Lời mở đầu
Nét nổi bật trong những năm qua là hệ thống Ngân hàng thương mại nước ta đã có những đổi mới sâu sắc, đóng góp tích cực vào việc kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá-hiện đại hoá. Các Ngân hàng thương mại ngày càng xác lập được vững chắc thị trường hoạt động của mình. Khối lượng tín dụng tăng, đảm bảo cung cấp khối lượng lớn cho nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội. Song do đặc điểm của ngành Ngân hàng là hoạt độ
75 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1270 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Hai Bà Trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng trong một lĩnh vực đặc biệt là tiền tệ nên luôn tiềm ẩn những rủi ro hơn những ngành khác. Mặc dù hoạt động cho vay và đầu tư luôn được chú trọng phát triển nhưng một thực tế đáng lo ngại là chất lượng tín dụng đang có xu hướng giảm sút. Thể hiện ở số lượng nợ quá hạn, nợ khó đòi tăng lên qua các năm. Trong khi tiềm lực tài chính chưa mạnh mẽ, thì chất lượng tín dụng thấp kém là mối nguy hiểm lớn đến khả năng thanh toán và sinh lợi của ngân hàng, gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế của cả nước. Chính vì vậy nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng đang là mối quan tâm hàng đầu đối với các Ngân hàng thương mại Việt Nam. Vấn đề bức xúc và cần thiết đối với NHCT Việt Nam, đặc biệt là Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng có thị trường tín dụng rộng lớn là làm thế nào để củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng đảm bảo hoạt động tín dụng an toàn và có hiệu quả. Nhận thức được điều đó, qua thời gian thực tập tại Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng, em đã chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng”. Bài viết nghiên cứu những vấn đề lí luận, phân tích thực trạng hoạt động và chất lượng tín dụng trong phạm vi ở Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng. Từ đó đề xuất một số giải pháp khoa học nhằm góp phần nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng này.
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp duy vật biện chứng kết hợp với phân tích tổng hợp những số liệu cụ thể thực tế để đưa ra kết luận.
Kết cấu bài viết gồm 3 chương.
Chương I: Những vấn đề chung về Ngân hàng thương mại và hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng hoạt động tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng.
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng.
Bài viết này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của thầy giáo-Tiến sĩ Nguyễn Hữu Tài cùng sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô chú, anh chị công tác tại Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng. Do hạn chế về trình độ lí luận cũng như kinh nghiệm thực tế, bài viết không thể tránh được những thiếu sót. Kính mong các thầy cô giáo trong khoa, các cô chú tại Ngân hàng góp ý kiến để bài viết được hoàn chỉnh hơn.
Chương I
Những vấn đề chung về ngân hàng thương mại và hoạt đông tín dụng của ngân hàng thương mại
I.Sự ra đời và phát triển của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng ra đời bắt nguồn từ những người thợ kim hoàn khoảng thế kỷ XV.Những người giàu có, có một lượng lớn tiền; các thương gia hàng hoá buôn bán hàng hoá giữa các địa phương với nhau thu đươc nhiều loại tiền khác nhau (vì mỗi địa phương dùng một loai tền riêng) nên dể đổi tiền thì phải mua hàng ở những nơi có tiền đó. Vì vậy họ gửi tiền cho những người thợ kim hoàn và nhận dược một giấy chứng nhận gửi tiền. Thương gia tiền tệ ra đời với nhiệm vụ giữ hộ tiền và thu phí, trong két của họ luôn có lượng tiền dư nên họ nảy sinh ý kiến cho vay để nhận lãi và ngày càng muốn thu được nhiều lợi nhuận hơn đã khuyến khích họ cần có nhiều tiền hơn, dẫn đến thu hút lượng tiền gửi bằng cách giảm phí gữi tiền rồi không thu phí, cuối cùng là trả lãi cho người gửi. Những người thợ kim hoàn trở thành người kinh doanh tiền tệ. Thương gia hàng hoá lợi dụng vai trò gữi hộ tiền để thanh toán hộ mình qua giấy tờ họ phát hành, đây chính là hoạt động thanh toán hộ.
Khi có một tổ chức thực hiện cả 3 nghiệp vụ: huy động vốn, cho vay và trung gian thanh toán thì được gọi là Ngân hàng.
Trong thế kỷ XV-XVII, hệ thống ngân hàng gồm các Ngân hàng tư nhân tồn tại độc lập với nhau, đăc thù các Ngân hàng thời kì này là ngoài 3 nghiệp vụ trên còn có thể phát hành tiền trên cơ sở số vàng dự trữ.
Giai đoạn từ cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XX, xảy ra hiên tượng do sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế đã kích thích các Ngân hàng tư nhân chạy theo lợi nhuận mà phát hành ồ ạt tiền giấy không căn cứ vào lượng vàng dự trữ hoặc cho vay gần hết số vốn huy động được làm cho khả năng thanh toán của Ngân hàng thường xuyên bị đe doạ. Khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, một loạt các Ngân hàng sụp đổ gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế. Chính phủ các quốc gia quyết định can thiệp, hạn chế số ngân hàng đuợc phép phát hành tiền. Từ đây hệ thống Ngân hàng phân ra làm 2 loại:
+Các ngân hàng phát hành: là các Ngân hàng đựơc phép phát hành tiền. Về sau thì chỉ có duy nhất 1 ngân hàng phát hành và được giao thêm nhiệm vụ quản lý các ngân hàng khác, ngày nay được gọi là NHTW (Việt Nam: NHNN)
+ Ngân hàng thương mại: không dược phép phát hành tiền, chỉ được kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ.
NHTM ra đời và phát triển qua một quá trình lâu dài của lịch sử xã hội loài người. Nó tồn tại và phát triển trên cơ sở sản xuất và lưu thông hàng hoá. Với chức năng làm trung gian tín dụng, trung gian thanh toán và chức năng tạo tiền đề để phục vụ cho nền kinh tế quốc dân.
NHTM hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả. Ngân hàng sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nhiệm vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán. NHTM hoạt động kinh doanh vừa với danh nghĩa là một doanh nghiệp tổ chức hạch toán kinh tế – kinh doanh, vừa với vai trò trung gian tài chính, trung gian thanh toán trong nền kinh tế. Với vai trò trung gian tài chính, NHTM tập trung mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế và phân phối chúng cho các nhu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp theo nguyên tắc tín dụng (hoàn trả và thu lợi nhuận góp phần đẩy nhanh tốc độ luân chuyển hàng hoá - tiền tệ trong nền kinh tế. Với chức năng làm trung gian thanh toán, NHTM thực hiện mọi khoản thanh toán chi trả về hàng hoá và dịch vụ đáp ứng nhu cầu thị trường tăng nhanh thông qua mở tài khoản cho khách hàng thanh toán bằng các phương thức khác nhau (séc, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, L/C …). Nó tạo điều kiện thuận lợi cho quan hệ thanh toán giữa các tổ chức kinh tế trong nước và các tổ chức trong xã hội, giảm được khối lượng tiền mặt trong lưu thông và giảm được chi phí thanh toán, chi phí lưu thông tiền mặt. Do đó, hoạt động của NHTM gắn bó mật thiết với hệ thống lưu thông tiền tệ và hệ thống thanh toán trong nước, đồng thời có mối quan hệ quốc tế.
Chức năng tạo tiền: là khả năng mở rộng tiền gửi làm nhiều lần của hệ thống NHTM. Quá trình tạo tiền là quá trình liên kết chặt chẽ giữa hoạt động tín dụng và hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt của hệ thống NHTM. Nhờ đó mà từ một khoản tiền gửi ban đầu sẽ đựơc nhân lên rất nhiều lần (phụ thuộc vào hệ số gia tăng tiền gửi) mặc dù một NHTM chỉ có thể cho vay vốn trong phạm vi tiền gửi mình có. Chức năng tạo tiền làm tăng thêm nguồn vốn để phục vụ sản xuất lưu thông hàng hoá, đồng thời tiết kiệm được tiền mặt trong lưu thông.
II.Các hoạt động chủ yếu của NHTM.
1. Hoạt động huy động vốn.
Hoạt động huy động vốn là hoạt động quan trọng, là cơ sở cho các hoạt động khác của ngân hàng. Thông qua hoạt động này, Ngân hàng tập hợp được những khoản tiền nhỏ lẻ, phân tán tạm thời chưa sử dụng với những thời hạn hết sức khác nhau thành một khoản tiền lớn nhằm tài trợ lại cho nền kinh tế, cho những cá nhân có nhu cầu sử dụng tiền khi chưa có thu nhập.
Nguồn vốn của NHTM gồm:
\ Vốn tự có: (còn gọi là vốn chủ sở hữu) được tạo lập bằng cách phát hành cổ phiếu hoặc do NSNN cấp, bằng các quỹ như: Quỹ dự trữ, phần lợi nhuận chưa chia hoặc các qũy đặc biệt khác chưa sử dụng như Quỹ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ; Quỹ khen thưởng; Quỹ phúc lợi; Quỹ khấu hao tài sản cố định; Quỹ khác… Vốn tự có của ngân hàng nhỏ, nhưng lại có ý nghĩa quan trọng nó thể hiện thế lực tài chính của mình, là cơ sở để mở rộng quá trình tập trung huy động vốn, cho vay, mở rộng phạm vi hoạt động. Vốn tự có còn được coi là “cái đệm” để chống đỡ các tổn thất, các khoản giảm giá bên tài sản có, tránh cho Ngân hàng bị phá sản.
\ Vốn huy động: là nguồn vốn do ngân hàng thu hút được qua nghiệp vụ nhận tiền gửi và các ngiệp vụ khác để tạo vốn kinh doanh. Các khoản tiền gửi này không thuộc quyền sở hữu của Ngân hàng, nhưng Ngân hàng được quyền sử dụng đối với những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi. Đây là nguồn vốn chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn hoạt động của Ngân hàng. Tuy nhiên, trong đó có một bộ phận đáng kể luôn luôn biến động, do vậy khi sử dụng, Ngân hàng phải luôn dự trự để đảm bảo khả năng thanh toán chi trả. Ngoài ra, các NHTM còn huy động vốn từ việc vay NHNN, vay trên thị trường liên ngân hàng, vay từ thị trường vốn thế giới hoặc vốn do được tài trợ, nhận uỷ thác đầu tư…
2.Hoạt động sử dụng vốn.
Hoạt động sử dụng vốn được tiến hành thông qua hoạt động ngân quỹ, hoạt động tín dụng và hoạt động đầu tư.
Một NHTM, để tồn tại và phát triển, trước tiên phải đảm bảo khả năng thanh toán. Nếu Ngân hàng không thanh toán được cho khách hàng sẽ dẫn đến sự ồ ạt rút tiền trong dân chúng và sự sụp đổ là điều khó có thể tránh. Để tránh rủi ro này, Ngân hàng luôn có hoạt động về ngân quỹ nhằm đảm bảo khả năng thanh toán. Vì vậy, hoạt động ngân quỹ là sự bảo hiểm cho Ngân hàng trước những chi phí khi có luồng tiền mặt lớn rút ra.
Xét trên góc độ kinh doanh, thì hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất, quyết định sự tồn tại của Ngân hàng. Nếu không cho vay được, sẽ không có thu nhập thì Ngân hàng sẽ bị phá sản. Hoạt động tín dụng bao gồm: hoạt động cho vay, hoạt động chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của NHNN. Phần lớn nguồn vốn của NHTM được sử dụng để cho vay (chiếm khoảng 70%). Có nhiều loại cho vay khác nhau tuỳ theo phương thức phân lọai: theo thời hạn cho vay, theo mục đích sử dụng vốn vay, theo đối tượng vay, theo hình thức bảo đảm vốn vay… Vì đây là nguồn mang lại lợi nhuận chủ yếu nhưng có độ rủi ro cao nên các Ngân hàng cần phải quan tâm nâng cao chất lượng của hoạt động này.
Hoạt động đầu tư: chủ yếu tập trung vào thị trường chứng khoán, thông thường Ngân hàng mua bán chứng khoán có chất lượng cao và tương đối dài hạn trên thị trường như tín phiếu kho bạc, các giấy tờ có giá khác và thu lãi thông qua chênh lệch giá bán và giá mua. Mặt khác, NHTM cũng đầu tư thông qua mua bán các chứng khoán có tính lỏng cao nhằm thu lợi nhuận và hỗ trợ cho dự trữ Ngân hàng.
3.Hoạt động trung gian thanh toán.
Ngân hàng thực hiện các dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng, thông qua đó nhận được thu nhập dưới dạng phí dịch vụ hay hoa hồng. Qua sự uỷ thác của khách hàng, Ngân hàng chuyển tiền, thu- chi hộ các khoản tiền căn cứ vào chứng từ mà khách hàng giao cho. Các dịch vụ chủ yếu như: dịch vụ thanh toán hộ, dịch vụ chuyển tiền, đại lý phát hành và bán chứng khoán cho các công ty, dịch vụ tư vấn, dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá,cho thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật.
Các họat động này có độ rủi ro thấp hơn hoạt động tín dụng trong khi vẫn đem lại nguồn thu nhập lớn cho Ngân hàng.
Tóm lại, tất cả các hoạt động của NHTM đều rất quan trọng và liên quan chặt chẽ với nhau. Hoạt động huy động vốn là tiền đề tạo vốn tích lũy cho các hoạt động khác. Hoạt động tín dụng và đầu tư đem lại thu nhập cho Ngân hàng. Còn các hoạt động dịch vụ thu hút thêm khách hàng, tạo điều kiện cho việc mở rộng hoạt động huy động tiền gửi và kinh doanh của NHTM. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng vẫn là hoạt động quan trọng nhất quyết định đến kết quả kinh doanh của một NHTM.
III. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại.
1. Tín dụng ngân hàng.
Theo sách các nước thuộc kinh tế thị trường “ Tín dụng là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định đồng thời nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn trả theo thời hạn đã thảo thuận”.Định nghĩa này chỉ nói lên bề ngoài của tín dụng.
Còn theo Mark, nói lên bản chất bên trong của tín dụng: “ Tín dụng là sự vận động của tư bản cho vay”.
Trong lịch sử, tín dụng đã xuất hiện từ khi xã hội có phân công lao động, sản xuất và trao đổi hàng hoá. Trong quá trình trao đổi hàng hoá đã hình thành những sự kiện nợ nần lẫn nhau, phát sinh những quan hệ vay mượn để thanh toán. Đây chính là quan hệ tín dụng giữa các nhà sản xuất kinh doanh thực hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá hay còn đuợc gọi là tín dụng thương mại. Tuy nhiên, hình thức tín dụng này có những mặt hạn chế mà chỉ có tín dụng ngân hàng mới khắc phục được, nó thể hiện:
=Tín dụng thương mại là tín dụng hàng hoá do vậy có những hạn chế về không gian địa lý.
=Tổng số tín dụng bị giới hạn bởi quy mô của vốn tín dụng tạm thời nhàn rỗi trong các đơn vị có quan hệ mua bán hàng hoá với nhau.
=Cán cân tín dụng thương mại bị giới hạn bởi sự luân chuyển đều đặn hay không của vốn trong quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Do dó, tín dụng thương mại mang tính chất thời điểm, khi nhu cầu sản xuất tăng thì họ đòi thanh toán ngay.
=Tín dụng thương mại bị giới hạn về mục đích sử dụng. Nó chỉ diễn ra với các đơn vị liên quan trực tiếp với nhau trong mua bán hàng hoá.
Như vậy tín dụng thương mại tồn tại trong nền kinh tế hàng hoá, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển nhưng nó vẫn có giới hạn nhất định. Do dó, đòi hỏi phải có sự ra đời của tín dụng ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là một giao dịch về tài sản giữa bên cho vay (ngân hàng) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác) , trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo các điều kiện đảm bảo thoả thuận giữa hai bên, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Có thể hiểu là, tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng cao nhất của nền kinh tế hàng hoá, nó biểu hiện mối quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng – tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, với một bên là tất cả các tổ chức cá nhân trong xã hội. Quan hệ này được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng và cùng có lợi.
Như vậy, tín dụng luôn là một quan hệ kinh tế của nền sản xuất hàng hoá- tiền tệ. Mục đích và tính chất của tín dụng do mục đích và tính chất của nền sản xuất hàng hoá trong xã hôi quyết định. Sự vận động của tín dụng luôn luôn chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế, phương thức sản xuất trong xã hội đó. Nền kinh tế sản xuất hàng hoá càng phát triển thì tín dụng càng giữ vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá. Do chuyên môn hoá trong kinh doanh, tín dụng ngân hàng đã phát triển ngày càng mạnh, phạm vi hoạt động ngày càng rộng và tập trung phần lớn hoạt động tín dụng trong xã hội.
Bản chất của tín dụng ngân hàng là sự vận động của vốn tiền tệ thông qua ngân hàng. Ngân hàng bằng các nghiệp vụ với các hình thức huy động vốn khác nhau, huy động lượng tiền nhàn rỗi trong lưu thông, tạo thành nguồn vốn lớn. Đồng thời, ngân hàng sử dụng chính nguồn vốn này đem cho vay với lãi suất cao hơn lãi suất huy động vào.
Quan hệ tín dụng ngân hàng cũng như các quan hệ tín dụng khác đều mang 3 đặc trưng cơ bản:
4Chỉ thay đổi quyền sử dụng mà không thay đổi quyền sở hữu vốn tín dụng.
4Có thời hạn tín dụng được xác định do thoả thuận giữa người cho vay và người đi vay.
4Người sở hữu vốn tín dụng được nhận một phần thu nhập dưới hình thức lợi tức.
Là trung gian nên Ngân hàng là cầu nối giữa người có vốn và người cần vốn, hay nói cách khác việc sử dụng nguồn vốn trong các doanh nghiệp nói riêng và trong nền kinh tế nói chung được Ngân hàng điều hoà sao cho phù hợp và nhận được phần thu nhập là chênh lệch giữa lãi cho vay và lãi trả tiền gửi.
2. Tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường là tất yếu khách quan.
Trong nền kinh tế thị trường tiền tệ trở thành một phạm trù kinh tế chủ đạo, mọi quan hệ kinh tế đều được tiền tệ hoá. Với các chức năng vốn có của mình, nó tham gia vào quá trình tuần hoàn vốn và trong quá trình đó tại một thời điểm sẽ phát sinh tình trạng nhàn rỗi tạm thời và tạm thời thiếu vốn ở từng doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế.
Nguyên nhân dẫn tới tình trạng tạm thời thừa vốn.
- Do việc thu và chi Ngân sách không xảy ra đồng thời, thông thường các khoản thu thì tập trung, theo định kỳ, còn các khoản chi thì lại tiến hành dần dần, cho nên trong một thời gian nhất định có tiền tệ tạm thời nhàn rỗi. Mặt khác, trong quá trình thực hiện việc tổ chức và quản lý nền kinh tế, quản lý xã hội... Nhà nước hình thành quỹ dự trữ tiền tệ tập trung.
- Nguồn vốn bằng tiền trong các doanh nghiệp không ngừng vận động qua các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh. Trong quá trình luân chuyển này, trong từng giai đoạn từng khâu sẽ xuất hiện các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi như: lương công nhân chưa đến kỳ phải trả, tiền chưa trả do mua chịu hàng hoá, lợi nhuận của doanh nghiệp chưa chia....
Vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các tầng lớp dân cư.
Trong quá trình tái sản xuất xã hội và phân phối thu nhập quốc dân đã tạo cho các tầng lớp dân cư những khoản thu nhập bằng tiền. Các khoản thu nhập này, một phần chi tiêu trong thời gian ngắn và một phần tích luỹ lại với thời gian lâu hơn phục vụ cho nhu cầu chi tiêu lớn hoặc chi tiêu trong tương lai. Phần này hình thành nên một lượng tiền tệ nhàn rỗi.
- Cuối cùng là vốn tiền tệ của các chủ thể nước ngoài tạm thời nhàn rỗi.
Một Chính phủ nước ngoài vì một lý do nào đấy muốn tham gia vào một tổ chức quốc tế hay để đảm bảo an toàn cho nền kinh tế cũng như ổn định đồng tiền nước họ thường dự trữ một khoản tiền tại một Ngân hàng ở nước khác hay một định chế tài chính quốc tế. Một cá nhân, doanh nghiệp muốn tạo điều kiện thuận lợi cho thanh toán quốc tế, thường gửi tiền của mình tại một Ngân hàng có uy tín ở nước ngoài.
Các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trên không thể để chúng nằm yên, bởi vì không đem lại thu nhập cho người sở hữu chúng. Thực tế đòi hỏi chúng cần phải được gửi vào các cơ quan tín dụng để đem lại thu nhập.
Ngược lại trong quá trình tuần hoàn vốn của xí nghiệp, tổ chức kinh tế người sản xuất kinh doanh, cá nhân tiêu dùng cũng như trong toàn xã hội có lúc lại phát sinh tình trạng thiếu vốn tiền tệ. Tình trạng này tồn tại do một số nguyên nhân.
- Đối với các doanh nghiệp:
+ Thiếu vốn cố định: Tài sản cố định đóng vai trò rất cần thiết đối với nền sản xuất xã hội. Tăng cường tài sản cố định đối với một đơn vị kinh tế cũng như đối với toàn bộ nền sản xuất quốc dân là điều kiện rất quan trọng để nâng cao năng suất lao động, tăng cường tiềm lực kinh tế. Song không phải lúc nào trong quá trình tái sản xuất số tiền trích khấu hao và các nguồn vốn khác thuộc vốn cố định cũng đủ để chi cho các chi phí về sửa chữa và mua sắm tài sản cố định. Vì vậy dẫn đến hiện tượng nhu cầu cần vay vốn của các doanh nghiệp.
+ Thiếu vốn lưu động: Vốn lưu động là số vốn ứng trước về tài sản lưu động sản xuất và lưu thông. Trong doanh nghiệp và trong các tổ chức kinh doanh vốn lưu động là nguồn không thể thiếu của quá trình sản xuất kinh doanh, nó được phân bổ trên các giai đoạn khác nhau của quá trình sản xuất và được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra thông suốt, các doanh nghiệp phải duy trì lượng vốn lưu động ở một mức nhất định. Đặc điểm của vốn lưu động là luân chuyển không ngừng, luôn thay đổi hình thái biểu hiện và hoàn thành 1 vòng tuần hoàn trong một chu kỳ sản xuất. Trong quá trình luân chuyển của vốn lưu động, đôi khi chúng có thể thiếu và ngay lập tức cần được bổ sung, do đó xuất hiện nhu cầu vay vốn.
- Để phát triển đất nước Chính phủ thường đầu tư vào các dự án lớn như cơ sở hạ tầng, các công trình mang tính sống còn đối với lợi ích quốc gia mà tư nhân không có đủ khả năng và điều kiện thực hiện. Nguồn vốn của Chính phủ được lấy từ Ngân sách Nhà nước, nhưng đôi khi Ngân sách Nhà nước không đủ và chính phủ phải đi vay.
- Với người tiêu dùng đôi khi có những khoản phải chi tiêu bất thường hoặc những khoản chi tiêu nằm ngoài khả năng tài chính hiện thời của họ nhưng họ có khả năng bù đắp những thiếu hụt đó trong tương lai. Điều này dẫn tới nhu cầu vay tiêu dùng của các cá nhân.
Để cho cả những người thừa vốn và thiếu vốn cùng “giầu có” hơn, thì những người thừa vốn cần phải tiến hành cho những người cần vốn vay vốn. Luồng vốn từ những người thừa vốn chảy sang những người thiếu vốn theo hai con đường: Trực tiếp và Gián tiếp.
Trực tiếp là việc những người cần vốn nhận được vốn từ những người thừa vốn bằng cách vay trực tiếp hoặc bằng cách phát hành các công cụ nợ.
Gián tiếp là việc những người cần vốn nhận được khoản vốn mình cần từ những người thừa vốn thông qua một tổ chức tài chính trung gian như các Ngân hàng thương mại, các Công ty tài chính, Công ty bảo hiểm, các Quỹ tín dụng...
Trên thực tế những người cần vốn chủ yếu nhận được khoản vốn mình cần thông qua con đường gián tiếp này, trong đó nổi bật nhất vai trò của các NHTM. Sở dĩ các Ngân hàng thương mại làm được điều này là vì: Với đặc điểm và uy tín của mình Ngân hàng có ưu thế hơn các định chế tài chính khác trong việc huy động các nguồn vốn từ nhỏ tới lớn, từ tất cả các thành phần khác nhau trong xã hội và nó cũng là tổ chức tích cực nhất trong việc tìm khách hàng cho mình từ phía những người cần vốn. Trong nền kinh tế hiện đại thì các Ngân hàng thương mại là định chế không thể thiếu được nếu không nói là quan trọng nhất.
Như vậy tín dụng ngân hàng xuất hiện là một tất yếu khách quan.
3. Vai trò tín dụng của ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
ã Tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp để duy trì và mở rộng quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
Là trung gian điều hoà lượng cung cầu về vốn cho nền kinh tế, tín dụng ngân hàng làm nhiệm vụ dẫn đường cho nguồn vốn chảy từ nơi thừa tới nơi thiếu vốn. Vì trong hoạt động kinh doanh tại một thời điểm luôn phát sinh 2 loại nhu cầu: cho vay vốn để hưởng lợi và nhu cầu vay vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh là điều tất yếu. Cả 2 nhu cầu này là ngược nhau nhưng có cùng mục tiêu an toàn, sinh lời và đều là tạm thời. Nếu được thoả mãn thì 2 bên cùng có lợi. Tín dụng ngân hàng đã thực hiện chức năng huy động tập trung vốn tạm thời nhàn rỗi để đưa vào sử dụng theo nguyên tắc hoàn trả cả vốn lẫn lãi trong một khoảng thời gian nhất định với tốc độ nhanh và hiệu quả hơn, thoả mãn nhu vốn tạm thời, bổ sung cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tín dụng ngân hàng là công cụ đắc lực cho ngành kinh tế kém phát triển và những ngành kinh tế mũi nhọn.
Bằng việc sử dụng lãi suất ưu đãi đối với những ngành kinh tế mũi
nhọn cũng như những ngành kinh tế kém phát triển nhưng cần thiết cho quốc kế dân sinh, tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy những ngành kinh tế này phát triển. Mặt khác với đặc trưng hoàn trả cả vốn lẫn lãi đã thể hiện sự ưu việt hơn của tín dụng ngân hàng so với việc ngân sách đầu tư vào lĩnh vực đó. Vì khi được cấp vốn Ngân sách thì người sử dụng ít quan tâm đến việc sử dụng vốn một cách có hiệu quả bởi nguồn vốn này được cấp phát mà không phải hoàn trả.
Tín dụng ngân hàng có vai trò quyết định đến sự ổn định của lưu
thông tiền tệ.
