Một số giải pháp nhằm mở rộng khả năng thanh toán séc tại Sở giao dịch 1 Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam

Mục lục Lời mở đầu Lời mở đầu * Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài Thanh toán là khâu mở đầu và cũng là khâu cuối cùng kết thúc một chu kỳ sản xuất. Thanh toán có vai trò vô cùng quan trong đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào, bởi nhu cầu thanh toán đang ngày càng đa dạng và phong phú gắn liền với sự phát triển không ngừng của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Thực tế cho thấy đối với nước ta hiện nay thì thanh toán không dùng tiền mặt đang tỏ ra rất có lợ

doc89 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1332 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm mở rộng khả năng thanh toán séc tại Sở giao dịch 1 Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i thế và có xu hướng được sử dụng rất nhiều vì nó vừa an toàn, tiện lợi, vừa giảm được các chi phí in ấn, vận chuyển, bảo quản.Tuy nhiên về chất lượng và quy mô thanh toán còn quá yếu so với các ngân hàng trên thế giới. Các phương tiện thanh toán mà các doanh nghiệp, cá nhân đang sử dụng ở Việt Nam bao gồm UNT, UNC, séc, thư tín dụng, thẻ v.v....Dù được áp dụng ở Việt Nam đã lâu nhưng vẫn chưa tạo được bước đột phá nào trong thanh toán nội địa. Hàng nghìn tỷ đồng đang nằm rải rác ở trong dân cư và tổ chức kinh tế để sử dụng cho thanh toán trực tiếp....Đó là một thực tế tồn tại đòi hỏi phải có những biện pháp thiết thực để khắc phục. Một trong các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt - séc là một phương tiện thanh toán đơn giản và tiện lợi, séc ra đời từ rất lâu và được coi là công cụ truyền thống được sử dụng ở các nước phát triển ngay cả khi có công cụ thanh toán hiên đại hơn vì những tiện ích mà nó mang lại cho người sử dụng rất lớn. Đòi hỏi về cơ sở vật chất của séc lại không cao chứng tỏ nó rất phù hợp với điều kiện kinh tế nước ta. Thế nhưng tỉ trọng thanh toán séc trong thanh toán không dùng tiền mặt lại rất nhỏ chứng tỏ séc chưa được sử dụng phổ biến và chưa hấp dẫn người sử dụng. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến séc chưa được chấp nhận trong thanh toán ở Việt nam hiện nay đó là những bất cập về quy định trong thanh toán séc, đó là thói quen tiêu dùng tiền mặt của người dân....có rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết, phải khắc phục và đổi mới để đưa séc trở thành “sân chơi” hấp dẫn đối với mọi người. Nhận thức được tầm quan trọng của séc cũng như những bất cập trong thanh toán bằng séc. Từ kiến thức đã học ở trường kết hợp với hiểu biết thực tế trong quá trình thực tập tại SGDI nên em quyết định chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm mở rộng khả năng thanh toán séc tại SGDI NHNo & PTNT VN” để làm khoá luận tốt nghiệp của mình. * Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của khoá luận này là phương pháp phân tích và so sánh. Ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp khác như logic biện chứng và diễn dịch. * Phạm vi nghiên cứu: Dựa trên lý luận cơ bản về thanh toán bằng séc đã học kết hợp với thực tiển tại SGDI NHNo và PTNT Việt Nam bài viết sẽ tập trung phân tích, đánh giá thực trạng và những tồn tại của phương thức thanh toán bằng séc từ đó đề ra những giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng khả năng thanh toán séc trong tương lai. * Khoá luận sẽ được trình bày làm 3 chương: C1: Cơ sở lý luận về thanh toán bằng séc. C2: Thực trạng thanh toán bằng séc tại SGDI. C3: Một số giải pháp nhằm mở rộng khả năng thanh toán bằng séc tại SGDI. Do những khó khăn trong việc thu thập tài liệu và số liệu phân tích, hơn nữa do khả năng nghiên cứu, phân tích còn hạn chế và thời gian thực tập còn hẹp nên bài viết không tránh khỏi những khiếm khuyết. Kính mong sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo để luận văn được hoàn thiện tốt hơn. Em xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô giáo và các cô chú trong phòng kế toán ngân quỹ và đặc biệt là Thạc sỹ Bùi Quang Tiên đã hết lòng giúp đỡ em hoàn thành luận văn này. Chương1: Cơ sở lý luận về thanh toán bằng séc I. Sự cần thiết khách quan và vai trò của thanh toán bằng séc trong nền kinh tế: 1.Sự cần thiết khách quan của thanh toán séc: Xuất phát từ sơ đồ tổng quát của một chu kỳ sản xuất T-H-H’-T’ ta có thể thấy rằng thanh toán là khâu mở đầu của một chu kỳ sản xuất khi các doanh nghiệp, các nhà sản xuất thực hiện nhập các yếu tố máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, lao động phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Và nó cũng là khâu cuối cùng kết thúc một chu kỳ sản xuất, thu hồi vốn để thực hiện tái sản xuất tiếp theo. Bởi vậy khi thanh toán được tổ chức tốt sẽ có tác dụng rất lớn trong việc thúc đẩy sản xuất - lưu thông phát triển và ngược lại. Vì vậy thanh toán tiền tệ là sự cần thiết khách quan và đóng vai trò quan trọng đối với quá trình sản xuất của nền kinh tế hàng hoá. Nói cách khác nền kinh tế hàng hoá gắn với thanh toán và chu chuyển tiền tệ, kinh tế hàng hoá càng phát triển thì thanh toán chu chuyển tiền tệ càng mở rộng để có thể phục vụ đắc lực cho lưu thông hàng hoá. Sự ra đời và phát triển của tiền tệ gắn với sự ra đời và phát triển của sản xúât hàng hoá. Và quan hệ thanh toán giữa người mua và người bán cũng phát triển theo khi trình độ sản xuất và lưu thông hàng hóa còn ở mức độ thấp khối lượng hàng hoá sản xuất còn ít chưa đa dạng phong phú phạm vi tiêu dùng hàng hoá mới chỉ bó hẹp trong một khu vực một địa phương lúc này phạm vi thanh toán còn hẹp. Thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt tỏ ra rất có hiệu quả, linh hoạt, giúp cho quan hệ giữa người mua và người bán diễn ra một cách nhanh chóng, thuận tiện. Nhưng khi sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển khối lượng sản phẩm được sản xuất và tiêu thụ trên phạm vi rộng khắp không chỉ bó hẹp trong một quốc gia mà vượt ra khỏi phạm vi của một quốc gia làm cho quan hệ thanh toán ngày càng mở rộng và phức tạp vì không chỉ thanh toán nội địa mà cả thanh toán với nước ngoài. Như vậy nền kinh tế ngày càng phát triển thì yêu cầu đối với công tác tổ chức thanh toán ngày càng cao trong khi đó thanh toán bằng tiền mặt ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế: Nó không thể đáp ứng linh hoạt kịp thời và đầy đủ mọi nhu cầu thanh toán. Việc thanh toán một khối lượng hàng hóa lớn cần một lượng tiền mặt lớn làm tăng chi phí vận chuyển, bảo quản và không an toàn; đồng thời thanh toán bằng tiền mặt nó còn làm tăng các chi phí xã hội như: Chi phí in ấn, phát hành, bảo quản, tiêu huỷ tiền nó không chỉ gây ra những bất lợi đối với việc tổ chức điều hành lưu thông tiền tệ của các nhà quản lý mà còn gây ra một sự lãng phí vốn lớn không được tập trung, tận dụng cho việc phát triển kinh tế do lượng vốn lớn của nền kinh tế nằm trôi nổi ngoài lưu thông. Thanh toán bằng tiền mặt đã trở thành vật cản trở cho tốc độ chu chuyển và tuần hoàn vốn của chu kỳ sản xuất. Hơn nữa, nó còn tạo ra những sơ hở khó kiểm soát nổi thuận lợi cho những hành vi tham ô, hối lộ, chiếm đoạt tài sản xã hội, tình trạng trốn thuế ngày càng gia tăng. Trước những thực trạng đó đòi hỏi phải có một phương thức thanh toán tiên tiến hơn, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. Và thanh toán không dùng tiền mặt ra đời đã phát huy tốt lợi thế của nó đó là sự nhanh chóng, tiện lợi an toàn và chính xác hơn nữa lại rất kinh tế: giúp giảm các chi phí vận chuyển, in ấn, phát hành, bảo quản và giúp NHNN thực hiện tốt chức năng quản lý của mình. Đây là phương thức thanh toán không có sự xuất hiện trực tiếp của tiền mặt mà thanh toán bằng cách trích chuyển tiền từ tài khoản của người chi trả và tài khoản của người thụ hướng mở tại ngân hàng hoặc bằng cách thanh toán bù trừ lẫn nhau thông qua vai trò trung gian của ngân hàng. Đây là hình thức thanh toán hiện đại, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và thể hiện sự hoàn thiện của tiền tệ với chức năng là phương tiện thanh toán. Trong quá trình thực hiện chức năng trung gian thanh toán của mình NHTM đã tự tạo ra được các công cụ tài chính thay thể tiền làm phương tiện thanh toán - đáng chú ý nhất là séc một trong những công cụ chủ yếu để tiền vận động qua ngân hàng. Vậy nên cũng có thể coi “séc là tiền” trong quan hệ trao đối hàng hoá. Thật vậy, ta biết rằng từ khi xuất hiện việc mua bán trao đối hàng hoá dịch vụ, tiền - là vật thể trung gian thực hiện thanh toán. Nhà kinh tế Mỹ Frederic S. Mishkin đã định nghĩa rất đơn giản dễ hiểu “tiền là bất cứ cái gì được chấp nhận chung trong việc thanh toán để nhận hàng hoá hoặc dịch vụ hoặc trong việc trả nợ”. Hay nói cách khác, tiền là một vật thể, nếu được mọi người nhận nó trong quá trình thanh toán hàng hoá dịch vụ. Chính từ khái niệm này mà từ thời xa xưa đến nay tiền đã trải qua rất nhiều loại từ vỏ sò, vỏ hến rồi đến kim loại quý như vàng, bạc và hiện nay là tiền giấy. Tiền giấy đang là công cụ thanh toán chủ yếu của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Trong các công cụ thanh toán, séc cũng được coi “như một lọai tiền” nó hoạt động bền vững, hiệu quả bên cạnh tiền giấy. Thế mạnh của tiền giấy thì khỏi phải nói, hầu hết người dân trên toàn khắp thế giới đều rất quen thuộc và chắc chắn nó còn trường tồn trong nền kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, sự phát triển không ngừng của công nghệ mới và tiền - là đối tượng luôn có sự phát triển, thay thể vì nó luôn có hạn chế như mệnh giá hạn chế, các chi phí phát sinh xung quanh việc sử dụng tiền. Séc ra đời và là người đồng hành của tiền làm đa dạng môi trường thanh toán, bổ sung những điều “khiếm khuyết” của tiền, cho dù bản thân séc còn tồn tại nhiều vấn đề khó sửa. Việc đưa séc vào sử dụng trong thanh toán là một điểm mới, có tính chất làm thay đổi hoạt động thanh toán bằng tiền mặt trước đó và cải thiện hệ thống thanh toán. Người ta đã đưa ra 5 “ cái được” và “hai cái chưa được” của séc. - Thứ nhất: Mệnh giá của một tờ séc cao hơn rất nhiều so với một đồng tiền thực thụ. Do đó, khâu bảo quản, kiểm điếm đơn giản, các chi phí liên quan đến thanh toán séc thấp. - Thứ hai: Thông thường trong giao dịch có món thu, món chi (món đi và món về) séc có lợi thể hơn hẳn tiền mặt là khả năng bù trừ rất tốt. Điều này nếu thanh toán bằng tiền mặt sẽ phải chuyển một lượng tiền mặt khả lớn để thanh hàng hoá dịch vụ, đồng thời lại nhận được một lượng tiền mặt không nhỏ khi bán hàng hoá dịch vụ. - Thứ ba: Khi sử dụng séc, giảm thiểu chi phí hành chính, có lợi ích về kinh tế là khá rõ rệt. - Thứ tư: Một tiện lợi khác của séc mà tiền giấy không thể có được đó là khi thanh toán, séc chạy qua ngân hàng, làm tăng khả năng tập trung và vòng quay của vốn, giúp cho việc quản lý, phân tích và xây dựng tốt chính sách tiền tệ quốc gia. - Thứ năm: Séc có tính hơn hẳn hệ thống thanh toán điện tử là có chứng từ gốc. Ngày nay việc áp dụng các công nghệ mới trong thanh toán séc đã sử dụng mã khoá, lưu trử séc thông qua file ảnh, thông tin xử lý thông qua hệ thống truyền thông là những lợi thể không thể phủ nhận đựơc. Tuy nhiên hai cái không được của nó là: Người thụ hưởng séc không được sử dụng ngay số tiền mà khách hàng thanh toán hàng hoá dịch vụ, bởi nó phải chờ đợi sự xác nhận của ngân hàng phát hành séc. Thời gian chậm trể này có thể kéo dài 3-4 ngày có khi lâu hơn. Hạn chế này của séc đã được rút ngắn nhiều nhờ áp dụng công nghệ mới trong chu trình luân chuyển của tờ séc. Tuy vậy, nó vấn là trở ngại chính cho người nhận tiền bằng séc sơ với nhận bàng tiền mặt. Thứ hai, khi thanh toán bằng séc, người thụ hưởng luôn phải xuất trình những giấy tờ tuỳ thân để khẳng định nguồn gốc của séc khi có sự cố, đồng thời phải có một hệ thống pháp lý đầy đủ mới có thể “hợp thức hoá” sự tồn tại của séc, đây cũng là những khó khăn cho việc thanh toán bằng séc. Từ giữa thế kỷ XX séc đã được các nước phát triển sử dụng và mang lại hiệu quả kinh tế rất cao. Hiện nay ở các nước này người dân thích sử dụng séc hơn tiền mặt bởi tính an toàn của nó rất cao “mệnh giá” uyển chuyển và hệ thống thanh toán séc phát triển nhanh, độ trể của séc không làm người nhận khó chịu vì vậy việc sử dụng séc trong hệ thống thanh toán của Việt Nam sẽ là cầu nối thu hút các nhà đầu tư và du lịch nước ngoài. 