Một số giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại Chi Nhánh Ngân hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Tây Hồ-Hà Nội (86tr)

Lời mở đầu Việt Nam đang trong thời kì tiếp tục sự nghiệp đổi mới, thực hiện công cuộc CNH-HĐH đất nước, chủ trương đưa nền kinh tế đất nước từ nông nghiệp lạc hậu. Vì vậy, để hoàn thành chủ trương, nhiệm vụ do Đảng đề ra, Đảng đề ra, vấn đề quan trọng hiện nay đối với các doanh nghiệp là phải chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đầu tư mua sắm tài sản cố định, thực hiện đầu tư theo chiều sâu, đưa công nghệ hiện đại vào sản xuất, tận dụng lợi thế của một nước đi sau, học hỏi những thành t

doc86 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1480 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại Chi Nhánh Ngân hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Tây Hồ-Hà Nội (86tr), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ựu khoa học công nghệ hiện đại của các nước đi trước- các nước công nghiệp hiện đại để ứng dụng vào sản xuất trong nước. Từng bước đuổi kịp trình độ sản xuất của các nước trong khu vực và thế giới. Để triển khai được các dự án đầu tư, các doanh nghiệp cần phải có nguồn vốn đủ lớn với thời hạn dài. Nguồn vốn này có thể là nguồn vốn tài trợ của Nhà nước, vốn chủ sở hữu, vốn góp liên doanh, vốn vay từ nền kinh tế do phát hành chứng khoán, vốn vay từ NHTM. Do những hạn chế nhất định của các doanh nghiệp Việt Nam mà vốn tự có hay vốn từ phát hành chứng khoán là rất nhỏ và hiếm. Do đó, nguồn vốn đầu tư quan trọng nhất của doanh nghiệp là vốn vay từ NHTM. trong điều kiện kinh tế Việt Nam hiện nay thì nhu cầu vốn trung dài hạn của doanh nghiệp là chủ yếu và nó thật sự cần thiết cho các doanh nghiệp. Hoạt động tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng nhận được rất nhiều sự quan tâm do tầm quan trọng của nó đối với nền kinh tế cũng như sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Trong mấy năm gần đây, hoạt động tín dụng trung, dài hạn của NHTM Việt Nam nói chung tuy đã đạt được những kết quả đang kể nhưng vẫn còn nhỏ bé so với đòi hỏi bức thiết ngày càng tăng về vốn trung dài hạn của các doanh nghiệp. Do đó, mối quan tâm lớn ở các NHTM Việt Nam hiện nay là tìm biện pháp tăng trưởng tín dụng trung, dài hạn cả về quy mô lẫn chất lượng để góp phần phục vụ đắc lực cho sự nghiệp chung của cả nước, sự nghiệp CNH- HĐH đất nước. Tại chi nhánh NHNo & PTNT Tây Hồ, hoạt động tín dụng trung, dài hạn chưa được quan tâm phát triển đúng mức và còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được mục tiêu đề ra về cả quy mô và chất lượng. Do những yêu cầu bức thiết của thực tế trên, đồng thời qua quá trình thực tập, tìm hiểu hoạt động kinh doanh tại chi nhánh NHNo&PTNT Tây Hồ, em đã quyết định chọn đề tài nghiên cứu cho chuyên đề tốt nghiệp là: “Một số giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại Chi Nhánh Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Tây Hồ-Hà Nội”. Bố cục chuyên đề gồm 3 chương: ChươngI: Một số vấn đề cơ bản về tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng thương mại. ChươngII: Thực trạng chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại Chi nhánh NHNo&PTNT Tây Hồ-Hà Nội. ChươngIII: Một số giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại Chi nhánh NHNo&PTNT Tây Hồ-Hà Nội. Chươngi. Một số vấn đề cơ bản về tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng thương mại I. Tín dụng ngân hàng. 1. Khái niệm Tín dụng là quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể trong đó một bên nhận được quyền sử dụng tiền hoặc tài sản trong một thời gian nhất định còn bên kia nhận được sự cam kết hoàn trả tiền gốc và lãi theo thời hạn đã thoả thuận. Như vậy: Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa các chủ thể trong nền kinh tế truyên nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi. Trong đó người cho vay đã chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị nhất định dưới hình thái tiền tệ hoặc hiện vật như: bất động sản, máy móc, hàng hoá... còn người đi vay sẽ tạm thời sử dụng vốn này trong một thời gian xác định. Khi hết thời gian sử dụng theo thoả thuận người đi vay sẽ phải hoàn trả khoản vay cho người cho vay kèm theo một lợi tức. 2. Phân loại tín dụng Ngân hàng. Để có thể khái quát và hiểu đúng hơn về tín dụng Ngân hàng, người ta tiến hành phân loại tín dụng Ngân hàng. Có nhiều cách phân loại tín dụng Ngân hàng khác nhau, tuỳ theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lý của Ngân hàng. * Phân loại theo thời gian (thời hạn tín dụng). Phân loại theo thời gian của các khoản tín dụng là cách phân loại mà các Ngân hàng thường dùng nhất. Cách phân loại này có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và khả năng sinh lời của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo cách phân loại này tín dụng được phân thành: tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn và tín dụng dài hạn. - Tín dụng ngắn hạn là các khoản tín dụng từ 12 tháng trở xuống. Tín dụng ngắn hạn chủ yếu tài trợ cho tài sản lưu động tức là những tài sản có vòng quay lớn. - Tín dụng trung hạn là các khoản tín dụng mà thời gian vay từ 1 đến 5 năm. Tín dụng trung hạn chủ yếu tài trợ cho một số tài sản cố định như phương tiện vanạ tải, công trường, vật nuôi, trang thiết bị chống hao mòn. - Tín dụng dài hạn là các khoản tín dụng từ 5 năm trở lên. Hình thức tín dụng này thường tài trợ cho các dự án lớn, thời gian sử dụng lâu dài như các công trình cầu, đường, sân bay, bến cảng. * Phân loại theo hình thức. Theo cách phân loại này tín dụng được chia thành: chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho thuê. - Chiết khấu thương phiếu là việc Ngân hàng ứng tiền cho khách hàng tương ứng với giao thông của thương phiếu đi phần thu nhập của Ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn. Về mặt pháp lý thì Ngân hàng không phải đã cho vay đối với chủ thương phiếu. Đây chỉ là hình thức trao đổi trái quyền: chủ tương phiếu giao thương phiếu cho Ngân hàng đổi lại Ngân hàng cung cấp cho chủ thương phiếu một khoản tiền. Tuy nhiên đối với Ngân hàng thì dây được coi là một khoản tín dụng bởi vì Ngân hàng đã bỏ ra một khoản tiền ở thời điểm hiện tại để nhận về một khoản tiền lớn hơn trong tương lai. - Cho vay: Đây là việc Ngân hàng trực tiếp trao tiền cho khách hàng với cam kết phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng tín dụng xác định. - Bảo lãnh là việc Ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính thay khách hàng của mình nếu như khách hàng của mình vi phạm. Với hình thức bảo lãnh mặc dù Ngân hàng chưa phải xuất tiền ra nhưng Ngân hàng đã cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để giao dịch với các chủ thể khác. - Cho thuê là việc Ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo các thoả thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả gốc và lãi cho Ngân hàng. * Phân loại tín dụng theo tài sản đảm bảo. Theo cách phân loại này tín dụng Ngân hàng được chia thành: tín dụng có đảm bảo bằng uy tín của chính khách hàng, tín dụng có đảm bảo bằng thế thấp, tín dụng đảm bảo bằng cầm cố tài sản. - Tín dụng có đảm bảo bằng uy tín của chính khách hàng các khoản tín dụng này thường được cấp cho khách hàng có uy tín, thường là khách hàng thường xuyên làm ăn có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ dây dưa, các khoản cho vay theo chỉ thị của chính phủ. - Tín dụng có đảm bảo bằng thế chấp. Đây là các khoản tín dụng mà khi cấp tín dụng Ngân hàng sẽ nắm giữ giấy tờ của các tài sản được thế chấp. Các tài sản thế chấp khách hàng vẫn được sử dụng nhưng phải thực hiẹn một số cam kết với Ngân hàng. - Tín dụng được đảm bảo bằng cầm cố. Đây là hình thức cấp tín dụng mà khi Ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng thì khách hàng sẽ giao tài sản cho Ngân hàng để bảo quản nếu như khoản tín dụng không trả được đúng hạn thì Ngân hàng có thể sử dụng tài sản câm cố để thu hồi nợ. * Phân loại tín dụng theo rủi ro Theo cách phân loại này người ta chia tín dụng thành: - Tín dụng lành mạnh: các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao - Tín dụng có vấn đề: là các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như khách hàng chậm tiêu thụ, khách hàng bị thiên tai, trì hoãn nộp báo cáo tài chính. - Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: là các khoản nợ đã quá hạn nhưng với thời hạn ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn... - Nợ khó đòi: là các khoản nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản thế chấp nhỏ ... * Phân loại khác. Ngoài các cách phân loại trên người ta còn có thể phân loại tín dụng theo các tiêu thức khác như phân tín dụng theo ngành kinh tế, theo mục đích sử dụng vốn, theo đối tượng tín dụng ... 3. Các chức năng và hình thức tín dụng Ngân hàng 3.1. Các chức năng tín dụng ngân hàng 3.1.1. Chức năng tập trung và phân phối theo nguyên tắc hoàn trả . Chức năng này thể hiện khi tín dụng thu hút bộ phận tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế và phân phối vốn đó bằng hình thức cho vay đối với nhu cầu đang thiếu vốn tạm thời, phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Giữa tập trung và phân phhối vốn luôn có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau. Thực hiện tốt tập trung vốn tạo cơ sở để tiến hành cho vay, đồng thời chỉ khi việc phân phối vốn có hiệu quả sẽ thúc đẩy nhu cầu tập trung vốn. Sự phân phối của tín dụng tuân theo một vòng tuần hoàn từ khi coh vay đến vốn tín dụng theo nhu cầu, và sau khi hoành thành việc tham gia quá trình phục vụ nhu cầu, trở lại hình thái tiền tệ thì nó được hoàn trả người cho vay. Đây là bản chất vận động của tín dụng. Đó là sự vận động với tư cách lượng giá trị vận động, do đó lượng giá trị này luôn được bảo tồn theo thời gian khi hoàn trả. 3.1.2. Chức năng phản ánh và kiểm soát hoạt động của nền kinh tế. Khả năng kiểm soát các hoạt động kinh tế của tín dụng Ngân hàng là rộng lớn hơn so với các hình thức khác. Bên cạnh quan hệ tín dụng đối với các doanh nghiệp và cá nhân, Ngân hàng còn có quan hệ về tiền tệ, thanh toán...với họ, các doanh nghiệp dễ dàng hơn. Không những thế, tín dụng cũng phản ánh một cách tổng hợp và nhạy bén đối với moi biến đổi của nền kinh tế. Thông qua hoạt động thu hút vốn nhàn rôi có thể dánh giá được tình hình tiêu dùng, tiết kiệm và các tiềm năng của nền kinh tế. Mặt khác, thông qua hoạt động cấp vốn có thể đánh giá được khả năng phát triển của các ngành lĩnh vực, sự hợp lý của cơ cấu nền kinh tế qua đó có sự điều chỉnh cơ cấu đầu tư cho hợp lý. Do đó, tín dụng được coi là công cụ quan trọng để Nhà nước kiểm soát và thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế. 3.2. Các hình thức tín dụng Ngân hàng hiện nay. Theo quyết định số 1627/ 2001/ QĐ- NHNN ngày 31/ 12/ 2001 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng có các hinh thức tín dụng sau đây. a. Cho vay từng lần. Hình thức này áp dụng đối với những khách hàng có nhu cầu và đề nghị vay vốn từng lần, khách hàng có nhu cầu vay vốn không thường xuyên hoặc khách hàng mà Ngân hàng xét thấy cần thiết phải áp dụng cho vay từng lần để giảm sát, kiểm tra, quản lý việc sử dụng vốn ấy chặt chẽ, an toàn. Mỗi lần vay vốn khách hàng mà Ngân hàng phải làm thủ tục vay vốn cần thiết và ký hợp đồng tín dụng. Mỗi hợp đồng tín dụng có thể phát triển vay một lần hay nhiều lần phù hợp với tiến độ và yêu cầu sử dụng vốn thực tế của khách hàng. Mỗi lần nhận tiền vay khách hàng phải lập giấy nhận nợ. Ngân hàng cho vay phải quản lý chặt chẽ doanh số cho vay, đảm bảo tổng số tiền trên các giấy nhận nợ không được vượt quá số tiền đã ký trong hợp đồng tín dụng. b. Cho vay theo hạn mức tín dụng. Theo hình thức này, Ngân hàng và khách hàng ký hợp đồng tín dụng thoả thuận hạn mức tín dụng duy trì trong một thời gian xác định hoặc theo chu kỳ sản xuất kinh doanh. Như vậy khách hàng được rút vốn trong hạn mức tín dụng cho phép, căn cứ vào nhu cầu của phương án sản xuất kinh doanh. Một số trường hợp Nhà nước quy định hạn mức cuối kỳ. Dù nợ trong kỳ có thể lớn hơn hạn mức, tuy nhiên, đến cuối kỳ, khach shàng phải trả nợ để giảm dư nợ sao cho dư nợ cuối kỳ không được vượt quá hạn mức. Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiên vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Sau khi kiểm tra tính chất hợp pháp là hợp lệ của chứng từ, Ngân hàng sẽ phát triển cho khách hàng. Đây là hình thức vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. c. Cho vay theo dự án đầu tư: Ngân hàng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ và các dự án phục vụ đời sống có khả thi. Hình thức này cho các trường hợp vay vốn trung, dài hạn. d. Cho vay hợp vốn. Theo phương thức này một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án hoặc theo phương án vay vốn của khách hàng trong đó có một tổ chức tín dụng làm đấu mối dàn xếp phối hợp với cac tổ chức tín dụng khác. Cho vay vốn thường áp dụng đối với các dự án có nhu cầu vốn rất lớn, vượt quá khả n ăng của một Ngân hàng hoặc có phạm vi quy mô rộng mà một Ngân hàng khó có thể kiểm soát nổi. Hình thức này một mặt giúp cho Ngân hàng phân tán rủi ro, mặt khác bổ sung kinh nghiệm kiến thức cho nhau, làm phong phú thêm hoạt động nghiệp vụ của Ngân hàng. e. Cho vay trả góp. Cho vay trả góp là hình thức tín dụng, theo đó Ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã htoả thuận cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc khách hàng lâu bền. Số tiền trả nợ mỗi lần được tính toán cho phù hợp với khả năng trả nợ của khách hàng và cho vay trả góp thường có rủi ro do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hoá trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Nếu người vay mất việc, ốm đau, thu nhập giảm sút thì khả năng thu nợ của khách hàng cũng bị ảnh hưởng. f. Cho vay theo hạn tín dụng dự phòng. Theo hình thức này, căn cứ vào nhu cầu của khách hàng, Ngân hàng và khách hàng thoả thuận trong hợp đồng tín dụng: hạn mức tín dụng dự phòng, thời hạn hiệu lực tín dụng dự phòng. Trong thời hạn hiệu lực củahợp đồng, nếu khách hàng không sử dụng hoặc sử dụng không hết hạn mức của tín dụng, khách hàng phải trả phí cam kết theo thoả thuận đã ký trong hợp đồng, khi khách hàng vay chính thức phần vốn vay được tính theo lãi suất tiền vay hiện hành. g. Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành sử dụng thẻ tín dụng. Theo hình thức này Ngân hàng cho phép khách hàng sử dụng vốn vay trong phạm vi hạn mức để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động. Hình thức này mang lại cho khách hàng tính tự chủ cao và tiết kiệm thời gian. h. Cho vay theo hạn mức thấu chi. Theo hình thức này, Ngân hàng cho phép khách hàng được chi vượt trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong một khoảng tín dụng xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Cho vay thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản phần lớn là không có bảo đảm vì vậy hình thứ này chỉ áp dụng đối với những khách hàng có độ tin cậy cao thu nhập đều đặn. Ngoài các hình thức tín dụng kể trên, Ngân hàng còn có thể áp dụng các hình thức cấp tín dụng khác phù hợp với nhu cầu của khách hàng và tăng tính cạnh tranh trên thị trường. 4. Nguyên tắc tín dụng ngân hàng. Hoạt động tín dụng của NHTM dựa trên một số nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời. Các nguyên tắc này được cụ thể hoá trong các quy định của NHNN và các NHTM. 4.1. Nguyến tắc1: Khách hàng phải cam kết hoàn trả cả vốn và lãi cho Ngân hàng sau một thời gian nhất định. Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu, là điều kiện để Ngân hàng tồn tại và phát triển, phản ánh đúng bản chất của quan hệ tín dụng. Quan hệ tín dụng sẽ bị phá vỡ nếu khách hàng không thực hiện đầy đủ nguyên tắc trên. Điều này gây được rủi ro thanh toán cho Ngân hàng vì các khoản tín dụng chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền gửi cuả khách hàng và các khoản ngân hàng vay mượn. Ngân hàng phải có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi như đã cam kết. Do vậy, ngân hàng yêu cầu người nhận tín dụng phải thực hiện đúng cam kết này. 4.2. Nguyên tắc2: Khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo đúng mục đích đã thoả thuận với Ngân hàng, không trái với các qui định của pháp luật và các quy định khác của Ngân hàng cấp trên. Pháp luật quy định phạm vi hoạt động cho các Ngân hàng, bên cạnh đó mỗi Ngân hàng có thể có mục đích và phạm vi hoạt động riêng. Mục đích tài trợ được ghi trong hợp đồng tín dụng đảm bảo ngân hàng không tài trợ hco các hoạt động trái pháp luật và việc tài trợ đó là phù hợp với cương lĩnh của ngân hàng. Việc khách hàng thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng là một trong những yếu tố đảm bảo khả năng thu nợ của Ngân hàng. Vì thế ngân hàng phải tiến hành đúng thẩm địn trước, trong và sau khi co vay, Nếu phát hiện khách hàng vi phạm nguyên tắc này ngân hàng có quyền thu nợ trước hạn. 4.3. Nguyên tắc3: Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án có hiệu quả. Thực hiện nguyên tắc này là điều kiện để thực hiện nguyên tắc1. Phương án hoạt động có hiệu quả của người vay chứng minh khả năng thu hồi được vốn đầu tư và có lãi để trả nợ Ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường, các hoạt động kinh tế diễn ra hết sức đa dạng, phức tạp. Vì thế tài trợ của ngân hàng phải gắn liền với việc hình thành tài sản của người vay. Trong trường hợp xét thấy kém an toàn, hoạt động đòi hỏi người vay phải có tài sản đảm bảo khi vay nhằm bổ sung những mặt hạn chế của CBTD cũng như phòng ngừa những diễn biến không thuận lợi của môi trường kinh doanh. 5. Vai trò tín dụng của Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. 5.1. Tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp để duy trì và mở rộng quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Là trung gian điều hoà lượng cung cấp về vốn cho nền kinh tế, tín dụng ngân hàng làm nhiệm vụ dẫn đường cho nguồn vốn chảy từ nơi thừa vốn tới nơi thiếu vốn. Vì trong hoạt động kinh doanh tại một thời điểm luôn phát sinh hai loại nhu cầu: cho vay vốn để hưởng lợi và nhu cầu vay vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh là điều tất yếu. Cả hai nhu cầu này là ngược nhau nhưng có cùng mục tiêu an toàn, sinh lời và đều là tạm thời. Nếu được thoả mãn thì cả hai bên cùng có lợi. Tín dụng ngân hàng đã thực hiện chức năng huy động vốn tập trung vốn tạm thời nhàn rỗi để đưa vào sử dụng theo nguyên tắc hoàn trả cả vốn lẫn lãi trong một khoảng thời gian nhất định với tốc độ nhanh và hiệu quả hơn, thoả mãn nhu cầu vốn tạm thời, bổ sung cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 5.2. Tín dụng ngân hàng là công cụ đắc lực cho ngành kinh tế kém phát triển và những ngành kinh tế mũi nhọn. Bằng việc sử dụng lãi suất ưu đãi đối với những ngành kinh tế mũi nhọn cũng như những ngành kinh tế kém phát triển nhưng cần thiết cho quốc kế dân sinh, tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy những ngành kinh tế này phát triển. Mặt khác với đặc trưng hoàn trả cả vốn lẫn lãi để thể hiện sự ưu việt hơn của tín dụng ngân hàng so với việc ngân sách đầu tư vào lĩnh vực đó. Vì khi được cấp vốn Ngân sách người sử dụng ít quan tâm đến việc sử dụng vốn một cách có hiệu quả bởi nguồn vốn này được cấp phát mà không phải hoàn trả. 5.3. Tín dụng ngân hàng có vai trò quyết định đến sự ổn định của lưu thông tiền tệ. Trong nền kinh tế thị trường việc chú trọng đến phát triển lưu thông hàng hoá phải luôn gắn với việc ổn định lưu thông tiền tệ. Do tính ưu việt của mình tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng quyết định đến sự ổn định của lưu thông tiền tệ. Trước hết Ngân hàng là kênh quan trọng để đưa tiền vào lưu thông, có khả năng kiểm soát được khối lượng tiền sao cho phù hợp với lưu thông hàng hoá. Nếu tín dụng ngân hàng được thực hiện một cách có hiệu quả sẽ đảm bảo khối lượng tiền cung ứng phù hợp. Vì khi cho vay ngân hàng đã đưa tiền vào lưu thông. Mặt khác cùng với chức năng tạo tiền, các ngân hàng thương mại có khả năng mở rộng tiền gửi làm tăng khối lượng tiền trong lưu thông. Vì vậy ngân hàng trung ương phải sử dụng công cụ chính sách tiền tệ để thực hiện điều tiết hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại như: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu, hạn mức tín dụng... từ đó có thể quản lý được lượng tiền mặt trong lưu thông nhằm đạt mục tiêu mong muốn. 5.4. Tín dụng ngân hàng có vai trò kiểm soát nền kinh tế. Xuất phát từ chức năng phân phối vốn tiền tệ, tín dụng ngân hàng có thể kiểm soát được hoạt động kinh tế trong quá trình huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi để cho vay. Thông qua việc huy động vốn của các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư trong xã hội và việc tổ chức thanh toán khách hàng, Ngân hàng có thể đánh giá tình hình tiêu thụ sản phẩm, tình hình sản xuất cũng như khả năng chi trả của khách hàng thông qua biến động số dư trong tài khoản. Trong quá trình cho vay, ngân hàng luôn phải đề phòng nguy cơ rủi ro có thể xảy ra, phải thường xuyên phân tích khả năng tài chính của ngân hàng, giám sát kiểm tra hoạt động sản xuất kinh doanh của họ có thể điều chỉnh, tác động kịp thời khi cần thiết. Từ đó, Ngân hàng có khả năng tập hợp được tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đồng thời góp những ý kiến để điều chỉnh khi có sự mất cân đối trong cơ cấu kinh tế. 5.5. Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại. Hiện nay, với xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế của một quốc gia luôn gắn liền với nền kinh tế thế giới. Đầu tư vốn ra nước ngoài và hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá đã và đang là hai lĩnh vực hợp tác kinh tế thông dụng giữa các nước. Vốn là yếu tố quyết định đầu tiên cho sự hợp tác này. Trong nền kinh tế hội nhập hiện nay thì các đơn vị không thể chỉ vay vốn từ các tổ chức tín dụng trong nước mà có thể vay vốn từ các tổ chức quốc tế. Chúng ta đã và đang tham gia vào các tổ chức tài chính quốc tế như WB, IFM... và các thị trường tài chính lớn trên thế giới cũng như các đại lý Ngân hàng tại các nước khác nhau trên thế giới. Tín dụng ngân hàng đã trở thành một phương tiện nối liền các nền kinh tế trên thế giới lại với nhau. Như vậy đối với những nước đang thì tín dụng ngân hàng là công cụ mở đường góp phần mở rộng xuất nhập khẩu hàng hoá, đồng thời cũng nhờ các nguồn tín dụng bên ngoài đầu tư phát triển các thành phần kinh tế trong nước. 5.6. Tín dụng ngân hàng đóng vai trò quyết định trong hoạt động NH. Tín dụng ngân hàng đóng vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của một Ngân hàng thương mại. Bởi vì đối với Ngân hàng thương mại hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu nhất, nó chiếm bộ phận lớn trong tổng số tài sản có của ngân hàng. Đây là nghiệp vụ mang lại nhiều lợi nhuận nhất (Việt Nam là 60-70%, ở các nước khác là 30-35%). Tuy nhiên, tín dụng là nghiệp vụ có nhiều rủi ro nhất trong hoạt động của ngân hàng. Tóm lại tín dụng ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế và đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại nên việc mở rộng quy mô tín dụng là hết sức cần thiết. Để phát huy vai trò đó, các nước trên