Trong nền kinh tế thị trường việc chú trọng đến phát triển lưu thông hàng hoá phải luôn gắn với việc ổn định lưu thông tiền tệ. Do tính ưu việt của mình tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng quyết định đến sự ổn định của lưu thông tiền tệ. Trước hết Ngân hàng là kênh quan trọng để đưa tiền vào lưu thông, có khả năng kiểm soát được khối lượng tiền sao cho phù hợp với lưu thông hàng hoá. Nếu tín dụng ngân hàng dược thực hiện một cách có hiệu quả sẽ đảm bảo khối lượng tiền cung ứng phù hợp. Vì khi cho vay Ngân hàng đã đưa tiền vào lưu thông. Mặc khác cùng với chức năng tạo tiền, các NHTM có khả năng mở rộng tiền gửi làm tăng khối lượng tiền trong lưu thông. Vì vậy NHTW phải sử dụng công cụ chính sách tiền tệ để thực hiện điều tiết hoạt động tín dụng của các NHTM như: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu, hạn mức tín dụng .... từ đó có thể quản lý được lượng tiền mặt trong lưu thông nhằm đạt mục tiêu mong muốn.
Tín dụng ngân hàng có vai trò kiểm soát nền kinh tế.
Xuất phát từ chức năng phân phối vốn tiền tệ, tín dụng ngân hàng có thể kiểm soát được hoạt động kinh tế trong quá trình huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi để cho vay. Thông qua việc huy động vốn của các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư trong xã hội và việc tổ chức thanh toán khách hàng, Ngân hàng có thể đánh giá tình hình tiêu thụ sản phẩm, tình hình sản xuất cũng như khả năng chi trả của khách hàng thông qua biến động số dư trong tài khoản. Trong quá trình cho vay, Ngân hàng luôn phải đề phòng nguy cơ rủi ro có thể xảy ra, phải thường xuyên phân tích khả năng tài chính của khách hàng, giám sát kiểm tra hoạt động sản xuất kinh doanh của họ để có thể điều chỉnh, tác động kịp thời khi cần thiết. Từ đó, Ngân hàng có khả năng tập hợp được tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đồng thời góp những ý kiến để điều chỉnh kịp thời khi có sự mất cân đổi trong cơ cấu kinh tế.
Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại
Hiện nay với xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế của một quốc gia luôn gắn liền với nền kinh tế thế giới. Đầu tư vốn ra nước ngoài và hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá đã và đang là 2 lĩnh vực hợp tác kinh tế thông dụng giữa các nước. Vốn là yếu tố quyết định đầu tiên cho sự hợp tác này. Trong nền kinh tế hội nhập hiện nay thì các đơn vị không thể chỉ vay vốn từ các tổ chức tín dụng trong nước mà có thể vay vốn từ các tổ chức quốc tế. Chúng ta đã và đang tham gia vào các tổ chức tài chính quốc tế như WB, IFM... và các thị trường tài chính lớn trên thế giới cũng như có các đại lý Ngân hàng tại các nước khác nhau trên thế giới. Tín dụng ngân hàng đã trở thành một phương tiện nối liền các nền kinh tế trên thế giới lại với nhau. Như vậy đối với những nước đang phát triển như nước ta thì tín dụng ngân hàng là công cụ mở đường góp phần mở rộng xuất nhập khẩu hàng hoá, đồng thời cũng nhờ các nguồn tín dụng bên ngoài đầu tư phát triển các thành phần kinh tế trong nước.
ã Tín dụng ngân hàng đóng vai trò quyết định trong hoạt động ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng đóng vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của một Ngân hàng thương mại. Bởi vì đối với NHTM hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu nhất, nó chiếm bộ phận lớn trong tổng số tài sản có của Ngân hàng. Đây là nghiệp vụ mang lại nhiều lợi nhuận nhất (Việt Nam là 60-70%, ở các nước khác là 30-50%). Tuy nhiên tín dụng là nghịêp vụ có nhiều rủi ro nhất trong hoạt động của ngân hàng.
Tóm lại tín dụng ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế và đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại nên việc mở rộng quy mô tín dụng là hết sức cần thiết. Để phát huy vai trò đó các nước trên thế giới đã sử dụng tín dụng ngân hàng như là một công cụ đắc lực để thúc đẩy phát triển nền kinh tế xã hội của nó. Chính vì lẽ đó vấn đề chất lượng tín dụng luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
4. Các hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại.
Hoạt động tín dụng của NHTM bao gồm: các hoạt động cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính.
4.1 Hoạt động cho vay
Trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại thì hoạt động cho vay là hoạt động quan trọng nhất, hoạt động cho vay có thể được phân chia theo nhiều cách khác nhau.
Theo mục đích vay vốn.
Mỗi chủ thể khi vay vốn của Ngân hàng thương mại để đầu tư vào mỗi dự án theo mục đích riêng của họ. Với mỗi loại hình dự án như vậy thì thời gian thực hiện dự án sẽ khác nhau, do vậy chính sách đối với mỗi loại cho vay này sẽ khác nhau. Theo cách này thể chia ra:
+ Cho vay thương mại &công nghịêp: Đây là loại hình cho vay rất đa dạng về loại hình và đối tượng vay vốn, nó chiếm tỷ trọng lớn trong doanh số cho vay của ngân hàng thương mại.
+ Cho vay kinh doanh bất động sản: Là loại cho vay liên quan đến mua sắm, xây dựng nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp thương mại dịch vụ.
+ Cho vay cá nhân: là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng của cá nhân, hộ gia đình.
+ Cho vay nông nghiệp: Là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng…
Theo hình thức bảo đảm
+ Cho vay có bảo đảm bằng tài sản cầm cố hoặc được một tổ chức bảo lãnh
+ Cho vay không bảo đảm bằng tài sản như tín chấp, căn cứ uy tín lâu năm.
Theo kỳ hạn nợ.
+ Cho vay ngắn hạn: Là loại cho vay có kỳ hạn nhỏ hơn 12 tháng và được sử dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và nhu cầu chi tiêu của cá nhân.
+ Cho vay trung và dài hạn: Là loại cho vay có kỳ hạn hơn 12 tháng và được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến đổi mới thiết bị,
Theo phương thức hoàn trả.
+ Cho vay hoàn trả một lần: Là loại cho vay được thanh toán một lần theo kỳ hạn thoả thuận.
+ Cho vay theo phương thức trả góp: Là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả gốc và lãi theo định kỳ.
Theo loại hình tiền tệ
+ Cho vay bằng nội tệ.
+ Cho vay bằng ngoại tệ.
4.2 Hoạt động cho thuê tài chính.
Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là tổ chức tín dụng với khách hàng thuê. Khi kết thúc thời hạn thuê, khách hàng mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuân trong hợp đồng thuê. Trong thời hạn thuê các bên không được đơn phương từ bỏ hợp đồng.
4.3 Hoạt động bảo lãnh.
Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng với bên có quyền về thực hiện nghĩa vụ thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền được trả thay.
4.4 Hoạt động chiết khấu
Chiết khấu là việc tổ chức tín dụng mua thương phiếu, giấy tờ có giá ngắn hạn khác của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán.
IV. Chất lượng hoạt động tín dụng của các Ngân hàng Thương mại
1. Khái niệm chất lượng tín dụng.
Trong hoạt động Ngân hàng thương mại, tín dụng là một nghiệp vụ mang lại phần lớn doanh lợi nhưng cũng là nơi ẩn chứa nhiều rủi ro có khả năng xảy ra với tỷ lệ cao. Hiệu quả hoạt động tín dụng được thể hiện bởi chất lượng hoạt động tín dụng. Chất lượng tín dụng là tổng._. hoà nhiều thành tựu thể hiện ở sự phát triển ổn định và bền vững của nền kinh tế quốc dân, ngân hàng và khách hàng. Chất lượng tín dụng được hiểu theo đúng nghĩa là vốn vay Ngân hàng đáp ứng kịp thời đầy đủ cho doanh nghiệp và được doanh nghiệp đưa vào quá trình sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả nhất, nhằm tạo ra một lượng tiền lớn hơn để trang trải đủ chi phí, có lợi nhuận và hoàn trả nợ cho Ngân hàng đầy đủ cả gốc lẫn lãi.
Chất lượng tín dụng: Là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội đảm bảo sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng.
Từ góc độ Ngân hàng thương mại
Chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với khả năng theo hướng tích cực của bản thân Ngân hàng và phải đảm bảo được sự cạnh tranh trên thị trường, đảm bảo nguyên tăc hoàn trả đầy đủ cả gốc lẫn lãi đúng kỳ hạn, hạn chế tới mức thấp nhất khả năng rủi ro có thể xảy ra. Nó được thể hiện qua 2 yếu tố:
- Khả năng sinh lời của Ngân hàng do hoạt động tín dụng mang lại
Chất lượng tín dụng tốt góp phần tăng dư nợ tín dụng từ đó tăng lãi thu được từ hoạt động tín dụng. Do hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu tạo ra lợi nhuận, cho nên chất lượng tín dụng rất quan trọng, đóng vai trò quyết định trong việc tăng khả năng sinh lời của Ngân hàng.
Mức an toàn tín dụng:
Rủi ro trong kinh tế thị trường là khách quan và không thể tránh khỏi. Rủi ro và an toàn là hai thuật ngữ có ý nghĩa trái ngược nhau. Trong hoạt động ngân hàng thì rủi ro tín dụng là rủi ro lớn nhất. Hạn chế rủi ro tín dụng là nâng cao mức độ an toàn tín dụng. Mức an toàn tín dụng được thể hiện ở khoản vay được hoàn trả đầy đủ và đúng hạn
Chất lượng tín dụng tốt, góp phần giảm tỷ lệ nợ quá hạn, giảm rủi ro tín dụng giúp Ngân hàng tránh được những tổn thất lớn do hoạt động tín dụng mang lại. Nếu chất lượng tín dụng không được đảm bảo Ngân hàng có nguy cơ mất vốn và có khả năng dẫn tới thua lỗ phá sản.
Chất lượng tín dụng làm tăng uy tín của Ngân hàng trên thị trường, thu hút được ngày càng nhiều khách hàng, tăng cường khả năng huy động vốn, tăng thu nhập từ hoạt động tín dụng, từ các hoạt động dịch vụ khác...
Từ góc độ khách hàng
Tín dụng ngân hàng phải đáp ứng đầy đủ, kịp thời yêu cầu hợp lý của doanh nghiệp với lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản, không gây phiền hà, thu hút được khách hàng nhưng vẫn đảm bảo được nguyên tắc, quy định của tín dụng, góp phần đẩy mạnh tài chính doanh nghiệp
Từ góc độ nền kinh tế xã hội
Tín dụng ngân hàng trong những năm gần đây phản ánh rõ nét sự tăng trưởng, sự năng động của nền kinh tế khi chuyển sang nền kinh tế thị trường. Tín dụng đầu tư cho nền kinh tế tạo thêm việc làm cho người lao động, góp phần tăng trưởng cho nền kinh tế và khai thác khả năng tiềm tàng, thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong nước, tranh thủ vốn vay nước ngoài có lợi cho nền kinh tế phát triển.
Tóm lại, chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể vừa trìu tượng, là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp. Để có chất lượng tín dụng thì hoạt động tín dụng phải có hiệu quả và quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở sự tin cậy và uy tín của Ngân hàng. Hiểu đúng bản chất và phân tích, đánh giá đúng chất lượng tín dụng, cũng như xác định chính xác các nguyên nhân tồn tại của chất lượng tín dụng sẽ giúp Ngân hàng tìm được giải pháp quản lý thích hợp để có thể đứng vững trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt hiện nay.
2. Các chỉ tiêu cơ bản đánh giá hoạt động tín dụng ngân hàng
Để xem xét hiệu quả hoạt động của một Ngân hàng, ta sử dụng rất nhiều các chỉ tiêu khác nhau nhưng có thể sử dụng các chỉ tiêu cơ bản sau:
2.1. Chỉ tiêu tổng dư nợ
Tổng dư nợ khi được đề cập để đánh giá chất lượng tín dụng (gồm: cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, cho vay uỷ thác). Chỉ tiêu này được đo bằng số tuyệt đối, nó phản ánh doanh số cho vay của ngân hàng trong một kỳ (1năm) là bao nhiêu. Tổng dư nợ thấp phản ánh chất lượng tín dụng thấp vì chỉ ra rằng Ngân hàng không có khả năng mở rộng hoạt động cho vay, khả năng tiếp thị khách hàng kém, trình độ của đội ngũ nhân viên không cao... Tuy nhiên, khi xét chỉ tiêu này chúng ta không nên xem xét chúng theo từng thời kỳ riêng rẽ mà phải xem xét chúng trong cả một quá trình trên cơ sở phân tích các yếu tố tác động bên ngoài để chỉ số này phản ánh một cách tốt nhất. Tuy vậy, tổng dư nợ cao chưa chắc đã phản ánh chất lượng tín dụng ngân hàng cao. Vì vậy, chỉ tiêu này không phải là quan trọng nhất, ta thường dùng để tính là: Hệ số sử dụng vốn vay:
Tổng số dư nợ
Hệ số sử dụng vốn vay =
Tổng nguồn vốn huy động
Hệ số này phản ánh kết quả sử dụng nguồn vốn để đầu tư của ngân hàng thương mại. Hệ số này luôn nhỏ hơn 1. Nếu hệ số sử dụng vốn gần bằng 1 thì NHTM phải chú ý tăng trưởng nguồn vốn để đề phòng mất khả năng thanh toán. Nếu hệ số sử dụng vốn thấp cần phải tăng trưởng dư nợ hoặc giảm vốn huy động vốn bằng cách hạ lãi suất huy động hạn chế rủi ro nguồn vốn tác động đến chất lượng tín dụng
2.2. Tỷ lệ nợ quá hạn
Chỉ tiêu này có thể nói là quan trọng nhất khi xem xét chất lượng tín dụng của một Ngân hàng. Chỉ tiêu này được tính:
Nợ quá hạn x 100
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này phản ánh rõ nhất về chất lượng tín dụng ngân hàng. Nó phản ánh với 100 đơn vị tiền tệ Ngân hàng cho vay thì có bao nhiêu đơn vị tiền tệ Ngân hàng không thể thu hồi đúng tại thời điểm xác định. Nếu tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cao chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng thấp, rủi ro cao vì với một số lớn các khoản nợ không được hoàn trả đúng hạn thì ngân hàng sẽ gắp khó khăn trong việc phân phối luồng vốn vào, ra. Với việc không thu được nợ thì ngân hàng sẽ phải đối mặt với việc mất khả năng thanh toán hoặc tệ hơn là phá sản. Nếu tỷ lệ nợ quá hạn thấp biểu hiện chất lượng tín dụng ở ngân hàng cao, mức độ an toàn cao hay rủi ro thấp vì nó nói lên trong các khoản cho vay của ngân hàng chỉ có một số ít các khoản vay không được hoàn trả đúng thời hạn. Như vậy thì hầu như toàn bộ kế hoạch của ngân hàng đều được thực hiện. Tỷ lệ nợ quá hạn phụ thuộc rất lớn vào phương thức, cách thức hoạt động của ngân hàng. Nợ quá hạn thường được chia làm hai loại:
Nợ quá hạn do định kỳ hạn nợ ngắn hạn ngắn hơn chu kỳ sản xuất kinh doanh hoặc vì một lý do nào đó chưa thu được tiền bán hàng nên đến kỳ hạn trả nợ, khách hàng chưa có tiền để trả, Ngân hàng buộc phải chuyển nợ quá hạn, loại nợ quá hạn này khả năng ngân hàng thu được nợ cao.