2. Vai trò của thanh toán bằng séc: TTKDTM có vai trò hết sức quan trọng, có tác dụng hầu hết lên mọi lĩnh vực của nền kinh tế và có tác động không nhỏ đến việc ban hành và thực thi chính sách tiền tệ của NHNN. Hơn nữa nó là một nhân tố không thể thiếu trong việc ổn định và phát triển kinh tế. Séc là một trong những công cụ thanh toán không dùng tiền mặt rất hữu ích, có nhiều lợi thế hơn hẳn so với các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt khác. Sử dụng séc trong thanh toán sẽ mang lại rất nhiều lợi ích cụ thể như sau: 2.1 Đối với khách hàng: -Việc sử dụng séc rất an toàn: Bởi vì nếu sử dụng tiền mặt trực tiếp trong thanh toán thì mức độ rủi ro rất cao: có thể bị mất do trộm, cướp, bị cháy, bị rách. Trong khi áp dụng phương thức thanh toán bằng séc, khách hàng có thể yên tâm trong việc bảo quản, đảm bảo an toàn về số tiền của mình trong ngân hàng. Khi thanh toán thì tiền được chuyển trong hệ thống ngân hàng bằng cách chuyển từ tài khoản này sang tài khoản khác . Nhờ vậy giảm được chi phí bảo quản, vận chuyển tiền; Giảm được mất mát và tổn thất tài sản của khách hàng; Hơn nữa khi đánh mất séc khách hàng có thể báo ngay với ngân hàng để dừng việc thanh toán tờ séc bị mất đó nên sự an toàn trong sử dụng séc là rất cao. - Tính kinh tế, hiệu quả của việc sử dụng séc: Đối với khách hàng mục tiêu cao nhất của họ là tối đa hoá lợi nhuận trong quá trình hoạt động kinh doanh.Việc sử dụng phương thức thanh toán bằng séc giúp họ giảm bớt được rất nhiều chi phí cho sử dụng tiền mặt gây ra nhiều chi vận chuyển, bảo quản...chỉ phải trả một khoản phí nhỏ cho ngân hàng khi thực hiên dịch vụ thanh toán. Giúp cho họ có thể tiết kiệm chi phí tăng lợi nhuận. Mặt khác thanh toán qua ngân hàng không bị giới hạn về mặt địa lý mà khách hàng có thể thực hiện thanh toán mọi lúc, mọi nơi, cả trong nước và quốc tế với tốc độ cực nhanh và chính xác. Điều này có ý nghĩa quan trong giúp cho khách hàng- đặc biệt là doanh nghiệp có thể tập trung hơn vào quá trình sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả hoạt động cho doanh nghiệp. - Sự thuận tiện, linh hoạt: Séc được xem là công cụ thanh toán linh hoạt. Thể hiện ở chổ khách hàng có thể thanh toán với bất cứ số tiền nào và có thể sử dụng các loại séc khác nhau tuỳ thuộc vào nhu cầu của mình. Séc chuyển khoản thì thủ tục phát hành đơn giản, đòi hỏi phải có sự tín nhiệm lẫn nhau, còn séc bảo chi đảm bảo an toàn hơn cho người bán, séc chuyển tiền giúp khách hàng chuyển tiền đến một địa điểm khác mà không phải mang theo một lượng tiền mặt lớn. Rất thuận tiện cho khách hàng khi sử dụng. 2.2 Đối với ngân hàng: Việc cung cấp dịch vụ thanh toán séc giúp ngân hàng mở rộng các hoạt động của mình nói chung và đa dạng hoá các dịch vụ của ngân hàng nói riêng. Nó vừa tạo thu nhập cho ngân hàng vừa giúp cho ngân hàng thực sự trở thành trung tâm thanh toán - là cầu nối giữa các khách hàng của mình. Mặt khác thông qua các tài khoản tiền gửi thanh toán mà khách hàng mở tại ngân hàng và số dư được duy trì trên tài khoản để đáp ứng nhu cầu thanh toán. Ngân hàng có thể tập trung một lượng vốn lớn nhàn rỗi tạm thời để cho vay, đầu tư đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Ngoài ra ngân hàng có thể nắm rõ hơn tình hình tài chính của khách hàng thông qua biến động số dư trên tài khoản tiền gửi của khách hàng. Là cơ sở đánh giá mức độ tin tưởng của ngân hàng đối với khách hàng khi cho vay và theo dỏi quá trình giải ngân, quá trình sử dụng vốn của khách hàng, giảm thiểu rủi ro tín dụng cho ngân hàng. 2.3 Đối với nền kinh tế: Thanh toán bằng séc đã giúp cho vốn luân chuyển nhanh. Từ đó thúc đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển tiền tệ, thúc đẩy sản xuất - lưu thông phát triển. Đồng thời tạo điều kiện cho NHNN quản lý được một cách tổng thể quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Thông qua các công cụ TTKDTM đặc biệt là thanh toán séc NHNN có thể kiểm soát được một lượng tiền trong nền kinh tế cũng như mức tạo tiền của các NHTM, góp phần thực hiện tốt chính sách tiền tệ quốc gia và các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước. Có thể nói rằng séc là một phương tiện thanh toán có vai trò rất lớn trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển. Thế nên tạo cơ sở để cho séc phát huy hết tính ưu việt của nó và để cho séc đi vào trong hoạt động thanh toán của người dân cũng như các tổ chức kinh tế xã hội - như là một “sân chơi” hấp dẫn không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn là một trong những nhân tố thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế đất nước với khu vực và quốc tế. II Một vài nét về séc theo luật séc quốc tế. Séc là một phương tiện thanh toán, đã xuất hiện từ lâu và được sử dụng rất phổ biến trên thế giới- Séc có giá trị thanh toán trực tiếp như tiền tệ, cho nên séc phải có những quy định về nội dung và hình thức theo luật định. Năm 1931 nhiều nước Tư Bản Chủ Nghĩa như: Đức, Pháp, ý, Đan Mach, Hà Lan, Na Uy, Thuỵ Điển, áo, Bồ Đào Nha đã họp ở Giơnevơ để ký một công ước quốc tế về séc. Công ước Giơnevơ về séc năm 1931 được nhiều nước tư bản chủ nghĩa áp dụng. Theo đó séc được định nghĩa như sau: Séc là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do một khách hàng ký phát, ra lệnh cho ngân hàng phục vụ mình trích một số tiền nhất định từ tài khoản của mình để trả cho người thụ hưởng có tên trên séc hoặc cho người cầm séc. Như vậy các chủ thể tham gia thanh toán séc gồm: - Người ký séc: Đó là chủ tài khoản tiền gửi thanh toán ở ngân hàng. - Người thụ lệnh: Ngân hàng (thực hiện về trích tài khoản người phát hành trả cho người thụ hưởng) . - Người thụ hưởng: Người được hưởng số tiền ghi trên tờ séc. Những nội dung ghi chú bắt buộc trên tờ séc Séc phải được làm bằng văn bản và có một hình mẵu nhất định. ở các nước Tư Bản Chủ Nghĩa, ai cũng có quyền phát hành séc nên hình mẫu thế nào là do người phát hành séc quyết định còn ở các nước Xã Hội Chủ Nghĩa, NHNN in mẫu séc thống nhất trong toàn quốc. Các chủ tài khoản muốn phát hành séc thì phải đến ngân hàng xin nhượng séc theo thủ tục của ngân hàng nước sở tại. Nội dung ghi trên tờ séc phải ghi đầy đủ những yếu tố sau: - Phải có tiền đề “séc”: vì nếu không có tiền đề này ngân hàng sẽ từ chối việc thực hiện lệnh của người ký phát. - Lệnh trả tiền vô điều kiện - Số tiền ghi trên tờ séc: phải được ghi rõ ràng, đơn giản, dể nhận biết Số tiền ghi bằng chữ và bằng số phải thống nhất với nhau. Nếu có sự chênh lệch giữa số tiền ghi bằng số và số tiền ghi bằng chữ thì tờ séc vẫn được thanh toán nhưng thường căn cứ vào số tiền ghi bằng chữ hoặc số tiền nhỏ hơn. - Ngày tháng và địa điểm ký phát séc. - Tên người nhận và người trả tiền. - Địa điểm trả tiền. - Chữ ký của người ký phát. Những điều kiện phát hành séc * Người ký séc phải có tiền trên tài khoản mở tại ngân hàng. Số tiền trên tờ séc không vượt qua số dư có trên tài khoản tại ngân hàng Tuy nhiên theo ULC 1931, người ký phát séc có thể phát hành tờ séc mà tại thời điểm đó trên tài khoản của họ không còn đủ số dư, miễn sao vào thời điểm lúc thanh toán séc, trên tài khoản có đủ số tiền là được, nếu không tờ séc đã phát hành vẫn có giá trị thanh toán nhưng người ký phát séc phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. * Thời hạn xuất trình và thời hạn hiệu lực của séc: +Thời hạn xuất trình là thời hạn mà người thụ hưởng phải chuyển giao tờ séc cho ngân hàng theo lệnh để nhận tiền. Trong thời hạn này người phát hành séc phải duy trì số tiền bằng mệnh giá séc, trên tài khoản tiền gửi tại ngân hàng để đảm bảo việc thanh toán cho người hưởng lợi. Theo ULC 1931 thời gian xuất trình được quy định cụ thể: 8 ngày làm việc (nếu séc lưu thông trong phạm vi một quốc gia), 20 ngày làm việc (nếu séc lưu thông giữa các nước trên cùng một lục địa), 70 ngày làm việc (nếu séc lưu thông giữa các nước khác lục địa). Thời hạn xuất trình được tính từ ngày ký phát đến ngày xuất trình séc cho ngân hàng thụ lệnh. + Thời hạn hiệu lực: Là thời hạn mà trong đó ngân hàng vẫn đóng vai trò là người thụ lệnh, thực hiện việc chi trả cho người thụ hưởng. Thời hạn hiệu lực được quy định là 1 năm, kể từ ngày hết hạn xuất trình. Sau khi hết hạn hiệu lực của tờ séc, ngân hàng thụ lệnh không có nghĩa vụ thực hiện việc chi trả. Tuy nhiên, Người ký phát vẫn còn nguyên nghĩa vụ thanh toán tiền trên tờ séc cho người hưởng lợi vì tờ séc vẫn còn hiệu lực pháp lý của một hợp đồng dân sự. Một số loại séc thường sử dụng - Séc vô danh: Là loại séc không ghi tên người hưởng lợi, thường ghi “pay to bearer” ( trả cho người cầm séc). Với loại séc này, ai nắm giữ séc sẽ là người hưởng lợi. Do vậy loại séc này có thể chuyển nhượng dễ dàng bằng cách trao tay. - Séc đích danh: Là loại séc chỉ định cụ thể tên người hưởng lợi, do đó chỉ có người này mới lĩnh được tiền. Loại séc này không chuyển nhượng được. - Séc theo lệnh: Là loại séc có ghi “pay to the orther” (trả theo lệnh) loại séc này có thể chuyển nhượng được bằng thủ tục ký hậu. - Séc ghạch chéo: Là loại séc mà trên mặt trước của nó có hai gạch chéo song song chạy từ góc này sang góc kia của tờ séc.Với hai ghạch chéo này, người ký phát đã chỉ thị cho ngân hàng thụ lệnh chỉ thanh toán cho người thụ hưởng bằng chuyển khoản, không thanh toán bằng tiền mặt. Có hai loại séc gạch chéo: + Séc gạch chéo thông thường:giữa hai ghạch chéo không ghi tên ngân hàng nhận thanh toán. Do vậy, loại này ngân hàng nào cũng có thể thực hiện việc thanh toán. + Séc ghạch chéo đặc biệt: Giữa hai ghạch chéo có chỉ định cụ thể tên của ngân hàng nhận thanh toán cho người hưởng lợi - Séc chuyển khoản: Là loại séc chỉ chuyên dùng làm thanh toán bằng chuyển khoản, không lãnh bằng tiền mặt cũng không chuyển nhượng được. - Séc xác nhận: Là loại séc được ngân hàng xác nhận việc trả tiền. Mục đích của việc xác nhận nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của tờ séc, ngăn chặn việc phát hành séc quá số dư trên tài khoản. - Séc du lịch: Là loại séc do ngân hàng phát hành và được trả tiền tại bất cứ chi nhánh hay đại lý nào của ngân hàng đó. Ngân hàng phát hành séc đồng thời là ngân hàng trả tiền. Người hưởng lợi là khách du lịch có tiền tại ngân hàng phát hành séc. Trên séc du lịch phải có chữ ký của người hưởng lợi khi lĩnh tiền tại ngân hàng được chỉ định, người hưởng lợi phải ký tại chổ để ngân hàng kiểm tra, nếu đúng ngân hàng mới trả tiền. Thời hạn hiệu lực của séc du lịch do ngân hàng phát hành và người hưởng lợi thoã thuận quy định Có thể nói rằng công ước Gơnevơ 1931 ra đời được coi là quy ước chung mang tính quốc tế, điều chỉnh các hành vi và các đối tượng cơ bản có liên quan đến việc sử dụng séc đồng thời nó cũng tạo ra những nền tảng cơ bản về mặt pháp lý để các quốc gia căn cứ vào khi xây dựng luật séc quốc gia. Các nước phát triển thế giới đã có luật séc riêng để điều chỉnh các hoạt động có liên quan đến thanh toán bằng séc, nhưng ở Việt Nam hiện nay séc chỉ mới được điều chỉnh bởi nghị định của Chính Phủ. III. Séc trong thanh toán ở Việt Nam hiện nay : 1 Những quy định chung mang tính nguyên tắc trong thanh toán bằng séc theo nghị định 30/CPngày 09/05/1996 của Chính Phủ và thông tư 07/TT-NH1ngày 27/12/1996 của Thống Đốc NHNN: Séc là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt ra đời gần như sớm nhất, từ lâu đã được sử dụng rộng rãi trong các giao dịch thanh toán - Séc được coi là một công cụ thanh toán truyền thống. Sự lựa chọn séc ở mỗi quốc gia là khác nhau: ở Canada thanh toán bằng séc chiếm 41% về số lượng và 97% giá trị giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt; ở Mỹ thanh toán bằng séc chiếm 71% về số lượng và 11% giá trị thanh toán không dùng tiền mặt...