thế giới đã sử dụng tín dụng ngân hàng như là một công cụ đắc lực để thúc đẩy phát triển nền kinh tế xã hội. II. Tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng. 1 Khái niệm. Tín dụng trung, dài hạn là một bộ phận của tín dụng Ngân hàng phân theo thời gian. Tín dụng trung, dài hạn là những khản cho vay có thời gian lớn hơn 1 năm dùng để đáp ứng nhu cầu thay đổi máy móc, thiết bị, công nghệ, xây dụng cơ sơ hạ tầng…và thời gian cho vay không vượt quá thời gian khấu hao của tài sản hình thành từ vốn vay. Tuỳ theo mỗi nưới, quy định về thời gian của tín dụng trung, dài hạn cùng khác nhau. ở Việt nam khoản vay có thời gian từ 1-5 năm là tín dụng trung hạn, tín dụng dài hạn có thời gian từ 5 năm trở lện. Đặc điểm tín dụng trung, dài hạn - Rủi ro lớn. Nền kinh tế luôn luôn biến động mà bất kỳ biến động nào, dù nhỏ cũng ảnh hưởng đến hoạt động Ngân hàng nhất là hoạt động tín dụng. Những hoạt động xảy ra có thể là tốt hay xấu đều rất khó lường trước được, mặc dù bản thân tài sản có thể dùng để đảm bảo những giá trị củanó có chiều hướng thuyên giảm hàng năm. Do đó, với thời hạn dài, tín dụng trung, dài hạn thường tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao do khó có thể biết trước được các thay đổi trong nền kinh tế. - Lãi suất cao Do các khoản tín dụng trung, dài hạn có rủi ro lớn nên để bù đắp cho nguy cơ rủi ro cao mà Ngân hàng phải chịu thì lãi suất tín dụng trung, dài hạn cũng phải cao hơn so với lãi suất của khoản vay ngắn hạn. Bên cạnh đó nguồn vốn sử dụng cho tín dụng trung, dài hạn lại đắt và khan hiếm, dẫn đến giá cả đầu ra cũng phải tương ứng với chi phí đầu vào. - Mục đích của tín dụng trung, dài hạn Để phục vụ đầu tư mở rộng sản xuất, mua sắm máy móc, thiết bị TSCĐ, xây dụng cơ sở hạ tầng…những tài sản này có thời gian sử dụng dài hạn thời gian hoàn thành lâu, thời gian thu hồi vốn dài. Do đó chúng ta chưa thấy ngay được hiệu quả sử dụng của khoản vay, việc quản lý khoản tiền úng trước gặp khó khăn hơn . 2. Phân loại. 2.1. Tín dụng theo các dự án. Tín dụng theo dự án là hình thức mà Ngân hàng cấp cho khoản hàng dựa trên cơ sở dự án đầu tư, sau khi đã thẩm định, khẳng định tính hiệu quả tính khả thi của dự án. Vì vậy muốn được vay vốn trung, dài hạn, người vay phải xây dụng dự án đầu tư, thể hiện mục đích, kế hoạch đầu tư cững như quá trình thực hiện dự án một cách chi tiết tạo điều kiện cho Ngân hàng có thể thẩm định và quyết định phần vốn cho vay và xác định khả năng hoàn trả của doanh nghiệp. Mặt khác, mục tiêu của dự án đầu tư phải nằm trong chương trình phát triển chung của kinh tế địa phương, của cả nước và được coả quản có thẩm quyền thẩm định và cho phép đầu tư . 2.2. Tín dụng thuê mua. Đây là hình thức tín dụng trung, dài hạn. ngân hàng mua tài sản cho khách hàng thuê với thời hạn sao cho Ngân hàng phải thu gần đủ giá trị của tài sản cho thuê cộng lãi, hết thời hạn thuê, khách hàng có thể mua lại tài sản đó với giá ưu đãi. 2.3. Tín dụng uỷ thác. Là sự thoả thuận bằng văn bản giữa bên uỷ thác cho vay và bên nhận uỷ thác cho vay, trong đó bên nhận uỷ thác nhân danh mình thực hiện công việc uỷ thác trong hợp đồng để được hưởng phí uỷ thác . 2.4. Đồng tài trợ. Nhóm một số TCTD cùng cho vay đối với một sự án đầu tử của một khách hàng, trong đó có một TCTD đứng ra làm đầu mối dàn xếp, phối hợp các TCTD khác. Hình thức này áp dụng khi nhu cầu về vốn vượt quá khả năng đáp ứng của một TCTD. 2.5. Tín dụng luân chuyển. Là hình thức tín dụng dài hạn khi thời hạn hợp đồng kéo dài từ 1 đến vài năm. Trong thời hạn này, người vay được rút tiền khi cần và trả nợ khi có nguồn thu nhập trong thời hạn hợp đồng có hiệu lực . 3. Vai trò của tín dụng trung, dài hạn. 3.1. Vai trò đối với ngân hàng. * Tín dụng trung, dài hạn luôn đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Hoạt động chủ yếu của NHTM là việc thu hút vốn để mở rộng cho vay và đầu tư nhằm thu lợi nhuận. Việc sử dụng vốn có hiệu quả hay không quyết định đến sự thành bài trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Một trong các chiến lược kinh doanh quan trọng của ngân hàng lầ chiến lược tín dụng trong và dài hạn. Tín dụng trung, dài hạn thười có rủi ro cao hơn và đồng thời cũng hứa hẹn đem lại lợi nhuận cao hơn nên các ngân hàng thường phải chú trọng đặc biệt đến hình thức tín dụng này. Tín dụng trung, dài hạn tạo điều kiện cho tín dụng ngắn hạn phát triển. Các dụng án đầu tư sẽ không thực hiện và trả nên vô nghĩa thiết bị công nghệ đã lạc hậu. Không được cải tiến. Đổi mới cho phù hợp. Một khi đã cón nền tảng cho sự phát triển từ các khkoản đầu tư trung và dài hạn các doanh nghiệp mới yên tâm sử dụng các khoản vay ngắn hạn để sản xuất kinh doanh. Nhờ vậy mà ngân hàng mới có điều kiện phát triển tín dụng ngắn hạn. 3.2. Vai trò đối với nền kinh tế. * Tín dụng trung và dài hạn góp phần quan trọng vào nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp. Tín dụng trung và dài hạn được sử dụng cho việc mua sắm nhà xưởng, máy móc thiết bị của các doanh nghiệp để cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm hoặc để chiếm lĩnh thị trường mới. Khi có cơ hội kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải mở rộng sản xuất, gia tăng lượng sản phẩm để chiếm lĩnh thị trường, khi không còn cơ hội đó, vốn lại được trả về ngân hàng. Đó chính là ưu thế của vốn vay trung và dài hạn thông qua ngân hàng, nó linh hoạt hơn cả hình thức huy động vốn dài hạn khác như cổ phiếu, trái phiếu do tránh được các chi phí phát hành, lệ phí bảo hiểm, đăng ký chứng khoán. Trong điều kiện nước ta hiện nay nhu cầu vốn trung và hài hạn phục vụ đầu tư phát triển rất lớn. Nhu cầu này được thoả mãn một phần bằng nguồn vốn ngân sách cấp phát, vay nước ngoài và một phần huy động từ dân cư. Nhưng do nguồn vốn xuất phát từ đầu, việc cung cấp tín dụng thông qua NHTM, đặc biệt là NHTM quốc doanh dưới hình thức cho vay trung, dài hạn đóng vai trò rất quan trọng. * Tạo điều kiện mở rộng qui mô, phát triển sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Sở dĩ như vậy là do nó phù hợp với điều kiện thực tế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường rất cần vốn trung, dài hạn để có thể phát triển sản xuất kinh doanh. Do không có được những ưu thế về qui mô và vốn tự có như các doanh nghiệp lớn nên họ thường gặp khó khăn hơn trong việc tiếp cận thị trường vốn. Vì vậy, họ khó có thể đầu tư vào những sự án lớn mà không dựa vào sự tài trợ của ngân hàng. Nhiều ngân hàng thương mại ở nước ta hiện nay đang có những chính sách ưu đãi trong việc cho vay đối với những doanh nghiệp loại này. * Tín dụng trung, dài hạn cung ứng vốn giúp phát triển tiềm năng, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp. Vì ngân hàng không cho vay đối với nhưng doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả và các dự án kém tính khả thi nên bắt buộc người vay phải tìm mọi cách cải thiện tình hình kinh doanh, đưa ra những dự án có tính khả thi cao mới có thể tiếp cận được nguồn vốn của NHTM. Người đi vay sẽ phải sử dụng vốn vay một cách tiết kiệm, hiệu quả nhất để có thể trả được nợ ngân hàng và tái sản xuất mở rộng. Ngoài ra tín dụng trung và dài hạn còn đóng vai trò là một trong những yếu tố nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh góp phần khẳng định tính khả thi của dự án, khi ngân hàng quyết định tham gia đầu tư, có nghĩa là những dự án đã được ngân hàng tìm hiểu, để thuyết phục ngân hàng cho vay. Vì vậy, ngay từ khi lập dự án tiền khả thi ngân hàng đã đóng vai trò như một nhà tư vấn trợ giúp doanh nghiệp. * Tín dụng trung, dài hạn góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tín dụng trung, dài hạn thông qua huy động và cho vay có định hướng đóng vai trò rất lớn trong việc chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và phát triển theo các ngành kinh tế mũi nhọn. 3.3.Vai trò đối với khách hàng. Thứ nhất: Chất lượng tín dụng trung, dài hạn tạo lòng tin đối với khách hàng. Trong điều kiện nền kinh tế mở, khách hàng có quyền lựa chọn ngân hàng làm đối tác. Điều này cũng có nghĩa là khách hàng chỉ đến với ngân hàng nào mà ngân hàng đó tạo điều kiện và giúp đỡ họ thực hiện có hiệu quả hoạt động của họ thông qua quan hệ tín dụng, dịch vụ s._.o với các ngân hàng khác. Và điều này cũng có tác dụng tích cực trở lại đối với ngân hàng trong việc mở rộng khách hàng, thu hút nguồn vốn và mở rộng tín dụng và dịch vụ. Thứ hai: Chất lượng tín dụng trung, dài hạn góp phần phát triển sản xuất kinh doanh và làm mạnh tài chính của khách hàng. Chất lượng tín dụng trung, dài hạn được đảm bảo cũng có nghĩa là ngân hàng phát triển và nhờ vậy, ngân hàng có điều kiện cung ứng vốn tín dụng đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh của khách hàng. Mặt khác, để đảm bảo chất lượng tín dụng thì ngân hàng phải giúp đỡ tiến hành kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng vốn tín dụng của khách hàng qua đó cùng với khách hàng uốn nắn và chấn chỉnh những thiếu sót trong những hoạt động tài chính của họ. Với những ưu thế trên, việc củng cố và tăng cường chất lượng tín dụng trung, dài hạn là sự cần thiết khách quan vì sự tồn tại và phát triển lâu dài của ngân hàng thương mại. 4. Ưu nhược điểm của tín dụng trung, dài hạn. 4.1. Về phía doanh nghiệp. Một doanh nghiệp muốn mở rộng sản xuất kinh doanh bằng chính vốn chủ sở hữu cần phải có thời gian tương đối dài để tích luỹ vốn đủ lớn. Nhưng nếu doanh nghiệp sử dụng tín dụng trung, dài hạn từ Ngân hàng, họ sẽ rút ngắn được thời gian, nghĩa là có thể đi trước một bước bởi thời gian là yếu tố rất quan trọng để doanh nghiệp giành ưu thế trong cạnh tranh. Đồng thời bằng việc điều chỉnh các nguồn vốn, Ngân hàng có thể thoả mãn nhu cầu khác nhau về thời gian cho mọi doanh nghiệp trên các lĩnh vực sản xuất. Khả năng thanh toán món vay của doanh nghiệp cũng tăng vì: Một là, Khả năng trả nợ món vay trung dài hạn đã được tính toán kĩ lưỡng trong quá trình lập và thẩm định dự án. Vì vậy, doanh nghiệp có thể chủ động trong việc hoàn trả nợ vay. Hai là, Theo Mác thì lợi tức Ngân hàng là “một bộ phận có giá trị thặng dư sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh”. Vì thế, để có lãi, doanh nghiệp buộc phải tạo ra mức lợi nhuận lớn hơn mức lãi suất phải trả cho khoản vay từ Ngân hàng. Ba là: Khi dự án hoạt động, doanh nghiệp chịu sự giám sát thường xuyên của Ngân hàng, do đó hoạt động luôn thấy rõ trách nhiệm, nâng cao ý thức về việc trả nợ của mình. Mặt khác, nguyên tắc cơ bản trong hoạt động Ngân hàng là sinh lợi trên cơ sở bảo toàn vốn. Vì vậy, bên cạnh việc cung cấp nguồn vốn tập trung, nhanh chóng giúp giảm thời gian và chi phí, Ngân hàng còn đảm nhận trách nhiệm tư vấn, cung cấp thông tin, giúp hoàn thiện dự án đầu tư, giúp nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp thông qua nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Các doanh nghiệp còn ưa thích tín dụng trung, dài hạn hơn việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu bởi nó không đòi hỏi chi phí đăng kiểm, phát hành tốn kém và sự công khai tình hình tài chính trước công chúng. Khi họ gặp khó khăn trong thanh toán, họ có thể thương lượng với Ngân hàng gia hạn nợ và hai bên cùng phân tích tình hình, tìm cách khắc phục khó khăn. Bằng cách này, doanh nghiệp có thể đảm bảo được hoạt động bình thường và giữ được uy tín trên thị trường. Hơn nữa, việc doanh nghiệp cần vốn có thể chỉ là trong thời gian ngắn nhằm đối phó với những khó khăn nhất thời, khi hoạt động trở lại ổn định, phát đạt, các hình thức như phát hành cổ phiếu, trái phiếu ưuđãi vè lâu dài sẽ dẫn đến sự phân tán quyền lợi kiểm soát doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp phải chia lợi nhuận thu được với các cổ đông. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi trên, để nhận được tín dụng trung, dài hạn, doanh nghiệp phải thoả mãn các điều kiện cho vay. Các tiêu chuẩn này do Ngân hàng đưa ra nhằm đánh giá toàn diện khách hàng về các mặt như: tư cách pháp lý, năng lực kinh doanh, ý thức chấp hành hợp đồng, triển vọng phát triển, hiệu quả của dự án...Do xu thế phát triển, nhìn chung các tiêu chuẩn Ngân hàng đưa ra ngày càng khắt khe và chi tiết trên các doanh nghiệp gặp khó khăn hơn trong việc vay vốn. 4.2. Về phía Ngân hàng. Đối với các nhà quản lý Ngân hàng, tín dụng trung, dài hạn giúp họ dự báo tương đối chính xác các luồng tiền trả gốc lẫn lãi bởi chúng đã được tính toán kĩ lưỡng và khoa học. Với một dự án tốt, Ngân hàng sẽ thu được nguồn lợi tương đối cao và ổn định trong thời gian dài. Nhược điểm của tín dụng trung, dài hạn là tính linh hoạt, thanh khoản kém, vòng quay vốn dài. Trong khoảng thời gian hoạt động dài, rất nhiều sự kiện có khả năng xảy ra gây tác động tiêu cực tới dự án, dễ dẫn tới rủi ro cho Ngân hàng. Điều đó có nghĩa là rủi ro tiềm ẩn của tín dụng trung, dài hạn là rất lớn. Muốn hạn chế nó, Ngân hàng cần tăng cường nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn thông qua hoạt động kiểm tra, kiểm soát trước, trong và sau khi vay. Bên cạnh đó nguồn vốn để tài trợ tín dụng trung dài hạn lại đắt và khan hiếm cũng gây khó khăn cho hoạt động Ngân hàng. 5.Các vấn đề cơ bản của tín dụng trung, dài hạn. 5.1.Nguồn cho vay trung và dài hạn. - Vốn tự có và các quỹ của Ngân hàng. - Vốn huy động trong nước và nước ngoài từ 1 năm trở lên: Bằng cách phát hành kỳ phiếu dài hạn hoặc huy động tiền gửi định kỳ dài hạn. - Một phần vốn huy động trong nước có thời hạn dưới 1 năm: Trên cơ sở quy định của thống đốc NHNN, mức độ trích phụ thuộc vào tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng trong từng thời kỳ. - Vốn uỷ thác và vốn tài trợ để cho vay theo chương trình hoặc dự án đầu tư của Nhà nước, của các tổ chức kinh tế xã hội ở trong và ngoài nước. 5.2.Đối tượng cho vay trung và dài hạn. Đó là các chi phí cấu thành trong tổng mức đầu tư của dự án đầu tư xây dựng mới, mở rộng, cải tạo, khôi phục,đổi mới kỹ thuật, ứng dụng khoa học công nghệ, bao gồm: giá trị vật tư, máy móc, thiết bị, công nghệ chuyển giao, sáng chế và phát minh, chi phí nhân công, giá thuê và chuyển nhượng đất đai, giá thuê mua các tài sản khác trong khuôn khổ luật định, chi phí mua bảo hiểm tài sản thuộc dự án đầu tư và các chi phí khác. Mức cho vay đối với một dự án đầu tư bằng tổng mức vốn đầu tư của dự án trừ đi vốn tự có đầu tư cho dự án của bên vay, nhưng tối đa bằng 70% giá trị tài sản thế chấp, cầm cố. 5.3.Thời hạn cho vay trung và dài hạn. Thời hạn cho vay là thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận tiền vay cho đến khi bắt đầu trả nợ gốc và lãi tiền vay đã được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng và khách hàng. Thời hạn cho vay trung hạn từ 12 tháng tới 60 tháng. Thời hạn cho vay dài hạn trên 60 tháng nhưng không quá thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập của giấy phép kinh doanh đối với pháp nhân, không quá 15 năm đối với cho vay các dự án phục vụ đời sống. 5.4.Các hình thức tín dụng. Ngày nay, về mặt hình thức, tín dụng trung và dài hạn không chỉ đơn thuần là việc phát tiền vay với thời hạn trên 1 năm mà nó ẩn dưới rất nhiều hình thức, trong đó có thể kể ra các hình thức phổ biến sau. - Cho vay theo kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản của doanh nghiệp: là loại cho vay được thực hiện theo phương pháp cho vay thông thường dựa trên cơ sở nhu cầu vốn vay của từng công trình, hạng mục công trình được xác định trong kế hoặch đầu tư xây dựng cơ bản của mỗi doanh nghiệp. - Cho vay theo dự án: Là một phương pháp cho vay dựa trên một văn bản hoàn chỉnh về vay vốn và trả nợ được nghiên cứu soạn thảo, xét duyệt, ký kết giữa người đi vay và Ngân hàng, đồng thời dựa trên các căn cứ khoa học kỹ thuật phù hợp với đường lối phát triển kinh tế của Nhà nước. - Tín dụng tuần hoàn: Là phương thức cho vay dựa vào chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó được coi là tín dụng trung và dài hạn khi thời hạn của hợp đồng được kéo dài trên một năm và khi đó người vay có thể rút tiền ra bất cứ khi nào miễn là phải cam kết trả nợ ngay khi có nguồn thu trong thời gian hợp đồng có hiệu lực. - Tín dụng thuê mua: Là một trong những hình thức tài trợ vốn trung và dài hạn nhưng bằng tài sản thay vì bằng tiền thông qua một hợp đồng tín dụng thuê mua. Bên cho vay lấy một hợp đồng tín dụng để mua lại tài sản cố định và giữ quyền sở hữu. Bên vay ký một hơp đồng thuê mua tài sản và trả góp giá trị tài sản cả gốc và lãi cho đến khi hết giá trị tài sản hoặc là cho đến khi hết thời hạn hợp đồng. Tài sản sau khi cho thuê thì có thể được bán lại cho bên đi thuê. 5.5.Điều kiện vay vốn. Theo tinh thần của luật Ngân hàng thì tất cả những khách hàng thoả mãn đồng thời các điều kiện sau đây đều được tiến hành cho vay: - có tư cách pháp nhân,thể nhân đầy đủ. - Có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh khả thi, có hiệu quả. -Có vật tư hay hàng hoá tương đương tài sản thế chấp đảm bảo tiền vay hoặc bảo lãnh của người thứ ba theo quy chế thế chấp, cầm cố và bảo lãnh của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. - Có kế hoạch trả gốc và lãi Ngân hàng . - Sử dụng tiền vay đúng mục đích. 5.6.Quy trình thẩm định dự án đầu tư. - Thu thập tài liệu, thông tin cần thiết cho việc đánh giá phân tích. - Xử lý thông tin, đánh giá, phân tích. - Nội dung thẩm định dự án đầu tư: + Thẩm định tư cách pháp nhân vay vốn. + Phân tích tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh, tài chính của doanh nghiệp trong những năm gần đây (ít nhất là 2 năm). * Phân tích tình hình tài chính. * Thẩm định sự cần thiết phải đầu tư. * Thẩm định về phương diện kỹ thuật (quy mô, mặt công nghệ và trang thiết bị, về phương diện tổ chức, quản lý vận hành của dự án). * Thẩm định tính khả thi của dự án về nội dung kinh tế tài chính (NPV và IRR). + Lập tờ trình kết quả thẩm định dự án đầu tư. III. Quy mô và chất lượng tín dụng trung, dài hạn. 1. Quan niệm về quy mô tín dụng trung, dài hạn. Quy mô tín dụng trung, dài hạn là tổng khối lượng cho vay của Ngân hàng. Mở rộng tín dụng là tăng khối lượng tín dụng. Khối lượng tín dụng được biểu hiện ở hai mặt: - Mở rộng về mặt tuyệt đối, biểu hiện số dư tuyệt đối của khoản mục trong nghiệp vụ tài sản và một phần dịch vụ ngoại bảng. - Mở rộng về mặt tương đối, biểu hiện ở tỷ trọng số dư tuyệt đối của khoản mục trong tổng số các khoản mục cho vay và đầu tư trong và ngoài bảng cân đối kế toán. Có hai hình thức mở rộng tín dụng trung dài hạn. - Mở rộng tuyệt đối là tăng số dư của khoản mục này trong và ngoài bảng tổng kết tài sản so với kỳ trước, điều đó đòi hỏi phải tăng số lượng các công trình đầu tư, tăng doanh số cấp tín dụng cao hơn tăng doanh số thu hồi tín dụng. - Mở rộng tương đối là tỷ trọng số dư cho vay trung dài hạn trong tổng số dư nợ của Ngân hàng. Việc tăng tỷ trọng tín dụng trung, dài hạn làm thay đổi cơ cấu hoạt động tín dụng của NHTM theo hướng chú trọng cho cac dự án trung dài hạn. 2. Quan niệm về chất lượng tín dụng trung, dài hạn. Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh mức độ thích nghi của Ngân hàng đối với sự phát triển của môi trường bên ngoài, thể hiện sức mạnh của ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại. Như vậy, đây là một phạm trù rất rộng lớn. Quan niệm về chất lượng tín dụng vừa mang tiníh chất định tính cụ thể bằng các số liệu tính toán được, vừa mang tính chất định lượng trừu tượng thể hiện qua khả năng thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh tế...Để có được chất lượng tín dụng thì hoạt động tín dụng phải có hiệu quả và quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở uy tín và sự tin cậy trong hoạt động. Có nghĩa là, chất lượng tín dụng tỷ lệ thuận với tính hiệu quả của hoạt động tín dụng. Chất lượng tín dụng ngắn hạn lại có những điểm khác biệt so với tín dụng trung, dài hạn. Do mục đích sử dụng khác nhau nên tín dụng trung, dài hạn chủ yếu phục vụ cho nhu cầu phát triển chiều sâu, tín dụng ngắn hạn chỉ đáp ứng cho nhu cầu thanh toán trước mắt hay bổ sung vố lưu động. Vì thế, tác động của hai loại hình tín dụng này đến doanh nghiệp và ngân hàng là khác nhau, một bên có thể đem lại lợi nhuận trước mắt, một bên phục vụ lợi ích lâu dài như các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng, nâng cao dân trí, cải tạo môi trường ... Do đó, khi xem xét đánh giá một khoản tín dụng là tốt hay xấu ta nên có một cái nhìn bao quát, toàn diện vấn đề. Phần sau em xin đưa ra một hệ thống chỉ tiêu để cố gắng có mọt sự phân tích, nhìn nhận một cách khách quan, toàn diện về chất lượng tín dụng trung, dài hạn nói chung cũng như chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Tây Hồ-Hà Nội nói riêng. Bên cạnh đó, em cũng xin mạnh dạn đề nghị một số giải pháp nhằm khắc phục những nhược điểm và nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh. 3. Sự cần thiết phải mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn. Như chúng ta đã phân tích ở trên, có thể thấy tín dụng trung, dài hạn có tầm quan trọng to lớn không chỉ đối với Ngân hàng, doanh nghiệp mà nó còn rất cần thiết đối với nền kinh tế nhất là ở những nước đang phát triển như Việt Nam. Hiện nay, ở hầu hết các NHTM Việt Nam số dư tín dụng trung, dài hạn trong tổng dư nợ tín dụng giữ tỷ trọng kiêm tốn. Hạn chế dó một phần do các ngân hàng còn e dè trong việc cho vay tín dụng trung, dài hạn vì nó chứa đựng rủi ro cao mà công tác huy động vốn sử dụng cho tín dụng trung, dài hạn lại đắt và khan hiếm. Nhưng trong điều kiện đất nước đang thực hiện CNH-HĐH đòi hỏi các ngành, các thành phần kinh tế phải áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến để phát triển sản xuất cả về qui mô và chất lượng, phải đầu tư cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Với sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, để tồn tại và phát triển nhu cầu vốn trung, dài hạn ngày càng cao mà vốn chủ sở hữu tự tích luỹ của doanh nghiệp không đủ đáp ứng được. Muốn có đủ vốn cho hoạt động của mình, các doanh nghiệp phải tìm kiếm vốn bên ngoài, vốn tín dụng ngân hàng là nguồn vốn quan trọng đối với các doanh nghiệp. Vì lợi của ngân hàng, của doanh nghiệp cũng như của nền kinh tế đất nước, các NHTM cần đẩy mạnh mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu vốn của nền kinh tế, hỗ trợ cho các doanh nghiệp phát triển, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời tăng lợi nhuận và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn là nhu cầu bức thiết của doanh nghiệp, ngân hàng cũng như nền kinh tế. Mở rộng tín dụng sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp vay vốn Ngân hàng dễ dàng, thuận tiện hơn, có thể thoả mãn được nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng tín dụng đồng nghĩa với nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư, tái kiểm tra tính khả thi của dự án giúp doanh nghiệp hạn chế rủi ro. Nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn còn góp phần phân bổ nguồn vốn hợp lý, khoa học có sự cân đối giữa các ngành. Mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn chính là quá trình hoàn thiện sản phẩm tín dụng trung, dài hạn, giúp Ngân hàng giảm chi phí hoạt động, đảm bảo và làm gia tăng lợi nhuận, cải thiện tình hình tài chính. Nhờ đó, Ngân hàng có điều kiện mở rộng khả năng cung cấp tín dụng trung, dài hạn cũng như các dịch vụ khác, tạo được hình ảnh, uy tín tốt, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường, tạo mối quan hệ lâu dài với khách hàng. Trong điều kiện hiện nay gay gắt trong hệ thống Ngân hàng hiện nay thì việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn là yêu cầu khách quan và là xu thế phát triển chung của Ngân hàng. 4. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng Ngân hàng: 4.1.Nhóm chỉ tiêu chung đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng - Tổng vốn huy động: Cho biết tổng nguồn tiền Ngân hàng thương mại huy động được trong nền kinh tế. Nguồn này chứng tỏ Ngân hàng hoạt động có uy tín, được người gửi tin tưởng, đồng thời cho thấy Ngân hàng tham gia vào nhiều hình thức huy động vốn và các dịch vụ Ngân hàng. - Tỷ trọng từng loại tiền gửi trên tổng nguồn huy động: Mỗi loại tiền gửi có các mức lãi suất khác nhau. Chỉ tiêu này xác định kết cấu của nguồn vốn huy động để phát hiện mặt mạnh, mặt yếu của Ngân hàng trong kinh doanh. Nếu Ngân hàng có tỷ trọng tiền gửi khong kỳ hạn cao, ngân hàng đó sẽ có nhiều thuận lợi. Ngược lại ngân hàng nào có tỷ lệ tiền gửi với lãi suất cao chiếm tỷ trọng lớn sẽ gặp khó khăn trong việc giải quyết đầu ra của nguồn vốn. - Tổng dư nợ: Cho biết ngân hàng cho vay được nhiều hay ít. Tiền gửi tại các tổ chức tín dụng, cho các tổ chức tín dụng và khách hàng vay nhiều cho thấy ngân hàng sẽ tạo được uy tín đối với khách hàng, cung cấp nhiều dịch vụ đa dạng phong phú, tham gia vào nhiều nhiệm vụ thanh toán. 4.2.Nhóm chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn: Về tín dụng trung, dài hạn áp dụng những chỉ tiêu trên có những chỉ tiêu sau để đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn. Dư nợ tín dụng trung, dài hạn - Chỉ tiêu dư nợ = -------------------------------------- Tổng dư nợ tín dụng Chỉ tiêu này cho thấy biến động tỷ trọng dư nợ tín dụng trung, dài hạn trên tổng dư nợ tín dụng qua từng thời kỳ. Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ mức độ phát triển nghiệp vụ này càng lớn, mối quan hệ Ngân hàng với khách hàng uy tín . Nợ quá hạn tín dụng trung, dài hạn - Chỉ tiêu nợ quá hạn = --------------------------------------------- Tổng dư nợ tín dụng trung, dài hạn Nợ khó đòi trung, dài hạn - Nợ quá hạn khó đòi =------------------------------------------- Tổng dư nợ tín dung trung, dài hạn Lợi nhuận từ tín dụng trung, dài hạn - Chỉ tiêu lợi nhuận = ---------------------------------------------- Tổng dư nợ tín dung trung, dài hạn Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng trung, dài hạn. Lợi nhuận ở đây phản ảnh chênh lệch giữa chi phí đầu vào (lãi suất huy động) và thu lãi đầu ra. Chất lượng tín dụng tốt gồm cả lợi nhuận mà tín dụng đó mang lại cho ngân hàng. Lợi nhuận tín dụng trung, dài hạn ----------------------------------------- Tổng lợi nhuận Chỉ tiêu này thấy rõ vai trò, vị trí của tín dụng trung, dài hạn đối với hoạt động tín dụng Ngân hàng. Chất lượng tín dụng cao thì lợi nhuận thu được càng lớn. Trên đây là những chỉ tiêu chủ yếu để đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng. Tiếp theo đây sẽ xem xét những nhân tố nào tác động đến chất lượng tín dụng ngân hàng. 5. Các nhân tố ảnh hưởng tới quy mô và chất lượng tín dụng trung, dài hạn. 5.1. Nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tín dụng trung, dài hạn. a. Nguồn vốn cho vay trung dài hạn. Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Nguồn vốn của ngân hàng đóng vai trò quan trọng, giúp Ngân hàng chủ động trong hoạt động của mình, ảnh hưởng tới quy mô và chất lượng tín dụng của Ngân hàng đặc biệt là tín dụng trung dài hạn. Ngân hàng huy động nguồn vốn từ các nguồn sau để cho vay trung, dài hạn: - Vốn chủ sở hữu của Ngân hàng. Nguồn vốn này chiếm tỷ trọng không cao trong cơ cấu nguồn vốn trung, dài hạn. - Vốn huy động từ tiền gửi trung dài hạn của dân cư và các tổ chức kinh tế bằng cách phát hành trái phiếu, kỳ phiều có mục đích. Đây là nguồn vốn quan trọng trong huy động từ nội lực nền kinh tế phục vụ cho tín dụng trung, dài hạn. Nguồn vốn nay hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu tín dụng trung, dài hạn nên các Ngân hàng đã cho phép sử dụng 20% nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ cho tín dụng trung, dài hạn. Khả năng thu nhập của dân cư ngày càng cao là điều kiện tốt để huy động vốn trung dài hạn còn bị hạn chế ở hầu hết các Ngân hàng. Về lâu dài, các Ngân hàng phải tăng cường vốn trung, dài hạn chỉ là giải pháp tình thế. Ngân hàng cần có những giải pháp thích hợp gắn lợi ích Nhà nước với lợi ích kinh tế của người gửi tiền, kết hợp việc đổi mới cơ chế, nghiệp vụ để phát triển huy động vốn trung, dài hạn. - Huy động từ vốn vay trong nước và ngoài nước. - Vốn uỷ thác tài trợ phát triển - Các quỹ đầu tư phát triển theo nguồn ODA và các nguồn khác... b. Chính sách tìm kiếm khách hàng. Nếu một Ngân hàng có chính sách khách hàng tốt, có tính cạnh tranh cao thì sẽ thu hút được nhiều khách hàng tìm đến với mình. Một chính sách khách hàng năng động, linh hoạt sẽ giúp Ngân hàng mở rộng được tập hợp khách hàng năng động, linh hoạt sẽ giúp Ngân hàng mở rộng, được tập hợp khách hàng quen thuộc, có quan hệ lâu dài với mình và từ đó tăng số dự án tín dụng trung, dài hạn. c. Quy trình tín dụng. Là những quy định về các bước phải thực hiện, các tiêu chuẩn khách hàng khi cho vay, đảm bảo tiền vay, công tác kiểm tra, kiểm soát, thu nợ, xử lý nợ...Quy trình cấp tín dụng càng đơn giản, nhanh chóng, thuận lợi cho khách hàng thì càng thu hút được nhiều khách hàng hơn. d. Lãi suất Lãi suất thể hiện chi phí, giá cả của đầu tư, là nhân tố chủ yếu, quan trọng ảnh hưởng tới quyết định đầu tư của doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp mở rộng hoạt động kinh doanh, đổi công nghệ hiện đại bằng cách vay vốn Ngân hàng. Lãi trả Ngân hàng là một phần chi phí của doanh nghiệp nhất là đối với khoản vay trung dài hạn thì lãi suất phải trả thường cao những khoản vay lớn và thời hạn dài. Vì vậy, nếu lãi suất tài trợ của Ngân hàng thấp hơn tỷ lệ sinh lời dự kiến, các khoản đầu tư sẽ có xu hướng tăng và hoạt động tín dụng của Ngân hàng cũng sẽ được mở rộng. Một chính sách lãi suất hợp lý, kịp thời, đa dạng sẽ tăng tính cạnh tranh của Ngân hàng trên thị trường tín dụng, cho phép Ngân hàng thu hút được nhiều khách hàng, mở rộng quy mô tín dụng, tăng thu nhập cho Ngân hàng. e. Môi trường kinh tế xã hội. Môi trường kinh tế xã hội có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành và mở rộng nhu cầu tín dụng trung, dài hạn. Nếu môi trường kinh tế ổn định và lành mạnh, hệ số sinh lời lớn, khả năng cạnh tranh cao thì số dự án đầu tư trung dài hạn tăng lên do người đầu tư kỳ vọng vào một kết quả tốt đẹp trong tương lai. Ngược lại, môi trường kinh tế không ổn định, khó dự đoán được tình hình biến động thì nhu cầu tín dụng trung, dài hạn cũng giảm. 5.2. Nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung, dài hạn. a. Nhân tố chủ quan. - Chính sách tín dụng Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của một Ngân hàng, trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và các nhân viên ngân hàng, tăng cường chuyên môn hoá trong phân tích tín dụng tạo sự thống nhất trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời. Chính sách tín dụng là có thể nói là xương sống trong hoạt động của NHTM. Mục tiêu của nó làm giảm thiểu rủi ro tín dụng và khả năng sinh lời. Nội dung của chính sách tín dụng là tài trợ cho khách hàng, phục vụ khách hàng trên cơ sở an toàn. Thực chất đó là chính sách khách hàng của NHTM. Đây là định hướng, chủ trương chung trong việc cho vay, liên quan đến việc mở rộng hay thu hẹp tín dụng trung, dài hạn, chỉ ra đoạn thị mục tiêu nhằm cụ thể hoá việc thực hiện nâng cao khả năng sinh lợi, sức mạnh trong cạnh tranh, an toàn trong kinh doanh. Bất kì Ngân hàng nào muốn có chất lượng tín dụng trung, dài hạn cao đều cần có chính sách tín dụng trung, dài hạn phù hợp với thị trường. - Công tác thẩm định dự án đầu tư và thẩm định khách hàng. Do tính chất hoạt động là trung gian tài chính và sản phẩm là tiền tệ nên hoạt động tín dụng của Ngân hàng chứa đựng nhiều rủi ro nhất là tín dụng trung, dài hạn. Do vậy, Ngân hàng cần có cách để tự bảo vệ mình, giảm tỷ lệ rủi ro để bảo toàn khoản tín dụng. Một trong các yếu tố để bảo đảm là phải tiến hành thẩm định dự án và khách hàng. Nếu công tác thẩm định tiến hành chặt chẽ thì chất lượng tín dụng sẽ cao, ngược lại thì rủi ro tín dụng cũng rất lớn. Như vậy, thẩm định dự án khách hàng là công tác quan trọng cần phải thực hiện trước khi Ngân hàng có quyết định cấp tín dụng hay không. - Chất lượng cán bộ tín dụng: Con người là yếu tố quyết định tới sự thành bại trong quản lý vốn tín dụng nói riêng và hoạt động Ngân hàng nói chung. Nghiệp vụ Ngân hàng ngày càng phát triển đòi hỏi chất lượng cán bộ ngày càng cao để có thể sử dụng được các phương tiện làm việc hiện đại nhằm đạt hiệu quả cao trong hoạt động Ngân hàng. Cán bộ tín dụng cần đạt được các tiêu chuẩn về đạo đức công việc, xác định đối tượng cho vay, khả năng phân tích và thẩm định dự án, phân tích báo cáo tài chính, khả năng quản lý doanh nghiệp, trình độ dự đoán các biến động có thể xảy ra và các kiến thức tư vấn cho khách hàng để tránh rủi ro trong kinh doanh. Kinh tế càng phát triển, các quan hệ kinh tế này càng phức tạp, đa dạng, cạnh tranh ngày càng gay gắt, đòi hỏi trình độ người lao động ngày càng cao. - Tình hình nguồn vốn: Hoạt động của Ngân hàng là đi vay để cho vay, do đó công tác huy động vốn và công tác tín dụng là 2 hoạt động không thể tách rời. Một Ngân hàng có nguồn huy động dồi dào, đặc biệt là nguồn vồn trung dài hạn, nguồn vốn tự có đủ lớn sẽ có sức cạnh tranh, sự tự chủ cao hơn so với các Ngân hàng khác. Do đó, khả năng mở rộng tín dụng trung, dài hạn cũng cao hơn, dễ dàng đáp ứng được nhu cầu vay của khách hàng. Nguốn vốn ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng trung, dài hạn. - Rủi ro và khả năng sinh lời của tài sản có: Nếu Ngân hàng có cơ cấu tài sản có nhạy cảm với lãi suất thì những biến động trên thị trường có tác động rất mạnh Ngân hàng. Nếu tác động là có lợi, Ngân hàng thu được lợi nhuận cao, nhưng ngược lại Ngân hàng có thể phải đứng trước nguy cơ phá sản. - Công tác kiểm tra kiểm soát: Sau khi cho vay, cán bộ tín dụng phải nắm bắt đầy đủ, kịp thời, mọi diễn biến của quá trình sử dụng vốn vay, thu lãi và nợ khi đến hạn. - Lãi suất tín dụng. Lãi suất tín dụng do Ban Giám đốc Ngân hàng thông qua và cần được phổ biến đến mọi cán bộ tín dụng. Chính sách lãi suất cần khuyến khích tính linh hoạt, đa dạng trong việc đặt giá trên cơ sở đảm bảo khả năng sinh lời cũng như khả năng cạnh tranh của Ngân hàng, thu hút được đông đảo khách hàng. b. Nhân tố khách quan. - Khả năng hoàn trả nợ vay của khách hàng. Khách hàng nào khi đi vay cũng muốn thu hiệu quả cao từ k hoản vay đó, nhưng nhiều khi khả năng trả nợ của khách hàng bị yếu hoặc do những tác động từ bên ngoài giảm khả năng tài thanh toán nợ của khách hàng, bên cạnh đó sự không trung thực của khách hàng cũng là yếu tố quan trọng gây nên rủi ro cho Ngân hàng. Những điều đó khiến cho chất lượng tín dụng của Ngân hàng bị ảnh hưởng ngoài ý muốn. - Môi trường pháp luật: Đó là những qui định của NHNN và các cấp ngành có liên quan nhằm điều chỉnh hoạt động của các chủ thể kinh tế tham gia quan hệ tín dụng. Một môi trường pháp lý bình đẳng, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các chủ thể kinh tế là mục tiêu hướng tới của các nhà lập pháp tiến bộ. Trong quá trình chuyển đổi cơ chế, các chính sách phải điều chỉnh là không tránh khỏi, sự điều chỉnh đó ít nhiều ảnh hưởng tới hoạt