Nợ quá hạn do khách hàng vay vốn bị phá sản hoặc kinh doanh thua lỗ hoặc bị lừa đảo, hoặc bị chết không còn khả năng trả nợ ngân hàng. Các khoản nợ này được gọi là nợ khó đòi, khả năng thu hồi là rất thấp.
Thường NHTM dùng quỹ rủi ro để xử lý giảm hoặc xoá nợ theo tình hình thực tế từng món vay để giảm tỷ lệ nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn phụ thuộc vào tổng số nợ đã chuyển sang nợ quá hạn và tổng dư nợ tại một thời điểm, thường là ngày cuối quý hoặc ngày cuối năm. Để giảm nợ quá hạn các Ngân hàng thương mại thường giảm số tuyệt đối nợ quá hạn nếu số dư nợ tín dụng tăng không đáng kể hoặc vừa giảm nợ quá hạn vừa tăng dư nợ tín dụng. Trường hợp không thể giảm được nợ quá hạn hoặc giảm không đáng kể thì tăng tổng dư nợ tín dụng tức là tăng quy mô dư nợ tín dụng. Theo thông lệ quốc tế, tỷ lệ nợ quá hạn < 5% là có thể chấp nhận được. Tỷ lệ này càng thấp càng tốt.
2.3. Tốc độ luân chuyển vốn
Còn được gọi là vòng quay vốn tín dụng
Doanh số thu nợ
Vòng quay vốn tín dụng =
Dư nợ bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh số vòng quay tín dụng trong một thời gian nhất định. Vòng quay vốn tín dụng lớn chứng tỏ vốn Ngân hàng đã luân chuyển nhanh, tham gia nhiều vào chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hoá. Với số lượng vốn nhất định nhưng do tốc độ vòng quay vốn tín dụng nhanh nên Ngân hàng không những đáp ứng được nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp mà còn có thêm nguồn vốn để tiếp tục đầu tư cho các doanh nghiệp khác thực hiện phát triển sản xuất kinh doanh. Vòng quay tín dụng tăng, phản ánh chất lượng tín dụng ngân hàng tốt, khách hàng sử dụng vốn vay có hiệu quả thường trả nợ đúng hạn và trước hạn.
2.4. Chỉ tiêu lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng
Ngân hàng hoạt động với mục đích quan trọng là lợi nhuận. Chỉ tiêu này sẽ chỉ ra trong tổng thu nhập của NHTM thì phần đóng góp là bao nhiêu. Lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng lớn sẽ khẳng định chất lượng các khoản cho vay là tốt. Tất nhiên, khi xem xét chất lượng tín dụng của một NHTM chúng ta sẽ dựa vào các chỉ tiêu chung nói trên nhưng phải xem xét trong cả một thời kỳ dài để thấy khuynh hướng biến động của nó có phù hợp với thực tiến không nhằm giúp cho các đánh gía được chính xác hơn
3.Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động tín dụng của Ngân hàng.
3.1.Những nhân tố khách quan
Hoạt động của mỗi NHTM chịu ảnh hưởng rất lớn của môi trường kinh tế – xã hội. Một Ngân hàng dù có cố gắng đến mấy trong hoạt động kinh doanh của mình nhưng nếu môi trường kinh tế – xã hội không ổn định thì cũng khó mà thành công. Ta có thể xem xét ảnh hưởng của môi trường kinh tế – xã hội đến chất lượng hoạt động tín dụng của NHTM từ các yếu tố sau:
Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế phát triển có thể tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng. Một môi trường kinh tế phát triển lành mạnh, các chủ thể tham gia nền kinh tế đang hoạt động có hiệu quả sẽ thúc đẩy mở rộng quy mô tín dụng, chất lượng hoạt động tín dụng cũng sẽ được nâng lên.Nhưng môi trường kinh tế cũng có thể có những thay đổi bất ngờ. Chẳng hạn khi lạm phát cao, lãi suất thực tế sẽ giảm xuống và nếu như Ngân hàng không cân đối giữa các khoản mục bên nguồn vốn và tài sản nhạy cảm với lãi suất thì có thể các khoản tín dụng đó có thể không mang lại hiệu quả như mong đợi. Cũng có thể có những biến động về tỷ giá hoặc biến động về thị trường làm cho chủ đầu tư bị bất ngờ, dẫn đến tình trạng dòng tiền vào không như kế hoạch làm giảm khả năng trả nợ cho Ngân hàng. Như vậy chất lượng hoạt động tín dụng của Ngân hàng chịu ảnh hưởng của môi trường kinh tế mà nó hoạt động, vấn đề đối với các Ngân hàng là phải làm tốt công tác dự báo và khả năng thích ứng nhanh khi có sự biến động nhằm đảm bảo chất lượng của hoạt động tín dụng.
Môi trường pháp lý
Một NHTM khi hoạt động phải tuân thủ đầy đủ các quy định về luật pháp của Nhà nước, cũng như của NHNN như vậy môi trường pháp lý có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Một hệ thống pháp lý đầy đủ, đồng bộ và ổn định sẽ giúp các Ngân hàng dễ dàng hơn trong việc xây dựng kế hoạch kinh doanh của mình, góp phần vào việc nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng.
Môi trường chính trị –xã hội
Môi trường chính trị xã hội ổn định sẽ là một nhân tố quan trọng thúc đẩy hoạt động đầu tư và mạnh dạn mở rộng hoạt động tín dụng. Điều này giúp cho Ngân hàng có thể thu được nhiều lợi nhuận hơn. Tác động của môi trường chính trị - xã hội tới chất lượng hoạt động tín dụng là không thường xuyên, nhưng khi có những biến động về chính trị, tác động của nó tới các Ngân hàng là vô cùng lớn. Một sự thay đổi hệ thống chính trị bạo động có thể làm cho các Ngân hàng mất toàn bộ các khoản tín dụng của mình, điều này sẽ đẩy nó đến bờ vực phá sản.
3.2 Những nhân tố chủ quan.
3.2. Chính sách tín dụng.
Chính sách tín dụng là định hướng cơ bản cho hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Thông thường chính sách tín dụng có các khoản mục sau: các loại cho vay được thực hiện, giới hạn tín dụng, kỳ hạn cho vay, hướng giải quyết tín dụng vượt giới hạn, thanh toán nợ…vì thế nó có quyết định to lớn đến sự thành công hay thất bại của ngân hàng. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ kích thích được việc tiết kiệm và đầu tư thu hút được nhiều khách hàng đảm bảo khả năng sinh lời của Ngân hàng, đồng thời tuân thủ theo pháp luật và đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước đề ra. Bất cứ một Ngân hàng nào muốn có tín dụng tốt đều phải có một chính sách tín dụng rõ ràng phù hợp với Ngân hàng của mình.
3.2. Chất lượng của công tác thẩm định dự án.
Khi đến ngân hàng để xin được cấp tín dụng, khách hàng thường phải mang đến một bộ hồ sơ về dự án mà họ sẽ tiến hành thực hiện.Thẩm định dự án giúp Ngân hàng xem xét một cách toàn diện các mặt của dự án để xác định tính khả thi của dự án trên cơ sở đó sẽ quyết định khách hàng này có đủ điều kiện để được cấp tín dụng hay không. Cũng thông qua công tác thẩm định, Ngân hàng với những kinh nghiệm vốn có của mình có thể tư vấn, giúp đỡ cho chủ đầu tư sửa đổi những điểm không hợp lý trong dự án để dự án có tính khả thi hơn tạo mối quan hệ tốt với khách hàng.
Thẩm định là công việc đòi hỏi nhiều thời gian và kỹ thuật tính toán phức tạp. Do công việc này là cơ sở để quyết định có cấp tín dụng hay không cho nên chất lượng của công tác này sẽ ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng hoạt động tín dụng. Nếu chất lượng của công tác thẩm định không cao tức là nhân viên tín dụng không xác định thực chất dự án có hiệu quả hay không thì những khoản tín dụng mà Ngân hàng đã cấp sẽ gặp những rắc rối trong việc thu hồi các món nợ của mình. Chính vì vậy công tác thẩm định đòi hỏi các nhân viên thẩm định có trình độ cao và sự kết hợp một cách có hiệu quả giữa các phòng ban trong Ngân hàng
3.2. Công tác tổ chức hoạt động tín dụng của ngân hàng
Công tác tổ chức hoạt động tín dụng của Ngân hàng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như quy mô của Ngân hàng, Chính sách tín dụng của ngân hàng, quy mô và loại hình tín dụng, quy trình tín dụng tại ngân hàng đó. Trong quy trình hoặt động tín dụng, các cán bộ tín dụng sẽ tiếp xúc trực tiếp với người vay, nhận đơn xin vay, phỏng vấn khách hàng, thu nhập thông tin về khách hàng và dự án trước khi có quyết định chính thức trình cán bộ cấp cao hơn. Những thông tin về khách hàng và dự án sau khi được các phòng ban chức năng của ngân hàng xem xét nếu thấy đủ điều kiện thì sẽ quyết định cụ thể giải ngân và thu nợ sau này. Trong quá trình này nếu các khâu được thực hiện tốt nó sẽ giúp cho Ngân hàng lựa chọn được các dự án tốt để cấp tín dụng, cũng như tạo uy tín trong lòng khách hàng.
Như vậy, công tác tổ chức thực hiện hoạt động tín dụng có thể hỗ trợ đắc lực cho nhân viên tín dụng thực hiện công việc của mình và nó có ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại.
3.2. Chất lượng của đội ngũ nhân sự.
Yếu tố mang tính quyết định đến việc nâng cao hay suy giảm chất lượng tín dụng lại chíng là nguồn nhân lực của Ngân hàng vì suy cho cùng quyết định cung cấp tín dụng của ngân hàng là những quyết định mang tính chất chủ quan. Một Ngân hàng với một đội ngũ lãnh đạo tốt sẽ đưa ra được những chính sách hợp lý và phương thức phát triển phù hợp với khuynh hướng phát triển của nền kinh tế. Một đội ngũ cán bộ tín dụng giỏi sẽ giúp ngân hàng có được những khoản cho vay với chất lượng cao nhất. Các cán bộ của các phòng ban, các bộ phận chức năng khác sẽ giúp cho Ngân hàng mở rộng các hoạt động kinh doanh của mình, tạo dấu ấn trong lòng thị trường.
Ngoài ra, chất lượng nguồn thông tin khách hàng, thông tin thương mại khác cũng góp phần rất lớn vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng. Điểm yếu của NHTM nước ta là thiếu hệ thống thông tin khách hàng một cách đầy đủ, kịp thời. Điều này đã phần nào giảm hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
3.3 Các yếu tố từ khách hàng.
Do khách hàng kinh doanh thua lỗ.
Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến nợ quá hạn của Ngân hàng. Đối với những khoản vay phục vụ mục đích kinh doanh thì nguồn vốn vay được sử dụng có hiệu quả không chỉ đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp mà còn là tiền đề cho sự hoàn trả nợ Ngân hàng cả gốc và lãi. Ngược lại, thua lỗ trong kinh doanh của doanh nghiệp xảy ra khi việc tính toán triển khai dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp không khoa học, không được thực hiện kỹ càng, xác thực, các rủi ro bất khả kháng của các định hướng sản xuất kinh doanh gây tác động xấu và sẽ ảnh hưởng đến khả năng trả nợ với các mức độ khác nhau.
3.3.2 Năng lực tài chính của doanh nghiệp không lành mạnh, sử dụng vốn sai mục đích.
Nhiều doanh nghiệp dùng vốn vay ngân hàng không đúng phương án, mục đích xin vay vốn. Các nguồn thu của doanh nghiệp rất hạn chế nhưng khối lượng các khoản nợ đến hạn của doanh nghiệp quá lớn (như các khoản nợ ngân sách, nợ công nhân viên chức, nợ người bán hàng, nợ Ngân hàng, nợ các đối tượng khác…). Cơ cấu về vốn đầu tư của doanh nghiệp không hợp lý:dùng vốn vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn dẫn đến không trả được nợ đúng hạn.
Tất cả những nguyên nhân trên gây nên khó khăn trong việc trả nợ đúng hạn của khách hàng đối với Ngân hàng, tạo ra các khoản nợ quá hạn trong kinh doanh tín dụng.