ở các nước này đã có luật séc để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình thanh toán. Đối với Việt Nam việc sử dụng séc đã có từ rất lâu ngay từ thời kinh tế tập trung, tuy nhiên hình thức thanh toán này cho đến nay vẫn chưa được phổ biến lắm, chưa có một luật séc chính thức điều chỉnh các quan hệ trong thanh toán bằng séc. Hiện nay việc thanh toán bằng séc thực hiện theo nghị định 30/CP của Chính phủ ngày 09/5/1996 về quy chế phát hành và sử dụng séc (kèm theo nghị định này là thông tư số 07/TT-NH1 ngày 27/12/1996 của thống đốc NHNN hưởng dẫn thực hiện quy chế phát hành và sử dụng séc). Theo đó séc được định nghĩa như sau: “séc là lệnh trả tiền vô điều kiện của người phát hành lập trên mẫu in sẵn do ngân hàng nhà nước quy định, yêu cầu đơn vị trả tiền trích một số tiền nhất định từ tài khoản của người phát hành để trả cho người thụ hưởng có tên ghi trên séc hoặc người cầm séc”. Như vậy trong quan hệ thanh toán séc gồm có các chủ thể: - Người phát hành séc: Là chủ tài khoản hoặc người được chủ tài khoản uỷ quyền ký trên séc. - Người thụ hưởng séc: Là người có quyền sở hữu số tiền ghi trên séc (đối với séc ký danh là người có tên trên séc, đối với séc vô danh là người cầm séc). - Người chuyển nhượng séc: Là người thụ hưởng chuyển quyền sở hưu số tiền ghi trên séc của mình cho người khác. - Đơn vị trả tiền: Là đơn vị giữ tài khoản tiền gửi thanh toán của người phát hành séc, được phép làm dịch vụ hoặc nhiệm vụ thanh toán theo quy định của Chính phủ. - Đơn vị thu hộ: Là đơn vị cùng hoặc khác hệ thống với đơn vị thanh toán, được phép làm dịch vụ hoặc nhiệm vụ thanh toán theo quy định của Chính phủ, nhận các tờ séc do người thụ hưởng nộp vào để thu hộ tiền. Theo nghị đinh quy định Séc được phát hành từ tài khoản tiền gửi thanh toán không được phép phát hành từ tài khoản tiền vay. Chủ tài khoản chỉ được phép phát hành séc trong phạm vi số dư tài khoản tiền gửi của mình tại ngân hàng, nếu phát hành quả số dư thì ngân hàng sẽ xử phạt theo quy định về vi phạm hợp đồng thanh toán như sau: + Nếu vi phạm lần đầu, phạt tiền theo quy định xử phạt hợp đồng và có công văn nhắc nhở để tránh tái phạm. + Vi phạm lần thứ hai, ngoài việc phạt tiền như lần đầu còn bị đình chỉ quyền phát hành séc trong 6 tháng và thu hồi toàn bộ số séc chưa sử dụng của cá nhân, tổ chức vi phạm. Sau đó phải có cam kết không tái phạm của chủ tài khoản thì mới được khôi phục quyền phát hành séc. Danh sách những tổ chức và cá nhân bị cấm phát hành séc phải được thông báo trong toàn hệ thống ngân hàng thương mại. Nếu vẫn tái phạm sẽ bị cấm phát hành séc vĩnh viễn. Thời hạn hiệu lực thanh toán của tờ séc là 15 ngày kế từ ngày ký phát cho tới khi séc được nộp vào đơn vị thanh toán hoặc đơn vị thu hộ, thời gian này bao gồm cả ngày nghỉ hàng tuần và ngày lễ. Nếu ngày kết thúc thời hạn là ngày nghỉ hàng tuần hoặc ngày lễ lớn thì được tính bù vào ngày làm việc tiếp theo. Nếu vì lý do khách quan séc không được nộp đúng thời hạn hiệu lực thanh toán, phải có giấy xác nhận của chính quyền địa phương nơi người thụ hưởng cư trú. Séc được thanh toán theo nguyên tắc ghi nợ tài khoản người phát hành trước, ghi có tài khoản người thụ hưởng sau. Trong trường hợp có nhiều tờ séc đã phát hành nộp vào cùng một thời điểm nhưng số dư trên tài khoản của người ký phát không đủ để thanh toán tất cá các tờ séc đó, ngân hàng sẽ xử lý theo trình tự các tờ séc đã phát hành trước sẽ được thanh toán trước tức căn cứ vào số seri của các tờ séc đã phát hành. 1.1. Quy định đổi với nội dung và hình thức của tờ séc: Hình thức của tờ séc phải đựơc thiết kế theo mẫu thống nhất do NHNN quy định. Nội dung tờ séc phải được in và ghi bằng tiếng Việt Nam, trường hợp séc có yếu tố nước ngoài thì được dùng thêm tiếng nước ngoài bằng cách ghi tiếng nước ngoài ở phía dưới với cở chữ nhỏ hơn. Các yếu tố trên tờ séc bao gồm: - Chữ “séc” đựoc in bằng chữ in hoa - Số séc: Được in cả ở tờ séc và cuống séc - Lệnh trả tiền được in dưới dạng: “ yêu cầu trả cho…” - Họ tên, địa chỉ, số hiệu tài khoản của người thụ hưởng - Số tiền bằng số và bằng chữ - Họ tên địa chỉ số hiệu tài khoản của người phát hành - Nơi và ngày ký phát séc - Chữ ký, con dấu (nếu có) của người phát hành séc Mặt sau của tờ séc dùng để quy định việc chuyển nhượng và lĩnh tiền mặt. Mẫu séc đựơc cụ thể hoá như sau: Mặt trước của tờ séc Phần cuống séc Số tiền bằng số Bảo chi Ngày …tháng ....năm Ký tên đóng dấu Phần dành cho ngân hành ghi TK nợ TK có Số séc Số tiền.... Trả cho…… Số CMT..... Ngày cấp....nơi cấp..... Địa chỉ ..... Tại......... Ngày tháng năm Chủ tài khoản Tên TCTD, KBNN (Tên, địa chỉ của đơn vị thanh toán) Yêu cầu trả cho ....... SốCMT ....ngày cấp....nơi cấp.... Địa chỉ..... Số hiệu tài khoản ..... Tại .......... Số tiền bằng chữ....... Người phát hành ..... Địa chỉ ............. Số hiệu tài khoản............ Mặt sau của tờ séc Phần quy định cho việc chuyện nhượng 1.Chuyển nhượng cho ...........ngày .....tháng.....năm.... Ký tên, đóng dấu 2.Chuyển nhượng cho........ngày......tháng.....năm...... Ký tên, đóng dấu Phần quy định dùng cho lĩnh tiền mặt Họ và tên người lĩnh tiền.............. Số chứng minh thư (hộ chiếu)........ngày cấp......nơi cấp Ngày tháng năm Người nhận tiền Thủ quỹ Kế toán Kế toán trưởng Ta thấy rằng tờ séc của Việt Nam hiện nay còn quá nhiều yếu tố phải ghi so với mẫu mã séc, do đó chưa thật sự tiện lợi cho người thụ hưởng 1.2 Quy định về quyền và nghĩa vụ của người phát hành séc: Quyền: + Chủ tài khoản được phép uỷ quyền cho người khác phát hành séc thay mình. + Người phát hành được quyền yêu cầu đơn vị thanh toán bảo chi tờ séc phát hành. Nghĩa vụ: + Đảm bảo trả toàn bộ số tiền ghi trên tờ séc. Nếu trên tài khoản tiền gửi không đủ số dư để thanh toán séc đã phát hành dẫn đến tờ séc bị từ chối thanh toán, người phát hành séc phải chịu trách nhiệm thanh toán tờ séc đó và những khoản tiền phạt, chi phí phát sinh liên quan đến việc khiếu nại và khởi kiện. + Nếu làm mất séc phải thông báo ngay cho đơn vị thanh toán. Nếu séc đã bị lợi dụng rút tiền tại đơn vị thanh toán trước khi đơn vị thanh toán nhận được thông báo mất séc thì người làm mất séc phải chịu mọi thiệt hại. 1.3 Đối với người thụ hưởng séc: Quyền: + Người thụ hưởng séc có quyền trực tiếp nộp séc cho đơn vị thanh toán hoặc thông qua đơn vị thu hộ để đòi thanh toán. + Người thụ hưởng séc có quyền chuyển nhượng tờ séc cho người khác bằng cách ký tên vào nơi quy định cho việc chuyển nhượng ở mặt sau của tờ séc, trừ trường hợp người phát hành đã ghi cụm từ “không được phép chuyển nhượng”. + Người thụ hưởng có quyền yêu cầu được thanh toán bằng séc bảo chi. + Khi séc bị từ chối thanh toán, người thụ hưởng có quyền yêu cầu đơn vị thanh toán xác nhận lý do, người thụ hưởng có quyền truy đòi người phát hành séc và những người chuyển nhượng để đòi số tiền ghi trên séc. Sau khi gửi thông báo truy đòi, nếu không đồng ý thì người thụ hưởng séc có quyền khởi kiện trước toà đối với một hoặc tất cả những người có trách nhiệm đối với séc. Nghĩa vụ: + Khi ký chuyển nhượng séc phải chuyển nhượng toàn bộ số tiền trên séc. + Đối với séc ký danh, người nhận chuyển nhượng khi nhận séc phải kiểm tra tính liên tục của dãy chữ ký chuyển nhượng. + Người thụ hưởng séc khi làm mất séc phải báo ngay cho đơn vi thanh toán và người phát hành séc. Người thông báo mất séc, phải chịu trách nhiệm về tính trung thực của việc thông báo mất séc. Nếu việc thông báo mất séc trước khi séc bị lợi dụng rút tiền thì sẽ được đơn vị thanh toán bồi thường._.. 1.4. Đối với đơn vị thanh toán Đơn vị thanh toán có quyền từ chối thanh toán séc theo các trường hợp đã quy định rõ trong nghi định 30/CP của Chính Phủ, đơn vị thanh toán có quyền kiện các cá nhân, tổ chức có hành vi gây thiệt hại cho đơn vị thanh toán và đòi bồi thường thiệt hại mà họ đã gây ra cho đơn vị mình. Nghĩa vụ của họ là phải kiểm tra tính hợp lệ của tờ séc, tính liên tục của dãy chữ ký đối với tờ séc ký danh. Đối với tờ séc hợp lệ đơn vị thanh toán phải có trách nhiệm thanh toán cho khách hàng nếu trên tài khoản của khách hàng đủ số dư, nếu thanh toán chậm gây thiệt hại cho người thụ hưởng đơn vị thanh toán phải bồi thường. 1.5 Đối với đơn vị thu hộ: Đơn vị thu hộ có quyền thu phí dịch vu thanh toán séc theo quy định của NHNN và không phải hoàn trả các khoản này khi séc phải từ chối thanh toán. Họ có quyền từ chối nhận séc trong trường hợp séc không hợp lệ, séc đã hết thời hạn hiệu lực thanh toán. Tuy nhiên họ phải có nghĩa vụ: kiểm tra tính hợp lệ của tờ séc, sau khi nhận séc đơn vị thu hộ phải nộp séc ngay cho đơn vị thanh toán. Nếu nộp séc hộ gây thiệt hại cho người thụ hưởng, đơn vị thu hộ phải bồi thường. Nếu vì lý do bất khả kháng, đơn vị thu hộ không thể nộp séc ngay thì sau khi khắc phục xong sự cố phải nộp séc ngay cho đơn vị thanh toán kèm theo xác nhận lý do bất khả kháng của uỷ ban nhân dân xã, phường nơi đơn vị thu hộ đóng trụ sở. 1.6 Các quy định về thủ tục phát hành và thanh toán séc -Thủ tục phát hành séc: Chủ tài khoản khi có nhu cầu thanh toán bằng séc phải mua séc trắng từ ngân hàng nơi mình mở tài khoản mỗi lần mua tối đa là 3 quyển, khi muốn phát hành séc phải ghi đầy đủ các yếu tố trên séc đúng nơi quy định; viết trên tờ séc bằng loại mực khó tẩy xoá, không viết bằng bút chì, bút đỏ, không được sữa chữa tẩy xoá, số tiền ghi đúng nơi quy định, phải khớp đúng giữa số tiền bằng chữ và bằng số (nghị định đã không nêu rõ cách giải quyết trong trường có sai lệch giữa số tiền bằng chữ và bằng số ghi trên séc). Trong trường hợp uỷ quyền ký phát séc, chỉ có chủ tài khoản mới được phép uỷ quyền cho người khác phát hành séc. Người được uỷ quyền không được uỷ quyền lại cho người khác. Chủ tài khoản không được ký tên đóng dấu vào các tờ séc chưa ghi đầy đủ các yếu tố (tờ séc ký khống chỉ) để tránh bị lợi dụng. Trường hợp phát hành séc chỉ để thanh toán bằng chuyển khoản, người phát hành séc gạch hai gạch chéo song song phía trên góc trái của tờ séc hoặc viết tay đóng dấu từ “chuyển khoản” lên tờ séc khi trao séc cho người thụ hưởng. Nếu phát hành séc không được chuyển nhượng thì người phát hành séc phải ghi cụm từ “không được chuyển nhượng séc” vào mặt sau tờ séc phần quy định việc chuyển nhượng. Thủ tục chuyển nhượng séc : Việc chuyển nhượng séc phải được thực hiện trong thời hạn hiệu lực thanh toán của tờ séc. Khi chuyển nhượng tờ séc ký danh thì người chuyển nhượng phải ghi đầy đủ các yếu tố theo đúng quy định trong chuyển nhượng và ký hậu vào mặt sau tờ séc, theo quy định hiện nay một tờ séc không được chuyển