động của Ngân hàng. Việc sắp xếp lại doanh nghiệp khhông đồng bộ với việc giải quyết các khoản nợ vay sẽ làm ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng Ngân hàng. - Môi trường chính trị: Thể chế chính trị góp phần quyết định quan hệ sản xuất , do đó các tác động tới phương thức sản xuất, gây ảnh hưởng tới nền kinh tế, một môi trường chính trị ổn định sẽ an toàn hơn cho các nhà khoản đầu tư, do đó môi trường thu hút được nhà đầu tư. - Môi trường kinh tế - xã hội. Những thay đổi trong nền kinh tế, xã hội đều có ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư, do đó ảnh hưởng tới huy động và tài trợ tín dụng trung - dài hạn của Ngân hàng cũng như ảnh hưởng tới khả năng trả nợ của khách hàng. 6. Quản lý chất lượng tín dụng 6.1. Mục đích của quản lý chất lượng tín dụng Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, lợi nhuận và sự an toàn vốn được đặt lên hàng đầu, để đạt được điều đó Ngân hàng phải nâng cao chất lượng tín dụng nhằm mục đích đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu của khách hàng (người gửi tiền và người vay tiền). Trong quan hệ tín dụng đảm bảo an toàn trong thu hồi vốn thông qua sự phát huy có hiệu quả của phương án được hình thành bằng đồng vốn vay hay hạn chế thấp nhất rủi ro về đồng vốn, tăng lợi nhuận của Ngân hàng, phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội. 6.2 Yêu cầu của quản lý chất lượng tín dụng Chất lượng tín dụng Ngân hàng là sự đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu của khách hàng “người gửi tiền và người vay tiền”. Trong quan hệ tín dụng, đảm bảo an toàn vốn hạn chế thấp nhất rủi ro về đồng vốn, tăng lợi nhuận cho Ngân hàng. Để làm được điều đó Ngân hàng phải quản lý tốt chất lượng tín dụng thông qua việc thực hiện tổ chức tốt công tác tổ chức, yêu cầu trình độ nghiệp vụ, hoàn thiện qui trình tín dụng, kiểm tra, kiểm soát nội bộ, thường xuyên kiểm tra việc thực hiện các thể lệ tín dụng nhằm từng bước hoàn thiện công tác tín dụng. Đảm bảo cho hoạt động tín dụng lành mạnh, hạn chế, ngăn ngừa các rủi ro trong hoạt động tín dụng. 6.3 Quản lý rủi ro nhằm nâng cao chất lượng tín dụng Chính sách tín dụng của Ngân hàng là một hệ thống các biện pháp nhằm mở rộng hay thu hẹp hoạt động cho vay của một Ngân hàng thương mại nhằm 3 mục tiêu chủ yếu là: Lợi nhuận, sự an toàn và lành mạnh. Đây là cơ sở để quản lý cho vay, đảm bảo hiệu quả của vốn tín dụng. Chính sách cho vay cần quy định cụ thể trong việc xem xét các loại khách hàng có thể cho vay, tiêu chuẩn có thể Ngân hàng cho vay. Để tránh được những thất thoát, rủi ro trong tín dụng cần phải cần phải quản lý tốt và có biện pháp phòng ngừa rủi ro có hiệu quả. Việc quản lý rủi ro tín dụng phải đáp ứng các yêu cầu sau : Một là: Quản lý tốt rủi ro tín dụng phải đặt yêu cầu an toàn trong hoạt động kinh doanh để đạt được yêu cầu này, cần phải nhận thức và đánh giá đúng đắn các nhân tố tác động đến khách hàng cũng như Ngân hàng trong quá trình cho vay và thu nợ. Ngân hàng chỉ cấp tín dụng khi khác hàng có đủ điều kiện vay vốn, tuân thủ đúng nguyên tắc cho vay. Hai là : Hạn chế rủi ro tín dụng nhưng phải trên cơ sở mở rộng thị phần trong nền kinh tế thị trường, các Ngân hàng cần tìm đến khác hàng thay vì đợi khác hàng đến. Vì thế mỗi Ngân hàng phải có một chiến lược khách hàng để không ngừng mở rộng thị trường, mở rộng nghiệp vụ. Ba là : Quản lý rủi ro tín dụng phải đảm bảo tính lành mạnh của khoản tín dụng. Xuất phát từ vai trò của tín dụng đối với nền kinh tế, vấn đề tín dụng đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội. .v.v... Bốn là : Quản lý rủi ro tín dụng phải trên cơ sở tuân thủ các quy định của Ngân hàng mà tuân thủ pháp luật. Để làm được việc đó Ngân hàng cần xây dựng một chính sách tín dụng hợp lý, thực hiện tốt quy trình quản lý tín dụng, phân tán rủi ro, quan hệ khách hàng lâu dài, thực hiện tốt các hình thức đảm bảo tín dụng, chú trọng nghệ thuật cho vay Ngân hàng cần có biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa, để hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất đối với các khoản cho vay với mục đích đảm bảo an toàn hiệu quả tránh._.rên cơ sở tài sản thế chấp, cầm cố và bảo lãnh của bên thứ ba. Đơn vị loại C: Là những đơn vị kinh doanh thua lỗ không có biện pháp khắc phục, quan hệ với ngân hàng và các bạn hàng không sòng phẳng, thường xuyên có nợ quá hạn thì ngân hàng cần phải tìm cách từ chối hợp lý, nhanh chóng thu hồi vốn. Tuy nhiên, đây chỉ là cách phân loại tạm thời, không phải là khuôn mẫu để quyết định cho vay đối với khách hàng mà điều cốt yếu vẫn là phương án sản xuất kinh doanh nếu tỏ ra thực sự hiệu quả thì ngân hàng cũng có thể nới lỏnh ở mức độ nào đó những điều kiện cho phép. - Tăng cường công tác tuyên truyền, quảng cáo các chính sách, chế độ, thể lệ cho vay. Trong tình hình hiện nay, các tầng lớp dân cư, hộ sản xuất hiểu biết rất hạn chế về hoạt động tín dụng ngân hàng. Nhiều đơn vị kinh tế nghĩ rằng, việc vay vốn của ngân hàng rất khó khăn về thủ tục, thời gian hơn nữa họ cũng không hiểu về các hình thức cho vay mà ngân hàng đang áp dụng như thời gian, lãi suất từ đó ngân hàng bị mất khả năng được lựa chọn làm đơn vị tài trợ vốn cho họ. 1.4. Tăng cường huy động nguồn vốn trung, dài hạn. Qua nghiên cứu thực tiễn huy động vốn tại chi nhánh NHNo & PTNT Tây Hồ-Hà Nội cho thấy các Ngân hàng sử dụng một lượng lớn vốn ngắn hạn để đầu tư tín dụng trung, dài hạn. Đây không phải là giải pháp an toàn cho tín dụng trung, dài hạn, để phòng tránh rủi ro có thể xảy ra do nguồn vốn ngân hàng nên tăng cường huy động vốn trung, dài hạn bằng nhiều biện pháp. Để làm được điều này Ngân hàng phải thực sự hoạt động lành mạnh, ổn định, giữ vững chữ tín với nhân dân, đây là điều kiện bảo đảm tiền gửi rất hữu hiệu. Công tác huy động tiền gửi dân cư phải đặt vào tầm quy mô chiến lược và phải thường xuyên liên tục. Ngân hàng cần sử dụng chính sách lãi suất năng động linh hoạt, phù hợp với thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư và thu hút vốn. Hình thức huy động vốn trung dài hạn có thể sử dụng là: huy động bằng trái phiếu Ngân hàng, tiền gửi dài han có lãi suất thay đổi theo lãi suất thị trường hoặc được đảm bảo bằng vàng. 2.5.Thực hiện dịch vụ tư vấn cho khách hàng. Thực hiện tư vấn cho khách hàng sẽ là cơ sở, tiền đề quan trọng cho ngân hàng mở rộng tín dụng trung dài hạn. Trên thực tế nhiều doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có ý đồ đầu tư tốt nhưng không có khả năng lập dự án khả thi rõ ràng, cụ thể hay những doanh nghiệp khi lập dự án vì thiếu thông tin nên đã không tình được hết các yêú tố khách quan như cung cầu thị trường, xu thế phát triển của ngành, lĩnh vực mà doanh nghiệp hoạt động, không nắm bắt được hết các quy định của chính phủ…tất cả các thứ đó đều dẫn tới dự án thiếu khả thi. 2. Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn. 2.1. Nâng cao công tác thẩm định dự án đầu tư và khách hàng. Đây là khâu đầu tiên, quan trọng nhất trong việc nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn, nếu nó được thực hiện tốt sẽ có tác dụng tạo điều kiện cho các bước tiếp theo. Ngược lại, nếu có thẩm dịnh kém, nghĩa là Ngân hàng chấp nhận dự án kém hiệu quả thì món vay sẽ có độ rủi ro cao. Để nâng cao hiệu quả công tác thẩm định, Ngân hàng cần: a. Nghiêm chỉnh chấp hành các qui định trong công tác thẩm định. Việc thực hiện đủ các bước, các thủ tục cần thiết sẽ giúp Ngân hàng có được những thông tin cần thiết về khách hàng và dự án, tránh những rủi ro có thể xảy ra. Trong công tác thẩm định khách hàng cần chú trọng đến uy tín và khả năng trả nợ của họ. Bên cạnh đó cần kiểm tra, đánh giá chính xác tài sản đảm bảo tiền vay trên cả 4 phương diện: khả năng thanh toán hay khả năng chuyển đổi thành tiền, tốc độ khấu hao, khả năng thị trường và khả năng kiểm soát. Đối với công tác thẩm định dự án, Ngân hàng phải giao cho cán bộ có năng lực, trình độ cao nghiên cứu tham khảo đưa ra các chỉ tiêu cho các ngành mà Ngân hàng có thể cho vay trung dài hạn. b. Nâng cao chất lượng tìm kiếm, thu thập và xử lý thông tin của ngân hàng. Để công tác thẩm định đạt hiệu quả thì thông tin thu được phải chính xác, muốn vậy, phải thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau để so sánh, đối chiếu. Các thông tin có thể lấy từ các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, từ các Ngân hàng khác hoặc qua thông tin thị trường ...Việc tìm kiếm thu thập thông tin phải được tiến hành thường xuyên, cập nhật hàng ngày. Nguồn thông tin phong phú và đầy đủ sẽ giúp cho ngân hàng có sự lựa chọn đúng đắn, tránh được rủi ro đối nghịch và rủi ro đạo đức. Thực tế hoạt động tại NHNo&PTNT Tây Hồ cho thấy Ngân hàng mới chỉ tập trung vào các thông tin dư nợ tín dụng và nợ quá hạn của khách hàng cũng như tình hình thanh toán trả nợ của khách hàng đến thời điểm vay vốn mà chưa chú ý đến các nguồn thông tin khác. Chính vì vậy mà hiệu quả của thông tin tín dụng không khai thác hết, ảnh hưởng xấu đến khâu thẩm định dự án đầu tư và quyết định cấp tín hiệu. Để nâng cao chất lượng thông tin tín dụng phục vụ cho việc vay, Ngân hàng cần phải: - Chủ động tích cực trong việc khai thác thông tin một cách đa dạng, chính xác, đầy đủ, kịp thời đáp ứng cho việc thẩm định và quyết định đầu tư. - Bên cạnh việc thu nhập, cần tiến hành phân tích, xử lý thông tin có được theo các mảng về thị trường, giá cả, chính sách ...trong việc khai thác thông tin cũng cần có sự định hướng phù hợp cho từng đối tượng khách hàng để quá trình xử lý thông tin khi phân tích rủi ro đạt được hiệu quả. - Thiết lập và duy trì mối quan hệ chặt chẽ, thường xuyên với chính quyền, các cơ quan chức năng, các hiệp hội ngành nghề, thị trường có liên quan đến hoạt động Ngân hàng. c. Chủ động tìm kiếm các dự án khả thi. Bằng cách này, Ngân hàng có thể chủ động về nguồn vốn, có thời gian thẩm định một dự án kỹ hơn, chủ động về thông tin, tránh được những thông tin không chân thực. d. Thành lập phòng thẩm định riêng trong Ngân hàng. Thành lập phòng thẩm định với đội ngũ cán bộ có trình độ, khả năng trong mọi lĩnh vực: Kinh tế, tài chính, công nghiệp, xây dựng, thương mại, dịch vụ...Một đội ngũ chuyên gia giỏi sẽ giúp phòng thẩm định có thể tư vấn có hiệu quả cho các doanh nghiệp trong việc thực hiện dự án có kết quả tốt. e. Đào tạo, chuẩn hoá nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng. Để nâng cao chất lượng thẩm định dự án không thể không nâng cao năng lực chuyên môn của CBTD. Ngân hàng cần tạo điều kiện cho CBTD mở rộng hiểu biết các lĩnh vực bằng cách mở các lớp nghiệp vụ, thực hiện đổi mới phong cách làm việc, tác phòng giao dịch, chủ động trong công việc là những công tác cần được thực hiện để nâng cao trình độ cán bộ từ đó góp phần nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn. f. Nâng cao phẩm chất đạo đức của cán bộ tín dụng. Xây dựng đội ngũ cán bộ tín dụng có tư cách đạo đức, trung thực, gắn bó với Ngân hàng, luôn biết vì lợi ích tập thể. Đây là yêu cầu bức thiết cần được thực hiện ngay. Tư cách đạo đức phải trở thành một tiêu chí trong quá trình tuyển chọn cán bộ tín dụng. Việc chấp hành nghiêm chỉnh nội quy, quy định được thực hiện trên cơ sở phát huy tinh thần tự giác trong đó cán bộ lãnh đạo cần gương mẫu đi đâu cũng như đôn đốc, kiểm tra thường xuyên cán bộ tín dụng. 2.2. Phân tích xếp loại doanh nghiệp. * Nội dung phân tích Phân tích khái quát tình hình đảm bảo vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh. Phân tích tình hình vốn trong luân chuyển và trong dự trữ (tình hình tài sản cố định, dự trữ tài sản lưu động, vốn luân chuyển, hiệu quả sử dụng vốn). Phân tích tình hình và khả năng