mới có thể biết được chính xác CLTD như thế nào.
2.2.1.1- Chất lượng tín dụng ngắn hạn.
Trước hết CLTD thể hiện ở vòng quay vốn tín dụng.
Doanh số thu nợ ngắn hạn năm 2001 là 269344 triệu đồng, tổng dư nợ bình quân đạt 107405 triệu đồng. Ta tính được:
=
269344
107405
=
2,5
Vòng quay vốn tín
dụng ngắn hạn
=
Doanh số thu nợ ngắn hạn
Tổng dư nợ bình quân ngắn hạn
Như vậy vòng quay vốn tín dụng ngắn hạn khoảng 2,5 tức là cứ một đồng dư nợ ở một thời kỳ nhất định thì Ngân hàng thu về 2,5 đồng tiếp tục cho vay. Với một chi nhánh mới thành lập, thì con số này phản ánh tốc độ quay vòng vốn khá nhanh. Cùng với một lượng vốn tung ra thị trường thì tương ứng một lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường, do đó có thể khẳng định rằng vốn ngắn hạn đã góp phần tăng tốc độ lưu thông hàng hoá và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Trong năm 2001 doanh số cho vay ngắn hạn đạt 395183 triệu đồng chiếm 49% tổng doanh số cho vay, thu nợ đạt 269344 triệu đồng chiếm 71% tổng doanh số thu nợ. Cụ thể như sau:
Bảng 8: Tình hình sử dụng vốn ngắn hạn
Đơn vị : Triệu đồng
Chỉ tiêu
31/12/2000
31/12/2001
Tăng (giảm) so cùng kỳ
Số tuyệt đối
Số tương đối
1.Doanh số cho vay
-DNNN
242080
194280
395183
379789
+153103
+185509
+63%
+96%
2. Doanh số thu nợ
- DNNN
225500
182990
269334
240958
+43834
+57968
+20%
+32%
3. Dư nợ
- DNNN
60630
52200
186469
184732
+125839
+132532
+208%
+254%
Số liệu trên cho thấy, doanh số cho vay và thu nợ ngắn hạn tăng lên đáng kể. Năm 2000, doanh số cho vay ngắn hạn chiếm 95% tổng doanh số cho vay, đến năm 2001 con số này là 48%. Tuy vậy mức cho vay vẫn tăng 153 tỷ đồng (63%). Doanh số thu nợ năm 2001 tăng 43 tỷ đồng so với năm 2000, chiếm 71% tổng doanh số thu nợ năm 2001. Trong đó doanh số cho vay và doanh số thu nợ của các DNNN là chủ yếu. Tỷ trọng doanh số thu nợ cao do các khoản vay ngắn hạn có thời hạn trả nợ nhanh, khách hàng vay vốn ngắn hạn đảm bảo khả năng thanh toán. Điều này cho thấy Ngân hàng Láng Hạ đã thực sự thu hút được các DNNN và các DNNN cũng khẳng định được vị trí của mình trên thương trường, làm ăn có hiệu quả, tạo được uy tín với Ngân hàng.
Không chỉ đáp ứng nhu cầu về vốn nội tệ, Ngân hàng còn rất quan tâm tới đầu tư tín dụng ngoại tệ.
Bảng9: Tình hình sử dụng vốn ngắn hạn bằng ngoại tệ
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
31/12/2000
31/12/2001
Tăng (giảm) so với cùng kỳ
Số tuyệt đối
Số tương đối
1. Doanh số cho vay
116860
270926
+154006
+132%
2. Doanh số thu nợ
99640
130736
+31096
+31%
3. Dư nợ
17400
157520
+140120
+805%
Trên địa bàn Đống Đa có nhiều doanh nghiệp cần nhập công nghệ, nguyên vật liệu từ nước ngoài như: Tổng công ty bưu chính viễn thông, Công ty FPT, Công ty Quảng An I,...Ngân hàng đã có nguồn ngoại tệ đáp ứng kịp thời, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nắm bắt được thời cơ kinh doanh. Thể hiện ở Bảng9, tỷ trọng doanh số cho vay và thu nợ ngắn hạn bằng ngoại tệ ngày một tăng lên. Dư nợ ngắn hạn ngoại tệ đến 31/03/2002 đạt 210 tỷ đồngvà doanh nghiệp có dư nợ lớn nhất là Tổng công ty xăng dầuViệt Nam ( Dư nợ 13981218 USD). Các doanh nghiệp này đã tính toán rất kỹ lưỡng khả năng sản xuất, thị trường tiêu thụ, giá cả sản phẩm,..., trước khi nhập công nghệ hiện đại nên chắc chắn những khoản vay này sẽ đem lại hiệu quả cho doanh nghiệp và nâng cao chất lượng tín dụng cho Ngân hàng.
*Lợi nhuận của những khoản tín dụng ngắn hạn.
Trong năm 2001 doanh số thu nợ ngắn hạn chiếm 71% tổng doanh số thu nợ do vậy thu nhập từ lãi cho vay ngắn hạn góp phần không nhỏ vào thu nhập cuả Ngân hàng.