nhượng quá hai lần. Đối với séc vô danh thì có thể chuyển nhượng được bằng hình thức trao tay mà không phải làm thủ tục ký hậu và không hạn chế số lần sử dụng. Nếu trường hợp người chuyển nhượng muốn chất dứt việc chuyển nhượng tiếp theo thì ghi trước chữ ký của mình cụm từ “không tiếp tục chuyển nhượng” Thủ tục nộp séc : + Đối với séc chuyển khoản: người thụ hưởng phải lập 3 liên bảng kê nộp séc kèm theo tờ séc để nộp vào đơn vị thu hộ hoặc đơn vị thanh toán trong thời hạn hiệu lực thanh toán. Khi lập BKNS, người thụ hưởng phải ghi đầy đủ, rõ ràng các yếu tố, quy định trong bảng kê, không được sữa chữa hoặc tẩy xoá + Đối với séc lĩnh tiền mặt: người thụ hưởng chỉ được nộp séc rút tiền mặt tại đơn vị thanh toán. Người thụ hưởng phải ghi rõ họ tên, số CMT của người lĩnh tiền vào phần quy định dùng cho lĩnh tiền mặt ở mặt sau của tờ séc. Thủ tục thanh toán séc: - Nếu séc thanh toán cùng hệ thống thì thủ tục thanh toán séc do tổng giám đốc các TCTD, tổng giám đốc KBNN hướng dẫn cụ thể và tổ chức thực hiện đối với các đơn vị trực thuộc và khách hàng của mình, đảm bảo việc thanh toán séc được kịp thời, nhanh chóng, chính xác, an toàn tuân thủ các quy định hiện hành. - Nếu séc thanh toán giữa các đơn vị khác hệ thống trên cùng địa bàn tỉnh, thành phố có tham gia thanh toán bù trừ thì áp dụng quy trình thanh toán bù trừ theo quy định của NHNN. 2. Các loại séc thanh toán ở Việt Nam hiện nay: 2.1 Séc chuyển khoản: Séc chuyển khoản là tờ séc do chủ tài khoản phát hành và trao trực tiếp cho người thụ hưởng khi nhân hàng hoá- dịch vụ. Séc chuyển khoản là loại séc được sử dụng rộng rãi, có giá trị thanh toán trực tiếp như tiền tệ, do trên tờ séc phải có đầy đủ các yếu tố bắt buộc theo nghị định 30/CP. Khi sử dụng người phát hành séc chỉ phải điền vào những chổ quy định bằng mực không phai. Việc ghi trên tờ séc phải đảm bảo tính hợp pháp, hợp lệ đối với việc sử dụng séc. Séc chuyển khoản chỉ được sử dụng khi bên bán tín nhiệm bên mua về khả năng thanh toán. Thời hạn hiệu lực của séc chuyển khoản 15 ngày theo lịch. Phạm vi áp dụng của séc chuyển khoản: áp dụng khi người mua và người bán cùng mở tài khoản tại một ngân hàng hoặc khác ngân hàng nhưng tham gia thanh toán bù trừ trên cùng một địa bàn tỉnh, thành phố. Việc hạch toán thanh toán séc chuyển khoản phải tuân theo nguyên tắc ghi nợ tài khoản người phát hành trước, ghi có cho tài khoản người thụ hưởng sau. Các chứng từ kèm theo để hạch toán là các bảng kê nộp séc và tờ séc chuyển khoản được dùng làm chứng từ gốc. Ưu điểm của việc sử dụng séc chuyển khoản đó là người mua có thể ký phát séc để thanh toán cho người bán ngay tại nơi diễn ra giao dịch mua bán mà không cần phải đến ngân hàng làm bất cứ thủ tục gì. Tuy nhiên, quy trình thanh toán séc chuyển khoản rất phức tạp, vòng vèo: Khi người thụ hưởng nộp séc vào ngân hàng phục vụ mình, ngân hàng kiểm tra tính hợp lệ của tờ séc rồi mới chuyển sang cho ngân hàng phục vụ người mua để ghi nợ trước; Hơn nữa phạm vi thanh toán của séc chuyển khoản còn rất hạn hẹp chưa đáp ứng được như cầu của thanh toán trong nền kinh tế thị trường. Việc sử dụng séc chuyển khoản trong thanh toán rất dễ xảy ra tình trạng phát hành quá số dư, mà nếu điều đó xảy ra thì cả người thụ hưởng và người phát hành đều bị ảnh hưởng (người thụ hưởng sẽ không được thanh toán kịp thời gây cản trở cho quá trình luân chuyển vốn của họ còn người phát hành sẽ phải chịu một mức phạt lớn đồng thời ảnh hưởng đến uy tín của chính họ trong quan hệ thanh toán với bạn hàng). Dẫn đến việc phát hành séc chuyển khoản chỉ để thanh toán những món hàng có doanh số nhỏ. - Thủ tục thanh toán séc chuyển khoản: Người thụ hưởng lập 3 liên bảng kê nộp séc kèm theo tờ séc chuyển khoản nộp vào ngân hàng nơi mình mở tài khoản để yêu cầu thanh toán. + Trường hợp người thụ hưởng và người ký phát cùng mở tài khoản tại một ngân hàng: Khi nhân được BKNS kèm theo tờ séc của khách hàng ngân hàng sẽ tiến hành kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của tờ séc và BKNS, kiểm tra số dư trên tài khoản của người ký phát. Nếu thoã mãn điều kiện thanh toán thì ngân hàng sẽ tiến hành thanh toán cho khách hàng. Sơ đồ luân chuyển chứng từ như sau: Người phát hành Người thụ hưởng Ngân hàng (1) (2) (4) (3) (5) Chú giải: Người bán giao hàng hoá dịch vụ cho người mua. Người mua ký phát séc trao cho người bán. Người thụ hưởng lập bảng kê nộp séc kèm tờ séc gửi vào ngân hàng Ngân hàng báo nợ cho người mua bằng bản sao sổ phụ. Báo có cho người bán bằng một liên bảng kê nộp séc. Kế toán ghi: Nợ TK: TG người phát hành séc: Số tiền ghi trên séc Có TK: TG người thụ hưởng séc: Số tiền ghi trên séc + Nếu người thụ hưởng và người ký phát mở tài khoản tại hai ngân hàng khác nhau có tham gia thanh toán bù trừ trên cùng một địa bàn tỉnh, thành phố. Sơ đồ luân chuyển chứng từ Người phát hành Người thụ hưởng Ngân hàng phục vụ người phát hành Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng (1) (2) (6) (3+4) (3) (7) (5) (4) Chú giải: Người bán trao hàng hoá- dịch vụ cho người mua. Người mua ký phát séc trao cho người bán. Người thụ hưởng lập 3 BKNS kèm tờ séc gửi vào ngân hàng phục vụ mình. Ngân hàng của người thụ hưởng kiểm tra tính hợp lệ của BKNS kèm tờ séc rồi gửi cho ngân hàng của người phát hành . (3+4) Người thụ hưởng nộp thẳng 3 liên BKNS kèm tờ séc đến ngân hàng của người phát hành xin thanh toán. Ngân hàng phục vụ người phát hành sau khi kiểm tra tính hợp pháp hợp lệ của tờ séc và hai liên bảng kê nộp séc, kiểm tra số dư trên tài khoản tiền gửi của khách hàng sẽ lập 2 liên bảng kê thanh toán bù trừ. Kế toán ghi: Nợ TK: TG của người phát hành :căn cứ vào tờ séc Có TK: TTBT : căn cứ vào 1 liên TTBT. Sau đó ngân hàng phục vụ người phát hành gửi 2 liên BKNS và một liên TTBT sang ngân hàng phục vụ người thụ hưởng qua trung tâm thanh toán bù trừ. Ngân hàng của người phát hành báo nợ bằng bản sao sổ phụ. Tại ngân hàng của người thụ hưởng khi nhận được chứng từ sẽ tiến hành hạch toán. Nợ TK: TTBT : căn cứ vào một liên thanh toán bù trừ. Có TK: TG của người thụ hưởng : căn cứ vào BKNS. Đồng thời báo có cho người thụ hưởng bằng một liên BKNS . 2.2 Séc bảo chi: Séc bảo chi là tờ séc do chủ tài khoản phát hành được ngân hàng đảm bảo chi trả lập theo mẫu séc chuyển khoản. Trong trường hợp này người phát hành séc phải lưu ký trước một số tiền đúng bằng số tiền ghi trên tờ séc vào một tài khoản riêng để ngân hàng làm thủ tục bảo chi trược khi giao séc cho khách hàng. Séc bảo chi được sử dụng trong trường hợp không có sự tín nhiệm về khả năng thanh toán giữa các bên giao dịch với nhau. Hoặc khi các bên mới tạo lập quan hệ kinh tế. Phạm vi áp dụng của séc bảo chi: séc bảo chi được sử dụng trong trường hợp người mua và người bán mở tài khoản tại cùng một ngân hàng, khác ngân hàng cùng hệ thống, khác ngân hàng khác hệ thống có tham gia thanh toán bù trừ trên cùng một địa bàn tỉnh thành phố, các khách hàng có tài khoản tại các ngân hàng khác nhau nhưng thuộc cùng một hệ thống và không cùng điạ bàn tỉnh, thành phố. Về kế toán thanh toán séc bảo chi có thể ghi có cho tài khoản của người thụ hưởng trước, ghi nợ tài khoản người phát hành sau (về thực chất vẫn theo nguyên tắc ghi nợ trước có sau bởi trước khi giao séc bảo chi cho người thụ hưởng thì người phát hành séc đã phải làm thủ tục bảo chi bằng cách trích tiền từ tài khoản tiền gửi thanh toán của mình để lưu ký vào tài khoản tiền gửi đảm bảo thanh toán séc bảo chi). Việc ghi có ngay cho người thụ hưởng do ngân hàng phục vụ người thụ hưởng quyết định. Ưu điểm lớn nhất của séc bảo chi là người bán ngoài việc được đảm bảo thanh toán mà thời gian thanh toán nhanh vì séc bảo chi được phép ghi vào tài khoản người thụ hưởng trước nên quy trình luân chuyển chứng từ một chiều sẽ bớt phức tạp rườm rà. Nhược điểm của séc bảo chi là thủ tục phát hành quá rườm rà, phức tạp, người phát hành phải đến ngân hàng để làm thủ tục bảo chi tờ séc và không được hưởng lãi hoặc lãi rất thấp trên só tiền lưu ký đảm bảo khả năng thanh toán, mặt khác phạm vi thanh toán của séc bảo chi vẫn còn hẹp chưa đáp ứng được nhu cầu thanh toán cho nền kinh tế. Thủ tục thanh toán séc bảo chi + Trường hợp: Người thụ hưởngvà phát hành cùng mở tài khoản tại cùng một ngân hàng: Sơ đồ luân chuyển chứng từ và bút kế toán tương tự như séc chuyển khoản. Khi người phát hành muốn được bảo chi phải phát hành tờ séc có ghi đầy đủ các yếu tố và 2 liên “ giấy yêu cầu bảo chi séc” theo mẫu quy định nộp váo ngân hàng. Lúc này đơn vị thanh toán kiểm soát đối chiếu “giấy yêu cầu bảo chi séc” và tờ séc, số dư trên tài khoản của người phát hành nếu đủ điều kiện sẽ phát hành: Số ký hiệu tài khoản nợ và có lên các liên “giấy yêu cầu bảo chi”, ghi ngày, tháng, năm và ký tên đóng dấu của đơn vị thanh toán và nơi thanh toán cho việc bảo chi ở mặt trước tờ séc sau đó giao tờ séc đã bảo chi cho khách hàng. Kế toán ghi: Nợ TK: TG của người phát hành Có TK: TG đảm bảo thanh toán séc bảo chi Khi công nghệ ngân hàng phát triển có thể sử dụng nghiệp vụ khoanh tài khoản. + Trường hợp người phát hành và người thụ hưởng mở tài khoản tại các ngân hàng cùng một hệ thống. Sơ đồ luân chuyển chứng từ: Người phát hành Người thụ hưởng Ngân hàng phục vụ người phát hành Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng (1) (2) (5) (3) (6) (4) Chú giải: Hàng hoá - dịch vụ Séc bảo chi 3 liên BKNS + tờ séc Giấy bảo liên hàng + tờ séc Báo nợ bằng bản sao số phụ Báo có bằng một liên BKNS Tại ngân hàng của người thụ hưởng sau khi nhận được 3 liên BKNS kèm tờ séc bảo chi của khách hàng thì lập giấy bảo liên hàng và gửi kèm theo tờ séc ngân hàng người phát hành. Kế toán ghi : Nợ TK: Liên hàng đi: Căn cứ vào giấy bảo liên hàng Có TK: TG của người thụ hưởng: Căn cứ vào một liên BKNS Tại ngân hàng phục vụ người phát hành khi nhận được chứng tư do ngân hàng của người thụ hưởng gửi đến kế toán ghi: Nợ TK: TG đảm bảo thanh toán séc bảo chi: Căn cứ vào tờ séc Có TK: liên hàng đến: Căn cứ vào giấy báo liên hàng Sau đó báo có cho bên bán bằng một liên bảng kê Ngân hàng của người phát hành báo nợ cho người phát hành bằng bản sao sổ phụ . + Trường hợp người phát hành và người thụ hưởng mở tài khoản tại hai ngân hàng khác hệ thống có tham gia thanh toán bù trừ trên cùng một địa bàn tỉnh, thành phố. Đối với trường hợp này giống với nguyên tắc hạch toán của séc chuyển khoản tức là ghi nợ tài khoản người phát hành trước ghi có tài khoản người thụ hưởng sau (sơ đồ luân chuyển chứng từ hoàn toàn tương tự như đối với séc chuyển khoản). Thanh toán bằng séc bảo chi không xảy ra tình trạng phát hành quá số dư, doanh số của mỗi món thanh toán thường rất lớn. Như vậy, so với QĐ 22/ QĐ - NH1 ngày 21/2/1994 và Thông tư hướng dẫn số 08/TT-NH2 ngày 2/6/1994 Quy định séc thanh toán gồm 4 loại: Séc chuyển khoản, séc bảo chi, séc định mức, séc cá nhân. Thì Nghị định 30/CP ngày 9/5/1996 và Thông tư số 07/TT-NH1 ngày 27/12/1996 có nhiều điểm tiến bộ hơn rất nhiều. Cụ thể quy định séc thanh toán bao gồm séc chuyển khoản và séc bảo chi. Trong quy định 22/QĐ-NH1 séc chỉ là séc ký danh và không được chuyển nhượng còn theo Nghị định 30/CP séc bao gồm cả séc ký danh và séc vô danh, séc có quyền được chuyển nhượng trong thời hạn hiệu lực và phạm vi thanh toán. Việc tờ séc được chuyển nhượng không phải là điều mới lạ đối với séc trên thế giới nhưng lại hoàn toàn mới mẽ đối với Việt Nam điều đó chứng tỏ Nghị định 30 cũng đã dần đựơc chuẩn mực theo thông lệ quốc tế. Bởi khi tờ séc được chuyển nhượng sẽ làm giảm bớt được thời gian của cả