thanh toán của doanh nghiệp. * Phương pháp phân tích So sánh kỳ này với kỳ trước, số thực tế với số kế hoạch để thấy được mức độ phát triển. So sánh với tiêu chuẩn cũng như tiêu chuẩn toàn ngành để đánh giá doanh nghiệp trong mối quan hệ với các doanh nghiệp khác, trên cơ sở đó đánh giá chính xác tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính và xu hướng phát triển của doanh nghiệp. So sánh các mức độ trung bình các thông số giữa ngành này với ngành khác để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn giữa các doanh nghiệp. Trong số các chỉ tiêu đánh giá doanh nghiệp, cán bộ tín dụng nên chú trọng đến các chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp. Lợi nhuận của doanh nghiệp * Tỷ suất lợi nhuận =------------------------------------ Nguồn vốn của doanh nghiệp Chỉ tiêu này phải cao hơn lãi vay ngân hàng thì dự án mới được chấp nhận. NV hiện có của doanh nghiệp * Hệ số tài trợ =-------------------------------------------------------- Tổng số nguồn vốn doanh nghiệp đang sử dụng Khả năng tự chủ về tài chính thể hiện khả năng tự cân đối về tài chính của doanh nghiệp để đáp ứng các khoản nợ phải trả tức biểu hiện khả năng chỉ ra của doanh nghiệp. NV hiện có của doanh nghiệp * Năng lực đi vay =-------------------------------------- Vốn thường xuyên Những doanh nghiệp có khả năng tự chủ về tài chính cao thường có năng lực đi vay rất cao, dựa vào chỉ số này Ngân hàng có thể đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp bên cạnh các báo cáo và chỉ tiêu khác. Khả năng thanh toán ngắn hạn = Vốn bằng tiền + các khoản phải thu Nợ ngắn hạn + các khoản phải trả Chỉ tiêu này phản ánh khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp Khả năng sản xuất kinh doanh = Giá trị sản lượng hàng hoá thực hiện NV của doanh nghiệp Chỉ tiêu này cho thấy một đồng vốn thì doanh nghiệp có khả năng sản sinh ra bao nhiêu đồng giá trị sản lượng hàng hoá. Có thể nói đây là một phương pháp rất hữu hiệu nhằm giúp cán bộ tín dụng thấy rõ được tìn hình tài chính và kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên có một yêu cầu đối với phương pháp này là phải chính xác và cập nhật thường xuyên. Nếu số liệu không chính xác hay đã lỗi thời thì số điểm tính được sẽ hoàn toàn khác xa so với thực tế. Hiện nay dù chi nhánh đã áp dụng phương pháp này song nó chỉ phổ biến dưới dạng tổng kết cuối kỳ cho mỗi doanh nghiệp chứ không được cập nhật thường xuyên, hơn nữa phương pháp này chưa được áp dụng một cách có hiệu quả do các cán bộ tín dụng trẻ còn gặp nhiều bỡ ngỡ khi áp dụng. 2.3. Nâng cao chất lương thông tin phòng ngừa rủi ro, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Việc thu nhập các nguồn thông tin chính xác có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong quyết định cho vay và đầu tư của ngân hàng. Một trong những nguyên nhân gây nên rủi ro trong công tác tín dụng là sự thiếu thông tin chính xác từ người vay, từ thị trường và thiếu tính khả thi của dự án vay. Do đó để nâng cao chất lượng tín dụng, dài hạn cần nâng cao chất lượng thông tin. Ngân hàng cần thực hiện để triệt để khai thác thông tin từ nhiều nguồn kết hợp: từ doanh nghiệp, từ cơ quan chủ quản doanh nghiệp, từ bạn hàng của doanh nghiệp, từ trung tâm phòng ngừa rủi ro ngân hàng Nhà nước, từ cơ quan pháp luật, từ các ngân hàng bạn, tránh tình trạng thông tin nhận được từ phía sai lệch. Ngân hàng phải cử những cán bộ có năng lực chuyên môn nghề nghiệp phụ trách theo dõi kiểm tra từng khách hàng, từng khoản vay. Thường xuyên nắm bắt được các thông tin về mọi mặt của doanh nghiệp, từ tổ chức cán bộ, quản lý điều hành, đến tình hình tài chính, tình hình hoạt động kinh doanh... để có biện pháp xử lý kịp thời với các rủi ro có thể xảy ra từ phía doanh nghiệp. Ngân hàng cần hiện đại hoá công nghệ để nâng cao hiệu quả hoạt động của phòng thông tin phòng ngừa rủi ro. Trang bị thêm nhiều máy móc thông tin, hệ thống vi tính nối mạng trong toàn ngành và nối mạng với các ngân hàng bạn đã có thể trung cập một cách nhanh nhất. Thường xuyên nghiên cứu áp dụng các phần mềm mới, phù hợp với hoạt động ngân hàng, cải tạo nâng cấp hệ thống máy tính. 2.4. Giám sát, kiểm tra việc sử dụng vốn có hiệu quả. Công tác kiểm tra, kiểm soát là công tác không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của mỗi ngân hàng trong cơ chế chế thị trường. Thông qua công tác này, Ngân hàng có thể nắm được thực trạng kinh doanh của khách hàng của mình để chủ động giải quyết khi gặp khí khăn trong quá trình cấp tín dụng nhất là dối với khoản tín dụng trung, dài hạn có độ rủi ro cao. Công tác giám sát sử dụng vốn vay của khách hàng phải được tiến hành thường xuyên, liên tục và nghiêm túc để phát hiện kịp thời những dấu hiệu không tốt để dẫn đến rủi ro tín dụng, từ đó Ngân hàng sẽ tìm ra những biện pháp hữu hiệu để khắc phục nó. Nếu phát hiện khách hàng không đủ khả năng trả nợ thì Ngân hàng được tiến hành điều tra ngay để có giải pháp xử lý kịp thời. Nếu nguyên nhân thuộc về phía khách hàng, do doanh nghiệp gặp khó khăn thì Ngân hàng cần tích cực cùng khách hàng tìm ra phương án khắc phục, giúp đỡ họ vượt qua khó khăn, nếu nguyên nhân là do điều kiện khách quan mang lại thì Ngân hàng có thể chủ động gia hạn nợ, giãn nợ hoặc cho khách hàng vay thêm vốn để khắc phục khó khăn...khi phát hiện khách hàng sử dụng vốn sai mục đích thì ngân hàng cần nhanh chóng tìm cách thu hồi nợ để hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất. Để việc giám sát, kiểm tra được thuận lợi, ngân hàng cần có biện pháp nâng cao nhận thức của khách hàng về trách nhiệm cung cấp thông tin về hoạt động của mình cho khách hàng. Có được những thông tin đầy đủ, chính xác thì ngân hàng mới có biện pháp giúp đỡ khách hàng khi họ gặp rắc rối. Muốn vậy, ngược lại ngân hàng cũng cần giữ an toàn cho khách hàng bằng cách đảm bảo bí mật thông tin cho họ, tạo sự tin tưởng giữa 2 bên, có thế doanh nghiệp mới tích cực cung cấp thông tin trung thực, đầy đủ. Khi đó ngân hàng cũng có thể cung cấp tín dụng cho doanh nghiệp một cách có hiệu quả. Trong trường hợp doanh nghiệp gặp khó khăn thì bằng những kinh nghiệm của mình, ngân hàng có thể giúp học giải quyết nhanh chóng, kịp thời, giảm thiểu rủi ro. Bên cạnh việc tích cực thu thập thông tin Ngân hàng cần có bộ phận lưu trữ thông tin. Đặc biệt nếu doanh nghiệp đã có quan hệ lâu dài với ngân hàng thì những thông tin về nguồn thu, thời điểm thu-chi, việc bán hàng của họ. 2.5. Cân đối nguồn vốn thường xuyên để xây dựng phương án kinh doanh có hiệu quả. Việc cân đối nguồn vốn thường xuyên để xây dựng phương án kinh doanh có hiệu quả nhất. Cân đối vốn là công việc rất cần thiết đối với ngân hàng là biện pháp, nghiệp vụ của nhà lãnh đạo ngân hàng. Đây là cơ sở của việc cung cấp những khoản tín dụng có chất lượng cao. Cân đối vốn thường được tiến hành theo những khoản thời gian ngắn, trung hoặc dài là tuỳ thuộc vào đặc điểm hoạt động, môi trường kinh doanh, cơ chế của ngân hàng. Thường thì tại các chi nhánh như ở Sở giao dịch NHNo&PTNT Hà Nội cân đối vốn được tiến hành từng ngày, do Sở giao dịch phải đối phó với khách hàng, những yếu tố cạnh tranh hàng ngày, phải kịp thời lên cân đối vốn để có sách lược sử dụng vốn có hiệu quả. Trình tự cân đối vốn diễn ra như sau: - Lập bảng cân đối vốn tổng hợp, chi tiết Dựa vào những số liệu kế toán có được trong ngày, cán bộ tín dụng lập bảng cân đối tổng hợp giữa nguồn vốn có được và tình hình sử dụng vốn trong ngày. Đối với lãnh đạo Chi nhánh thì lập cân đối tháng, quí, năm để lên kế hoạch, chiến lược kinh doanh dài hạn. Bảng tổng hợp cân đối chia làm hai phần: phần nguồn vốn và sử dụng vốn, mỗi phần được chia theo những tiêu thức nhất định. Sau khi đã phân chia nguồn vốn và các khoản sử dụng vốn, cán bộ ngân hàng tính tỷ trọng của từng nguồn trong kết cấu của nguồn vốn và sử dụng nguồn. Một cân đối chi tiết được lập riêng đối với từng loại nguồn vốn, từng khoản sử dụng vốn và phân chia theo những tiêu thức nhất định. - Phân tích cân đối vốn Từ bảng cân đối đã lập, Ban Giám đốc Chi nhánh cần xem xét, phân tích cơ cấu, tỷ trọng của từng nguồn vốn, từng khoản sử dụng vốn. Tổng hợp các bảng cân đối vốn của các thời kỳ khác nhau, cán bộ ngân hàng thấy đặc điểm cân đối vốn của ngân hàng họ cũng như xu hướng biến động của từng khoản mục, từ đó có thể đưa ra phương án sử dụng vốn trong thời kỳ tiếp theo. Việc cân đối vốn đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động tín dụng của Chi nhánh. Nhất là nhu cầu vốn trung, dài hạn rất lớn, nếu không lên cân đối vốn thì rất dễ xảy ra rủi ro thanh khoản, ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. 2.6.Triển khai chương trình đổi mới công nghệ thông tin. Công nghệ thông tin là phương tiện và chìa khoá nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng và quản lý hệ thống. Để triển khai các tiểu dự án trong chương trình đổi mới công nghệ thông tin cần phải có sự chỉ đạo cụ thể, tuyển hoặc đào tạo những cán bộ có chuyên môn thực hiện. Đề ra thứ tự ưu tiên cho các tiểu dự án để tránh sự dàn trải. Công nghệ tốt, trang thiết bị hiện đại sẽ giúp tăng nhanh tốc độ liên lạc trong nội bộ để vừa làm tăng tính kịp thời của thông tin, làm rút ngắn thời gian thẩm định mà vẫn đảm bảo ra quyết định chính xác, làm tăng cạnh tanh của ngân hàng. 2.7. Chuyên môn hoá cán bộ tín dụng Để có một khoản tín dụng có chất lượng, yếu tố quan trọng trước tiên thuộc về người cán bộ tín dụng ngân hàng. Cán bộ tín dụng phải là người am hiểu khách hàng, hiểu biết sâu sắc thực lực tài chính, khả năng thanh toán của khách hàng kể cả hiện tại cũng như sau này, xác định tiềm năng phát triển và dự báo được các biến động trong tương lai. Không những vậy, cán bộ tín dụng cũng cần nắm rõ tư cách đạo đức của người vay vì tư cách đạo đức của người vay sẽ quyết định ý muốn trả nợ của họ. Sự tác động của chính sách kinh tế hay ảnh hưởng của biến động thị trường đến kết quả hoạt động của một doanh nghiệp là vô cùng phức tạp. Điều này đòi hỏi mỗi cán bộ tín dụng cần có một vốn hiểu biết nhất định về thị trường và về lĩnh vực chuyên môn mà khách hàng của mình đang tiến hành sản xuất. Tất cả những yêu cầu đó đối với một cán bộ tín dụng hình như là quá nhiều, một cán bộ tín dụng giỏi đến đâu thì cũng không thể hiểu biết sâu sắc về mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Để giải quyết vấn đề này, giải pháp đưa ra ở đây là: “chuyên môn hoá đội ngũ cán bộ tín dụng”. Hiện nay, ở hầu hết các ngân hàng thì việc phân công cán bộ tín dụng chỉ dựa trên cơ số khách hàng, mức dư nợ và thành phần kinh tế. Một cán bộ tín dụng khi đó sẽ phải vừa cho vay kinh doanh dịch vụ, thương mại, vừa phải cho vay xây dựng cơ bản, chế biến, vận tải…Như vậy, cán bộ tín dụng sẽ rất khó khăn trong việc thu thập và sử lý thông tin. Nên chăng, ngân hàng thực hiện chuyên môn hóa đối với từng cán bộ bằng cách chia khách hàng theo từng nhóm đặc điểm riêng. Trên cơ sở đó, căn cứ vào năng lực, sở trường và kinh nghiệm của từng cán bộ hay từng nhóm cán bộ để phân công thực hiện cho vay đối với nhóm khách hàng nhất định. Việc chuyên môn hoá cán bộ tín dụng như vậy khắc phục được mâu thuẫn giữa chuyên môn hoá và đa dạng hoá, làm tăng chất lượng tín dụng và độ tin cậy của thông tin tín dụng, tạo cơ sở cho việc xây dựng các mối quan hệ khách hàng lâu dài. Đồng thời nó cũng làm giảm chi phí trong công tác điều tra tìm hiểu khách hàng, thẩm định và phân tích tín dụng, giám sát khách hàng trong quá trình sử dụng tiền vay. Bên cạnh việc thực hiện chuyên môn hoá ngân hàng cũng không ngừng nâng cao kiến thức cho đội ngũ cán bộ công nhân viên. 2.8. Xử lý nợ quá hạn. Đối với những khoản vay mà khi đến