3.3.3.Do chủ ý lừa đảo của người đi vay.
Việc không trả nợ đúng hạn có thể xuất phát từ khả năng chi trả yếu kém của khách hàng, cũng có thể xuất phát từ ý định chủ quan của người đi vay không muốn trả nợ (mặc dù có khả năng nhưng không muốn thực hiện). Năm 1997 đã xuất hiện hiện tượng một số công ty TNHH và tư nhân dùng hồ sơ thế chấp nhà giả hoặc hồ sơ thế chấp nhiều Ngân hàng để vay tiền rồi bỏ trốn.
4.ý nghĩa của việc nghiên cứu chất lượng hoạt động tín dụng
Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng đã, đang và sẽ là cái đích mà tất cả các NHTM hướng tới. Nâng cao chất lượng tín dụng đồng nghĩa với việc Ngân hàng có khả năng thu hồi dư nợ đầy đủ và đúng hạn, tạo điều kiện cho Ngân hàng có khả năng cân đối, lên kế hoạch huy động và sử dụng vốn, góp phần nâng cao lợi nhuận. Nhưng để đạt được điều này không phải là điều đơn giản. Chính vì vậy, mà việc nghiên cứu chất lượng hoạt động tín dụng là việc làm cần thiết vì nó giúp cho các nhà hoạt động ngân hàng cũng như các tổ chức và cá nhân có liên quan đến lĩnh vực ngân hàng hiểu được những vấn đề cơ bản về hoạt động tín dụng và chất lượng hoạt động tín dụng, trên cơ sở đó sẽ giúp họ điều chỉnh các hành vi của mình để cho hoạt động tín dụng có chất lượng cao hơn.
cHƯƠNG II
Thực trạng chất lượng tín dụng tại ngân hàng
công thương HAI Bà TRƯNG
I. KHáI QUáT CHUNG Về CHI NHáNH.
Quá trình hình thành và phát triển của Chi nhánh
Ngân hàng Công Thương- Hai Bà Trưng.
Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng là một chi nhánh của Ngân hàng Công thương Việt Nam. Sau khi thực hiện Nghị định số 53/HĐBT ngày 26/3/1988 của Hội đồng Bộ trưởng về tổ chức bộ máy Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chuyển sang cơ chế ngân hàng 2 cấp. Từ một chi nhánh của Ngân hàng Nhà nước cấp quận địa bàn quận Hai Bà Trưng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước thành phố Hà Nội chuyển thành các chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực I và II Quận Hai Bà Trưng, trực thuộc chi nhánh Ngân hàng Công thương thành phố Hà Nội thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam. Tại quyết định số 93\ NHCT - TCCP ngày 1 tháng 4 năm 1993 của Tổng Giám đốc NHCT Việt Nam sắp xếp lại bộ máy tổ chức NHCT trên điạ bàn Hà Nội theo mô hình quản lý 2 cấp, bỏ cấp thành phố, hai chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực I và II Hai Bà Trưng là những chi nhánh trực thuộc NHCT Việt Nam được tổ chức, hạch toán kinh tế và hoạt động như các Chi nhánh NHCT cấp tỉnh, thành phố. Kể từ ngày 1/9/1993 theo quyết định của Tổng giám đốc Ngân hàng Công thương Việt Nam, sáp nhập Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực I vào Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II Hai Bà Trưng. Như vậy kể từ ngày 1/9/1993 trên địa bàn quận Hai Bà Trưng Hà Nội chỉ còn một Chi nhánh Ngân hàng Công thương.
Hiện nay, Chi nhánh NHCT- Hai Bà Trưng đã vượt qua những khó khăn ban đầu và đã khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong nền kinh tế thị trường, đứng vững và phát triển trong cơ chế mới, chủ động mở rộng mạng lưới giao dịch, đa dạng hoá các dịch vụ kinh doanh tiền tệ thể hiện qua kết quả thu được trong hoạt động kinh doanh, từng bước khẳng định mình trong môi trường kinh doanh đầy tính cạnh tranh.
Chi nhánh NHCT- Hai Bà Trưng là một trong những chi nhánh lớn được xếp doanh nghiệp nhà nước hạng nhất, kinh doanh liên tục có hiệu quả của NHCT Việt Nam. Có được vị thế và kết quả trên, bên cạnh những kinh nghiệm quý báu của lớp lớp cán bộ ngân hàng kế tiếp nhau với những khách hàng truyền thống, qua những năm hoạt động trên địa bàn khu vực Hai Bà Trưng - một Quận lớn của thành phố là lợi thế và thị trường tốt để chi nhánh hoạt động kinh doanh phát triển có hiệu quả.
2. Cơ cấu tổ chức của chi nhánh.
Là một Chi nhánh chịu sự quản lý trực tiếp của NHCT Việt Nam. Hiện nay Chi nhánh có biên chế gần 300 cán bộ công nhân viên trong đó hơn 65 % có trình độ cao đẳng, đại học. Bộ máy tổ chức NHCT- Hai Bà Trưng bao gồm Ban Giám đốc, 8 phòng chức năng, 2 phòng giao dịch và 12 quỹ tiết kiệm được thể hiện qua sơ đồ sau:
sơ đồ tổ chức ngân hàng công thương-Hai Bà Trưng
Phòng kinh doanh đối ngoại
Phòng tổ chức hành chính
Phòng kiểm soát
Phòng nguồn vốn
Phòng t.t điện toán
Phòng gd chợ Hôm
Phòng gd Trương Định
Phòng kho quỹ
Cửa hàng KD vàng bạc
Phòng kế toán
Phòng kế toán
Tổ cân đối tổng hợp
Tổ nghiệp vụ bảo hiểm
12 quỹ tiết kiệm
Ban Giám đốc
Phòng kinh doanh
-.Phòng nguồn vốn: là phòng có chức năng huy động vốn tiền gửi nhàn rỗi trong dân cư, là nơi tập hợp quản lý phần lớn vốn của Chi nhánh
- Phòng kinh doanh: là phòng nghiệp vụ có chức năng tham mưu cho Giám đốc thực hiện công tác huy động vốn và sử dụng vốn trên cơ sở thể lệ, chế độ hiện hành đảm bảo kinh doanh có hiệu quả và an toàn vốn, hạn chế rủi ro.
- Phòng kế toán tài chính: là phòng nghiệp vụ có chức năng tham mưu cho Giám đốc trong việc thực hiện các nghiệp vụ kế toán, thanh toán tổ chức công tác kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng.
Ngoài trụ sở chính tại 285 Trần Khát Chân, Chi nhánh NHCT- Hai Bà Trưng còn bố trí 12 quỹ tiết kiệm và một số địa điểm cho vay kinh tế ngoài quốc doanh tại các phường trên địa bàn nhằm đáp ứng nhu cầu huy động và sử dụng vốn trên địa bàn.
3. Các sản phẩm dịch vụ và một số thành tựu đã đạt được trong thời gian qua.
3.1. Các hoạt động của Ngân hàng.
* Mở tài khoản và nhận tiền tiết kiệm
Mở tài khoản và nhận tiền gửi không kỳ hạn,có kỳ hạn bằng VNĐ và ngoại tệ.
Tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn bằng VNĐ và ngoại tệ.
Phát hành kỳ phiếu.
Dịch vụ tiết kiệm điện tử.
* Cung cấp tín dụng.
Tín dụng ngắn hạn.
Tín dụng trung hạn và dài hạn.
Đồng tài trợ, cho vay hợp vốn đối với dự án có quy mô lớn và thời hạn hoàn vốn dài.
Bảo lãnh: bảo lãnh mua hàng trả chậm, bảo lãnh tham gia đấu thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh vay vốn...
Các chương trình vay vốn ưu đãi.
* Dịch vụ ngân hàng quốc tế.
Thanh toán quốc tế.
Chuyển tiền kiều hối.
Thanh toán thẻ thanh toán quốc tế, séc du lịch.
Dịch vụ ngoại hối.
* Dịch vụ thanh toán điện tử.
* Các dịch vụ ngân hàng khác.
Dịch vụ thẻ ATM..
Dịch vụ tư vấn và quản lý tài chính.
Dịch vụ cho thuê tài chính.
Dịch vụ kho quỹ.
Dịch vụ giữ các giấy tờ quan trọng.
Dịch vụ bảo hành.
3.2.Một số thành tựu đã đạt được trong những năm qua.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước trong những năm vừa qua, Chi nhánh NHCT- Hai Bà Trưng đã đạt được nhiều kết quả đáng phấn khởi trong hoạt động kinh doanh tiền tệ -tín dụng và dịch vụ ngân hàng.
* Quy mô hoạt động của chi nhánh có sự tăng trưởng đáng kể.
- Về nguồn vốn huy động từ năm 1999 đến năm 2001 đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 16%/ năm (số liệu 31/12)
Năm 1999: 1363 tỷ đồng 2000: 1579 tỷ đồng 2001: 1838 tỷ đồng
- Về dư nợ cho vay hàng năm của Chi nhánh không ngừng phát triển qua các năm đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 41,3%/năm.
1999: 413 tỷ đồng ; Năm 2000: 602 tỷ đồng ; Năm 2001: 824 tỷ đồng.
* Phương thức huy động và sử dụng vốn của Chi nhánh cũng có sự chuyển biến rõ rệt: từ chỗ huy động và cho vay chủ yếu bằng VNĐ đã phát triển sang hoạt động cho vay bằng ngoại tệ khác, chủ yếu là USD. Các nghiệp vụ được mở rộng như thanh toán quốc tế, kiều hối, kinh doanh ngoại tệ... phục vụ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
* Chi nhánh cũng hết sức coi trọng việc áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ thông tin vào hoạt động đảm bảo độ an toàn cao, tốc độ nhanh và giữ được tín nhiệm đối với khách hàng truyền thống cũng như tạo ấn tượng tốt đối với khách hàng mới.
* Trong điều kiện phát triển không ngừng của toàn xã hột nói chung, Chi nhánh đặc biệt chú ý tới việc phát triển nguồn nhân lực. Công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ luôn được chú trọng nhằm nâng cao năng lực về chuyên môn cũng như trình độ nhận thức lý luận của cán bộ để đáp ứng ngày càng tốt hơn các nhiệm vụ và yêu cầu của nghiệp vụ trong thời kỳ mới.
Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh là tất yếu khách quan. Để tồn tại và phát triển, Ban lãnh đạo Chi nhánh rất chú trọng tới công tác hạch toán kinh doanh, đa dạng hoá các sản phẩm ngân hàng, phát huy những lợi thế của mình, có chính sách khách hàng hợp lý, thích ứng và linh hoạt.... đặc biệt là 2 nghiệp vụ quan trọng có tính quyết định đến quy mô hoạt động và kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đó là nghiệp vụ huy động vốn và sử dụng vốn.
ii. Cơ cấu khách hàng trên địa bàn quận Hai Bà Trưng
Quận Hai Bà Trưng nằm ở phía Nam thành phố với dân số lớn nhất trong các quận ở Hà Nội, có cơ cấu kinh tế chủ yếu là công nghiệp dệt may, kinh tế thủ công nghiệp. Với địa bàn hoạt động rộng, dân cư đông là thị trường cung cấp vốn cho Ngân hàng vô cùng lớn và chứa đựng tiềm năng. Bên cạnh đó là rất nhiều các doanh nghiệp Nhà nước, các doanh nghiệp liên doanh có quy mô lớn. Tại đây cũng hội đủ bốn Ngân hàng quốc doanh và một số Ngân hàng cổ phần, Ngân hàng liên doanh tạo nên một môi trường cạnh tranh gay gắt.
Trong thời điểm này, khách hàng đến với Ngân hàng chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nước đặc biệt là các doanh nghiệp dệt, dầu khí, giấy. Hầu hết họ đều có hoạt động làm ăn lâu dài với Ngân hàng từ trong quá khứ. Việc ưu tiên cho những doanh nghiệp này xuất phát từ đặc điểm của nền kinh tế. Các doanh nghiệp Nhà nước có lợi thế hơn các doanh nghiệp khác là họ có thể vay vốn Ngân hàng mà không cần tài sản thế chấp do có sự bảo trợ từ phía Nhà nước, còn việc cho vay thành phần kinh tế ngoài quốc doanh vẫn chưa được Chi nhánh chú trọng tới. Để thu hút được ngày càng nhiều khách hàng, đối với các doanh nghiệp làm ăn có lãi, có uy tín thì không nhất thiết phải là doanh nghiệp Nhà nước vẫn có thể được vay vốn mà không cần tới tài sản thế chấp nhưng chỉ với một hạn mức tín dụng được NHCTViệt Nam thông qua.
Đối với các doanh nghiệp tư nhân họ chiếm một tỷ trọng rất lớn trên địa bàn nhưng hầu hết là các doanh nghiệp nhỏ có hoạt động kinh doanh manh mún, thông tin về họ thường không chính xác và bị che giấu nhiều. Do vậy, Ngân hàng chưa chủ động cung ứng vốn trong lĩnh vực này, đối với họ ngân hàng rất thận trọng khi cho vay nhằm tránh rủi ro, chủ yếu sử dụng hình thức bảo lãnh vay vốn cho các doanh nghiệp tư nhân. Tuy vậy, tỷ lệ nợ quá hạn trong lĩnh vực tư nhân vẫn chiếm một tỷ lệ cao trong nợ quá hạn của chi nhánh.
Hiện tại, trên địa bàn quận Hai Bà Trưng các doanh nghiệp các doanh nghiệp có hoạt động đối ngoại rất phát triển nhu cầu sử dụng các dịch vụ liên quan đến lĩnh vực này là rất lớn. Do những hạn chế mà thời gian qua Chi nhánh đã bỏ lỡ rất nhiều lợi ích của mình vì không đáp ứng nhu cầu này của khách hàng, bản thân các doanh nghiệp có làm ăn lâu dài với Ngân hàng cũng bỏ Ngân hàng để sử dụng nhiều dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động của họ từ những đối thủ cạnh tranh.