ngân hàng và khách hàng trong việc làm thủ tục phát hành và thanh toán séc, từ đó góp phần đẩy nhanh chu chuyển vốn tiền tệ trong nền kinh tế. Mặt khác, theo Quyết đinh 22/QĐ-NH1 thời hạn hiệu lực của séc rất phức tạp và thay đổi theo từng loại séc: Thời hạn hiệu lực tối đa đối với séc chuyển khoản là 10 ngày làm việc kể từ ngày phát hành séc, đối với séc bảo chi là 15 ngày kế từ ngày bảo chi séc, với số séc định mức là 30 ngày kể từ ngày mở đối với séc cá nhân là 10 ngày. Trong khi đó theo Nghị đinh 30 /CP quy định chung thời hạn hiệu lực cho cả hai loại séc chuyển khoản và séc bảo chi là 15 ngày theo lịch. Tuy nhiên theo số liệu thống kê cho thấy tỷ trọng thanh toán bằng séc trong TTKDTM rất nhỏ chứng tỏ rằng thanh toán bằng séc ở nước ta chưa phải là một hình thức thanh toán được các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và dân cư chấp nhận sử dụng một cách phổ biến và rộng rải. 3. Những yếu tố tác động tới thanh toán séc. 3.1. Yếu tố kinh tế: Một nền kinh tế phát triển tất yếu sẽ cho ra đời những sản phẩm thanh toán tiên tiến, hiện đại phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi và trình độ phát triển của nền kinh tế đó. Vì vậy mà khi nền kinh tế còn yếu kém thì sẽ không có đủ cơ sở cho sự ra đời và ứng dụng các hình thức thanh toán hiện đại. Thì việc sử dụng các công cụ thanh toán truyền thống sao cho tối ưu và phù hợp nhất với thực trạng nền kinh tế vấn là một vấn đề rất đáng quan tâm ở nước ta hiện nay. Nhận thức được vấn đề này đối với Việt Nam hiện nay là một điều hết sức có ý nghĩa bởi khi điều kiện để phát triển các hình thức thanh toán hiện đại chưa đầy đủ, chi phí cho việc xây dựng cơ sở vật chất rất tốn kém, trong khi thu nhập của người dân còn rất thấp, mạng lưới thanh toán còn mỏng và hạn chế. Thì bên cạnh việc chuẩn bị cơ sở cho các phương tiện thanh toán hiện đại phải biết khai thác triệt để những thế mạnh của các công cụ truyền thống. Trong đó séc vẫn là một công cụ thanh toán hữu ích và cần phải mở rộng hơn nữa vì nó vừa rất phù hợp với điều kiện nền kinh tế hiện nay ở nước ta vừa mang lại lợi ích lớn cho cả khách hàng ngân hàng và nền kinh tế. 3.2 Yếu tố pháp lý: Thanh toán bằng séc được tiến tiến hành bằng cách trích tiền từ tài khoản của người chi trả vào tài khoản của người thụ hưởng hoặc bằng cách bù trừ lẫn nhau thông qua vai trò trung gian của ngân hàng. Như vậy vai trò làm trung gian thanh toán của ngân hàng là giữ tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng và thực hiện thanh toán hộ, do đó ngân hàng phải đảm bảo an toàn vốn, thanh toán đầy đủ, kịp thời, chính xác cho khách hàng. Vì vậy đòi hỏi công tác thanh toán phải tuân thủ các quy định, chế độ, thể lệ thanh toán do các cơ quan có thẩm quyền ban hành. Hiện nay các nước phát triển trên thế giới đều có lụât séc để điều chỉnh các hình vi và đối tượng có liên quan đến việc sử dụng séc. Nếu như các văn bản, chế độ, thể lệ, quy định được ban hành có tính khả thi cao, tính pháp lý vững chắc, đảm bảo quyền lời và nghĩa vụ của những người tham gia sử dụng séc thì sẽ khiến cho họ yên tâm và tin tưởng hơn vào hình thức thanh toán này. Thực tế cho thấy ở nước ta hiện nay vấn đề kỷ luật thanh toán chưa được thực hiện chặt chẽ, nhiều ngân hàng không thực hiện việc xử phạt vi phạm hoặc xử phạt rất nhẹ do đó nhiều khách hàng đã lợi dụng vào đó để chiếm dụng vốn của bạn hàng, gây ách tắc trong thanh toán, gây thiệt hại đến các bên tham gia giao dịch. Vì vậy đã làm cho việc sử dụng séc trong thanh toán rất khó khăn người bán không muốn tiếp nhận séc. Do đó, đòi hỏi phải có một chế tài xử phạt vi phạm được quy định văn bản, rồi việc ban hành các quy định mang tính pháp lý phải phù hợp với sự biến động của nền kinh tế cũng như phù hợp với mặt bằng dân trí ở nước ta hiện nay là vô cùng quan trong nó quyết định đến sự phát triển của thanh toán bằng séc và ngược lại. 3.3 Yếu tố con người: Có thể nói rằng con người là yếu tố quyết định trong bất cứ hoạt động kinh tế xã hội nào, con người chính là yếu tố quyết định tới sự phát triển của hệ thống TTKDTM bởi không có con người thì sẽ không có hoạt động giao dịch nào diễn ra. Con người có ảnh hưởng tới thanh toán qua ngân hàng trên các góc độ khác nhau: -Đối với khách hàng: yếu tố tâm lý, trình độ dân trí, thu nhập…của khách hàng ảnh hưởng rất lớn đến việc sử dụng các hình thức TTKDTM. ở Việt Nam, do hạn chế trình độ, thu nhập dân cư còn thấp hơn nữa thói quen sử dụng tiền mặt trong thanh toán rất khó thay đổi, do vậy tỷ trọng thanh toán bằng séc trong nền kinh tế vẫn còn thấp; Người dân chưa hiểu biết nhiều về thanh toán bằng séc cũng như các tiện ích của nó mang lại, nên séc chưa phải là công cụ thanh toán hấp dẫn dân cư. Nhiệm vụ của ngân hàng là phải thực hiện các biện pháp marketing trong dân cư để cho họ thấy được tiện ích của việc sử dụng séc trong thanh toán hàng ngày. Đối với ngân hàng: nếu ngân hàng có được một đội ngũ cán bộ giỏi được đào tạo tốt, có trình độ, có đạo đức, phục vụ khách hàng nhiệt tình, chu đáo, nhanh chóng sẽ giúp cho họ có được mối quan hệ tốt với khách hàng, sẽ thu hút được nhiều khách hàng đến ngân hàng để sử dụng các dịch vụ thanh toán. Để năng cao uy tín của mình trên thương trường ngân hàng phải có đội ngũ cán bộ có năng lực trình độ, có kiến thức về khoa học kỷ thuật để triển khai tốt phương thức thanh toán hiện đại. 3.4 Yếu tố khoa học công nghệ: Sự tiến bộ của khoa học công nghệ đã làm thay đổi diện mạo của toàn thế giới - Việc ứng dụng công nghệ tin học trong các hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng đã mang lại những kết quả hết sức to lớn và có ý nghĩa vô vùng quan trọng đối với mọi quốc gia. Một trong những kết quả đạt được đó là công tác thanh toán qua ngân hàng đã vượt qua phạm vi một quốc gia thậm chí mở rộng ra cả khu vực và toàn cầu. Nhờ áp dụng nhiều tiến bộ khoa học công nghệ đặc biệt là sự tiến bộ vượt bậc của công nghệ ngân hàng, công tác thanh toán của ngân hàng đã được cải tiến nhiều về thời gian, không gian, doanh số thanh toán và độ chính xác kỷ thuật của nó. Như vậy chất lượng của thanh toán sẽ chịu ảnh hưởng rất lớn của yếu tố khoa học công nghệ. Trên đây là các yều tố tác động đến thanh toán bằng séc, đòi hỏi chúng ta phải tìm hiểu kỷ, phải xác định rõ bản chất của từng vấn đề để có giải pháp phù hợp thúc đẩy thanh toán bằng séc phát triển. Chương II : Thực trạng thanh toán bằng séc tại SGDI I. Khái quát về sự ra đời và phát triển của SGDI 1. Vài nét về sự ra đời và phát triển của SGDI SGDI NHNo và PTNT Việt Nam được thành lập theo quyết định số 15/NHNN- TCCB ngày 6/3/1991 của Tổng Giám Đốc NHNo Việt Nam (nay là NHNo vàPTNT Việt Nam). Là đơn vị hạch toán độc lập, trực tiếp giao dịch với khách hàng, có con dấu riêng, có bảng tổng kết tài sản riêng. Tự chủ về tài chính và tự chịu trách nhiệm đối với hoạt động kinh doanh. SGDI hoạt động theo điều lệ NHNo Việt Nam và theo quy chế uỷ quyền của Tổng Giám Đốc NHNo và PTNT. Có trụ sở tại số 4 Phạm Ngọc Thạch - Đống Đa - Hà Nội. Bước đầu thành lập SGDI đã có rất nhiều điều kiện thuận lợi đó là: Luôn được sự chỉ đạo sâu sát và ủng hộ nhiệt tình của Ban lãnh đạo NHNo vàPTNT Việt Nam cả về đường lối chiến lược kinh doanh, cơ chế nghiệp vụ và cơ sở vật chất kỹ thuật - đây là thuận lợi cơ bản nhất góp phần quyết định sự tồn tại và phát triển của SGDI. Hơn nữa được sự quan tâm, ủng hộ nhiệt tình của các cấp, các ngành các doanh nghiệp từ Trung ương đến địa phương. Có trụ sở khang trang nằm trên đường Phạm Ngọc Thạch và những cơ sở vật chất ban đầu cho hoạt động của một NHTM tương đối đầy đủ, đội ngũ cán bộ nhiệt tình, giàu năng lực, đoàn kết, hăng hái quyết tâm thực hiện nhiệm vụ mới. Tuy nhiên mới được thành lập và đi vào hoạt động nên SGDI đã gặp phải rất nhiều khó khăn, cản trở: Thể hiện ở chỗ SGD I hoạt động trên địa bàn Hà Nội nơi mà việc cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại trong cùng hệ thống, ngoài hệ thống, giữa ngân hàng thương mại quốc doanh với NHCP, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng diễn ra rất gay gắt trên nhiều lĩnh vực: Quy mô, lãi suất, công nghệ, phong cách phục vụ. Trong khi đó SGDI mới đi vào hoạt động các nghiệp vụ còn rất ít mới chủ yếu thực hiện hoạt động huy động vốn và cho vay, hầu hết các khách hàng đã có quan hệ truyền thống với một hoặc nhiều ngân hàng, việc lôi kéo khách hàng về với ngân hàng tạo lập mỗi quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng đòi hỏi phải khẳng định được thể mạnh hơn hẳn về nguồn vốn, lãi suất, chất lượng phục vụ. Song bằng sự nỗ lực của tập thể lãnh đạo và cán bộ công nhân viên SGD I đã từng bước vượt qua khó khăn, phát huy thế mạnh để tồn tại và phát triển. Sau 12 năm hoạt động SGDI đã đạt được rất nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các mặt: Ngày 31/12/1996 SGDI đã trở thành thành viên tham gia thanh toán bù trừ và là đại diện của NHNo và PTNT Việt Nam, là thành viên của thị trường liên ngân hàng trên địa bàn thành phố Hà nội . Từ cuối năm 1994 đến nay ngoài việc kinh doanh sinh lời SGDI còn được giao nhiệm vụ: - Tổ chức hạch toán, theo dõi vốn và các quỹ tập trung của SGDI NHNo vàPTNT Việt Nam, theo dõi vốn thuộc dự án nước ngoài như: Dự án đầu tư của ngân hàng thế giới (WB), vốn tài trợ của ngân hàng nước ngoài. -Tổ chức điều hoà vốn thanh toán trong hệ thống, làm đầu mối thanh toán bù trừ của các chi nhánh trong hệ thống NHNo và PTNT Việt Nam với các ngân hàng thương mại khác trên địa bàn thành phố Hà Nội 2. Về cơ cấu tổ chức của SGDI: Để đáp ứng yêu cầu nắm bắt tình hình thực tế trên thị trường, tạo điều kiện cho việc giao dịch với khách và phù hợp với hoạt động kinh doanh, SGDI đã không ngừng hoàn thiện bộ máy tổ chức mở rộng màng lưới, nâng cao trình độ nghiệp vụ, thực hiện tốt chính sách kinh doanh tiền tệ- tín dụng và ổn định đời sống công nhân viên .Tổng số cán bộ công nhân viên của SGDI khi mới thành lập còn rất ít, chủ yếu được điều từ trụ sở chính về, nhưng tính đến ngày 31/12/2002 tổng số cán bộ đã lên đến 185 người. Tốc độ tăng của CBCNV rất nhanh chứng tỏ màng lưới, quy mô hoạt động của SGDI không ngừng được mở rộng và việc bố trí cán bộ ở các khâu lãnh đạo, các phòng ban chức năng được thực hiện như sau: - Tổng số cán bộ chủ chốt của SGDI là 33 cán bộ, trong đó: + Ban Giám Đốc: 4 người, trong đó có 1 Giám Đốc và 3 phó Giám Đốc. + Trưởng, phó phòng nghiệp vụ: 16 người + Giám Đốc, phó Giám Đốc chi nhánh: 6 người + Trưởng, phó phòng giao dịch: 5 người + Trưởng, phó quỹ tiết kiệm: 2 người Hiện tại SGDI có 9 phòng ban chức năng với nhiệm vụ được quy định rất cụ thể như sau: * Phòng kế hoạch kinh doanh: Có chức năng tham mưu cho Ban Giám Đốc về việc xây dựng kế hoạch kinh doanh hàng tháng, quý, năm để đề ra mục tiêu giải pháp cho từng kế hoạch chiến lược cụ thể, quản lý điều hành vốn kinh doanh hàng ngày, trực tiếp giao dịch với khách hàng. Nhiệm vụ chính là: huy động vốn, cho vay, bảo lãnh các loại. * Phòng kế toán: Hiện tại phòng kế toán biên chế 22 cán bộ với 1 trưởng phòng 2 phó phòng. Có chức năng tham mưu cho Ban Giám Đốc trong công tác kế toán, các quy định, quy chế của ngân hàng nhà nước đối với việc hạch toán kế toán, thực hiện tốt chức năng kế toán quản trị trong ngân hàng. Nhiệm vụ chính của phòng kế toán là thực hiện hạch toán kịp thời, đầy đủ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh đồng thời hướng dẫn, kiểm tra nghiệp vụ kế toán của các chi nhánh, quỹ tiết kiệm, các phòng giao dịch (thanh toán bù trừ, thanh toán điện tử liên hàng). Là trung tâm