hạn, kỳ hạn không có khả năng trả nợ, thông thường qua quá trình thẩm định, phân tích thì những khoản vay đó được chấp nhân gia hạn. Nhưng nếu hết thời gian gia hạn nợ mà khách hàng vẫn không trả được nợ thì món vay đó sẽ chuyển sang nợ quá hạn qua những biểu hiện sau: Doanh nghiệp trì hoãn cung cấp những báo cáo tài chính khi Ngân hàng yêu cầu Cố tình trì hoãn hoặc lẩn tránh sự giám sát thực tế của cán bộ tín dụng tại cơ sở. Số dư tiền gửi thanh toán tại ngân hàng giảm đi. Tình trạng nợ nần đối với các doanh nghiệp liên quan đến cung cấp và tiêu thụ ngày càng tăng dẫn đến không có khả năng chi trả. Chịu những tổn thất bất khả kháng như thiên tai, bão lụt, hoả hoạn. Những doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu vay vốn của ngân hàng tiền thanh toán không chuyển vào tài khoản gửi tại ngân hàng. Các biện pháp xử lý được sử dụng để thu hồi nợ sau khi đã áp dụng các biện pháp ngăn ngừa nhưng tình hình tài chính của người vay cố tình không trả nợ ngân hàng. + Ngân hàng giao chỉ tiêu thu nợ quá hạn cho từng cán bộ tín dụng, có cơ chế khen thưởng kịp thời cho những cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ nhiệm vụ, xử lý thích đáng cho những cán bộ thiếu tinh thần trách nhiệm gây thoát vốn cho ngân hàng. + Có biện pháp thu nợ quá hạn thích hợp đối với từng khách hàng. Đối với các doanh nghiệp phát sinh nợ quá hạn do ứ đọng hàng tồn kho chưa bán được, ngân hàng có thể giới thiệu đơn vị mua hàng, giúp khách hàng của mình giải quyết tồn đọng. Hoặc có thể kết hựp với ngân hàng khác trong việc xử lý nợ quá hạn: chẳng hạn khách hàng của ngân hàng sản xuất đồ mỹ nghệ nhưng không bán được trong khi khách hàng của ngân hàng lại tiêu thụ mặt hàng này. Đối với những doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ chưa có khả năng trả nợ ngân hàng, nếu thực sự cần thêm vốn và có thể sản xuất kinh doanh mang lại hiệu quả cao, ngân hàng có thể cho vay thêm sau khi đa xem xét một cách cụ thể. Đối với khách hàng cố tình không trả nợ ngân hàng, nợ quá hạn kéo dài, ngân hàng cần sử dụng các biện pháp cứng rắn kết hợp sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, các cơ quan chức năng để thu hồi nợ. 2.9.Trích lập quỹ bù đắp rủi ro Như đã biết, chất lượng tín dụng được hình thành từ hai phía đó là từ người cho vay và người đi vay. Ngân hàng cho vay với hy vọng nắm trong tay những khoản cho vay có chất lượng tốt. Tuy nhiên trải qua một thời gian, dưới sự tác động của nhiều yếu tố, dự án sản xuất kinh doanh của người vay trở nên kém hiệu quả. lúc này mức độ rủi ro của các khoản cho vay tăng lên đe doạ khả năng thu hồi của ngân hàng. Vì thế để đảm bảo khả năng an toàn cho ngân hàng, ngân hàng phải lập nên những lá chắn bảo vệ đó là phải trích lập quỹ bù đắp rủi ro. Bởi vì trong nền kinh tế thị trường thì lợi nhuận cao luôn đi kèm với rủi ro cao. Quỹ này một mặt sẽ giúp ngân hàng khắc phục hậu quả thiệt hại, mặt khác sẽ tăng cướng sức mạnh tài chính, khả năng thanh toán của ngân hàng, từ đó nâng cao được chất lượng tín dụng. III. Một số kiến nghị 1. Đối với NHNo & PTNT Việt Nam - Ban hành các văn bản hướng dẫn: nên ra những văn bản cụ thể hơn nữa đối với các loại hình tín dụng ngắn hạn cũn như các chỉ tiêu cụ thể để giúp cho cán bộ tín dụng, nhất là cán bộ mới nắm bắt được công việc nhanh chóng, giúp họ xử lý công việc có hiệu quả, góp phần mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn. Ra các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ kịp thời khi có văn bản mới thay thế. - Làm tốt công tác khai thác thông tin từ phía khách hàng tao điều kiện cho các chi nhánh khai thác được thông tin khi có yêu cầu. - NHNo&PTNT Việt Nam sớm đưa công nghệ hiện đại vào thực hiện quy trình thanh toán, giao dịch một cửa, phân mềm theo các phương thức huy động vốn. - Có chiến lược mở rộng mạng lưới để hạn chế sự chồng chéo làm giảm hiệu quả của mạng lưới. NHNo&PTNT Việt Nam phải thực sự là chiếc cầu nối giữa các chi nhánh trên địa bàn. Điều này sẽ giúp các chi nhánh có điều kiện gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm trong quá trình, điều hành nghiệp vụ, giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn. 2. Chính sách của Ngân hàng Nhà nước Thành lập trung tâm thu thập và cung cấp thông tin về doanh nghiệp: Việc làm này không chỉ có nghĩa đối với ngân hàng mà còn có ý nghĩa với nhiều cơ quan khác như cơ quan thuế, cơ quan thanh tra tài chính...Những ai muốn có thông tin về doanh nghiệp thì phải bỏ ra một chi phí nhất định. Đổi lại, họ sẽ tiết kiệm được chi phí so với việc tự tìm kiếm và xác minh tính đúng đắn của thông tin, đồng thời những thông tin nhận được đảm bảo mới nhất, chính xác nhất . - Hiện nay, Luật ngân hàng Nhà nước và Luật tổ chức tín dụng đã có hiệu lực và đi vào cuộc sống. Ngân hàng Nhà nước cần nhanh chóng tiến hành chỉ đạo, hướng dẫn một cách cụ thể các luật nhanh chón đi vào thực tế ngân hàng, tổng hợp kết quả thực hiện nhằm rút ra những vấn đề cần bổ sung sửa đổi để các bản đó phát huy tác dụng lớn hơn. 3. Chính sách của các ngành liên quan a. Có chính sách bảo vệ sản xuất trong nước, quản lý thị trường. Các dự án được thực hiện nhằm tạo ra các sản phẩm thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng. Chủ dự án chỉ có thể thu hòi được khi khách hàng của họ chấp nhận sản phẩm mà họ sản xuất ra. Nhưng trong tình trạng hàng nội bị hàng ngoại lấn át như hiện nay thì cơ hội thâm nhập thị trường của nhà đầu tư trong nước là rất hạn chế. Muốn bảo vệ sản xuất trong nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước, rất cần có sự can thiệp của các cơ quan quản lý thị trường. b. Đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp. Muốn ngành Ngân hàng phát triển, chất lượng tín dụng được nâng cao thì cần đổi mới khách hàng, đặc biệt là doanh nghiệp Nhà nước. - Củng cố, nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp Nhà nước hiện có, hoàn thiện việc phân định doanh nghiệp hoạt động công tích với hoạt động kinh doanh. - Tích cực sắp xếp, thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước có công nghệ lạc hậu, không có vị trí quan trọng lại thua lỗ kéo dài thì có thể giải thể, sát nhập ... - Đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp Nhà nước, thực hiện biên pháp lành mạnh hoá tài chính doanh nghiệp, bổ sung cơ chế quản lý tài chính và hạch toán. - Việc hình thành các doanh nghiệp trọng điểm nhằm đẩy nhanh sự phát triển kinh tế trên địa bàn đồng thời phải tính đến nhu cầu trong cả nước và xuất khẩu đảm bảo thị trường ổn định. - Cần bổ sung vốn pháp định cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thêm vốn lưu động để hoạt động tự chủ hơn. c. Điều chỉnh các qui định về quyền sở hữu. Nhà nước nên có chính sách hoá giá triệt để chuyển từ quyền sử dụng sang quyền sở hữu nhà đất hợp pháp toàn diện về mặt giấy tờ, giúp các doanh nghiệp đảm bảo thủ tục vay vốn Ngân hàng. d. Tạo môi trường chính trị, pháp luật ổn định, thuận lợi. Chính phủ cần giảm dần sự can thiệp trực tiếp, mang tính hành chính, gây mất cân đối trong tổng thể nền kinh tế, cũng như tạo sự bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, trong đó có các Ngân hàng. Lúc đó, mọi ngân hàng đều hoạt động, chịu sự chi phối duy nhất của các quy luật của nền kinh tế thị trường. Chất lượng tín dụng trung dài hạn sẽ được biểu hiện ở chính sức cạnh tranh của nó trong một môi trường cạnh tranh hoàn hảo. e. Thực hiện chế độ kiểm toán chặt chẽ. Nhà nước cần sớm ban hành quy chế tài chính và hạch toán kinh doanh đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Qua đó, tăng cường tính hiệu lực pháp lý, đảm bảo tính đồng bộ chuẩn mực của công tác hạch toán kế toán, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ Ngân hàng có kết luận chính xác về tình hình tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng. Việc chấn chỉnh công tác kiểm toán phải đi đôi với tăng cường hiệu quả của hoạt động này. Để nâng cao hiệu quả của công tác kiểm toán và làm cơ sở cho việc thẩm định tín dụng, trước mắt cần có sự thống nhất giữa cơ quan kiểm toán Việt Nam với thông lệ của kiểm toán quốc tế. Nhà nước cần quy định chế độ kiểm toán bắt buộc đối với loại hình doanh nghiệp, qua đó để đảm bảo độ tin cậy cho các báo cáo tài chính, góp phần nâng cao hiệu quả của công tác thẩm định dự án đầu tư. Kết luận Ngày nay, Việt Nam đang tập trung sức lực và tiềm năng của mình để đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhu cầu vốn trung hạn, dài hạn phục vụ cho nhu cầu đổi mới ngày càng lớn. Trong những năm vừa qua, hoạt động cung cấp tín dụng trung, dài hạn của Chi nhánh NHNo&PTNT Tây Hồ-Hà Nội đã có những đóng góp đáng kể cho quá trình phát triển kinh tế đất nước nói chung, kinh tế trên dịa bàn thủ đô nói riêng. Nguồn vốn tín dụng trung, dài hạn mà Chi nhánh cung cấp đã thực sự đi vào cuộc sống, dần dần biến thành xí nghiệp, nhà máy hiện đại, khoa học công nghệ tiên tiến, thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần xây đựng cơ sở hạ tầng vững chắc cho đất nước trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng luôn là mối quan tâm của Chi nhánh. Do đó, em đã tập trung tìm hiểu những vấn đề lý luận cơ bản về tín dụng trung, dài hạn và chất lượng tín dụng trung, dài hạn để từ đó xem xét thực trạng tín dụng trung, dài hạn tại Chi nhánh. Và cuối cùng, trên cơ sở lý luận và thực tiễn, mạnh dạn đưa ra những giải pháp nhằm mục đích mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng trung, dài hạn của Chi nhánh NH No&PTNT Tây Hồ-Hà Nội. Bài này được viết dựa trên những kiến thức đã tiếp thu trong quá trình học tập tại trường đại học, qua sách báo, tài liệu tham khảo về tín dụng trung, dài hạn và sự giúp đỡ của thầy giáo hướng dẫn cũng như của các anh chị cán bộ tại NHNo&PTNT Tây Hồ. Tuy nhiên do tín dụng trung, dài hạn là một phạm trù tín dụng có phạm vi rộng lớn và phức tạp, đòi hỏi trình độ hiểu biết và có thời gian nghiên cứu lâu dài. Bài viết của em không thể khái quát được một cách toàn diện về những cơ sở lý luận cũng như về thực trạng tình hình chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại Chi nhánh. Những đề xuất của chuyên đề thực tập không tránh khỏi hạn chế do kiến thức của bản thân sinh viên chưa được hoàn thiện. Vì vậy, em rất mong được sự giúp đỡ chỉ bảo của thầy, cô giáo hướng dẫn để hoàn thiện được bài này tốt hơn. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy giáo TS. Đào Văn Hùng, các anh chị cán bộ tín dụng tại NHNo&PTNT Tây Hồ và trung tâm thông tin thư viện- trường ĐHKTQD đã nhiệt tình giúp đỡ em trong quá trình thực tập và hoàn thiện bài viết này. Tài liệu tham khảo 1. Peter Rose, Quản trị ngân hàng thương mại, NXB.Tài Chính, 2001. 2. TS. Phan Thị Thu Hà - TS. Nguyễn Thị Thu Thảo, Ngân hàng thương mại - Quản trị và nghiệp vụ, NXB. Thống Kê, 2002. 3. Học viện Ngân hàng, Giáo trình tín dụng ngân hàng. 4. Học viện Ngân hàng, Giáo trình nghiệp vụ ngân hàng, NXB. Thống Kê, 2000. 5. GS.TS. Lê Văn Tư- Lê Tùng Vân- Lê Hải Nam, Ngân hàng thương mại, NXB. Thống Kê, 2000. 6. Quy chế tổ choc và hoạt động của Chi nhánh NHNo&PTNT Việt Nam, Ban hành năm 2000. 7. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và kế hoạch kinh doanh của Chi nhánh NHNo&PT NT Tây Hồ-Hà Nội từ năm 2001- 20003. 8. NHNo&PTNT Việt Nam, Tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ Tín dụng, 2002. 9. Kế hoạch kinh doanh năm 2004 của Chi nhánh NHNo&PTNT Tây Hồ-Hà Nội. 10. Tạp chí Ngân hàng từ năm 2001- 2003. 11. Những luận văn Tài chính- Ngân hàng, khoa 41. 12. Học viện Ngân hàng, Giáo trình Marketing Ngân hàng, NXB. Thống Kê, 2002. Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNH388.doc