Số liệu thống kê tình hình biến động lãi suất cho thấy lãi suất cho vay liên tục giảm, nguyên nhân do Ngân hàng Nhà nước thực hiện chủ trương kích cầu đã 5 lần hạ lãi suất trần cho vay từ 1,25%/ tháng xuống còn 0,85%/tháng, chênh lệch lãi suất giữa đầu vào và đầu ra giảm thấp (0,15%) tạo nên khó khăn tài chính cho Ngân hàng. Nhưng thực tế cho thấy hoạt động tín dụng của Ngân hàng Láng Hạ vẫn có sự tăng trưởng vượt bậc chứng tỏ rằng Ngân hàng đã thực sự tạo được uy tín với khách hàng.
Tuy áp dụng khung lãi suất như trên nhưng Ngân hàng vẫn có sự ưu đãi với những doanh nghiệp thường xuyên có quan hệ tín dụng và hiệu quả sản xuất kinh doanh tốt. Một minh chứng điển hình là với Công ty công trình 246 trong hợp đồng tín dụng thoả thuận lãi suất cho vay ngắn hạn 1,1%/ tháng (vay ngày1/6/99, số tiền: 4685 triệu đồng). Trong quá trình hoạt động do bạn hàng chậm thanh toán nên ảnh hưởng tới khả năng trả nợ, Công ty đã đề nghị Ngân hàng giảm lãi suất xuống 0,85% từ 2/12/99 theo lãi suất thị trường và NHNN thông báo. Ngân hàng đồng ý hạ lãi suất để tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty trong sản xuất kinh doanh. Điều này cho thấy Ngân hàng rất linh động trong việc áp dụng lãi suất, có thể lợi nhuận giảm nhưng sẽ hạn chế được rủi ro tín dụng.
*Nợ quá hạn
Với Ngân hàng Láng Hạ, công tác tín dụng được thực hiện chặt chẽ đến từng khâu, nhưng nợ quá hạn không thể tránh khỏi vì có nhiều nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan dẫn đến nợ quá hạn, nó là một nhân tố quan trọng phản ánh CLTD của Ngân hàng.
Bảng 10: nợ quá hạn của ngân hàng từ khi thành lập
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Quý I/2002
DN quá hạn
Nqh
DN
DN quá hạn
Nqh
DN
DN quá hạn
Nqh
DN
DN quá hạn
Nqh
DN
Nợ quá hạn
0
0
599
0,74%
332
0,064%
1942
0,3%
DNNN
599
0,85%
332
0,65%
1942
0,31%
DNNQD
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm)
Nợ quá hạn đến ngày 31/12/99 là 332 triệu đồng, chiếm 0,064% so với tổng dư nợ. Như vậy tổng số nợ quá hạn của Ngân hàng đã giảm 267 triệu đồng so với năm 2000 và dư nợ quá hạn đều thuộc các doanh nghiệp nhà nước. Số nợ quá hạn này là nợ có khả năng thu hồi và thuộc về hai đơn vị:
_ Công ty Lâm đặc sản Hà nội: 1 triệu đồng
_ Xí nghiệp cơ giới Thanh Trì: 331 triệu đồng
Nhưng đến cuối quý 1/2002 tổng số nợ quá hạn của NHN Láng Hạ đã tăng lên đột biến là: 1942 triệu đồng, tăng gấp 5,8 lần so với thời điểm 31/12/99 và đã có nợ quá hạn khó đòi. Cụ thể như sau:
Bảng 11: tình trạng dư nợ quá hạn đến 31/3/2002
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Dư nợ quá hạn
Nợ quá hạn
Tổng dư nợ
Nợ quá hạn
Dư nợ ngắn hạn
Số tiền
%
1. Nợ quá hạn<180 ngày
1640
84,4
0,26%
0,7%
2. Nợ quá hạn 180 đến 360 ngày
1
0,1
0,001%
0,001%
3. Nợ quá hạn > 360 ngày
301
15,5
0,05%
0,13%
Tổng cộng
1942
100
0,31%
0,83%
Số liệu cho thấy tỷ lệ dư nợ quá hạn trên tổng dư nợ tăng 0,264% so với cuối năm 2000. Đặc biệt tỷ lệ Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ ngắn hạn lên tới 0,7%, đây là con số báo động CLTD ngắn hạn giảm sút
Đến nay nợ quá hạn vẫn thuộc về hai doanh nghiệp: Công ty Lâm đặc sản Hà nội và Xí nghiệp cơ giới Thanh trì.
Vậy nguyên nhân của nợ quá hạn là do đâu?
Công ty Lâm đặc sản Hà nội:
Số nợ quá hạn của Công ty Lâm đặc sản Hà nội là do nguồn thu từ bán hàng đơn vị nhận được rất chậm. Đây là đơn vị gặp nhiều khó khăn từ năm 2000, do cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính Hàn Quốc nên lô hàng hoa hoè xuất sang Hàn Quốc khách hàng tiêu thụ chậm nên công tác thanh toán gặp nhiều khó khăn. Tiếp đó tháng 9/99 Công ty lại tiếp tục vay vốn NHNo Láng Hạ để thu mua lạc nhân xuất khẩu nhưng do tiến hành thu mua chậm không đảm bảo đúng quy định giao hàng của L/C n._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0272.doc