chuyển tiền thanh toán của cả nước với các ngân hàng trên địa bàn thành phố Hà Nội phòng kế toán đảm nhiệm thanh toán. * Phòng ngân quỹ: Thực hiện nhiệm vụ thu, chi đầy đủ, kịp thời, chính xác, đảm bảo an toàn trong việc vận chuyển tiền mặt, quản lý bảo vệ kho tiền, trực tiếp giao dịch với khách hàng. * Phòng kiểm tra kiểm toán nội bộ: Với nhiệm vụ chính là kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh doanh của SGDI và các nhiệm vụ kiểm soát của ngành giao, giúp ban Giám Đốc cũng như các phòng thấy được những tồn tại trong các mặt hoạt cũng như những thế mạnh để có biện phát khắc phục tồn tại, phát huy lợi thế một cách kịp thời. Nâng cao hiệu quả kinh doanh của đơn vị cũng như hạn chế các rủi ro có thể xảy ra. * Phòng tổ chức cán bộ và đào tạo: Thực hiện việc quản lý cán bộ, tổ chức thi tuyển và đào tạo lại cán bộ cho phù hợp với yêu cầu công việc, điều chuyển cán bộ, phân công công tác cho đúng với chức năng nhiệm vụ, theo dõi để có quyết định khen thưởng, kỷ luật đúng đắn. * Phòng hành chính: Có chức năng tham mưu cho Ban Giám Đốc thực hiện công tác văn phòng, tổng hợp thi đua, hành chính quản trị. Với nhiệm vụ chủ yếu là: Duy trì trật tự , nội vụ cơ quan, thực hiện tác phong văn minh, lịch sự trong quá trình làm việc, đảm bảo cho hoạt động của cơ quan nề nếp, an toàn, khang trang sạch đẹp, phục vụ các dịp lễ, tết, hội nghị, tiếp khách của cơ quan theo đúng yêu cầu. * Phòng thanh toán quốc tế: Được thành lập vào năm 2002 nhằm thực hiện các nghiệp vụ, dịch vụ thanh toán với nước ngoài, kinh doanh ngoại hối, huy động vốn nội, ngoại tệ phục vụ nhu cầu kinh doanh của Sở. * Phòng vi tính: Thực hiện chức năng triển khai ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của ngân hàng. Tính đến thời điểm 31/12/2002 SGDI đã có 3 chi nhánh cấp IV và 4 phòng giao dịch, 2 điểm giao dịch.Các chi nhánh ngân hàng loại IV thực hiện nhiệm vụ huy động vốn và cho vay các doanh nghiêp nhỏ, cá nhân trên địa bàn. Là đơn vị hạch toán phụ thuộc, có bảng cân đối cuối tháng hoà nhập vào bảng cân đối của SGDI nên các chi nhánh ngân hàng loại 4 chưa nhận khoán tài chính, mọi chi phí và tiền lương do SGDI thực hiện. Như vậy SGDI là đơn vị tự chủ về tài chính, tự chịu trách nhiệm trong quá trình kinh doanh, hoạt động theo nguyên tắc đi vay để cho vay, đồng thời phát triển tất cả các nghiệp vụ ngân hàng để thu lợi nhuận. II Khái quát tình hình hoạt động kinh doanh của SGDI trong năm 2002 1.Môi trường kinh doanh ảnh hưởng đến hoạt động của SGDI NHNo và PTNT Việt Nam: * Tình hình kinh tế xã hội trên địa bàn thủ đô Hà Nội Hà Nội -Thủ đô của nước Việt Nam ngàn năm văn hiến, là hội tụ trung tâm kinh tế, văn hoá, du lịch - Hà Nội là nơi tập trung dân cư đông đúc, có thu nhập cao, tập trung nhiều doanh nghiệp chủ chốt. Riêng về tình hình kinh tế đã có hơn 75% các Tổng công ty 90,91 đóng trụ sở và là vị trí đầu mối để phát triển kinh tế. Không chỉ có các doanh nghiệp lớn và các Tổng công ty mà Hà Nội còn là nơi hội tụ các TCTD: hiện nay trên địa bàn Hà Nội có 26 SGD và chi nhánh thành viên của ngân hàng thương mại quốc doanh, ngoài ra còn có màng lưới các ngân hàng thương mại cổ phần với 5 SGD và 9 chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Năm 2002 quán triệt theo tinh thần nghị quyết TW 5 khoá IX của Đảng: Kinh tế thủ đô phát triển ổn định. Tổng sản phẩm trong nước( GDP) của thành phố Hà Nội năm 2002 đạt mức tăng 10,3% so với năm 2001, trong đó tỷ trọng ngành công nghiệp chiếm 39,1%: ngành công nghiệp chiếm 2,34%; dịch vụ chiếm 58,56%; Công nghệ phát triển cao . Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 24,3%; dich vụ tăng 9,18%; kim nghạch xuất khẩu trên địa bàn tăng 7.3%; kim ngạch nhập khẩu tăng 7,9%. Các hoạt động đầu tư , sản xuất phát triển đã tạo ra một cơ sở thuận lợi cho tăng trưởng các hoạt động tín dụng, huy động vốn của các TCTD. Tuy nhiên cạnh tranh giữa các trung gian tài chính sẽ rất gay gắt, và quyết liệt. Tất cả những thuận lợi và khó khăn đó sẽ tác động đến hoạt động kinh doanh của SGDI nói riêng và các TCTD khác nói chung. * Về hoạt động điều hành CSTT của NHNN: Hoạt động điều hành CSTT đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, ổn định giá tr._. sắm trang thiết bị để nâng cao công nghệ ngân hàng, giúp cho guồng máy hoạt động của ngân hàng được thông suet, hạn chế sự tồn tại của các thủ tục rườm rà mà từ trước đến nay khách hàng luôn phải đối mặt. Tiến tới xây dựng một hệ thống máy tính, trang thiết bị và cơ sở dữ liệu để dự phòng cho TTBT điện tử nói chung và thanh toán bằng séc nói riêng. Việc thiết lập cơ chế dự phòng là một điều vô cùng quan trọng và cần thiết (vì khi sử dụng nối mạng trong thanh toán và hoạt động ngân hàng có rất nhiều rủi ro có thể xẩy ra làm ảnh hưởng tới toàn hệ thống, gây mất thông tin hoặc ngưng đọng các giao dịch, gây thiệt hại rất lớn cho ngân hàng). Địa diểm này phải đặt tại nơi an toàn, tách rời với hệ thống đang hoạt động chính thức và có phương án sử dụng cụ thể để đảm bảo cho hoạt động thanh toán. Có thể nói rằng khoa học công nghệ là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công và là lợi thế cạnh tranh của các ngân hàng trong quá trình cung cấp các dịch vụ thanh toán. Bởi vậy ngân hàng nào sớm nắm bắt tiến bộ của khoa học công nghệ và đổi mới kịp thời sẽ có thể đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng và ngân hàng đó sẽ chiến thắng trong quá trình cạnh tranh và phát triển hơn nữa. 3 Nâng cao năng lực, trình độ của cán bộ thực hiện công tác thanh toán đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao trong điều kiện hội nhập về hoạt động ngân hàng khu vực và thế giới : Như ta đã biết, yếu tố con người là đóng vai trò rất quan trọng trong mọi lĩnh vực quyết định đến mọi hoạt động kinh tế xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng- một lĩnh vực rất nhạy cảm và có nhiều biến động. Khi mà việc áp dụng công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng ngày càng được chú trọng và luôn có sự đổi mới thì yêu cầu đối với các cán bộ ngân hàng cũng ngày càng cao hơn, đòi hỏi những người làm công tác thanh toán phải thực sự đầy đủ năng lực pháp lý, trình độ chuyên môn. Để làm được điều đó đòi hỏi SGDI phải luôn chú trọng phát triển nguồn nhân lực từ khâu tuyển chọn đến khâu sử dụng, bố trí nhân lực hợp lý, khách quan và công bằng. Khi tuyển chọn nhân lực : Phải ban hành, cụ thể hoá chính sách thu hút nhân tài thực thi các chính sách tuyển chọn nghiêm túc, khoa học và hiệu quả. Chọn người có trình độ chuyên môn cần thiết, có đạo đức sức khoẻ tốt trên cơ sở năng lực thực tế (qua kiểm tra phỏng vấn). Sử dụng đúng người đúng việc bố trí những cán bộ có năng lực thực sự vào những vị trí công tác thích hợp để họ có thể phát huy hết năng lực, khả năng sáng tạo, tính chủ động của mình trong quá trình làm việc để nâng cao hiệu quả hoạt động. Mặt khác sở cần phải có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại, bồi dưỡng và nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ công nhân viên của mình nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, cập nhật kiến thức, qui định mới để hoàn thiện và nâng cao hiệu quả trong công tác. Trên cơ sở bố trí nguồn nhân lực một cách hợp lý, cần phải có sự khen thưởng xứng đáng và kịp thời cả về vật chất (chính sách tiền lương, tiền thưởng phù hợp với kết quả cống hiến của mỗi người ) và tinh thần (tạo cơ hội cho cán bộ phát huy tài năng để thăng tiến, quan tâm đến đời sống văn hoá tinh thần của cán bộ ) đồng thời cũng phải có những hình phạt nghiêm khắc đối với những việc làm sai trái. Thực hiện tốt chính sách nhân sự sẽ tạo ra một đội ngũ cán bộ ngân hàng có chuyên môn nghiệp vụ cao, hết lòng trong công việc, sáng tạo, linh hoạt và có thái độ làm việc tốt. Điều này chắc chắn sẽ là một sức mạnh để tạo sự tin tưởng, an tâm, thoái mái đối với khách hàng đến ngân hàng giao dịch. 4. Giải pháp cụ thể đối với từng loại séc: 4.1 Thực hiện nghiệp vụ thấu chi đối với séc chuyển khoản: Việc sử dụng séc chuyển khoản hiện nay phạm vi thanh toán còn bị bó hẹp, nhưng trong tương lai với việc áp dụng trung tâm thanh toán bù trừ séc thì phạm vi thanh toán séc sẽ được mở rộng trong toàn quốc. Điều đó sẽ khuyến khích khách hàng sử dụng séc chuyển khoản nhiều hơn trong thanh toán. Tuy nhiên séc chuyển khoản còn có nhược điểm lớn đó là có thể phát hành quá số dư. Đối với tờ séc phát hành quá số dư người ký phát sẽ phải chịu phạt theo quy định điều đó là hoàn toàn chính xác. Nhưng cũng có những chủ tài khoản không cố tình làm điều đó, tài khoản của họ chỉ tạm thời thiếu vốn trong thời gian ngắn. Do có những khoản chi đột xuất hoặc tiền chưa được chuyển về tài khoản đúng như kế hoạch vì lý do khách quan. Như vậy sự thiếu vốn này không phải do khách hàng không đủ khả năng chi trả mà chỉ là sự thiếu hụt vốn tạm thời nếu được ngân hàng cho phép thực hiện nghiệp vụ thấu chi đối với tài khoản tiền gửi thì khách hàng sẻ đảm bảo trả nợ đúng hạn cho ngân hàng đồng thời họ sẻ không bị vi phạm trong thanh toán séc. Nhưng trên thực tế hiện nay ở SGDI chưa áp dụng nghiệp vụ thấu chi đối với tài khoản tiền gửi nên tờ séc chuyển khoản qúa số dư về nguyên tắc vẫn chưa được thanh toán ngay mà chờ đến khi chủ tài khoản nộp đủ tiền mới thanh toán và chủ tài khoản phải chịu phạt rất nặng khiến cho séc chuyển khoản còn hạn chế và thường chỉ để thanh toán những món tiền nhỏ. Để khắc phục hạn chế trên đồng thời khuyến khích những khách hàng tin cậy của mình thì ngân hàng nên cho phép khách hàng được thấu chi trong trường hợp khách hàng tạm thời thiếu hụt vốn. Điều này sẽ có một ý nghĩa hết sức lớn lao thể hiện như sau: Đứng về phía SGDI khi thực hiện nghiệp vụ này đối với những khách hàng truyền thống, có khả năng tài chính tốt, có nguồn thu ổn định, có ý thức chấp hành kỷ luật thanh toán tốt, có uy tín trong quan hệ chi trả vừa là việc mở rộng tín dụng để tăng thu nhập (vì đây là những khoản nợ ngắn hạn chỉ từ 5-7 ngày, được cho vay với lãi suất từ 100-150% lãi suất cho vay ngắn hạn) vừa để tạo lập mối quan hệ khăng khít giữa ngân hàng với khách hàng. Đứng về phía khách hàng là người thụ hưởng séc: Sẽ được ngân hàng thanh toán ngay trong mọi trường hợp, không làm ảnh hưởng đến các kế hoạch chi tiêu của họ, quyền lợi của họ được đảm bảo vì vậy họ sẵn sàng chấp nhận thanh toán bằng séc chuyển khoản. Nhờ vậy mà phạm vi và quy mô thanh toán séc chuyển khoản sẽ tăng lên. Đối với khách hàng là người ký phát: Việc thanh toán diễn ra thuận lợi và kịp thời đảm bảo luôn có đủ tiền để chi trả trong trường hợp tạm thời thiếu vốn, vì vậy không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Dù khách hàng phải chịu một mức lãi suất tương đối cao nhưng còn dể chịu hơn so với quy định phạt quy định và còn ảnh hưởng đến uy tín trong kinh doanh của họ. Nghiệp vụ thấu chi đối với tài khoản tiền gửi của khách hàng sẽ được thực hiện như sau: Trước hết cả khách hàng và ngân hàng sẽ ký một hợp đồng tín dụng, trên đó sẽ quy định đầy đủ các yếu tố như: - Về hạn mức tín dụng: sẽ căn cứ vào số dư bình quân trên tài khoản tiền gửi của khách hàng, căn cứ vào nhu cầu của khách hàng và nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng để đặt ra quyết định hạn mức. - Về thời hạn cho vay: thường là rất ngắn chỉ từ 5-7 ngày - Lãi suất cho vay nên tính từ khoảng 100-150% lãi suất cho vay ngắn hạn của ngân hàng. Sau khi tiến hành cho vay ngân hàng sẽ theo dõi sát sao để thu hồi lại vốn đúng hạn. Nếu khách hàng không trả nợ đúng hạn thì ngân hàng sẽ áp dụng các biện pháp