Thời gian qua, Ngân hàng đã làm khá tốt công tác huy động vốn nhưng việc sử dụng đồng vốn làm sao có hiệu quả nhất thì lại chưa được như mong muốn. Trong khi các doanh nghiệp đang đói vốn thì tiền trong Ngân hàng lại bị đóng băng và phải điều chuyển đi nơi khác với một lượng vốn lớn (ằ800 tỷ đồng/ năm). Trong khi đó lượng vốn điều chuyển đến chiếm một lượng vốn rất nhỏ so với lượng vốn điều chuyển đi, nó chủ yếu đáp ứng nhu cầu vốn tức thời tại từng thời điểm chứ chưa mang lại hiệu quả lớn cho kinh doanh. Tuy rằng, việc điều chuyển vốn trong toàn bộ hệ thống là cần thiết với mục tiêu hỗ trợ lẫn nhau nhưng trong tình trạng nhu cầu về vốn trên địa bàn chưa được thoả mãn thì đó có thể coi là một sự phí phạm không đáng có.
Nằm trên một vị trí quan trọng là quận Hai Bà Trưng - một thị trường hấp dẫn với các NHTM, hoạt động của Chi nhánh không phải là không có những thuận lợi và khó khăn. Cho tới nay, hoạt động của Chi nhánh vẫn đạt hiệu quả tốt một phần là do lợi thế có được từ mối quan hệ rất tốt từ trước đối với các doanh nghiệp Nhà nước, một phần khác là do Ngân hàng đã không ngừng cải tiến dịch vụ và nâng cao chất lượng phục vụ đã góp phần giữ khách hàng ở lại trong mối quan hệ tương hỗ cùng phát triển. Tuy nhiên, với môi trường hiện nay Ngân hàng có thể mất khách hàng của mình bất cứ lúc nào, các Ngân hàng khác sẵn sàng trải thảm để đưa khách hàng về với họ. Điều này là một khó khăn lớn nhưng cũng là một cơ hội để Ngân hàng tự khẳng định sức mạnh của mình trên thương trường. Hiệu quả thể hiện ở thị phần của ngân hàng ngày càng được cải thiện, tạo được tâm lý thoải mái, tin tưởng của những khách hàng cũ đồng thời không ngừng tăng tăng lên cả về số lượng và chất lượng các khách hàng mới.
iii. Thực trạng hoạt động tín dụng tại Chi nhánh.
1. Tình hình huy động vốn.
Đối với hoạt động kinh doanh của một NHTM, nguồn vốn là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định sự tồn tại và phát triển của nó. Với nguyên tắc “Huy động vốn để cho vay”, trong những năm qua bằng việc không ngừng mở rộng mạng lưới giao dịch thông qua các quỹ tiết kiệm, giải quyết nhanh chóng và thông thoáng các thủ tục, thái độ phục vụ văn minh, lịch sự nhằm thu hút tối đa nguồn vốn tiền gửi của dân cư. Thông qua việc khẳng định uy tín của mình bằng chất lượng dịch vụ không ngừng được hoàn thiện, Chi nhánh đã thu hút được tiền gửi của các doanh nghiệp thể hiện ở mức tăng trưởng nguồn vốn khá cao, tạo điều kiện mở rộng đầu tư sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp. Biểu thống kê sau phản ánh rõ quy mô và tốc độ huy động vốn của Chi nhánh.
Bảng 1: nguồn vốn huy động tại nhct- Hai Bà Trưng
Đơn vị: Tỷ VND
Chỉ tiêu
31/12/1999
31/12/2000
31/12/2001
2000/
1999
Số
lượng
2001/
2000
Số
lượng
Số
tiền
Tỷ
Trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng
(%)
Số tiền
Tỷ trọng
(%)
1. Tiền gửi các tổ chức kinh tê
397
29,13
527
33,38
643
34,98
+ 130
+116
2. Tiền gửi tiết kiệm
960
70,43
1052
66,62
1153
6._.hủ động của cán bộ tín dụng, Ngân hàng cũng nên thành lập tổ thu nợ gồm một số cán bộ có kinh nghiệm trong công tác, có mối quan hệ rộng và được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc để có điều kiện theo dõi sát sao doanh nghiệp, tận dụng mọi khả năng để thu nợ.
Đối với những khoản nợ quá hạn không còn khả năng thanh toán mà phải xử lý bằng tài sản thế chấp.
Nghị định 178/NĐ-CP về khả năng phát mại tài sản đã tạo thuận lợi, tăng tính chủ động rất lớn trong việc xử lý tài sản thế chấp, cầm cố cho Ngân hàng, tuy nhiên trong nhiều trường hợp việc phát mại tài sản thường gặp khó khăn do số tiền phát mãi nhỏ hơn vốn cần cần phải thu hồi, thời gian phát mãi dài, nhiều chi phí phát sinh, thậm chí là không phát mãi được, trong những trường hợp này, Ngân hàng nên:
+Hoặc dùng tài sản để cho thuê và trực tiếp đứng ra thu tiền.
+Dùng tài sản đó làm vốn góp liên doanh.
+Liên hệ với Ngân hàng khác có nhiều tài sản thế chấp thuận lợi, Chi nhánh có thể thu hồi và dùng nó làm địa điểm giao dịch mở thêm đại lý, Quỹ Tiết kiệm.
Nợ quá hạn là điều không ai muốn xảy ra, nhất là cán bộ tín dụng. Song nếu đã xảy ra thì Ngân hàng nên có biện pháp tích cực để thu hồi nợ về, tránh rủi ro xảy ra. Thực tế trong thời gian qua công tác thu hồi nợ còn chiếm tỷ trọng nhỏ so với nợ quá hạn, chủ yếu vẫn dùng các biệp pháp khoanh nợ, gia hạn nợ…Để giảm thấp nợ quá hạn trong thời gian tới, Chi nhánh nên chú trọng hơn nữa công tác này. Bên cạnh đó như đã đề cập, để hạn chế nợ quá hạn mới tiếp tục phát sinh Ngân hàng cần có biện pháp thẩm định và giám sát các món vay chặt chẽ hơn, phát hiện sớm những dấu hiệu chủ yếu của nợ quá hạn để có biện pháp xử lý phù hợp. Những dấu hiệu của nợ quá hạn thường là:
- Sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bị thu hẹp biểu hiện qua doanh số bán hàng thấp hơn doanh số cho vay, dư nợ không giảm.
- Các khoản công nợ trong thanh toán của doanh nghiệp lớn và tồn đọng lâu dài, không giải quyết được dẫn tới đơn vị thiếu vốn hoạt động làm ảnh hưởng đến khả năng trả nợ Ngân hàng.
- Tồn kho hàng hoá tương đối lớn và trong thời gian dài do không tiêu thụ được vì chất lượng kém hoặc do sự cạnh tranh giảm giá với sản phẩm cùng loại trên thị trường.
- Tiền lãi hàng tháng doanh nghiệp không trả đều đặn như theo hợp đồng tín dụng đã kí với ngân hàng, có tình trạng nợ lãi.
- Số dư trên tài khoản tiền gửi, thanh toán ở Ngân hàng giảm sút, xuất hiện tình trạng phát hành séc quá số dư.
- Đơn vị trì hoãn việc nộp các báo cáo tài chính.
6. Tăng cường hoạt động Marketing ngân hàng và áp dụng chính sách khách hàng hợp lý.
Nhìn chung, đại đa số các NHTM Việt Nam hiện nay thì việc áp dụng Marketing vào hoạt động còn rất hạn chế, chỉ tập trung vào các hoạt động bề nổi như quảng cáo khuếch trương, còn các chức năng chủ lực có ý nghĩa quyết định thành công trong hoạt động kinh doanh như nghiên cứu khách hàng, xác định thị trường mục tiêu, định vị hình ảnh, nâng cao về chất lượng dịch vụ ngân hàng hầu như còn rất mờ nhạt.
Hiện nay phòng Marketing của Chi nhánh chưa được thành lập, gây một khó khăn rất lớn cho hoạt động. Khách hàng tới giao dịch nhưng chưa có sự phân tích đánh giá một cách có khoa học. Hồ sơ của các khách hàng được lưu trữ tại Ngân hàng chủ yếu để phục vụ cho công tác pháp lý chứ ít khi được sử dụng như là một tài liệu tham khảo trước khi ra quyết định.
Việc ứng dụng công nghệ vào hoạt động Ngân hàng cũng như các sản phẩm cần thiết để thu hút khách hàng vẫn chủ yếu dựa vào những hướng dẫn, kế hoạch của NHCT Việt Nam chứ chưa có sự nghiên cứu, tìm hiểu một cách có mục đích theo điều kiện hiện có của Ngân hàng.
Tuy rằng thực tế là phòng Marketing chưa được thành lập tại đây đã gây ra những lực cản lớn cho hoạt động và hiệu quả của Ngân hàng. Nhưng không vì thế mà cho rằng Marketing không được sử dụng. Hoạt động Marketing ở đây bị xen lẫn và che khuất bởi hoạt động thường nhật của các cán bộ, nhân viên, nó được phản ánh qua những báo cáo quý, năm của các phòng ban chức năng, số lượng khách hàng mới dến giao dịch ngày càng tăng như: Dịch vụ hàng không, công ty Gốm sứ…thể hện rõ ở tổng doanh số cho vay tăng lên đáng kể trong năm 2001.
Do vậy cần thực hiện:
+ Các nhà quản lý Ngân hàng cần phải chuyển sang tư duy mới, lấy quan điểm Marketing làm chủ đạo, có tầm nhìn chiến lược, có khả năng phân tích.
Triết lý Marketing cần được thâm nhập vào các bộ phận Ngân hàng, tất cả các nhân viên với mục tiêu phục vụ tối đa những gì khách hàng cần. Mỗi cán bộ đều phải coi mình là nhân viên.
Thành lập phòng chức năng Marketing trong cơ cấu tổ chức quản trị để đề ra và định hướng hoạt động Marketing một cách bài bản, với một đội ngũ nhân viên nhạy bén, am hiểu.
Ngân hàng nên tiếp tục tổ chức các hội nghị khách hàng định kì 1 năm một lần với khách hàng truyền thống, khách hàng lớn. Thông qua những dịp này, Ngân hàng có thể có được những ý kiến đóng góp quý báu từ phía khách hàng và đó cũng là dịp thắt chặt mối quan hệ với họ.
Chính sách khách hàng: Chi nhánh NHCT- Hai Bà Trưng nên xây dựng chính sách khách hàng lâu dài, Ngân hàng và khách hàng luôn gắn bó với nhau, mối quan hệ này luôn tồn tại khách quan, bổ sung và tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. Cần thiết phải đánh giá cao khách hàng truyền thống, có uy tín và mở rộng có chọn lọc đối với khách hàng mới.
Khách hàng truyền thống là khách hàng gắn bó với Ngân hàng cả về thời gian và nội dung hoạt động, có cả quá trình lịch sử, hiện tại và tương lai, gắn liền với Ngân hàng từ những ngày đầu đến nay. Đối với khách hàng có uy tín điều dễ nhận thấy là đều thực hiện tốt việc vay mượn, trả nợ sòng phẳng, có trách nhiệm với đồng vốn, sử dụng vốn có hiệu quả và có lãi. Vì vậy với đối tượng này, Ngân hàng phải hết sức quan tâm gắn hoạt động khách hàng với Ngân hàng, thẩm định và đầu tư kịp thời các dự án có hiệu quả. Cần xây dựng trong lòng khách hàng này hình ảnh Ngân hàng luôn gần gũi và hỗ trợ kịp thời để sản xuất nhiều sản phẩm có chất lượng cao cho xã hội. Có chính sách lãi suất hợp lý, ưu đãi đối với các doanh nghiệp có số dư tiền vay lớn và không có nợ quá hạn.
Mở rộng có chọn lọc đối với khách hàng mới.
Tích cực bằng mọi biện pháp để thu hút khách hàng thuộc khu vực Nhà nước để cho vay khép kín cả ngắn hạn, trung hạn và dài hạn với chu trình sản xuất, đồng thời thiết lập và nâng cao hiệu quả xử lý thông tin tín dụng trên cơ sở: Chi nhánh phải lựa chọn khách hàng bằng nhiều giải pháp cần thiết để mở rộng thị phần khách hàng đối với các Tổng công ty. Ngân hàng cũng cần quan tâm đến những doanh nghiệp ngoài quốc doanh, bởi đây là một lực lượng khách hàng tiềm năng đang ngày càng lớn mạnh, những dự án của các doanh nghiệp này vừa có tính khả thi cao, thiết thực với đời sống lại đóng góp cho sự nghiệp phát triển chung của đất nước. Với những khách hàng mới, việc cung cấp tín dụng sẽ có phần nào khó khăn hơn, tính rủi ro cao hơn nên ngân hàng cần chú ý.
Thông qua xây dựng chiến lược khách hàng, Ngân hàng có thể tiến hành quản lý khách hàng một cách sát thực hơn, chính xác hơn. nhờ đó có thể chủ động trực tiếp tham gia vào những dự án mới của doanh nghiệp từ đầu, không phải đợi đến lúc doanh nghiệp tự mang dự án đến xin vay đồng thời Chi nhánh qua đó cũng nắm rõ dự án hơn, giúp cho hoạt động tín dụng hiệu quả hơn.
7. Nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay.
Nhằm giúp cho Ngân hàng có được thông tin để duy trì có hiệu quả các hoạt động tín dụng phù hợp và đáp ứng được sự phát triển của nền kinh tế cần thiết cần phải thiết lập một cơ chế vận hành hợp lý, có hiệu quả để giám sát quá trình vận động của vốn tín dụng từ khi cho vay đến khi thu hồi cả gốc và lãi. Ngân hàng cần thực hiện theo các bước sau:
Kiểm soát trước khi cho vay: Là việc tìm hiểu sự phát triển chung của các doanh nghiệp thông qua các thông tin kinh tế, qua hoạt động của các chợ, các siêu thị thể hiện việc tiêu thụ sản phẩm, thị phần và chỗ mạnh chỗ yếu của từng doanh nghiệp. Biết được các doanh nghiệp trước khi người ta đến vay là thế chủ động của Ngân hàng, là một phương pháp tiếp thị để tiêu thụ nguồn vốn đã huy động được. Ơ nước ta bộ máy cung cấp thông tin chưa có, các Ngân hàng lại bị động chờ khách hàng tới vay tiền rồi mới điều tra làm cho việc kiểm soát truớc cho vay bị lãng quên.
Kiểm tra trong khi cho vay: Được tiến hành khi khách hàng đặt vấn đề vay vốn bao gồm: Kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của các chứng từ liên quan đến khoản vay và mẫu chữ kí, những người liên quan phải kí theo chế độ quy định, ngày tháng số liệu giấy tờ, các loại văn bản đã khớp đúng chưa. Kiểm tra việc vay tiền, chuyển tiền vay thanh toán cho các đối tác của các khách hàng, vay vốn có đúng và phù hợp với mục đích xin vay hay không, có đủ căn cứ hợp lệ hay không.
Khi món vay được duyệt và giải ngân, cán bộ tín dụng phải lưu giữ hồ sơ vay vốn và các văn bản giấy tờ bổ sung khác trong suốt quá trình theo dõi thu nợ cho đến khi thu hết nợ và chuyển lưu hồ sơ theo quy định.
Kiểm tra sau khi cho vay: dựoc tiến hành sau khi phát tiền vay tới khi trả nợ xong. Kiểm tra việc sử dụng vốn vay, ngăn ngừa người vay sử dụng vốn sai mục đích, kiểm tra vật tư đảm bảo món vay để nắm được món vay của Ngân hàng có vật tư đảm bảo hay không. Kiểm tra khả năng thu hồi nợ trên cơ sở theo dõi quá trình luân chuyển vật tư hàng hoá hình thành từ món vay và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Thông qua kiểm soát sau, kịp thời phát hiện những khoản nợ có khả năng khó hoàn trả đúng hạn, trên cơ sở đó đôn đốc doanh nghiệp giám sát chặt chẽ sử dụng vốn vay nhằm thu hồi nợ đúng kì hạn và nắm được khả năng thực tế của doanh nghiệp. Từ đó có cơ sở cho việc quyết định đầu tư các khoản vay mới hay không.
8.Thực hiện bảo hiểm tín dụng.
Bảo hiểm tín dụng là việc bảo hiểm số vốn tín dụng của Ngân hàng cấp cho khách hàng vay, bảo hiểm tài sản mà người vay đem thế chấp cho Ngân hàng. Có các hình thức bảo hiểm phổ biến sau:
Khách hàng vay vốn mua bảo hiểm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Trong trường hợp này họ đã bảo hiểm gián tiếp cho vốn Ngân hàng vì họ sẽ có nguồn thu khi gặp rủi ro trong kinh doanh và có thể dùng nguồn vốn đó để thanh toán nợ Ngân hàng. Phương pháp này không làm Ngân hàng phát sinh thêm nghiệp vụ và chi phí mà cũng khá an toàn. Do đó Ngân hàng nên khuyến khích cách này bằng việc xem xét ưu đãi cho vay đối với khách hàng có mua bảo hiểm.
Ngân hàng hình thành các quỹ dự phòng để bù đắp những thiệt hại do không thu hồi hết nợ quá hạn, từ đó hạn chế những hậu quả xấu có thể xảy ra mà không làm xáo động tình hình tài chính. Mặc dù Ngân hàng có thể lấy vốn tự có để bù đắp những thiệt hại rủi ro, nhưng vốn tự có thường là rất nhỏ và thường là cơ sở huy động vốn nên việc hình thành quỹ dự phòng luôn là cần thiết. Trong quá trình trích lập các quỹ dự phòng vấn đề cần được giải quyết thoả đáng là quỹ dự phòng sẽ trích từ nguồn nào và trích như thế nào để vừa phản ánh được đúng kết quả kinh doanh vừa nâng cao chất lượng của Ngân hàng.
Ngân hàng mua bảo hiểm của các tổ chức chuyên nghiệp đối với hoạt động đầu tư cho vay của mình. Tuy nhiên theo biện pháp này thì Ngân hàng phải bỏ ra một số chi phí để trả cho công ty bảo hiểm, do vậy biện pháp này chỉ nên sử dụng với những khoản đầu tư lớn, thời hạn dài và Ngân hàng chuyển một phần chi phí cho khách hàng cùng san xẻ.
9. Các biện pháp khác.
9.1.Giải pháp về nhân tố con người.
Yếu tố con người luôn là yếu tố chủ đạo của mọi hoạt động vì đó là chủ thể quyết định trong hoạt động. Ngân hàng phải xây dựng một đội ngũ cán bộ tinh thông về nghiệp vụ, hiểu biết pháp luật và đạo đức trong kinh doanh để làm chủ bản thân không làm “nghèo” tư cách của mình trong từng tình huống kinh doanh, hại đến quyền lợi chung. Vì vậy Chi nhánh cần có chính sách tuyển dụng cán bộ hợp lý để thu hút được những sinh viên suất sắc, có khiếu trong lĩnh vực Tài chính-Ngân hàng đã tốt nghiệp đại học.
Ngoài ra, Chi nhánh cũng cần có chính sách đãi ngộ đặc biệt để thu hút đội ngũ chuyên gia giỏi hoặc mời làm cố vấn, cộng tác viên. Các cán bộ của Chi nhánh cần phải đào tạo bồi dưỡng thêm để nâng cao trình độ và phải thường xuyên nghiên cứu cập nhật các thông tin và các kiến thức mới về chuyên môn, nghiệp vụ. Từ sự năng động của cán bộ sẽ đem đến cho Ngân hàng nhiều khách hàng chân chính làm ăn thực thụ. Như vậy kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng sẽ tăng lên.
9.2.Giải pháp về thông tin.
Cùng với sự phát triển của công nghệ hiện đại, công tác thông tin trong Ngân hàng ngày càng được hoàn thiện dần đáp ứng được với những đòi hỏi của nền kinh tế. Phòng thông tin điện toán trong Ngân hàng thực hiện chức năng làm đầu mối thu thập, xử lý, tổng hợp lưu trữ, phân tích và truyền đưa thông tin về hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng và thanh toán của Chi nhánh bằng hệ thống máy tính và các thiết bị truyền tin.
Triển khai thực hiện tốt các chương trình quản lý kế toán-tín dụng MISAC, tiết kiệm điện tử SAMIT. Chuyển đổi một số chương trình sang môi trường Visual Basic, Visual Foxpro, triển khai chương trình BACKUP số liệu trên máy chủ. Nghiên cứu thu thập thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng phục vụ cho hoạt động ngân hàng như từ báo chí, số liệu thống kê và những định hướng chính sách từ Ngân hàng Công thương Việt Nam. Bên cạnh đó, cải tạo nâng cấp hệ thống mạng cục bộ (BUS) chủ Chi nhánh thành mạng máy có cấu trúc, tốc độ cao, cơ bản đã khắc phục được hiện tượng máy bị treo, đóng góp một phần quan trọng trong cạnh tranh có hiệu quả của Ngân hàng.
Tuy vậy, chính sách thông tin tại Ngân hàng mới chỉ chú trọng vào việc ứng dụng máy móc công nghệ về phần cứng là chủ yếu. Thông tin trong Ngân hàng nhằm quản lý và theo dõi khách hàng vẫn chưa được áp dụng.
Qua đó có thể thấy được những hạn chế trong kinh doanh của Ngân hàng có sự đóng góp của việc không sử dụng tốt nhất hệ thống thông tin tại Chi nhánh, nó thể hiện qua cơ cấu nợ quá hạn tại Ngân hàng mà chủ yếu xuất phát từ dự án vay vốn Đài Loan mà Ngân hàng tham gia.
Thông tin mà Ngân hàng có được thường là do:
Thu thập thông tin trực tiếp doanh nghiệp xin vay.
Thu thập thông tin từ nguồn khác.
Thu thập thông tin từ các nguồn bên ngoài rất tốn kém và mất nhiều thời gian, song do sự chính xác và tính khách quan nên nó rất có ý nghĩa. Do vậy để tiết kiệm được thời gian và tiền của đồng thời vẫn đảm bảo chất lượng thông tin, Ngân hàng nên xây dựng một hệ thống thông tin thường xuyên của bản thân Chi nhánh:
+ Thiết lập hệ thống thông tin phản hồi: Ngân hàng cần thường xuyên thu thập thông tin về những mối quan hệ kinh doanh, thị trường mà doanh nghiệp quan tâm trong một giới hạn nhất định và nhận thông tin thường xuyên từ doanh nghiệp. Tuy nhiên, những thông tin này thường không đầy đủ hoặc thiếu chính xác do hầu hết khách hàng không muốn công khai hoá tình hình tài chính của mình. Vì vậy, để có được thông tin chính xác từ phía khách hàng, Ngân hàng nên đảm bảo các điều kiện sau:
+ Thực sự có uy tín trong việc thu thập thông tin, thông tin phải chính xác, có tính cập nhật.
+ Đảm bảo tính bí mật của các thông tin thu thập được.
+ Giữa các phòng ban cần có thông tin đa chiều, đặc biệt giữa phòng nguồn vốn, phòng kế toán và phòng kinh doanh. Khi một khách hàng vay vốn tại Chi nhánh thì tài khoản và tất cả các khoản thanh toán qua Ngân hàng đều phải được theo dõi thường xuyên bởi phòng kế toán, song cán bộ tín dụng trực tiếp giao dịch với khách hàng cũng cần nắm được thông tin này.
+ Thiết lập thông tin với các Ngân hàng khác trên địa bàn. Thực hiện tốt công tác này sẽ tránh được những khoản vay đảo nợ, rủi ro do thế chấp cùng một tài sản tại nhiều Ngân hàng.
+ Thu thập thông tin từ quan hệ khách hàng lâu dài.
Nếu đơn vị đã có mối quan hệ thanh toán, tín dụng với Ngân hàng trong một thời gian dài thì nhìn vào hoạt động quá khứ của khách hàng có thể biết được những thông tin hữu ích đối với khoản tiền sắp cho vay. Những thông tin đó cho phép đánh giá một cách nhanh chóng và tương đối chính xác về khả năng sử dụng vốn vay, thái độ của người vay. Việc này sẽ giảm được chi phí và thời gian thu thập thông tin giúp Ngân hàng xử lý vấn đề được dễ dàng hơn, từ đó các kết luận cho vay hoặc từ chối chính xác hơn.
Ngân hàng cần tiếp tục mở rộng đầu tư vốn tín dụng đúng hướng, phù hợp với quy mô nguồn vốn huy động và khả năng quản lý của chi nhánh, chú trọng tìm kiếm các dự án đầu tư có tính khả thi, mở rộng quy mô tín dụng, trong đó các dự án trung và dài hạn cần được ưu tiên.
Tóm lại, Chi nhánh nên thục hiện các giải pháp chủ yếu sau:
- Tăng cường huy động vốn đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn.
- Chú trọng nâng cao kiến thức nghiệp vụ của cán bộ tín dụng như công tác thẩm định dự án vay vốn, phân tích tài chính doanh nghiệp, phân tích và đánh giá phương án sản xuất, kinh doanh của khách hàng…
- Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, sử dụng có hiệu quả thông tin về khách hàng, chú trọng nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro, chủ động phát hiện và có biện pháp phòng ngừa rủi ro hữu hiệu.
- Tăng cường công tác Marketing ngân hàng, giới thiệu các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, qua đó hướng dẫn khách hàng lựa chọn, đồng thời để khách hàng hiểu thêm về Ngân hàng.
- Không ngừng đổi mới phong cách giao dịch với khách hàng đặc biệt tại các Quỹ tiết kiệm, các phòng kinh doanh, kế toán tài chính với tinh thần trách nhiệm, chu đáo tận tình. Xây dựng văn hoá giao tiếp lịch sự văn minh của NHCT Việt Nam nói chung và Chi nhánh NHCT- Hai Bà Trưng nói riêng.
III. Một số kiến nghị.
1. Kiến nghị với Nhà nước và NHNN Việt Nam.
Nhằm duy trì một nền kinh tế ổn định vững chắc và phát triển, thu nhập của người dân sẽ tăng khi nền sản xuất xã hội tăng.Tất yếu nhu cầu sử dụng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng sẽ tăng, do đó Nhà nước cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các chính sách kinh tế vĩ mô tạo sự hỗ trợ cho nhau.
Nhà nước cần có những biện pháp nhằm đảm bảo một môi trường kinh doanh ổn định cho hoạt động của các doanh nghiệp và NHTM. Ban hành, hoàn thiện và đồng bộ hoá các bộ luật và văn bản luật có liên quan.
Có cơ chế chính sách thuận lợi, có hiệu quả về tài chính, thị trường nhằm tăng cường củng cố phát triển ổn định lâu dài tránh tình trạng khi vốn tín dụng đã đầu tư cho các dự án, phương án chưa kịp thu hồi thì lại đã có sự thay đổi chính sách, khiến cho nợ Ngân hàng không thu hồi được.