kỷ luật do NHNN quy định đồng thời tịch thu lại số séc trắng còn lại. Nếu khách hàng ký phát séc vượt quá hạn mức thấu chi cho phép thì ngân hàng sẽ không giải quyết và sẽ xử lý theo quy định của NHNN về việc phát hành quá số dư Đối với trường hợp khách hàng không đủ tín nhiệm để ngân hàng cho phép thấu chi trên tài khoản thanh toán séc khi xảy ra hiện tượng phát hành quá số dư ngân hàng nên gọi điện cho khách hàng mang tiền nộp vào tài khoản trong ngày để thanh toán cho người thụ hưởng. Nếu không mang tiền nộp để vào tài khoản để thanh toán thì ngân hàng sẽ căn cứ vào số dư hiện tại trên tài khoản để thanh toán cho người thụ hưởng số còn thiếu sẽ theo dõi ở tài khoản ngoại bảng cho đến khi thu đủ tiền cho người thụ hưởng và phạt theo quy định. 4.2 Tính lãi đối với số tiền ký kỹ đảm bảo thanh toán séc bảo chi: Phạm vi thanh toán của séc bảo chi tuy có rộng hơn séc chuyển khoản nhưng vẫn còn hẹp chưa áp dụng được trong trường hợp khác ngân hàng khác hệ thống, khác địa bàn. Séc bảo chi là loại séc có độ an toàn rất cao, được đảm bảo khả năng thanh toán. Vì vậy việc mở rộng phạm vi thanh toán của séc bảo chi trên toàn quốc là điều nên triển khai thực hiện. Tuy nhiên hiện nay ở SGDI việc thanh toán bằng séc bảo chi rất ít vì thủ tục rườm rà mà khách hàng lại phải ký quỹ đảm bảo khả năng thanh toán, họ không được sử dụng cũng như hưởng lãi suất trên số tiền ký quỹ này vì vậy thiệt thòi cho họ rất lớn do đó họ không thích sử dụng séc bảo chi trong thanh toán trừ những trường hợp đặc biệt (khi mới tạo lập được quan hệ làm ăn, khi thanh toán những món tiền có giá trị lớn). Vì vậy để cho hình thức thanh toán này được sử dụng nhiều ngân hàng nên tính lãi đối với khoản tiền ký quỹ (có t hể là mức lãi suất thấp hơn lãi suất tiền gửi không kỳ hạn) 5. Kiến nghị đối với NHNN và chính phủ: 5.1 Xây dựng và ban hành hệ thống văn bản pháp quy có hiệu lực cao tạo môi trường hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt động thanh toán séc Hiện nay, thanh toán bằng séc đang thực hiện theo nghị định số 30/CP của Chính Phủ về phát hành và sử dụng séc, thông tư 07/TT-NH1 ngày 27/12/1996 của Thống Đốc NHNN hướng dẫn thực hiện quy chế phát hành và sử dụng séc thay thế những quy định về “thanh toán séc” trong quyết định số 22/QĐ- NH1 ngày 21/02/1994 và thông tư 08/TT-NH2 ngày 2/6/1994, quyết định số 105/QĐ- NH1 ngày 10/4/1995 của Thống Đốc NHNN sửa đổi mẫu séc cá nhân trong “thể lệ TTKDTM”. Nghị định 30 tuy có hoàn thiện hơn nhưng trong bản thân các quy định của nghị định còn có rất nhiều bất cập và chưa phù hợp do đó tính khả thi chưa cao, chưa đảm bảo vững chắc quyền lợi và nghĩa vụ của người sử dụng. Do vậy ngay từ bây giờ cần nghiên cứu ban hành bộ luật về sử dụng séc ở Việt Nam để bảo vệ quyền lợi cho người sử dụng séc cũng như giúp cho ngân hàng tránh được rủi ro. Việc nghiên cứu nâng cấp, bổ sung Nghị định 30/cp về phát hành và sử dụng séc thành luật về séc là một điều hết sức cần thiết trong lúc này. Luật séc mới phải phù hợp với điều kiện kinh tế của Việt Nam và thông lệ quốc tế khắc phục được những bất hợp lý trong Nghị định 30/CP. Cụ thể: trong nghị định 30 chưa có quy định rõ ràng những đối tượng nào được phát hành séc, những đối tượng nào không được phát hành séc, như vậy là chưa chặt chẽ mà phải quy định một cách rõ ràng cụ thể đối tượng nào được phép phát hành séc đối tượng nào không được phép phát hành séc. Chỉ rõ các pháp nhân, các cá nhân, công ty tư nhân và những người đồng tài khoản sở hữu, và cả ngân hàng đều được phép phát hành séc như vậy thì đối tượng được phát hành séc sẽ được mở rộng hơn sẽ có nhiều người tham gia vào thanh toán séc hơn. Cả những quy định về việc thanh toán tờ séc khi người phát hành là cá nhân bị chết hoặc pháp nhân bị phá sản, giải thể sẽ giải quyết theo quy định của phát luật là không đảm bảo cho quyền lợi của người thụ hưởng do đó người thụ hưởng sẽ không tin tưởng vào khả năng thanh toán của tờ séc dẫn đến hiện tượng họ không muốn tiếp nhận séc khi giao dịch mua bán hàng hoá xảy ra vì vậy cần phải thay đổi quy định này tức là séc vẫn sẽ được thanh toán kể cả khi người phát hành là cá nhân bị chết, pháp nhân bị phá sản, giải thể và quyền lợi của người thụ hưởng được bảo vệ, họ sẽ tin tưởng hơn khi tiếp nhận séc từ tay người mua; Mặt khác nghị định 30 chưa quy định một chế tài xử phạt đối với người ký phát séc quá số dư, cần phải có một quy định rõ ràng về việc xử phạt để có thể hạn chế tối đa hành vi này bảo vệ quyền lợi cho người thụ hưởng. Những quy định về việc xác nhận của uỷ ban nhân dân xã, phường nơi thụ hưởng cư trú khi người thụ hưởng nộp séc vào ngân hàng sau thời hạn hiệu lực của tờ séc vì lý do khách quan. Và xác nhận của uỷ ban nhân dân xã, phường là nơi đơn vị thu hộ đóng trụ sở vì lý do bất khả kháng mà không thể chuyển séc đến đơn vị thanh toán ngay là những quy định chỉ mang tính hình thức thủ tục rườm rà không cần thiết nên loại bỏ để tránh phức tạp cho người sử dụng; Nếu như hiện nay séc chỉ được phát hành trực tiếp từ tài khoản tiền gửi sẽ hạn chế việc phát hành và sử dụng nhiều loại séc hiện nay đang được sử dụng phổ biến ở nhiều nước. Vì có loại séc sử dụng để chuyển tiền, khách hàng có thể nộp tiền mặt vào ngân hàng để phát hành séc, cũng có loại séc mà người ký séc và ngân hàng là một, có loại người hưởng phát hành cho chính mình… Những loại séc đó vừa an toàn vừa đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người sủ dụng. Để khuyến khích sử dụng séc, hạn chế thanh toán bằng tiền mặt, cần cho phép áp dụng nhiều loại séc. Trong quy định về việc từ chối thanh toán séc của ngân hàng thanh toán khi trên tài khoản tiền gửi của khách hàng không đủ số dư như vậy là không hợp lý và người thụ hưởng phải chịu thiệt thòi vì được thanh toán chậm. Theo em trong trường hợp này người thụ hưởng vẫn sẽ được thanh toán nếu họ muốn, chẳng hạn số tiền ghi trên séc là 120 triệu trong khi đó số dư trên tài khoản tiền gửi của khách hàng chỉ còn 110 triệu thì khách hàng sẽ đựơc thanh toán bằng số tiền hiện có trên tài khoản trước (chỉ trừ lại 500.000 đồng để duy trì hoạt động của tài khoản) điều đó sẽ giúp cho người thụ hưởng có được vốn kịp thời cho hoạt động kinh doanh trước mắt mà không ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất do bị thanh toán chậm. Đối với tờ séc có số tiền bằng số và số tiền bằng chữ không khớp nhau cũng không nên từ chối thanh toán, trả lại cho người thụ hưởng mà nên thanh toán theo số tiền nhỏ hơn ghi trên tờ séc bởi vì khi người thụ hưởng đã chấp nhận cầm tờ séc thì đương nhiên họ đã chấp nhận số tiền nhỏ nhất, và có thể đó cũng chỉ là sơ suất nhỏ của người ký phát nếu trả lại séc sẽ làm cho việc thanh toán càng kéo dài với thủ tục rườm rà phức tạp mà xét đến cùng thì người thụ hưởng lại bị thiệt thòi nhất… Hơn nữa trong điều kiện hiện nay ở nước ta đang từng bước hội nhập với khu vực và quốc tế như đã ký hiệp định thương mại Việt- Mỹ, tiến tới đàm phán để gia nhập tổ chức WTO. Do đó, séc của Việt Nam phải được chuẩn hoá theo thông lệ quốc tế. Điều đó càng thúc đẩy việc sớm ban hành một nghị định mới về cung ứng và sử dụng séc để điều chỉnh các quan hệ về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của những người liên quan đến séc. Quy định rõ ràng các tội danh, các hình phạt khi vi phạm vào các điều cấm như: Gian dối, lừa đảo, giả mạo, sữa chữa séc… có như vậy người sử dụng séc mới thực sự yên tâm và tin tưởng rằng việc sử dụng séc sẽ không có rủi ro xẩy ra như khi sử dụng tiền mặt hay công cụ thanh toán khác. 5.2 Sửa đổi một số quy định trong thanh toán séc 5.2.1 Sửa đổi quy định về mẫu mã của tờ séc: Nghị định 30/CP của Chính Phủ đã có một ưu điểm rất lớn đó là đã quy định việc sử dụng một mẫu séc thống nhất trong các ngân hàng, tổ chức tín dụng và kho bạc tạo tính thống nhất và nâng cao hiệu lực của thanh toán bằng séc trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên hiện nay, hình thức của tờ séc còn quá phức tạp, mẫu mã của tờ séc quá nhỏ trong khi lại có quá nhiều yếu tố phải ghi vào gây cho khách hàng nhiều khó khăn khi phải ghi đầy đủ các yếu tố trên tờ séc: như tên, địa chỉ, số tài khoản của người ký phát và người thụ hưởng, ngày ký phát, nơi ký phát, số tiền bằng số bằng chữ, chữ ký của chủ tài khoản hoặc người được uỷ quyền, chữ ký của kế toán trưởng… Họ phải viết tắt, không có đủ chổ để đóng dấu. Việc quy định phải có cả chữ ký của Giám Đốc và kế toán trưởng là điều không phù hợp bởi séc chỉ được phép ký phát khi phát sinh nhu cầu mua bán sử dụng dịch vụ như vậy chẳng lẻ cả Giám Đốc và kế toán trưởng cùng đi mua hàng hoặc cùng sử dụng dịch vụ hay sao? Vì vậy theo em việc đòi hỏi cả hai chữ ký đồng thời là không cần thiết; và việc phải ghi đầy đủ địa chỉ của người ký phát, người thụ hưởng cũng không cần, nên loại bỏ bớt đi những yếu tố không cần thiết để giảm thiểu tối đa việc ghi chép của người sử dụng. Một vấn đề bất cập nữa là séc chuyển khoản và séc lĩnh tiền mặt được phân biệt với nhau bằng hai ghạch chéo song song ở góc trên bên trái hoặc có cụm từ “chuyển khoản” vừa gây khó khăn trong việc tìm chứng từ khi cần (do lúc đóng chứng từ để đưa vào lưu trử thì ghạch chéo song song sẽ bị che lấp đi) vừa chưa có quy định rõ ai là người được phép ghi cụm từ “chuyển khoản” trên séc. Nên quy định lại ghạch chéo song song nên ở phía trên góc phải để thuận tiện cho tra cứu chứng từ khi cần thiết, và chỉ rõ người ký phát hoặc người thụ hưởng chính là người có quyền ghạch hai ghạch chéo song song hoặc ghi cụm từ “chuyển koản” trên séc. Nếu trên tờ séc không có hai ghạch chéo song song hay cụm từ “chuyển khoản” thì vừa có thể dùng để chuyển khoản vừa có thể dùng để lĩnh tiền mặt, điều này sẽ tạo thuận lợi hơn cho người thụ hưởng. Mặt khác trong điều kiện nền kinh tế hội nhập hiện nay quan hệ mua bán, giao dịch với nước ngoài rất lớn nên séc phải được in và ghi bằng tiếng Anh bên dưới tiếng Việt tương ứng với cỡ chữ nhỏ hơn trong trường hợp có yếu tố nước ngoài. 5.2.2 Thay đổi thời hạn hiệu lực của tờ séc: Theo quy định hiện nay thời hạn hiêu lực thanh toán của tờ séc là 15 ngày kể từ ngày ký phát cho đến ngày séc được nộp vào đơn vị thanh toán hoặc đơn vị thu hộ, thời hạn này bao gồm cả ngày nghỉ hàng tuần và ngày lễ. Nếu ngày kết thúc thời hạn là ngày nghỉ hàng tuần, ngày lễ thì thời hạn được tính lùi vào ngày làm việc tiếp theo. Như vậy sẽ có hai vấn đề xảy ra: Thứ nhất quy định này đã đồng nhất giữa thời hạn xuất trình và thời hạn hiệu lực trong khi đây là hai khái niệm rất khác nhau về bản chất. Thứ hai là việc quy định 15 ngày cho thời hạn hiệu lực của tờ séc là hơi ngắn để séc có thể chuyển nhượng, đặc biệt là người chuyển nhượng sẽ không cảm thấy yên tâm vì e sợ rằng tờ séc sẽ hết hiệu lực thanh toán trước khi làm xong các thủ tục pháp lý để tờ séc có đủ điều kiện thanh toán do đó nó đã hạn chế việc chuyển nhượng séc rất lớn. Mà một trong những đặc tính quan trọng hấp dẫn người sử dụng séc đó séc đó là khả năng có thể chuyển nhượng được của tờ séc. Thực tế cho thấy ở SGDI là hầu hết séc không được chuyển nhượng mặc dù có diều khoản nay dành sẳn ở mặt của tờ séc. Mà nếu séc không được chuyển nhượng thì thời hạn 15 ngày là quá dài: Bởi tổ chức thanh toán ở những vùng xa xôi nếu chậm nhất cũng chỉ mất từ 8-10 ngày, thanh toán trong cùng một ngân hàng cũng chỉ mất một vài ngày. Thậm chí với séc bảo chi chỉ cần 6-8 ngày. Tuy nhiên để được chuyển nhượng dể dàng tạo sự an tâm cho cho người được chuyển nhượng thì thời gian này là ngắn. Từ đó cho thấy việc quy định định lại thời hạn hiệu lực thanh toán của tờ séc là rất cần thiết. Phải có quy định rõ ràng về thời hạn xuất trình và thời hạn hiệu lực thanh toán séc. Bởi vì việc quy định thời hạn xuất trình và thời hạn thanh toán sẽ bảo vệ được quyền lợi cho người ký phát và người thụ hưởng séc. Khi hết thời hạn xuất trình nhưng còn trong thời hạn hiệu lực mà không có yêu cầu huỷ ngang tờ séc của người ký phát thì tờ séc vẫn được thanh toán cho người thụ hưởng. Đồng thời quy định khi hết thời hạn xuất trình thì người ký phát có quyền huỷ ngang tờ séc,điều này rất thuận tiện đối với người ký phát. Bởi vì theo đúng nguyên tắc khi ký phát séc thì người ký phát phải luôn đảm bảo có đủ số dư trên tài khoản của mình để khi tờ séc quay về là có đủ tiền trả ngay. Song không thể bắt anh ta chờ quá lâu được nên anh ta có quyền đến một khoảng nào đó mà tờ séc không quay về thì có thể huỷ ngang tờ séc để được sử dụng vốn của mình cho hoạt động sản xuất kinh doanh mà không hề bị vi phạm đây là điều rất có lợi cho người ký phát. Tuy tờ séc bị huỷ ngang, tức là tờ séc đó không được người trả tiền thanh toán nữa, song tờ séc đó vẫn là một giấy nhận nợ của người ký phát đối với người thụ hưởng do đó người ký phát vẫn phải thanh toán cho người thụ hưởng. Như vậy là quyền lợi của cả người thụ hưởng và người ký phát séc đều được đảm bảo. Từ thực tế cho thấy nên quy định thời hạn xuất trình là 30 ngày, thời hạn hiệu lực là 180 ngày. Đây sẽ là thời gian phù hợp để cho người thụ hưởng dể dàng chuyển nhượng séc trong thanh toán, phát huy hơn nữa tiện ích của công cụ TTKDTM. 5.2.3 Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ tin học trong thanh toán séc xây dựng trung tâm thanh toán bù trừ điện tử séc mở rộng phạm vi thanh toán, rút ngắn thời gian thanh toán bằng séc: Một hạn chế rất lớn của thanh toán bằng séc khiến cho việc sử dụng séc trong thanh toán rất ít đó là phạm vi thanh toán của séc quá hẹp chỉ thanh toán khi người mua và người bán cùng mở tài khoản tại một ngân hàng, khác ngân hàng cùng hệ thống, khác ngân hàng khác hệ thống có tham gia thanh toán bù trừ trên cùng một tỉnh, thành phố. Nêú mở rộng phạm vi thanh toán của séc trên toàn quốc thì với điều kiện hiện nay sẽ rất hấp dẵn người sử dụng và điều kiện cũng rất thuận lợi để có thể thực hiện.Thực tế các nước trên thế giới cho thấy rằng để triển khai thanh toán séc trong toàn quốc đòi hỏi phải có cơ sở vật chất trang thiết bị đầy đủ, và đáp ứng được yêu cầu rất cao với việc thành lập trung tâm thanh toán bù trừ điện tử quốc gia và khu vực để các ngân hàng tham gia được nhanh chóng, thuận tiện, dễ dàng. Hệ thống TTBT séc được thành lập sẽ khắc phục được rất nhiều nhược điểm hiện nay trong thanh toán séc. Đây là một bước ngoặt tạo điều kiện cho séc trở thành một công cụ TTKDTM hữu hiệu nhất. Hiện nay khi mà hệ thống ngân hàng triển khai thực hiện thanh toán bù trừ điện tử liên ngân hàng và với nền tảng pháp lý thuận lợi như: có các quy chế về thanh toán bù trừ điện tử liên ngân hàng (ban hành kèm theo quyết định số 1557/2001/QĐ- NHNN ngày 14/12/2001 của Thống Đốc NHNN) Quyết định số 44/2002/ QĐ-Tg ngày 21/3/2002 của Thủ Tướng Chính Phủ về sử dụng chứng từ điện tử để làm chứng từ kế toán để hạch toán và thanh toán vốn giữa các TCTD cung ứng dịch vụ thanh toán. Cùng với điều kiện cơ sở vật chất kỷ thuật của hệ thống ngân hàng hiện đại hơn trước rất nhiều đã tạo những tiền đề thuận lợi nhất định và cho thấy khả năng xây dựng hệ thống TTBT séc là hoàn toàn có thể thực hiện được. * Mô hình tổ chức của hệ thống bù trừ séc được cụ thể hoá như sau: - Các chủ thể tham gia: Các ngân hàng thương mại và chi nhánh của NHTM (ngân hàng thành viên), NHNN( ngân hàng chủ trì), trung tâm xử lý kỷ thuật bù trừ séc. Trong đó: + Ngân hàng chủ trì thanh toán bù trừ: Là đơn vị NHNN chịu trách nhiệm tổ chức TTBT séc và xử lý kết quả TTBT, ngân hàng chủ trì có thể tham gia thanh toán bù trừ séc như là một ngân hàng thành viên. + Trung tâm xử lý kỷ thuật bù trừ séc: Là bộ phận có nhiệm vụ xử lý tự động các giao dịch thanh toán bù trừ séc giữa các ngân hàng thành viên và xác định kết quả thanh toán bù trừ séc cho các ngân hàng thành viên. Trung tâm xử lý kỷ thuật bù trừ séc là một đơn vị trực thuộc NHNN hoặc là một đơn vị độc lập trực tiếp thu nhận xử lý số liệu thanh toán và thông báo kết quả thanh toán bù trừ cho ngân hàng chủ trì và các ngân hàng thành viên liên quan. + Ngân hàng thành viên trực tiếp : Là ngân hàng được nối mạng trực tiếp với hệ thống máy tính của ngân hàng chủ trì hoặc trung tâm xử kỷ thuật bù trừ séc (trường hợp trung tâm thanh toán xử lý kỷ thuật bù trừ séc là đơn vị độc lập) để thực hiện các giao dịch thanh toán bù trừ séc. Ngân hàng thành viên trực tiếp vừa là đơn vị gửi lệnh thanh toán vừa là ngân hàng nhận lệnh thanh toán. + Ngân hàng thành viên được uỷ quyền: là ngân hàng thành viên trực tiếp để thực hiện các giao dịch thanh toán bù trừ séc. + Ngân hàng thành viên gián tiếp: là ngân hàng thực hiện các giao dịch thanh toán bù trừ séc nối mạng thông qua một ngân hàng thành viên được uỷ quyền. Ngân hàng thanh viên gián tiếp có thể là chi nhánh trực thuộc ngân hàng thành viên được uỷ quyền hoặc là ngân hàng khác hệ thống nhưng có mở TKTG tại ngân hàng thành viên được uỷ quyền. Các chủ thể này phải có đầy đủ các điều kiện tiêu chuẩn của ngân hàng thành viên tham gia thanh toán bù trừ điện tử liên hàng theo quy định, có đơn xin tham gia thanh toán bù trừ séc được ngân hàng chủ trì chấp nhận bằng văn bản. * Điều kiện để triển khai hệ thống bù trừ séc: + Về cơ sở vật chất kỹ thuật: Trung tâm thanh toán bù trừ cùng các ngân hành thành viên phải trang bị hệ thống máy tính hiện đại và đồng bộ, tất cả hệ thống phải thống nhất cài đặt chương, cài đặt thông số cho máy tính, lắp đặt các phần mềm tiên tiến phục vụ cho việc truyền nhân thông tin và tổng hợp dữ liệu, phải có máy phân loại séc, máy quét scanner để chuyển các yếu tố trên séc thành dữ liệu. + Khi áp dụng trung tâm thanh toán bù trừ séc thì yêu cầu phải được cải thiện về mẫu mã séc để cho việc truyền nhận thông tin, số liệu giữa các ngân hàng có thể được thực hiện hoàn toàn trên mạng máy tính. Các yếu tố của tờ séc phải được thể hiện dưới dạng dữ liệu điện tử đã được mã hoá và không có sự thay đổi trong quá trình truyền qua mạng máy tính. Như vậy, các yếu tố trên tờ séc phải được số hoá đến mức tối đa khi đã vào máy quét, tất cả yếu tố trên đều được chuyển hoá thanh dữ liệu và truyềni các ngân hàng thanh viên với kết quả rất nhanh chóng- thời gian hoàn tất một món thanh toán chỉ còn 10 đến 15 phút so với vài ngày như trước đây. NH A NH B NH C Máy quét (Scanner) và các thiết bị tin học NHNo NHCT NHNT Séc Séc của NHNo Máy phân loại séc Séc của NHCT VN Séc của NHNT (1) (2) (2) (2) (3) (4) (4) Sơ đồ xử lý thanh toán bù trừ như sau: Chú giải: 1. Khi các ngân hàng A, B, C truyền séc vào trung tâm thanh toán bù trừ, nhờ máy phân loại séc, các tờ séc sẽ đợc phân loại theo ngân hàng phục vụ người phát hành séc (người trả tiền). 2. Thông qua máy quét và các thiết bị tin học, các yếu tố trên séc được chuyển sang dạng dữ liệu (bao gồm cả hình ảnh) 3. Các dữ liệu truyền qua mạng máy tính cho các ngân hàng phục vụ người trả tiền kiểm tra lại và ghi nợ tài khoản người trả tiền. 4. S au khi có xác nhận của ngân hàng phục vụ người trả tiền, trung tâm sẽ xử lý bù trừ số tiền của các tờ séc giữa các ngân hàng thành viên tham gia thanh toán bù trừ Với điều kiện hiện nay của nước ta thì bước đầu trung tâm thanh toán bù trừ séc nên triển khai thực hiện trong phạm vi thanh toán séc giữa người trả tiền và người thụ hưởng trên địa bàn thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh- là những nơi có đầy đủ các điều kiện để xây dựng trung tâm thanh toán bù trừ séc. Còn ở các tỉnh thành phố khác cần triển khai chuẩn bị cơ sở vật chất kỷ thuật và các điều kiện cần thiết để sớm có hệ thống thanh toán bù trừ séc trên toán quốc. Khi cả nước có đủ điều kiện để thực hiện thanh toán bù trừ séc toàn quốc thì: Trước hết tại trung tâm thanh toán bù trừ khu vực sẽ tiến hành xử lý séc theo mô hình trên sau đó ngân hàng chủ trì thanh toán bù khu vực chuyển kết quả thanh toán bù trừ của các ngân hàng thành viên khu vực lên trung ương để xử lý (bù trừ một lần nữa). Việc xây dựng trung tâm thanh toán bù trừ séc nên kết hợp trong hệ thống thanh toán bù trừ điện tử liên ngân hàng để có thể tận dụng tối đa nguồn cơ sở vật chất hiện có. Trên đây là một số ý kiến đóng góp của tôi với mong muốn phần nào có thể làm giảm bớt những bất cập trong thanh toán bằng séc, để séc có thể phát huy hết những tác dụng vốn có của nó và trở thành một công cụ hữu hiệu trong TTKDTM, hấp dẫn khách hàng sử dụng và phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế hiện nay. Kết luận Trong nhiều năm qua công tác thanh toán đã không ngừng được đổi mới hiện đại để hoà chung vào nhịp độ tăng trưởng của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Thanh toán không dùng tiền mặt đã khẳng định được thế mạnh của nó trong quá trình sử dụng đặc biệt là séc một trong các hình thức của TTKDTM với rất nhiều tiện ích nổi bật so với các hình thức thanh toán khác nhưng lại chưa được khai thác triển để và chuẩn hoá theo thông lệ quốc tế nên vẫn chưa là một sản phẩm dịch vụ “hấp dẫn” khách hàng. Trong thời gian thực tập tại SGDI, tôi đã được tìm hiểu chung về nghiệp vụ TTKDTM trong đó đặc biệt là nghiệp vụ thanh toán bằng séc. Qua đó thấy được phần nào về thế mạnh cũng như những hạn chế của séc trong quá trình sử dụng ở SGDI. Nghiên cứu về séc không phải là đề tài mới mẻ nhưng trước tình hình thực tiển hiện nay về séc thì đây vẫn là một vấn đề bức xúc cần phải tháo gở để mở đường cho séc đi vào cuộc sống và phổ cập trong dân cư. Tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “ Một số giải pháp mở rộng khả năng thanh toán bằng séc tại SGDI”. Bài viết đã thực hiện được mục đích chính đề ra đó là: Thứ nhất: Hệ thống hoá được những vấn đề cơ bản về séc . Thứ hai: Đánh giá được thực trạng thanh toán bằng séc tai SGDI hiện nay. Thứ ba: Đưa ra được các giải pháp kiến nghị để mở rộng khả năng thanh toán bằng séc. Tuy nhiên, do hạn chế về mặt thời gian và kiến thức bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Một lần nữa em rất mong sự quan tâm chỉ bảo của thầy giáo hướng dẫn cùng toàn thể các thầy cô giáo và tập thể cán bộ ngân hàng để bài viết được hoàn thiện hơn. Bảng chữ cái viết tắt Sở Giao Dịch I NHNo và PTNT : SGDI Thanh toán không dùng tiền mặt : TTKDTM Ngân hàng Nhà Nước : NHNN Thanh toán bù trừ : TTBT Ngân hàng Thương mại : NHTM Bảng kê nộp séc : BKNS Tiền gửi : TG Uỷ nhiệm chi : UNC Uỷ nhiệm thu : UNT Danh mục tài liệu tham khảo 1. Kế toán ngân hàng của NGUT Vũ Thiện Thập. 2.Thanh toán quốc tế trong ngoại thương của Đinh Xuân Trình 3. Các loại báo cáo và tạp chí: Báo cáo công tác thanh toán không dùng tiền mặt của SGDI năm 2001- 2002 Báo cáo công tác thanh toán của SGDI năm 2001- 2001 Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của SGDI trong năm 2002 Tạp chí tin học ngân hàng Tạp chí ngân hàng Thời báo ngân hàng 4. Các văn bản, Nghị định: Quyết định 22/QĐ- NH1 ngày 21/2/1994 về thanh toán không dùng tiền mặt Thông tư 08/TT-NH2 ngày 2/6/1994 hướng dẫn thực hiện về thanh toán không dùng tiền mặt Nghị định 30/CP của Chính phủ ngày 9/5/1996 về quy chế ban hành và sử dụng séc Thông tư 07/TT-NH1 ngày 27/12/1996 hướng dẫn thực hiện nghị định 30/CP ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0317.doc
Tài liệu liên quan