Một số kiến nghị
Cần có các văn bản liên ngành nhằm phối hợp kết hợp chặt chẽ hoạt động của Ngân hàng với hoạt động của các bộ, ngành liên quan nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của Ngân hàng. Ví dụ giữa Ngân hàng với Bộ Tư pháp, Bộ Thương mại, Bộ Tài Chính, Tổng Cục thuế…
Bộ tài chính cần tổ chức thực hiện tốt việc kiểm tra buộc các doanh nghiệp tiến hành hạch toán theo pháp lệnh kế toán thống kê và đảm bảo số liệu chính xác, trung thực và kịp thời nhằm giúp cho Ngân hàng có được các thông tin tài chính làm cho việc phân tích tín dụng được kịp thời chính xác.
Nên giao cho một cơ quan tiến hành thống kê tổng hợp các tỉ lệ tài chính của các ngành, rút ra hệ thống các tỉ lệ trung bình hàng năm để làm căn cứ phân tích kinh tế, so sánh đánh giá các doanh nghiệp đang ở trong tình trạng nào tốt, trung bình hay yếu kém.
Việc ban hành, hoàn thiện và đồng bộ hoá các bộ luật, văn bản pháp luật phải tạo ra sự bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp trong tất cả các thành phần kinh tế, dần xoá bỏ những ưu đãi đối với các DNNN để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong nền kinh tế.
Chính phủ và NHNN cần tạo ra hành lang pháp lý để các NHTM có quyền tự chủ đứng ra tổ chức bán tài sản, cầm cố, thế chấp để thu hồi vốn đối với các khoản nợ quá hạn, đặc biệt cần có chính sách ưu tiên đối với những khoản nợ khó thu hồi phát sinh như miễn thuế doanh thu, thuế chuyển quyền sử dụng đất…
Nhà nước cần tăng vốn điều lệ của các NHTM quốc doanh nhằm tăng tiềm lực tài chính, tăng cường khả năng cạnh tranh và sức đề kháng của hệ thống ngân hàng trước những biến động của thị trường.
Nhà nước cần có những chính sách cho vay hợp lý đối với những doanh nghiệp Nhà nước chuyển sang Cổ phần hoá.
Kiên quyết sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước, chỉ để tồn tại những doanh nghiệp công ích, doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, những doanh nghiệp thực sự cần thiết cho phát triển dân sinh, tạo điều kiện cho nâng cao hiệu quả tín dụng. Trong việc nhanh chóng tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp cần tập trung vào việc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Đây là một biện pháp nhằm huy động các nguồn lực từ các thành phần kinh tế khác tham gia vào phát triển kinh tế. Thực hiện cổ phần hoá sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp tăng vốn tự có, trang trải nợ nần, tạo ra sức cạnh tranh mới dưới một hình thức quản lý mới. Nếu chúng ta không khẩn trương thực hiện cổ phần hoá thì các doanh nghiệp sẽ mất đi cơ hội tiếp cận với các khoản tín dụng lớn, cũng như cơ hội phát triển khi mà thị trường chứng khoán nước ta mới ra đời. Vì vậy cổ phần hoá là một trong những biện pháp quan trọng nhằm giải quyết những mâu thuẫn hiện nay trong nền kinh tế, đó là các Ngân hàng thương mại thì thừa vốn tín dụng tạm thời nhưng không cho vay được, trong khi các doanh nghiệp lại thiếu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình nhưng lại bị trói buộc về cơ chế tín dụng hiện hành của các Ngân hàng thương mại hiện nay.
Thực hiện chế độ kiểm toán chặt chẽ
Để giúp các Ngân hàng xét duyệt hồ sơ xin vay vốn của các khách hàng được chính xác, báo cáo tài chính của khách hàng phải phản ánh đúng tình hình thực tế, đồng thời việc thu thập thông tin của Ngân hàng cũng phải được tiến hành thuận lợi và chính xác. Muốn vậy Nhà nước nên sớm ban hành quy chế tài chính và hạch toán kinh doanh đối với những khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Qua đó tăng cường tính hiệu lực pháp lý, đảm bảo tính đồng bộ chuẩn mực của công tác hạch toán kế toán, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ Ngân hàng có những kết luận chính xác về tình hình tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng. Việc chấn chỉnh công tác kiểm toán phải đi đôi với nâng cao hiệu quả của hoạt động kiểm toán. Hiện nay ở nước ta đã có hệ thống kiểm toán nhà nước, 15 công ty kiểm toán độc lập bao gồm các công ty 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh, công ty kiểm toán của Nhà nước và trách nhiệm hữu hạn, song hiệu quả hoạt động của các công ty này chưa cao, một phần là do quan niệm của các doanh nghiệp thường rất ngại thực hiện kiểm toán do nhiều lí do khác nhau: có thể sợ kiểm toán phát hiện ra những sai sót về kế toán hay kiểm toán sẽ phát hiện những vấn đề mà doanh nghiệp còn giấu kín. Chi phí cao cho công tác kiểm toán cũng là nguyên nhân khiến doanh nghiệp không muốn thực hiện. Tiến tới Nhà nước cần quy định chế độ kiểm toán bắt buộc đối với mọi loại hình doanh nghiệp, qua đó để đảm bảo độ tin cậy cho các báo cáo tài chính, góp phần nâng cao hiệu quả công tác thẩm định các dự án đầu tư.
Đối với NHNN
Tăng cường hiệu lực điều hành chính sách tiền tệ, chức năng giám sát kiểm tra đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng.
NHNN nên hình thành cơ quan phân tích đánh giá về tài chính và dự báo xu hướng phát triển của Ngân Hàng Thương Mại trên cơ sở đó kịp thời điều chỉnh các quy định và biện pháp giám sát.
Sớm đưa ra các công ty mua bán nợ và công ty khai thác tài sản vào hoạt động để xử lý nợ và tài sản thế chấp tồn đọng, cho phép NHTM được áp dụng nhiều biện pháp thích hợp với từng loại tài sản ngoài những biện pháp thông thường hiện nay để khai thác kể cả chấp nhận việc bán thấp hơn giá trị nhận cầm cố, thế chấp, coi đó là hiện tượng kinh tế bình thường để có vốn luân chuyển.
Trong điều kiện kinh tế hiện nay Trung tâm thông tin Ngân hàng của nước ta còn chưa kịp thời đầy đủ, đề nghị Ngân hàng Nhà nước chấn chỉnh hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng từ khâu cập nhật số liệu, cung cấp số liệu đảm bảo thông tin chính xác kịp thời.
2.Kiến nghị với Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Trên cơ sở các văn bản pháp luật hướng dẫn của Chính phủ, NHNN về: quy chế đảm bảo tiền vay, các quy định về tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh, quy định về việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng, thành lập và nâng cao hiệu quả của trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro…
NHCT VN nên nghiên cứu và bổ sung cho phù hợp với đặc điểm kinh doanh của Ngân hàng, từ đó ban hành những văn bản để hướng dẫn các Chi nhánh thực hiện có hiệu quả.
Tăng cường hiệu quả hoạt động của công tác thanh tra, kiểm soát trong toàn hệ thống giám sát và đôn đốc kịp thời những biểu hiện sai phạm của các Chi nhánh, nhất là trong hoạt động tín dụng.
Nghiên cứu và cho ra đời công ty chuyên phát mại tài sản thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam để giúp đỡ, tư vấn cho các Chi nhánh gặp khó khăn trong việc phát mại tài sản hoặc trực tiếp thực hiện đối với những tài sản có giá trị lớn mà các Chi nhánh không giải quyết được.
Xây dựng một hệ thống quản lý nguồn nhân lực có hiệu quả hơn, tăng cường hơn nữa việc tổ chức các chương trình đào tạo nâng cao trình độ và năng lực chuyên môn của cán bộ tín dụng Ngân hàng. Quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm đối với cán bộ trong việc thực hiện nghiệp vụ tín dụng để mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng, có chế độ thưởng phạt rõ ràng để khuyến khích và nâng cao trách nhiệm của cán bộ tín dụng.
Trên đây là một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh tín dụng Ngân hàng, qua thời gian thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng, em mạnh dạn nêu lên với hi vọng được Ban giám đốc Ngân hàng tham khảo.
Kết luận
Lĩnh vực kinh doanh tiền tệ tín dụng là một lĩnh vực phức tạp có nhiều rủi ro so với các loại hoạt động kinh doanh khác. Nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng để đảm bảo an toàn và nâng cao hiệu quả kinh doanh là vấn đề hết sức cần thiết đối với toàn bộ hệ thống NHTM Việt Nam hiện nay. Đây là vấn đề vừa khó vừa rộng lại vừa phức tạp và có liên quan tới nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành. Những ý kiến đề xuất trong chuyên đề chỉ là một phần nhỏ trong toàn bộ những giải pháp cần thực hiện, khó tránh khỏi những hạn chế và còn nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu để hoàn thiện thêm. Em mong rằng những ý kiến đó sẽ góp phần nhỏ bé trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng.
Mặc dù có cố gắng nhưng do dây là một vấn đề tương đối rộng và trình độ bản thân có hạn nên trong bài viết có nhiều thiếu sót. Em mong nhận được sự đánh giá, góp ý của thày cô để bài viết của em được tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Mục lục
Lời mở đầu
Chương I
Những vấn đề chung về Ngân hàng thương mại và hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại. 3
I. Sự ra đời và phát triển của Ngân hàng thương mại 3
II. Các hoạt động chủ yếu của NHTM 5
1. Hoạt động huy động vốn 5
2. Hoạt động sử dụng vốn 6
3. Hoạt động trung gian thanh toán 6
III. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại 7
1. Tín dụng Ngân hàng 7
2. Tín dụng Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
là tất yếu khách quan 9
3.Vai trỏ tín dụng của Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường 11
4.Các hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại 14
4.1 Hoạt động cho vay 14
4.2 Hoạt động cho thuê tài chính 16
4.3 Hoạt động bảo lãnh 16
4.4 Hoạt động chiết khấu 17
IV. Chất lượng tín dụng của NHTM 16
1. Khái niệm chất lượng tín dụng 16
2. Các chỉ tiêu cơ bản đánh giá hoạt động tín dụng NHTM 18
2.1 Chỉ tiêu tổng dư nợ 18
2.2 Tỷ lệ nợ quá hạn 19
2.3 Tốc độ luân chuyển vốn 19
2.4 Chỉ tiêu lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng 20
3.Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của Ngân hàng 20
3.1 Những nhân tố khách quan 21
3.2 Những nhân tố chủ quan 22
3.3 Các yếu tố từ khách hàng 24
4. Y nghĩa của việc nghiên cứu chất lượng tín dụng 24
CHƯƠNG II
Thực trạng chât lượng tín dụng tại Chi nhánh NHCT – HBT 25
I. Khái quát chung về Chi nhánh 25
1. Quá trình hình thành và phát triển của Chi nhánh NHCT- HBT...25
2. Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh 26
3. Các sản phẩm dịch vụ và một số thành tựu đạt được
trong thời gian qua. 29
3.1 Các hoạt động của Ngân hàng 29
3.2 Một số thành tựuc đã đạt được 30
II.Cơ cấu khách hàng trên Quận Hai Bà Trưng 30
III. Thực trạng hoạt động tín dụng tại Chi nhánh 32
1. Tình hình huy động vốn 32
2. Tình hình hoạt động tín dụng của Ngân hàng 34
2.1 Cơ cấu dư nợ tại Chi nhánh 34
2.2 Tình hình Cho vay – Thu nợ 37
2.3 Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn 39
2.4 Thực trạng nợ quá hạn tại Chi nhánh 40
2.5 Kết quả kinh doanh tín dụng 43
3. Đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng tại
Chi nhánh NHCT – Hai Bà TRưng 45
3.1 Những kết quả đạt được 45
3.2 Những mặt còn hạn chế 47
3.3 Nguyên nhân của những hạn chế 48
CHƯƠNG III
Một số giải phấp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng
tại Chi nhánh NHCT – Hai Bà Trưng 51
I. Định hướng kinh doanh và mục tiêu trong thời gian tới 51
II. Một số giải pháp cụ thể 52
1. Các biện pháp để tạo vốn 52
2. Mở rộng khách hàng 53
2.1 Đối với doanh nghiệp Nhà nước 54
2.2 Tăng cường cho vay với doanh nghiệp
ngoài quốc doanh 54
3. Về hình thức cho vay 55
4. Nâng cao hiệu quả khâu thẩm định 56
5. Tích cực xử lý nợ quá hạn 57
6. Tăng cường hoạt động Marketing ngân hàng
và áp dụng chính sách khách hàng hợp lý 59
7. Nâng cao hiệu qủa hoạt động kiểm tra trước,
trong, và sau khi cho vay 61
8.Thực hiện bảo hiểm tín dụng 62
9. Các biện pháp khác 62
9.1 Giải pháp về nhân tố con người 62
9.2 Giải pháp về thông tin 63
III. Một số kiến nghị 65
1. Kiến nghị với Nhà nước và NHNN Việt Nam 65
2. Kiến nghị với NHCT Việt Nam 68
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính
Frederic Mýshkin.
Giáo trình Nghiệp vụ Ngân hàng
NXB TP Hồ Chí Minh.
Giáo trình “ Quản trị tài chính doanh nghiệp”
Trường ĐHKTQD
Ngân hàng Thương mại.
EdwardW.reed&Edward .gill
Vay vốn Ngân hàng từ lý thuyết đến thực hành.
NXB thống kê 2000
Các báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng (1999-2001).
Luật các tổ chức tín dụng (1997).
Tạp chí Ngân hàng.
Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ.
10. Tạp chí tài chính
11. Quy chế tín dụng do NHCT Việt Nam ban hành.
Nhận xét của giáo viên
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29785.doc